Professional Documents
Culture Documents
Kĩ năng mở kết cho hấp dẫn
Kĩ năng mở kết cho hấp dẫn
MB hoàn chỉnh là 1 đoạn văn gồm: 3 phần: Mở đoạn– Thân đoạn– Kết đoạn:
Với 3 ý: A. phần dẫn dắt – B. nối ý nêu vấn đề chính (vấn đề cụ thể đã được xử lý qua phần
nhận đề) - C. nêu phạm vi tư liệu,vấn đề mà đề bài yêu cầu (nhận định, câu nói, tác giả, tác phẩm)
2. Mở bài bằng các biểu tượng văn hóa nổi tiếng trên thế giới:
Đây là kiểu mở bài mang tính sáng tạo và mới lạ trong bài viết HSG nhưng lại rất ít bạn
học sinh làm được . Những biểu tượng văn hóa ở đây có thể là biểu tượng nhân sư, biểu tượng
mặt nạ, hình tượng cái chết dưới góc nhìn của các nền mĩ học lớn, biểu tượng chiếc giương
soi trong văn học Nhật Bản,…
Để làm được dạng mở bài này các bạn học sinh nên:
+ Đọc nhiều sách về biểu tượng văn hóa, nghiên cứu lịch sử văn hóa văn minh nhân loại.
+ Tránh lối viết đưa biểu tượng văn hóa vào trong mở bài một cách khô khan, thiếu sự mượt
mà trong lối viết.
+ Tránh việc lạm dụng quá nhiều gây nên sự rối rắm và khó hiểu trong bài viết của mình nha.
Mở bài này chỉ có tác dụng nhất khi vận dụng vừa đủ và mang lại sức thuyết phục cao.
Trên sa mạc Giza, bên cạnh Kim Tự Tháp Ai Cập còn có một bức tượng con nhân sư
Spinx khổng lồ. Người ta tương truyền rằng con nhân sư này có một câu đố oái oăm dành cho
những người đi qua. Không ai bước đi đường ấy. Nghĩ về nghệ thuật, về văn chương, tôi tự
hỏi liệu có tồn tại một ''thiên nan vấn'', một con Spinx chăng ? Bao nhiêu kẻ tìm cách cắt
nghĩa, lý giải, đã ai thỏa lòng văn chương là gì? Claude Debussy đã khẳng định: ''Nghệ thuật
là sự lừa gạt đẹp nhất giữa mọi điều dối trá''.
3. Mở bài bằng cách sử dụng các nhận định của một số nhà văn lớn trên thế giới:
Đây là dạng mở bài thông thường và rất nhiều bạn học sinh áp dụng. Chính vì điều đó,
để đạt được hiệu quả cao và tạo được ấn tượng trong lối mở bài này cũng không dễ dàng. Sử
dụng nhận định của một số nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trên thế giới hoặc các hiền giả, triết giả,
diễn giả, họa sĩ,… dẫn dắt vào vấn đề được nêu tới trong đề bài.
Để làm được dạng mở bài này, các bạn học sinh nên:
+ Đọc nhiều sách lí luận văn học, hay các tiểu luận, bài phỏng vấn liên quan đến văn học. Sưu
tầm và học thuộc một số nhận định tâm đắc. Gợi ý như GS. Huỳnh Như Phương, nhà thơ Chế
Lan Viên, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn,…
+ Hệ thống các nhận định mình sưu tầm được vào các chuyên đề văn học khác nhau để rõ
ràng hơn và dễ áp dụng vào đề bài hơn.
+ Ghi chép nhiều để dễ dàng nhớ hơn và phải để nhận định trong ngoặc kép, tôn trọng bản
quyền của nhà văn.
Sau đây là mẫu mở bài cho dạng 3:
Berham hình dung về nghề cầm bút của mình:
‘’Tôi – là kẻ linh mục thống khổ
Ngồi cất bài kinh xưng tội giống loài’’ .
Có lẽ không nặng nhọc như Atlas gánh quả địa cầu trên vai, nhưng nhà văn, dường như
luôn dằn vặt trong một trạng thái mang nợ. Những tội lỗi không do anh gây ra, những nỗi vui
anh không được hưởng thụ, những nỗi buồn anh chưa được nếm hết. Lê Ngọc Trà bàn về
điều này trong ‘’nhà văn và quá trình sáng tạo nghệ thuật ‘’: ‘’Nghệ sĩ đích thực ở một
phương diện nào đó là một kiểu Jesus về tinh thần. anh ta đau nỗi đau của xã hội, của đời
người để từ đó cất lên tiếng nói diễn đạt nỗi đau chung của nhân loại.’’
II/ MỘT SỐ MỞ BÀI SƯU TẦM CÓ THỂ THAM KHẢO:
1.Từ thuở song hành cùng con người trên chiếc thuyền độc mộc đang nương theo dòng
chảy của dòng sông cuộc đời, chưa bao giờ văn học được chúng ta định nghĩa một cách sâu
thẳm. Văn chương là gì? Văn chương có ma lực gì mà có thể rung động mạnh mẽ đến cung
đàn cảm xúc của hàng triệu trái tim người đang đập phồng phập? Có người cho rằng, văn học
nghệ thuật là vẻ đẹp tỏa ra từ tâm hồn, là tiếng lòng trầm lắng suy nghĩ, là tiếng bồng bềnh
muôn vẻ? Phải chăng, vì thế mà văn học được xem như chất liệu vô tướng ở đời, mang theo
nhiệm vụ truyền đạt cái đẹp từ lòng dạ?
2.Trong bức thư gửi cho em gái của mình, nhà thơ Lưu Quang Vũ để lại những dòng:
‘Tôi gửi cho em một câu thơ. Tôi gửi cho em một con người. Một con người thực, đã sống, đã
thở.’’ Tôi không rõ phía bên kia trang giấy, có vạch ra được một khuôn mặt người, loang vết
màu thời gian? Và trong thác chữ, ta phải dò dẫm bao lâu, để có một cuộc kì ngộ? Ta đi đến
đâu, đi đến khi nào – quan trọng hơn – đi trên con đường nào? Liệu có phải ’’ đi đến tận cùng
tâm hồn mình sẽ gặp được tâm hồn của nhân loại ?’’
III/ MỘT SỐ CÁCH KẾT BÀI TRONG LLVH:
1.Dạng kết bài để lại dư âm, ấn tượng, hàm súc, mang tính phản biện:
Để làm được dạng kết bài này thật sự khá khó nhưng lại có hiệu quả vô cùng cao. Trước hết,
chúng ta thường sẽ sử dụng những nhận định của các nhà văn, nhà thơ, nhìn lại và chiêm nghiệm,
đưa ra góc nhìn riêng của bản thân về vấn đề được bàn.
Dạng kết bài này có một số yêu cầu nhất thiết như sau:
+ Có tư duy về vấn học sâu, chiêm nghiệm được nhiều vấn đề lí luận văn học.
+ Không giải thích quá dài dòng mà nên để lại dư âm, ấn tượng sâu sắc cho người đọc
+ có thể liên hệ sử dụng các biểu tượng văn hóa thế giới
Mẫu kết bài 1:
Nhà phê bình văn học người Nga Secnuepsky :’’Sách viết về cái đẹp đã chất thành đống, nhưng
cái đẹp vẫn còn là câu đố giữa cuộc đời’’. Văn học - một lĩnh vực thuộc ph ạm trù cái đẹp cũng thế.
Như con Sphinx trên sa mạc Giza vẫn đứng ở đó, hỏi người qua đường: Văn học là gì? Bao nhiêu
kẻ tìm cách cắt nghĩa, lý giải, liệu có ai đã thỏa lòng… Đã nhiều kẻ lữ hành bỏ cuộc. Nhưng đó
không phải là lí do để ta từ bỏ!
2.Dạng kết bài bằng câu hỏi:
Đây là dạng kết bài khá phổ biến trong các bài thi HSG. Thường học sinh s ẽ đặt cao h ỏi và để
người đọc tự trả lời vấn đề, điều này sẽ có tác dụng khiến người đọc, người chấm có m ột cu ộc ngoái
nhìn, chiêm nghiệm lại toàn bộ bài văn của mình, tạo ấn tượng tốt.
Văn chương suy cho cùng không phải là bàn cờ của những kẻ phu chữ, những kẻ chỉ biết sống
một đời tạo tác nét đẹp nơi con chữ chết lặng mà vô nghĩa, cứ cố tạo sinh những cách tân mà mới
mẻ đến mức điều sau cuối chỉ là con chữ mạ kền bóng loáng không hơn không kém. Còn nhớ một
bài thơ của Lê thái Sơn:
''Gom lại một đời thơ
Cuốn sách thành ngôi mộ
Các con ơi từng trang
Gói ghém hồn cốt bố …''
Khi đọc những câu thơ này trong tuyển tập thơ văn của Lê thái Sơn tôi c ứ l ặng ng ười .Tôi bỗng
nhớ hai câu thơ trong Truyện Kiều “Thác là thể phách , còn là tinh anh” . Cái tinh anh trong những
câu văn còn xót lại là cái hồn người, cái tình cảm còn lại với thời gian chăng?
3.Dạng kết bài bằng đoạn thơ:
Đây là kiểu kết bài thông dụng nhưng ít các bạn h ọc sinh làm hay v ề nó. Nh ững đo ạn th ơ lí lu ận
văn học liên quan đến đề thi HSG có thể tham khảo từ các nhà thơ như Chế Lan Viên, Lưu Quang
Vũ, Thanh Thảo , Lê Đạt, Lê Thị Hoài,… Các nhà thơ nói trên s ẽ có nh ững ki ến gi ải và góc nhìn
khác nhau, chúng ta lựa chọn những đoạn thơ hay và phù hợp đem vào bài vi ết c ủa mình s ẽ t ạo ra
được một kết bài hay và có hiệu quả.
Để làm được dạng mở bài này, các bạn học sinh phải:
+ Hệ thống được cho mình những đoạn thơ lí luận từ các nhà thơ không chỉ của riêng Việt Nam
mà còn ở nước ngoài.
+ Chắt lọc và hiểu rõ nghĩa của những đoạn thơ mà mình đem vào trong bài để tránh sự lạc đề, lan
man không cần thiết.
+ Không nên sử dụng những đoạn thơ quá dài vì khi viết kết bài r ất có th ể các b ạn s ẽ không còn
nhiều thời gian để viết kịp hết đoạn đó.
+ Nhớ rõ đoạn thơ, không được ‘’chế tác’’ lại thơ khi quên một vài từ. Nếu quên thì không dẫn
đoạn đó nữa mà phải đổi cách kết bài khác.
Mẫu kết bài 3 :
Ngày xưa, khi Tiêu Đinh làm thơ, những câu thơ cố tình bị bỏ lửng ở dòng cuối cùng. Hậu thế ai
sẽ là người vì tiên sinh mà viết tiếp? Trong Vang bóng một thời Nguyễn Tuân viết về thú đánh thơ,
thả thơ. Những câu thơ bị “vòng” ngay chỗ bị khuyết, chờ đợi ai đó thả chữ vào vòng. Một tác
phẩm văn học như một sinh thể mang sự sống khi chào đời, giá trị và sức sống đôi khi không nằm
phần nhiều ở nhà văn nữa, mà phụ thuộc chủ yếu vào nhân dân, công chúng tiếp nhận tác phẩm đó
như thế nào. Liệu tác phẩm đó có ‘’vượt qua sự băng hoại của thời gian’’ mà trả hương cho nhân
thế? Qủa thực như Đào Cảng đã từng trăn trở:
“Nền đất ẩm, chiếu manh, trang giấy trắng
Ta hi sinh bao nhiêu vật cho đời
Nên ta chết như chuyến đi dài hạn
Bởi họ sống thay ta, có mặt giữa muôn đời.”
(Đào Cảng).
V/ MỘT SỐ KẾT BÀI CÁC BẠN CÓ THỂ THAM KHẢO:
1. ‘’Bây giờ đọc Kiều ta nên cảm ơn ai?
Chẳng lẽ cảm ơn cái mưa bụi tà dương làm Du khổ?’’
Rasul Gamzatop đã nhận thức sâu sắc về một sự thật. Chúng ta không được phép chọn quê hương,
nhưng chính quê hương đã chọn chúng ta, từ khi còn chưa ra đời. Ý thức vể cội nguồn, nền tảng văn
hóa, thời địa mà mình được đặt vào có lẽ là một trong những ý thức quan trọng trong quá trình sáng
tác của nhà văn. Đó phải chăng là con đường chính đạo của văn học?
2. Kafka trước khi qua đời khẩn khoản người bạn Max Brod đem đốt hết những di cảo của mình.
M.Brod lại đem những di cảo này ra xuất bản. Những di chúc đã bị bội phản, và sẽ tiếp tục bị bội
phản. Để sự sống còn có thể sống và thở, không phải dưới hào quang thời đại, mà dưới lớp bụi bặm
của thời gian không thể làm hoen đi màu chữ úa. Thật vậy, những tác phẩm chân chính sẽ không thể
nào dễ dàng gục ngã trước thời đại, nó sẽ tìm cách sống dậy, đôi khi trong một hình thức khác để lan
tỏa giá trị muôn đời của mình đến cho công chúng độc giả.
3. “Tôi nhìn thấy
Trong trang sách mình chưa đọc
Sự vắng mặt của mình
Thấy trong cái bóng vắng hình
Ánh tà dương cũ
Tan tình trong sương
Tôi nhìn thấy một nỗi buồn”
(Nhật Chiêu)
Đằng sau trang văn là nỗi buồn của một con người, một thế hệ. Nỗi đau buồn đi vào văn chương
như một hoa mọc lên từ đất, sông chảy ra biển, rất tự nhiên. Bởi mỗi nhà văn đều cầm bút bằng tất
cả trách nhiệm và tình thương mình dành cho đời, bởi một bạn đọc đều góp một chút rung động, yêu
thương mình vào trang văn làm nên sự sống muôn đời của tác phẩm. Vì vậy, “Nghệ sĩ đích thực ở
một phương diện nào đó là một Jesus về tinh thần. Anh ta phải đau nỗi đau xã hội, của đời người, để
từ đó cất lên tiếng nói diễn đạt nỗi đau chung của nhân loại” (Lê Ngọc Trà).
Truyện ngắn
1.Truyên ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của nó bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống : đời
tư, thế sự, hay sử thi. Cái độc đáo của nó là ngắn thường hướng tới việc khắc hoạ một hiện tượng ,phát hiện một nét
bản chất trong quan hệ nhân sinh trong đời sống tâm hồn con người. Truyện ít nhân vật ,nhân vật thường là hiện
thân cho một quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. (Từ điển thuật ngữ văn học )
Truyện ngắn tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống; một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong một giai
đoạn nào đó của đời sống nhân vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào dó
của vấn đề xã hội . Cốt truyện thường diễn ra trong một không gian và thời gian hạn chế "(Từ điển văn học )
2. Pautôpxki:''Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra
như một cái gì bình thường và cái gì bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường ''
3. Gơt :''Một truyện lạ làm người ta kinh ngạc '',''Yếu tố bất bình thường đột biến''
4. Tsê khôp :''Nghệ thuật truyện ngắn là nghệ thuật cắt tỉa, tước bỏ cái gì không cần thiết ''
5. A Tônxtôi:''Truyện ngắn là một thức nghệ thuật khó viết bậc nhất. Ngắn là cái tinh anh của nhà văn, cái tinh
chất của tác phẩm''
6. Trương Hiền Lương ( Trung quốc ): ''Truyện ngắn giống như nước hoa quả cô đặc, pha thêm một chút nước ít
nhất cũng biến thành truỵện vừa, lại cho thêm ít gia vị thành truyện dài cũng không khó ''
7. Nguyễn Minh Châu :'' Chỉ trong mươi trang giấy, người viết truyện ngắn phải truyền đến cho người đọc cái
điều mà anh ta vừa khám phá thấy trong đời sống thường nhật của những người xung quanh anh ta và mươi trang
giấy ít ỏi kia sẽ sốn mãi với người đời nếu cái điều anh ta đề cập là mới mẻ ,độc đáo và thực là thân thiết đối với
đông đảo mọi người
Tôi thương hình dung truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ ,chỉ biét qua đường vân trên các khoanh
gỗ tròn tròn kia dù trăm năm sau vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc.Quả thật có một thứ kĩ thuật tinh xảo: kĩ thuật
viết truyện ngắn dồn nén tư tưởng vào trong một cái cốt truyện thật ngắn gọn ,thật tự nhien .Cho nên những người
viết truyện ngắn bậc thày đều cao tay trong kĩ thuật dựng truyện và tinh xảo trong ngôn ngữ
Chỉ cần ít trang văn xuôi mà họ có thể làm nổ tung trong tình cảm ý nghĩ bạn đọc những điều rất sâu sa và da
diết của con người. Tác giả của truyện ngắn có biệt tài chọn trong cái dòng dời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian
mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất chứa đựng ý nghĩa nhất …một khoảnh khắc cuộc sống bắt buộc con người ở vào
một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất ,cái khoẳnh khắc chứa đựng cả một
đời người, một đời nhân loại .
8. Nói về truyện ngắn ,Tô Hoài có ý kiến :''Một việc nghề nghiệp bắt ta lúc nào cũng phải long đong trên con
đường chông gai mà mỗi bước đi lên là một khấm phá mới mẻ "
9. Nguyễn Kiên :''Tôi cho rằng mỗi truyện ngắn là một trường hợp. Trong quan hệ giữa con người và đời sống có
những khoảnh khắc nào đó, một mối quan hệ nào đó được bộc lộ ''
10. Nguyên Ngọc :''Truyện ngắn vốn nhiều vẻ, có truyện viết về cả một đời người, có truyện chỉ ghi lại một giây
phút thoáng qua ''
11. Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: "Qua một nỗi lòng, một tình huống, một cảnh ngộ của một nhân vật,
nhà văn muốn đối thoại với nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc một vấn đề quan trọng về nhân sinh".
12. "Như thế nào thì một truyện ngắn có thể được gọi là hay?"
Một nhà văn đã tự đặt ra câu hỏi ấy và đã tự trả lời:
"Đó là một cuộc gặp gỡ giữa người viết với người đọc, một cuộc gặp gỡ phút chốc, nhưng để lại ấn tượng sâu
đậm, làm cho người ta khó quên".
2. Văn xuôi
- “Tố hữu đưa thơ chính trị đạt đến trình độ thơ rất đỗi trữ tình” (XD)
- Bó hoa lửa lộng lẫy của một đời thơ cách mạng
-“Tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra nó chỉ là những vệt đen
trên trang giấy” Satre
-“Văn chương cũng như cánh diều , cuộc đời cho nó hình hài, sức vóc và nghệ thuật làm gió nâng cánh diều ấy
mãi mãi bay cao” TTT
-“Tài năng và tấm lòng là hai cánh chim nâng tác phẩm của anh lên đến đỉnh cao. Hai cánh chim ấy mạnh mẽ bao
nhiêu thì tác phẩm của anh sẽ bay cao và bay xa bấy nhiêu” Gamzatop
-“Cái bản tính tốt đẹp của con người ta bị những nỗi lo lắng buồn đau, ích kỉ che lấp mất” NC
-“Ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là nhà tư tưởng” Belinsky
-“Tư tưởng là linh hồn của tác phẩm văn học” Korolenco
-“thứ khí giới thanh cao đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác vừa làm
cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn” TL
-“Công việc của nhà văn là phát hiện vẻ đẹp ở nhiều chỗ không ai ngờ tới, tìm cho được cái đẹp kín đáo thường
ngày bị che lấp đi” TL
-“Người nghệ sĩ chân chính trước hết phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” Sê Khốp
- “Thơ là chuyện đồng điệu […] Thơ là tiếng nói đồng ý và đồng tình, là tiếng nói đồng chí”
-“Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” Tố Hữu
-“Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép” CLV
-“Làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ không thể không có cái tôi” Viên Mai
-“Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần” Ngô Thì Nhậm
-“Xung đột tạo nên tiếng kịch” Belinsky
-“Tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch” Hê-ghen
-“Các nhân vật hình thành là do những lời lẽ của họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi”(M.Gorky)
-“Đúng là thơ mới buồn, buồn nhiều” “Cái buồn của thơ mới không phải là cái buồn ủy mị, bạc nhược mà là cái
buồn của những người có tâm huyết, đau buồn vì bế tắc chưa tìm thấy lối ra” Hoài Chân
- “từ tư tưởng đến hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn
Đăng Mạnh)
-Vũ Ngọc Phan từng nhận xét: “Xuân Diệu là người đem nhiều cái mới nhất cho thơ ca hiện đại VN”
-Theo A.. Robbe-Grillet (sinh năm 1922 nhà văn tiểu thuyết mới của Pháp) “Từ lâu cốt truyện không còn là nền
tảng của tiểu thuyết nữa”Proust (nhà văn Pháp) nhấn mạnh: “chúng (cốt truyện) tan ra để tái kết lại phục vụ cho một
kết cấu thời gian tâm lý”.
-“cách kết cấu có tính chất đột phá đã kết hợp được giữa hành động và tâm lý,giúp cho việc soi rọi và lý giải sâu
sắc tính cách nhân vật.(“Văn học Việt Nam 1900- 1945”)
Charles Henry Ford đã từng phát biểu về thơ: "Thơ cũng huyền diệu như Trời", và chính Thanh Thảo cùng
nhận định, bằng kinh nghiệm sáng tác của mình, rằng: " Thơ là tiếng nói của tâm linh, tiếng nói của sự chiêm nghiệm
nhiều khi là cả đời người, của nhiều đời người". Những tập thơ có giá trị thực sự, chúng có thể là "Kinh thánh của
tâm hồn", là thứ "không thể mua và không thể bán, nhưng lại không thể thiếu cho con người". Kinh Thánh là gì? Đó
là một thứ vô cùng thiêng liêng, nơi kết tinh những tinh hoa trí tuệ, nơi hội tụ những triết lý, nơi con người có thể tìm
thấy ánh sáng dẫn lối thoát khỏi những tăm tối, giông bão của cuộc đời. Có thể thấy, thơ là một trong những thể loại
văn học có lịch sử ra đời lâu nhất, chính vì vậy mà nguồn gốc của nó bí ẩn nhất, không ai thực sự lý giải được thơ đến
từ đâu, bởi từ lâu người ta đã tin rằng thơ là “ tiếng nói của tâm linh”- thứ không dễ để cắt nghĩa rõ ràng. Thơ có thể
bất chợt, rất nhẹ nhàng, chạm tới những tầng sâu, những nơi âm thầm nhất của phận người. Cho nên Thanh Thảo rất
đề cao thiên chức của thơ, khi cho rằng: "thơ cao hơn bản năng. Đó là tiếng gọi từ một thiên năng." Giá trị vĩnh hằng
của thơ vẫn là những giá trị mang tính nhân văn, những vấn đề thuộc về con người, về nhân loại. Và cái làm nên giá
trị ấy chính là ở sự thanh lọc tâm hồn. Chính vì vậy trong quan niệm của Thanh Thảo, thơ không phải là thứ vật chất
bình thường mà là tiếng gọi của tâm linh, hơn thế nữa còn là một thứ tôn giáo mà người làm thơ, người đọc thơ nhiều
khi phải chấp nhận bi kịch để vác cây thập giá thơ bước qua những khổ nạn của cuộc đời, mới mong chạm đến bản
thể thơ. Vậy còn những người sáng tạo ra thơ, thứ Kinh Thánh của tâm hồn ấy? Trái ngược với sự đề cao thiên chức
thơ ca, Thanh Thảo lại quan niệm "Nhà thơ là con người không phải thiên thần".
Song, như thế không có nghĩa là hạ thấp giá trị của những chủ thể sáng tạo, ông chỉ không thần thánh hóa họ, vì
thần thánh hóa một người sẽ khiến người đó trở nên không thực. Mà, nhà thơ lại rất thực, là người bạn đường của
người đọc trên hành trình chiếm lĩnh thơ ca, tìm đến chân, thiện, mỹ, vậy nên dẫu họ không phải thần linh thì thơ của
họ cũng là lời của thiên thần; tức là nó đẹp, thánh thiện và thanh cao. Thơ phải là tiếng gọi từ tâm thức và thiên lương
của nhà thơ. Vì vậy quá trình sáng tạo thơ bao giờ cũng thể hiện thiên năng của nhà thơ. Đây cũng là vấn đề được
quan tâm bàn đến trong quan niệm thơ của Thanh Thảo.
Tuy nhiên, thơ có thể là tất cả, cũng có thể không là gì cả! Đề cao thiên chức của thơ, và dĩ nhiên bằng quá trình sáng
tạo nghệ thuật của mình, thi sĩ hoàn toàn có thể xác tín vào giá trị cao đẹp ấy. Song, coi trọng không có nghĩa là tuyệt đối hóa,
"Thơ khác kinh cầu. Nó không tạo ra những cơn mê tập thể. Nó không ru rín" mà nó mê hoặc con người bằng "sự thức tỉnh".
"Thơ chỉ dành cho từng người một. Và khi một người đọc thơ cho mình, là người ấy đã đồng hiện với một giáo đường. Vì vậy,
có thể coi một người đọc thơ như nghìn người đọc kinh". Thanh Thảo không quá coi trọng chức năng giáo dục của thơ, bởi lẽ
thơ mà chỉ nhắm tới giáo dục, cải tạo là thơ không đích thực. Vì "Thơ đích thực không nhằm giáo dục cải tạo ai, nhưng nó lại
giúp thanh lọc tâm hồn con người". Nhà thơ Lê Đạt cũng từng cho rằng: " Đọc một câu thơ hay, ta thường có cảm giác đứng
trước một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường hướng thiện những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính
hơn...". Thơ không lớn tiếng rao giảng bất kỳ một bài học nào, thế nhưng vẫn lặng lẽ, từ từ thực hiện thiên chức của mình bằng
cách tự nhiên như thế… Và có lẽ, đó mới là con đường chân chính của thi ca trong hành trình trở thành Kinh Thánh của tâm
hồn con người chăng?
Trong diễn văn nhận giải Nô-ben Văn học tháng 12 năm 1960, tại viện Hàn lâm Thuỵ Điển, nhà thơ Pháp Saint-
Jonh-Perse khẳng định: Thi nhân hiện hữu ở con người thời tiền sử và vẫn hiện hữu ở con người thời nguyên tử.
Nó là thành phần bất phân với con người.
Học giả Trần Ngọc Cư ở mục Thông tin từ Hoa Kỳ (Tạp chí Nhà văn – tháng 3 năm 2007) lại cho rằng : Thi ca
được thiết kế cho một thời đại trong đó người ta có đủ nhàn tảng và đam mê để trau chuốt, nâng niu, nhâm
nhi từng con chữ mà nhiên hậu đã đưa nghệ thuật này đến dạng thức cao nhất của văn viết. Thi ca đã làm xong
vai trò lịch sử của nó và đang đi vào màn đêm của dĩ vãng.
NHỮNG CÂU VĂN ẤN TƯỢNG CỦA OLGA TOKARCZUK TRONG DIỄN TỪ NOBEL 2018
Nobel Văn Học là một giải thưởng danh giá được Viện Hàn lâm Văn học Thụy Điển trao tặng cho các nhà văn
trên toàn thế giới có sự nghiệp hoặc một số tác phẩm nổi bật có tầm ảnh hưởng trong giới văn học. Năm 2018, giải
thưởng này thuộc về Olga Tokarczuk - một nhà văn, nhà hoạt động, nhà thơ và nhà tâm lý học người Ba Lan, bà được
mệnh danh là một trong những tác giả được giới phê bình đánh giá cao và thành công nhất trong thế hệ của bà ở Ba
Lan.
𝐍𝐡𝐮̛̃𝐧𝐠 𝐜𝐚̂𝐮 𝐜𝐡𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧 𝐜𝐨́ 𝐭𝐡𝐞̂̉ 𝐤𝐞̂̉ 𝐤𝐡𝐢 𝐯𝐢𝐞̂́𝐭 𝐋𝐋𝐕𝐇 ]
Những câu chuyện dưới đây về những trải nghiệm của nhà văn trong hoạt động sáng tạo, về chuyện đời tư,
chuyện được kể trong sách vở...
Charlotte Delbo, một nữ tù nhân bị giam trong xà lim của Đức Quốc xã đã lén lút đọc các tác phẩm văn học do
người bạn tù thả xuống từ cửa sổ. Trong những năm tháng tồi tệ ấy, Delbo nhận ra: “Những nhân vật do nhà văn sáng
tạo nên còn thật hơn cả những con người bằng máu thịt, vì họ vô tận. Cho nên họ là bạn, là người đồng hành của tôi,
là kẻ mà nhờ đó chúng ta liên hệ với người khác trong móc xích nhân loại và móc xích lịch sử”. Đứng trước thử thách
tột đỉnh, Charlotte Delbo phát hiện ra rằng các nhân vật trong sách vở có thể trở thành những người bạn đồng hành
khả tín, văn chương đồng hành với con người ấy trong những giây phút khó khăn nhất của cuộc đời.
=> áp dụng khi viết về chức năng văn chương, điều kì diệu văn chương đem lại.
Nguyễn Ngọc Tư chia sẻ rằng bà thường đọc sách trong sự ồn ào với những tiếng nói vang lên, và không chút
dễ chịu, khi đó là những lời thẳng thắn. Rằng: "Lúc mi chưa sinh ra thì những Honoré de Balzac, Franz Kafka,
William Faulkner, Heinrich Boll, Patrick White, Gabriel García Márquez... đã vĩ đại rồi, và những trường phái văn
chương đã định hình, hoàn thiện khi mi tập đi bên những hố bom. Văn chương thế giới đã rực rỡ trước khi mi trở
thành đốm lửa".
"Sống và viết trong cộng đồng ngôn ngữ nhỏ bé, không phải trung tâm thế giới, ai sẽ nhìn thấy ánh sáng của mi?".
"Con đường mà mi tưởng mình là người đầu tiên bước vào, đã có người đi rất nhiều năm trước, và mi chỉ đang
giẫm lên những dấu chân có sẵn. Mi tới nơi khi họ đã xong việc, đã rời đi".
=> Câu chuyện về sự sáng tạo, phong cách
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh từng chia sẻ câu chuyện ấu thơ đã tạo ra nguồn cảm hứng mãnh liệt để ông “sống
và viết”. Trong đó ông tin mọi trẻ em trên thế giới đều thích nghe kể chuyện. Và bắt đầu hoài niệm: “Tôi nhớ ở vào
cái tuổi chưa biết đọc, anh em tôi mỗi tối trước khi đi ngủ đều chen chúc giành giật nhau để được nằm cạnh bà tôi.
Chỉ để được là đứa nằm gần bà nhất khi bà kể chuyện. Cũng lạ, tiếng bà kể trong đêm nằm đâu nghe cũng rõ, nhưng
đứa nào cũng thích được nằm cạnh bà, như thể chạm vào bà thì hình ảnh trong các câu chuyện sẽ lung linh hơn.”
=> Cội nguồn cảm hứng sáng tạo, chất liệu cho sáng tác ?
Trong nhật kí do Anne Frank (lúc đó 13 tuổi) viết trong khi cô bé đang trốn cùng gia đình trong thời kỳ Đức
Quốc xã chiếm đóng Hà Lan ở đó viết: “Mình muốn làm một cái gì đó cho đời mình. Mình muốn mình là một nhà
báo. Mình biết mình có thể viết. Một ít chuyện của mình cũng khá, một phần cuốn nhật ký của mình khá linh động và
thích thú, nhưng...mình không biết mình có thật sự là một nhà viết văn giỏi. Nhưng nếu mình không viết sách hoặc
báo, mình có thể luôn viết cho mình. Mình không muốn sống như Mẹ, như bà Van Daan và như mọi người đàn bà
khác, họ chỉ làm công việc gia đình của họ và sau đó bị quên lãng. Mình cần có nhiều hơn là một ông chồng và mấy
đứa con. Mình muốn mình có ích và mang niềm vui đến cho tất cả mọi người, ngay cả những người mình chưa hề
gặp. Mình muốn mình vẫn sống sau khi mình chết đi.
Mình cám ơn Chúa về việc viết lách của mình. Do vậy mình tiếp tục cố gắng, và mọi việc sẽ ổn cả bởi vì mình sẽ
không bỏ cuộc.” Và câu chuyện của Anne Frank đã là nguồn cảm hứng cho nghệ thuật cả thế giới, lay động trái tim
nhiều thế hệ. Cuốn Nhật kí là minh chứng rõ nét cho “Sức sống của văn chương.
=> Giá trị văn chương, sức sống nghệ thuật, ước mơ sống - viết ?
”Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ Ấn Độ trông một con chim bị thương rơi xuống bên cạnh chân
mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hòa 1 nhịp với sự sinh run rẩy của con chim sắp chết. Tiếng
khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của Thi Ca. Câu chuyện có lẽ chỉ là một câu trên đường, song không
phải không có ý nghĩa. Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra cả muôn vật, muôn loài .”
Trên Trạm đọc có kể một câu chuyện về nhà văn Dostoevxki - ông sinh năm 1821. Năm 1849, ông bị bắt vì
tham gia vào một tổ chức cách mạng. Ông bị kết án tử hình. Vào phút chót, Sa hoàng đã thay đổi hình phạt, theo đó,
ông bị đi đày bốn năm ở Siberia. Nhưng chúng ta may mắn vì ông đã trải qua kinh nghiệm khủng khiếp này. Bởi nhờ
đó, ông đã viết nên một kiệt tác về đời sống ấy – tác phẩm Bút ký từ ngôi nhà chết.
Tác phẩm này nói về kinh nghiệm của Dostoyevsky khi sống trong trại lao động khổ sai ở Siberia trong bốn năm.
Đó là cực hình, và vì ông xuất thân từ một gia đình quý tộc, những tù nhân khác chưa bao giờ thấy thoải mái với ông.
Vào thời đó, ở Nga, việc dùng nhục hình để trừng phạt tù nhân được xem là hợp pháp. Những cảnh đòn roi ấy được
Dostoyevsky miêu tả bằng những trang viết mãnh liệt. Cuối cùng, vì ảnh hưởng của cuốn sách này, Sa hoàng đã buộc
phải chấm dứt việc cho phép dùng đòn roi đối với tù nhân – do đó, có thể nói, cuốn tiểu thuyết này đã có một vai trò
rất quan trọng trong xã hội Nga.
Có giai thoại rằng, trong một lần Leonard Cohen và Bob Dylan gặp nhau trong một quán cafe, khi Dylan
bày tỏ sự yêu thích với ca khúc Hallelujah, Cohen đáp lại rằng ông viết ca khúc ấy trong một vài năm. Sự thật, ông
xấu hổ đến mức không dám kể đã viết nó trong ngót nghét chục năm. Đến lúc Cohen tỏ ra thích ca khúc I and I của
Dylan, Dylan bảo đã viết ca khúc đó trong 15 phút, khi ngồi trên taxi.
Người ta có thể hỏi, việc bộ phim tài liệu Hallelujah: Leonard Cohen, A Journey, A Song của hai đạo diễn Dan
Geller và Dayna Goldfine dành tới gần 2 tiếng để kể chuyện đời một ca khúc có phải hơi quá không? Nhưng nếu biết
câu chuyện trên, thì câu trả lời là không.
“Tôi nhớ mình mặc chiếc quần xà lỏn, nằm trên thảm, đập đầu xuống sàn và than thở “Mình không thể viết nó
nữa”. Cô đơn quá! Gian khổ quá!”, Leonard Cohen kể về quá trình hành xác để viết nên Hallelujah với một phóng
viên âm nhạc kỳ cựu, Larry Sloman - người tự nhận mình là “con bệnh số 0” trong việc lan truyền ca khúc ấy..
Cho những ai chưa biết, Hallelujah có ít nhất 150 phần lời khác nhau, và Cohen có cả một chồng sổ tay ghi lại
hành trình viết lời cho ca khúc này. “Anh có nghĩ mọi người bận tâm nhiều thế với một bản nhạc pop không?”,
Sloman hỏi.
Nhưng hẳn là với Cohen, Hallelujah chưa bao giờ chỉ là một bản nhạc pop. Và ngay trong một ca khúc cuối đời,
khi Cohen dự cảm về sự ra đi của mình: “Tôi rời khỏi bàn đây. Tôi ra khỏi cuộc chơi này”, nhưng ngay từ đầu, với
người đàn ông chỉ bắt đầu viết nhạc ở độ tuổi 30, mới đầu bị các hãng ghi âm chê bai “quá già cho cuộc chơi này”,
thì âm nhạc mãi mãi lớn hơn một cuộc chơi.
Nếu Bob Dylan là kiểu thiên tài của những khoảnh khắc, với khả năng phóng bút ra tuyệt phẩm, thì Leonard
Cohen là kiểu thiên tài của sự bền gan. Quá trình sáng tác thần tốc của Dylan khiến ta choáng váng, còn quá trình
sáng tác vật vã của Cohen khiến ta cảm động. Mọi thứ ở Cohen làm suy yếu cảm thức về thời gian: ông bước vào âm
nhạc ở cái tuổi mà người khác có khi đã về hưu; ông viết một bài hát bằng thời gian người ta viết hàng trăm bài; ông
bảo chỉ thực sự biết yêu lần đầu năm… 50 tuổi; ông lên núi tu thiền 5 năm, lúc đang ở đỉnh cao danh tiếng.
Ông sống với những ý niệm khác chúng ta. Là một người Do Thái giáo, Cohen tin vào “Bal Kot” - tiếng nói nữ
tính từ Thượng Đế. Người sáng tác chỉ phụng sự cho tiếng nói ấy, ghi chép lại những gì nàng mách bảo. Cohen từng
tưởng tượng ra một “Tháp Âm Nhạc” trăm tầng, nơi ông bị trói vào một chiếc bàn trong đó. Và vì một bài hát là một
ân sủng từ trời, nên dù phải viết bao lâu, ông cũng chấp nhận “trả tiền thuê từng ngày sống trong Tháp Âm Nhạc”.
Trong Hallelujah, có một tứ thơ rất nổi tiếng về “hợp âm bí mật” mà Vua David chơi cho Thượng Đế nghe:
“Khúc nhạc ngân thế này: Quãng tư, quãng năm. Điệu thứ trầm, điệu trưởng cao”. Trong tiếng Anh, cụm “điệu thứ
trầm, điệu trưởng cao” còn có thể hiểu là “những cú rơi nho nhỏ, những cú bay vút cao”. Câu hát đó đã vận vào đời
ca khúc.
Bạn có thể không tin, nhưng Hallelujah - ca khúc có khả năng biến mọi nơi nó được trình diễn trở thành thánh
đường, ca khúc mà ngày nay đã tái sinh trong 300 bản thu âm chính thức và không đếm xuể những bản cover không
chính thức - đã từng bị đánh giá không đủ hay để phát hành ở Mỹ. Một chuyện hy hữu xảy ra, đó là hãng ghi âm
Columbia lúc bấy giờ đã trả thù lao cho Leonard Cohen cùng ekip sản xuất album Various Positions, nhưng rồi lại
không duyệt sản phẩm của họ. Album có ca khúc Hallelujah chỉ có thể được một hãng đĩa nhỏ phát hành và lặn
không sủi tăm - một cú rơi nho nhỏ.
Khi xem những đoạn phỏng vấn cũ của Cohen, nghe những người bạn như nhà sản xuất đầu tiên của ca khúc,
John Lissauer, lãnh đạo đương nhiệm của Columbia và cả người tình năm xưa của Cohen kể lại câu chuyện ấy, ta
không khỏi có cảm giác Thượng Đế đang thử thách đức tin của Cohen, như Người đã thử thách những nhà tiên tri,
những môn đệ của mình bằng cách cố tình đẩy họ vào hoạn nạn.
Cohen đã vượt qua bài thử thách ấy. Bởi làm sao có thể giải thích được biết bao những chuyện tình cờ đã đưa
Hallelujah ra ánh sáng. Sự tình cờ nào khiến Bob Dylan để ý tới một đĩa nhạc không ai để ý rồi đem Hallelujah vào
những chuyến lưu diễn của mình? Sự tình cờ nào khiến chàng thanh niên Jeff Buckley đến nhà thờ St.Ann tham gia
biểu diễn ca nhạc theo lời giới thiệu từ quản lý của cha mình, tình cờ nghe được Hallelujah, để rồi tạo nên một phiên
bản ca khúc đẹp não nùng làm mê hoặc bao người? Sự tình cờ nào khiến một bộ phim gia đình cho đối tượng thiếu
nhi như Shrek lại có thể đưa vào một ca khúc đầy phức cảm của ánh sáng và bóng tối, chắp cánh cho một ca khúc từ
xửa xưa vút bay cao thành bản nhạc kinh điển mọi thời? Quay ngược thời gian, sự tình cờ nào khiến một chàng trai
xuất thân giàu có như Cohen lại theo đuổi âm nhạc ở tuổi trễ tràng?
Rất nhiều người từng không hề biết tác giả Hallelujah là ai. Ngay cả những nghệ sĩ nổi tiếng như Brandi Carlile
cũng thừa nhận, bản đầu tiên cô nghe là của người khác. Vậy làm sao giải thích được tất cả những chuỗi tình cờ đã
đưa Hallelujah từ một bản nhạc bị bỏ quên vào đúng vị thế của nó - một kiệt tác? Có lẽ chỉ có thể là bởi, Thượng Đế
có sự sắp đặt cho tất cả.
[Bài viết đã đăng trên Tuổi Trẻ, nhân quảng cáo là trong cuốn "Tại Sao Ta Yêu" có nguyên một chương "Tại sao
ta yêu Leonard Cohen?"
II/ Một số dẫn chứng có thể đem vào bài viết của mình:
1. Cách dẫn chứng về một tác giả và hệ thống phong cách riêng của tác giả đó:
Đây là một kiểu dẫn chứng thông thường trong các bài văn HSG. Dẫn chứng này bao quát lại về dấu ấn của một
nhà văn có thể áp dụng trong những đề bài như phong cách, cá tính sáng tạo hay chức năng, sứ mệnh văn học,…
Để làm được dạng này, các bạn học sinh cần:
+ Hệ thống rõ ràng phong cách và dấu ấn của một số nhà văn nhà thơ mà mình tâm đặc: Nếu như trong truyện thì
chú ý vào ngôn ngữ, tình huống, điểm nhìn trần thuật, đối tượng mà tác phẩm hay nhắm đến. Nếu là thơ thì chú ý vào
những yếu tố như ngôn ngữ, giọng điệu, thủ pháp nghệ thuật,…
+ Trong quá trình hệ thống, phải rút ra được những đặc điểm chung tạo nên dấu ấn của nhà văn đó để khi đem vào
bài viết mang sức thuyết phục cao. Tránh những trường hợp tư liệu về nghệ sĩ không đúng hoặc quá lan man, không
chú trọng vào đề.
Mẫu cho dạng này:
Người ta cảm thấy xa lạ trong thế giới mà Kafka tạo nên – thế giới của những mê cung, những lâu đài, thế giới
của những vụ án phi lý, bẫy con người vào những hoài nghi và dày vò tinh thần vô tận. Câu đầu trong tác phẩm
‘’Hóa thân’’ gây sốc và đứt quãng tiếp nhận với những người đọc chưa được chuẩn bị từ trước: ‘’Một ngày nọ thức
giấc dậy, Geogre Samsa thấy mình biến thành con bọ’’. Một sự tha hóa mang tính đột khởi, có sức chấn động, đủ để
làm rạn nứt thế giới quan của một ai đó. Nhưng người ta không thể không cảm thấy đồng cảm và cảm giác bắt được
chiếc bóng của mình trong thế giới xa lạ kia. Bởi những phi lý ấy khái quát tính chất đời sống và theo mê cung của
Kafka, ta dần luận giải được cho những nghịch lý ấy. Trong một xã hội không kẽ hở, khi con người liên tục bán mình
cho những chế độ để hưởng lấy lợi ích, ‘’hóa thân’’ trở thành vấn đề tất yếu và xác suất diễn ra quá đỗi dễ dàng. Bi
kịch vong thân ấy hiện hữu xuyên suốt trong các tác phẩm của ông – trong hình dạng một nhân vật bị mất tên, hay kẻ
tìm đường vì những ‘’vòng vèo, chùng chình’’ trên dọc đường đi đã quên mất mục tiêu ban đầu của mình. Thủ pháp
vô hình hóa con người vừa khắc họa nó như một bi kịch có khả năng phóng nó lên thành một đối tượng mang tính
khái quát, nơi mỗi người cảm nhận một phần của mình được giấu trong đấy. Một thế giới đầy phi lí, ác mộng, trong
đó con người bị đè bẹp bởi chủ nghĩa quan liêu, máy móc, bị biến dạng, trở nên hoàn toàn biệt lập về tinh thần, trở
thành kẻ có lỗi với chính bản thân, kẻ tự giết chính mình, một thế giới hiện ra như sự dự báo, như ẩn dụ về chủ nghĩa
phát xít, về một xã hội quan liêu, toàn trị, cực quyền. Tuy vậy, những băn khoăn của Kafka khởi phát từ những câu
hỏi cá nhân, về những ‘’vụ án’’ của một các nhân hay sinh ra trong những mâu thuẫn với người bố. Qúa trình từ bận
tâm cá nhân đến sự đồng cảm cộng đồng là quá trình đi từ ‘’phần người’’ đến ‘’phận người’’, nghĩa là đi đến tận
cùng, nơi nhánh sông đã nhập vào nơi biển lớn…
2. Dẫn chứng tác phẩm bằng cách điểm qua tên tác phẩm và liên hệ với thời đại ra đời của nó:
Đây là cách dẫn chứng ít bạn làm được vì đa số các bạn không chú ý đến bối cảnh thời đại mà chỉ nhắc đến nội
dung chung chung trong tác phẩm đó. Nhưng chúng ta cần hiểu, mỗi nhà văn nhà thơ đều bị chi phối bởi thời đại của
họ, nên việc tìm hiểu về thời đại là một vấn đề quan trọng.
Để làm được dạng dẫn chứng này, các bạn học sinh cần phải:
+ Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, xem xét thử trong bối cảnh đó có gì đặc biệt và nó có liên quan gì đến
tác giả và tác phẩm.
+ Nhưng khi đã tìm hiểu, chúng ta cũng phải biết chắt lọc, không đem hết tất cả những thông tin đó vào bài viết
của mình như một người ghi chép sử mà phải chắt lọc và chuyển hóa nó thành lối diễn đạt mềm mại hơn.
Mẫu cho dạng dẫn chứng này:
Từng nghe: ‘’ Đạo thanh âm có quan hệ với chính trị’’ (Công Tôn Ni Tử), vậy nghe cái âm ai oán, sầu khổ của
những khúc ngâm, điệu hát song thất lục bát ‘’Chinh phụ ngâm’’, ‘’Cung oán ngâm’’ kể trên cũng đủ biết thời ấy
tang tóc, loạn lạc ra sao. Từ thế kỉ 17 đến thế kỉ 19, cũng ngót nghét chưa được hai trăm năm mà nước ta xảy ra bao
biến động. Đàng Trong, Đàng Ngoài chia cắt mấy mươi năm chưa kịp thống nhất đã trải qua nào là Lê -Mạc, Trịnh
Nguyễn phân tranh. Ba tập đoàn phong kiến thối nát tranh giành quyền lực với nhau, chiến tranh liên miên không
hồi kết. Quang Trung lên ngôi thống nhất đất nước lại phải dẹp loạn quân Xiêm, Thanh. Vết thương cũ chưa kịp khô,
vết thương mới lại xuất hiện. Người ta ôm vết cắt ấy mà gượng sống . Dân chúng khốn khổ lầm than, nơi cung đình
vua chúa lại ăn chơi hưởng lạc đến sa đọa, đem bắt phụ nữ đẹp về lãnh cung, lấy mỹ nhân làm thú vui. Xã hội phong
kiến suy nát đến tận cùng. Chế độ đa thê mà đỉnh cao là chế độ cung tần dã man cũng những cuộc chiến phi nghĩa
khiến chồng lìa vợ, mẹ xa con, đã đẩy con người đến chỗ cùng đường tuyệt lộ. Nơi ấy, ngay chỗ tăm tối nhất, hơi thở
của văn học bắt đầu lan tỏa.
3. Dẫn chứng llvh bằng cách sử dụng kết hợp tác phẩm với những lĩnh vực khác như triết học, tâm
lí học, y học…
Đây có lẽ là kiểu dẫn chứng khó nhất khi chúng ta chưa có đủ nhiều kiến thức về các ngành, các lĩnh vực khác.
Nhưng không phải vì vậy mà không có cách giải quyết của nó.
Để làm tốt được dạng 3 này, các bạn học cần:
+ Thứ nhất, không phải kiến thức nào của triết, tâm lí học, y học,.. chúng ta đều phải tìm hiểu.
+ Thứ hai, khi chọn một tác phẩm tâm đắc thường sẽ có những góc nhìn và những khuynh hướng mà chúng ta mổ
xẻ tác phẩm theo những phương thức khác nhau. Chẳng hạn như những tác phẩm mang nặng chiều sâu tâm lý nhân
vật như Tội ác và Trừng Phạt, Đồi gió hú ,.. thì chúng ta có thể tìm hiểu những thuật ngữ biểu hiện nhân vật đó trong
tâm lý học hay ẩn ức tính dục trong tác phẩm Trăm năm cô đơn. Nếu tác phẩm nghiêng về những khía cạnh y học
như Đèn không hắt bóng, Mãi đừng xa tôi, Khi hơi thở hóa thinh không,… ta có thể tìm hiểu xem thử vd như đèn
không hắt bóng trong phẫu thuật y học là gì ( ngọn đèn phẫu thuật dù cho bác sĩ có thao tác nhiều thế nào cũng không
để lại bóng thuận lợi cho việc hoàn thành những ca giải phẫu….)
Mẫu dẫn chứng cho dạng này: ( tp MÃI ĐỪNG XA TÔI)
Mong muốn một sự sống trường tồn với thời gian luôn là khát khao lớn nhất của con người, vì vậy khi khoa học
phát triển, nhiều biện pháp được đưa ra thực hiện nhằm lôi kéo sự sống cho người, cứu thoát những thân xác đang
dần mục ruỗng vì các căn bệnh nan y do tử thần đưa tới. Vậy nên việc tạo ra những con người nhân bản và sử dụng
họ như công cụ để níu kéo sự sống trong bối cảnh ấy được xem là một chuyện vĩ đại, còn có thể gọi là sáng tạo sự
sống cho loài người. Một nguồn nội tạng khổng lồ luôn có sẵn để chu cấp cho bất cứ con người nào có nhu cầu, đa
phần những người được hiến tạng chỉ quan tâm đến việc họ có được cứu sống hay không chứ chưa từng để ý đến
người hiến là ai. Đừng nghĩ rằng trí tưởng ượng của tác giả đang bóp méo hiện thực. Năm 1996, cừu nhân bản vô
tính Dolly ra đời. Đây là động vật có vú đầu tiên được nhân bản vô tính. Với sự hiện diện của cừu Dolly, giới khoa
học đã dự báo: “Về mặt lý thuyết, sinh sản vô tính người hoàn toàn có thể thực hiện được khi bản đồ gene người
được công bố năm 2000”. Điều gì sẽ xảy ra, khi bác sĩ có thể chữa được những bệnh mà trước đây không có cách
chữa và con người có thể sống vượt qua 100 năm, khi những trường học dành cho người nhân bản được mở ra nhằm
mục đích “nuôi lấy nội tạng” để cứu rỗi mạng sống của những người được cho là phiên bản gốc. Sẽ ra sao nếu có
chuyện đó xảy ra? Việc giẫm đạp lên sinh mệnh, khao khát và ngoảnh mặt làm ngơ trước sự mong cầu được sống
của những người nhân bản liệu có phải là một hành động ý nghĩa và vĩ đại hay chỉ là cái cớ để ngụy biện cho sự
tham lam cùng tàn độc tận sâu trong tâm trí loài người? Hành động ấy đưa đến cho người đọc những nỗi hoài nghi,
đâu mới là ranh giới đạo đức của khoa học?
III/ MỘT SỐ ĐOẠN LLVH KẾT HỢP VỚI DẪN CHỨNG HAY:
1.‘’Nỗi đau của xã hội’’ dung chứa toàn vẹn nước mắt nhân loại trong nét biểu nghĩa của nó – nghĩa là nhà văn
không được kể sót một nỗi đau nào, bỏ mặc một thân phận bên lề nào. Nếu các nhà chính trị sẵn sàng ‘’làm tròn’’
những số lẻ và đếm con người theo kiểu hàng trăm, hàng triệu, nhà văn lại nhặt nhạnh chính những số lẻ ấy như Chế
Lan Viên từng vướng bận:
‘’Một mùa xuân chết giữa mùa xuân
Đón lấy môi hoa nhẹ rụng dần’’.
Nhà văn, trong cuộc tìm kiếm vĩ đại ấy, đã đem bao nhiều mặc cảm còn tồn tại trong cõi mù tri nhận ra vùng sáng
ý thức chung cho mọi người, cho một cuộc nhận thức lại, một cuộc chiêm ngắm. Khi người ta vẫn còn bị lấn át bởi
tiếng kèn thắng trận, mắt người ta vẫn còn dõi theo những đoàn diễu hành với tấm huy chương sáng loáng, Bảo Ninh
viết ‘’Nỗi buồn chiến tranh’’ như một cú đột kích về tư tưởng trong tâm thế hàng vạn người Việt lúc bấy giờ. Từ bỏ
điểm nhìn trần thuật phân tuyến ta- địch vẫn được dùng trong quán tính tư duy văn học đương thời, Bảo Ninh dung
hòa các tuyến nhân vật trong một thân vật chung duy nhất: con người. dưới góc nhìn đại thể ấy, toàn bộ cuộc chiến là
một thất bại. Không có phe thắng trận, bởi trong ‘’ nỗi buồn ‘’ tất cả đều bại dưới bàn tay lịch sử. Tất cả đều bước
vào một cuộc chiến và đi ra với một cái tôi vong thân, tha hóa, không còn được bảo toàn nhân tính. Ký ức chiến tranh
là những chấn thương tinh thần nghiêm trọng với người lính, khi Kiên luôn cảm giác mình chạy trên một toa tàu vô
tận, bị đeo đuổi bởi những bóng ma trong quá khứ. Nỗi đau khóa chặt con người trong tình trạng vô ngôn, trở nên
lúng túng, vụng về khi không thể sắp xếp mạch trần thuật của mình. Kết cấu mảnh vỡ và xếp hộp, đan xen những
mạch tự sự chồng chất nhau đã diễn tả phần con người nội tâm còn đang co rú trong những nỗi đau, chưa thể cất lên
tiếng nói một cách chuẩn xác.
2. Nếu hai tuyến tình cảm và lý trí chỉ hoạt động một cách đơn lẻ, tác phẩm hoặc sẽ trở thành bản phô diễn tâm
trạng cường điệu, sáo rỗng, hoặc sẽ trở thành bài thuyết giáo hay bộ tư liệu khô khan, máy móc. Tư tưởng phải được
thấm nhuần tình cảm để trở thành cảm hứng mãnh liệt. Tình cảm cần sự nâng đỡ của tư tưởng để có một hình vóc
vững chắc trụ lại theo thời gian. Mỗi tác phẩm đích thực luôn là điểm tụ của những đường giao thoa ấy – những
đường thẳng tưởng chừng không thể cắt nhau. Nhưng như một người nghệ sĩ từng nói: ‘’Mấy thứ khó nhằn ấy, bọn
nghệ sĩ chúng tôi vẫn luôn làm được’’. Tức ngay trong những câu thơ – ngôn lời bộc phát từ tình cảm theo thần hứng
cũng nhuốm trong mình những nghiền ngẫm đã sống trong lòng thi sĩ từ khi nó còn chưa ra đời. Quan niệm ‘’chữ
trinh kia cũng có ba bảy đường’’ của Nguyễn Du được Phạm Công Thiện nhận xét là đủ phá hủy trọn tư tưởng Nam
Hoa Kinh của Trang Tử. Và ngược lại, ngay trong tác phẩm của một triết gia nặng siêu tưởng như J.P.Sartre, ‘’Buồn
nôn’’ xuất hiện như sản phẩm của một ‘’nỗi đam mê làm người của thế kỉ’’. Ai hay, khi Louise Gluck viết những câu
thơ đẹp và nhẹ tênh đến thế cũng đã vô tình viết ra nỗi khắc khoải của loài người về sự tiếc nuối khi phải ra đi, khung
trời bỏ lại?
‘’Trên bầu trời tối tăm là những đàn thiên di đêm
Nó làm tôi đau buồn khi nghĩ
Người chết sẽ không nhìn thấy chúng -
Những thứ chung ta nương tựa’’
Phác họa không gian trong lành với những cây thanh lương đỏ mọng, đặt dòng suy nghĩ vào thời gian đêm – mọi
hoạt động ngừng lại, nhường khoảng trống cho sự chiêm ngắm. Ban đầu là cảm kích, cảm giác lòng gợn sóng khi đàn
thiên di bay qua trong phút chốc không thể cắt nghĩa. Nhưng trong chiêu sâu của suy ngẫm, Gluck nhận ra chính đàn
chim ấy – những chuyển động mơ hồ, ngẫu nhiên, ấp đến và chảy trôi khỏi cuộc đời ta, lại là những gì ta chờ đợi. Cái
đẹp ngắn ngủi và dù ngắn ngủi, vẫn làm điểm tựa cho con người, vẫn đủ để ta nuối tiếc khi sinh mạng trời ban không
được vĩnh hằng như vũ trụ tuần hoàn, như đàn thiên di mỗi mùa lại bay. Cảm xúc khởi hứng trong công cuộc sáng
tạo, được suy trì bởi sự nghiền ngẫm cái thoáng chốc trắc ẩn, và sau cùng, hoàn tất bởi tài nắng tổ chức, kết cấu lại tất
cả những hỗn loạn trong tâm tưởng.
3. TP BỨC BÌNH PHONG ĐỊA NGỤC:
Cái đẹp của Akutagawa Ryunosuke là cái đẹp siêu vượt thiện ác, vì cái đẹp mà có thể hy sinh cái thiện. Trong tác
phẩm tiêu biểu “bức bình phong địa ngục” (jogokuhen), Akutagawa đã để cho tay họa sự Yoshihide lập dị hoàn thành
được bức bình phong vẻ cảnh địa ngục trong khi người con gái yêu đang bị chết cháy. Yoshihide là kẻ chịu bi kịch
của chính số kiếp y. Chỉ đến phút cuối cùng, Yoshihide mới biết người mà đức ông Hori- kawa thiêu sống cho y vẽ
chính là đứa con gái mà y yêu “với một tình thương hầu như rồ dại”. Nhưng không phải vì vậy mà tội ác nằm hoàn
toàn ở sự ti tiện của đức ông, chính Yoshihide cũng đã góp một tay trói chính đứa con mình vào chiếc xe khi y yêu
cầu cần một người thí mạng, chính y cũng đã góp phần châm lửa đốt cháy chiếc xe bằng việc chỉ đứng nhìn nó bốc
cháy.
Agutagawa đã cho Yoshihide tự sát, nhưng trước đó y đã hoàn thành Địa ngục biến tướng đồ, bức họa mà, từ đầu
tác phẩm đã được nhắc đến như của gia bảo của gia đình đức ông Horikawa. Tuyệt tác của Yoshihide vẫn còn, và sẽ
còn được lưu giữ qua thời gian. Còn Yoshihide, trước y bị người đời ghét bỏ, thì sau khi hoàn thành bức họa tuyệt tác
thì hai chữ “thần diệu” đã xóa sạch mọi tội danh của y, khiến cho dù người vốn ghét bỏ y cũng phải “xúc động đến
lặng người.” Địa ngục thiêu đốt trước mắt và ngay từ trong tâm can, sự méo mó của nhân tính và cái chết của linh
hồn đã dồn ra đầu ngòi bút, khổ ải của hỏa ngục đã luyện nên một kiệt tác. Sự thay đổi thái độ của con người đối với
Yoshihide và nghệ thuật của y phải chăng là một sự nghiệt ngã ngấm ngầm trong cách nhìn của Akutagawa đối với
tài năng? Ngay khi chiếc xe bị thiêu rụi, tác giả đã miêu tả xung quanh người họa sĩ như “mới vừa được Đức Phật
khai nhãn mở mắt cho”, với một vầng hào quang chói lọi khiến người khác nín thở, kẻ mưu ác như đức ông
Horikagawa phải tái mặt, mép sùi bọt, hai tay ghịt lấy ống quần, kéo từng hơi thở khò khè… Đó là giây phút chiến
thắng ư, hay cái thiện bị triệt tiêu hoàn toàn trong con người Yoshihide đến mức chính kẻ độc ác và man trá như
Horikagawa cũng phải khiếp sợ? Giết chết con gái mình, thiêu cháy cả lương tâm mình, trái khoáy của số phận chỉ
đến thế mà thôi. Cái đẹp ở đây đã ra khỏi nhân tính con người. Và đó là một điều chúng ta cần suy xét thật cẩn thận
để có thể tái lập được sự cân bằng giữa Chân, Thiện, Mỹ. Trên đỉnh cao bát ngát của cái đẹp, liệu cái chân, cái thiện
và cả cuộc đời này nữa có ý nghĩa gì không?
Cái đẹp đạt được quá mạnh mẽ, cảm hóa và làm mọi định kiến phải sụp đổ, khiến người ta phải tôn sùng, phải
cảm khái, nhưng cái đẹp ấy sinh ra nhờ cái chết của lẽ thiện thì xứng đáng hay không? Kết quả bức họa còn mãi,
nhưng nắm xương tàn của Yoshihide thì “nay vẫn nằm đâu đó dưới nền nhà cũ nhưng ngay cái mốc con bằng đá ghi
dấu lại thì vài chục năm sau đó, với mưa to gió lớn đã đổ nát, rêu phong, khiến không còn ai biết ngôi mộ kia là của
ai và xưa kia đã làm gì.” Chính tạo hóa đã xóa xổ y, dù ông trời đã để Địa ngục biến tướng đồ tồn tại.
Cho dù là ai còn ai mất, cho dù cái đẹp chỉ đến trong thoáng chốc rồi tàn rụi hay đạt đến vĩnh cửu trường tồn, thì
cái giá phải trả không bao giờ là rẻ. Liệu “nghệ thuật của cái Ác” có là nghệ thuật không? Ý chí đeo đuổi theo “Cái
đẹp của sự Ác” đến độ sẵn sàng làm ác, thì cái đẹp ấy có còn nguyên giá trị không? Câu trả lời nằm trong tim mỗi
người khi đọc Bức bình phong địa ngục.