Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 54

Chiếc thuyền ngoài xa

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM


1. Tác giả Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Bén duyên với nghiệp cầm bút từ năm 1960, tác giả đã đóng góp một lượng truyện ngắn không hề nhỏ cho văn đàn dân
tộc, tác phẩm của ông có nhiều giá trị nghiên cứu và làm cho kho tàng văn học nước nhà trở nên phong phú vô cùng.
Thật hiếm thấy một nhà văn nào như Nguyễn Minh Châu, ông cả đời chỉ viết về nhân vật trong thời kỳ chiến tranh và
đi tìm những vẻ đẹp cất giấu bên trong nội tâm của con người. Ngòi bút và cái nhìn của tác giả có nhiều mới mẻ, để lại một
ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc.
Với hai chặng đường sáng tác ở hai giai đoạn văn học trước và sau 1975, Nguyễn Minh Châu có những đóng góp to
lớn cho nền văn học hiện đại. Các tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975 khá tiêu biểu cho thành tựu,
đặc điểm và giới hạn của nền văn học sử thi thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt, sau 1975 Nguyễn Minh Châu là một
trong những “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” (Nguyên Ngọc) của công cuộc đổi mới văn học.
Là nhà văn trưởng thành từ quân đội sau những năm 1975, Nguyễn Minh Châu dần khẳng định được vị thế của mình
trên bầu trời văn chương bằng ngòi bút bóc tách những khía cạnh của cuộc sống. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, tiếng
súng chiến tranh ngừng nổ trên bầu trời Việt Nam, đất nước ta đã hoàn toàn được thống nhất, thời thế đã thay đổi tất yếu tư
tưởng của các nghệ sĩ cũng phải đổi thay. Nguyễn Minh Châu là người đã đi đầu trong công cuộc lột xác văn chương, khép
lại cảm hứng lãng mạn – sử thi và mở ra cảm hứng thế sự. Đặc điểm của tác phẩm mang cảm hứng thế sự là hướng về sinh
hoạt hàng ngày của con người khẳng định giá trị thẩm Mỹ của cái đời thường đi sâu khám phá hành trình của con người giữa
một thực tại ngổn ngang nhằm tìm kiếm hạnh phúc và khẳng định nhân cách…

1/54
Ở Nguyễn Minh Châu, sự đổi mới mạnh mẽ trong ý thức nghệ thuật luôn đi liền với những tìm tòi đổi mới trong sáng
tác của nhà văn. Người đi tiên phong ấy không tránh khỏi những khó khăn nguy hiểm, thiệt thòi và sự đơn độc trong những
bước khởi đầu của hành trình tìm kiếm mở đường. Điều quan trọng là Nguyễn Minh Châu “với sự dũng cảm rất điềm đạm”
(Vương Trí Nhàn) đã kiên trì dẫn bước trên con đường đã chọn của mình. Và ông xứng đáng là “người kế tục xuất sắc những
bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ sau này”. (Nguyễn Khải).
Những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong vai trò người mở đường cho công cuộc đổi mới văn học được thể hiện
chủ yếu ở các phương diện sau:
• Đổi mới ý thức nghệ thuật
• Mở rộng quan niệm về hiện thực và mối quan hệ giữa văn học với đời sống
• Ý thức cao độ về bản lĩnh và trách nhiệm của nhà văn, về tự do sáng tạo của người nghệ sĩ.
• Đổi mới cách nhìn và sự khám phá, thể hiện về con người.
• Những tìm tòi đổi mới trong nghệ thuật tự sự.
Là một nhà văn luôn đau đáu về số phận con người sứ mệnh của người nghệ sĩ, ông tâm sự rằng: “Tôi không thể nào
tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người.
Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài
thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu lớn ấy trong mình, nhà văn
mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ vượt qua những khủng hoảng
tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống.”
Nguyễn Minh Châu còn đòi hỏi rất cao về trách nhiệm của những người cầm bút: “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ
trước hết là vì thế: Để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận
đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn
mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời, để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” Đích đến cuối cùng
của tác giả và tác phẩm luôn là con người, đặc biệt là những mảnh đời cơ cực đau khổ. “Văn học và cuộc sống là những vòng
tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.”

2/54
Với một trái tim chỉ biết trăn trở cho những kiếp người cùng khổ và đau đáu về sứ mệnh nhà văn, Nguyễn Minh Châu
đã trung thành theo đuổi một đời văn sống và viết vì con người. Sau những năm tháng tháng trầm và nhiều biến động lịch sử,
văn chương của ông vẫn mang một sức sống bền bì và những giá trị không thể nào thay thế.
Nhà văn Nguyễn Khải đã từng nói: “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt
Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu
luôn mang đậm tính triết lí khiến mỗi chúng ta không khỏi suy ngẫm về cuộc sống. Những tác phẩm tiêu biểu của ông phải
kể đến “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983), “Bến Quê” (1985), ... Và đặc sắc hơn cả có lẽ vẫn là tác phẩm “Chiếc
Thuyền Ngoài Xa” (1987), Những tác phẩm như thế này của Nguyễn Minh đã đưa ông lên vị trí “Người mở đường tinh anh
và tài năng” (Nguyên Ngọc) và chúng sẽ mãi là những bản tuyên ngôn trong thời kí đổi mới.

2. Tác phẩm
a. Vị trí
Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Đây là tác phẩm
tiêu biểu cho đề tài đời tư – thế sự của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 1 tháng 10 năm
2007) cũng chọn và coi đây là tác phẩm hay nhất của nhà văn.

b. Hoàn cảnh sáng tác


Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được sáng tác vào tháng 8/1983, lúc đầu được in trong tập Bến quê, sau
đó có vinh dự được nhà văn dùng để đặt tên cho cả tập truyện ngắn, xuất bản năm 1987.
Năm 1983, đó là một thời điểm khá đặc biệt khi cuộc chiến tranh chống Mĩ và tay sai đã kết thúc thắng lợi, chúng ta
trở về muôn mặt của đời thường. Và cũng trong thời điểm này, cả dân tộc đang bước vào giai đoạn đổi mới, cho nên cuộc
sống có nhiều điều bất ngờ thú vị, có sức hút đối với văn nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Minh Châu.

3/54
Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn
Minh Châu. Trong giai đoạn này, qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã bộc lộ sự chuyển biến quan trọng trong
sáng tác: từ phong cách mang đậm tính chiến đấu, chuyển sang cảm hứng thế sự, cảm hứng nhân sinh, ngòi bút của nhà văn
hướng vào thể hiện con người trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và bình yên. Truyện ngắn thực sự là một tác
phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc, đồng thời giúp nhà văn gửi gắm được những thông điệp nghệ thuật quan trọng.
c. Nhan đề
Chiếc thuyền ngoài xa là một nhan đề mang tính biểu tượng, hé mở tình huống truyện, thể hiện chủ đề của tác phẩm.
Nhan đề bao gồm đối tượng quan sát là “Chiếc thuyền", cự li quan sát là “ngoài xa”, người quan sát là nghệ sỹ nhiếp ảnh
Phùng. Cùng một người quan sát, cùng một đối tượng quan sát, nhưng ở các cự li khác nhau sẽ cho những kết quả khác nhau,
dẫn đến nhận thức khác nhau.
Với nghĩa tả thực, Chiếc thuyền là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên đẹp và cuộc sống sinh hoạt của người dân làng
chài “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương
mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng
phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ.”
Thế nhưng, chiếc thuyền ngoài xa cũng là một hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ
thuật. Đó là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là không gian sinh sống của gia đình người hàng chài. Cuộc sống gia đình:
đông con, khó kiếm ăn, cuộc sống túng quẫn là nguyên nhân làm cho người chồng trở nên cục cằn, thô lỗ và biến vợ thành
đối tượng của những trận đòn. Những cảnh tượng đó, những thân phận đó nếu nhìn từ xa, ở ngoài xa thì sẽ không thấy được.
Vì ngoài xa nên con thuyền mới cô đơn. Đó là sự đơn độc của con thuyền nghệ thuật trên đại dương cuộc sống, đơn
độc của con người trong cuộc đời. Chính sự thiếu gần gũi, sẻ chia ấy là nguyên nhân của sự bế tắc và lầm lạc. Phùng đã chụp
được chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm – một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích, một chân lí của sự toàn diện. Nhưng
khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, chứng kiến cảnh đánh đập vợ của người đàn ông kia, anh đã kinh ngạc và vứt chiếc máy
ảnh xuống đất. Anh nhận ra rằng, vẻ đẹp ở ngoài xa kia cũng ẩn chứa nhiều oái oăm, ngang trái và nghịch lí. Nếu không đến

4/54
gần thì chẳng bao giờ anh nhận ra xa và gần, bên ngoài và sâu thẳm… đó cũng là cách nhìn, cách tiếp cận của nghệ thuật chân
chính.
Như thế, sau những nội dung cụ thể của tác phẩm, tác giả Nguyễn Minh Châu đã mang đến cho chúng ta sự đối lập
giữa cuộc đời và nghệ thuật. Nó giúp nghệ sĩ Phùng giác ngộ được nhiều điều như: Phải nhìn nhận cuộc đời với nhiều chiều
khác nhau và phải đem nghệ thuật gắn với cuộc đời hơn. Dường như, đó cũng chính là bài học cuộc sống cho mỗi chúng ta.
d. Chủ đề
Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua tác phẩm Nguyễn Minh Châu đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với
những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người và gửi gắm chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân
chính phải luôn luôn gắn với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách đơn giản, cần phải nhìn
nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.

Phàn II Các dạng đề thi Chiếc thuyền ngoài xa

Dạng 1: Cảm nhận hình tượng nhân vật. Nhân vật trung tâm là người đàn bà làng chài. Ngoài ra đề thi có thể yêu cầu
phân tích, cảm nhận về nhân vật Phùng. Dạng 2: Cảm nhận, phân tích đoạn trích văn xuôi. Tác phẩm này chú ý những
đoạn quan trọng như:
“Có lẽ suốt một đời cầm máy… ngoại cảnh vừa mang lại”
“Người đàn bà bỗng chép miệng… chúng được ăn no” (Đề thi THPT QG 2015) “Những
tấm ảnh tôi mang về đã được chọn lấy một tấm… hoà lẫn trong đám đông”
Dạng 3: Cảm nhận về chi tiết. Các em chú ý chi tiết bức ảnh nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng
trong bộ lịch năm ấy.

5/54
Dạng 4: Nghị luận ý kiến bàn về nhân vật, ý kiến bàn về tác phẩm,…
Dạng 5: Dạng đề so sánh văn học: tác phẩm này có thể so sánh với Vợ nhặt và những tác phẩm
cùng chủ đề.
Dạng 6: Liên hệ thực tế (dạng đề tích hợp nghị luận xã hội). Ví dụ, từ câu chuyện của người
đàn bà làng chài, liên hệ tới cảnh bạo hành gia đình, hoặc liên hệ tới cách nhìn nhận cuộc sống
và con người,…

Mở bài tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA


Lã Nguyên đã nói về yêu cầu của văn chương nghệ thuật và thiên chức của người nghệ sĩ “Nhà văn
chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh
mông”. Nguyễn Minh Châu đã ý thức được sâu sắc thiên chức ấy của người cầm bút trong công
cuộc đổi mới văn học nên trở thành người mở đường tinh anh và tài hoa của văn học Việt Nam sau

6/54
năm 1975. Đứng trước sự thay đổi của thời đại, nhận thức được nhu cầu đổi mới văn học, Nguyễn
Minh Châu đã người tiên phong gieo những hạt giống đầu tiên trên con đường đổi mới. Nếu như
trong giai đoạn trước Nguyễn Minh Châu sáng tác theo cảm hứng sử thi đậm nét, sau năm 1975
ông đã chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức và triết lý nhân sinh. Tác phẩm
của Nguyễn Minh Châu có sức hấp dẫn riêng biệt, nhà văn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ
bằng nét phong cách kết hợp hài hòa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng
nhân vật được soi thấu trong quan hệ đa chiều, phức tạp và đề cao, tôn vinh những giá trị cuộc
sống. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Minh
Châu sau năm 1975. Đây là một tác phẩm hay đậm tính nhân văn, thể hiện một lối tư duy mới mẻ
của nhà văn về cái đẹp, nghệ thuật và số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn kiếm tìm
hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
Kết luận CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Nhà văn Nam Cao đã từng thể hiện một quan điểm nghệ thuật rất hay và sâu sắc rằng: “Chao ôi!
Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, cũng không nên là ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật
chỉ có thể là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. Và nhà văn không được trốn
tránh sự thật mà “phải đứng trong lao khổ mở hồn ra để đón lấy những tiếng vang động của đời”.
Quan điểm ấy của nhà văn Nam Cao đã cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về mối quan hệ giữa
nghệ thuật và cuộc đời, nghệ thuật chân chính phải là “nghệ thuật vị nhân sinh”. Cùng với quan
điểm ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu trong trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã không chỉ
phản ánh những vấn đề của đời sống mà còn gửi gắm quan niệm sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ
thuật và cuộc đời. Trong từng lời văn, trong hình tượng người kể chuyện, thấp thoáng một Nguyễn
Minh
Châu, nghệ sĩ sáng tạo và con người giàu lòng thương yêu con người, yêu quý cuộc sống.

7/54
“Có ai đó đã ví sáng tạo nghệ thuật như việc thả diều. Con diều dù có bay bổng bao nhiêu vẫn phải
gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối
quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Nhìn vào một số tác phẩm văn học lớn, chúng ta thấy
rõ mối quan hệ máu thịt này.” (Muốn viết được bài văn hay – Chủ biên: Nguyễn Đăng Mạnh)

“Thời gian qua kẽ tay


Làm khô những chiếc lá
…Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát còn xanh”
(Thời gian – Văn Cao)

Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Những tác phẩm nghệ thuật đạt đến chuẩn mực của cái hay,
cái đẹp đẽ sẽ “vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian và chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”.
Cũng như dù thời gian có trôi qua nhưng những giá trị của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu vẫn vẹn nguyên và tỏa sáng. Đến với tác phẩm này bên cạnh những nhân vật
Phùng, Đẩu, lão đàn ông…, chúng ta hẳn là không thể quên được nhân vật người đàn bà hàng chài.
Đây chính là hình tượng tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu về
cách nhìn cuộc sống và con người, để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả.

“Văn học là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất
phát, cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu)

8/54
Bộ đề tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Đề thi CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 1
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có
một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc
xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại,
ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên
có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.

Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của
lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng
lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà,
lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại
nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ!”.

Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng
không tìm cách trốn chạy.

Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra
mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.

9/54
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác – thằng bé trên rừng
xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng
làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc
cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi
lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.

Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó
khỏe đến thế!

Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã
giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực

10/54
trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão
đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé
hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát.

(Chiếc thuyền ngoài xa,Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12, NXBGD 2008, tr 72-73)
Phân tích phát hiện của nghệ sĩ Phùng được thể hiện ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét tình
huống nhận thức trong tác phẩm.
I. MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung


– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng…lảo đảo ngã dúi
xuống cát” thuộc phần đầu của truyện đã diễn tả phát hiện của nghệ sĩ Phùng, từ đó góp phần thể
hiện một tình huống truyện có tính nhận thức.
II. THÂN BÀI

11/54
1. Khái quát
– Khái niệm tình huống truyện: Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại,
nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên
đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Bên cạnh đó, từ tình huống truyện,
các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Nói cách khác thì tình
huống truyện như một thứ nước rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật. Việc giải quyết những mâu
thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của
tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc
sống, bản chất con người của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai
trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy
thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền
ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo.
– Tính huống truyện ở đoạn trước:

Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ
sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù.
Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi
anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Với
tâm thế của một người nghệ sĩ chân chính khao khát cái đẹp, Phùng đã mai phục ở bãi biển này suốt
gần một tuần mà chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Sau khi suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định
sẽ thu vào tờ lịch tháng bảy của bộ lịch năm sau cảnh thuyền thu lưới vào lúc bình minh.Và buổi
sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm

12/54
máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời
cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái
tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã
“khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là
niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật.
Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình.
2. Phát hiện của Phùng trong đoạn trích: Bức tranh hiện thực đời sống nghiệt ngã
Trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục thể hiện những khám phá, phát hiện về
nghệ thuật và đời sống, khiến tình huống truyện được phát triển. Éo le thay khi con thuyền ngư phủ
đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước
xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà
xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà
người đọc cũng sửng sốt và đau đớn.

Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe rà phá mìn của Mĩ trên bãi cát, và gã đàn ông đánh vợ
bằng chiếc thắt lưng da của lính Ngụy. Phải chăng cái ác mà Mĩ Ngụy gieo xuống đất nước ta còn
không khủng khiếp bằng cuộc chiến giữa cái thiện với cái ác trong cuộc sống hòa bình. Hay đó là
hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn hiện hữu ngay cả khi hòa bình lập lại. Tưởng rằng cuộc chiến đấu
giành độc lập tự do ta đã giải quyết được trọn vẹn, mang lại niềm vui cho mọi người. Nhưng sau
khi miền Nam hoàn toàn giải phóng còn biết bao vấn đề đặt ra: Đói kém, bệnh tật, bạo lực gia đình
… Dấu tích của chiến tranh để lại không chỉ là mấy cái xe hỏng mà hơn nữa là cuộc sống đói
nghèo, lạc hậu của những người như hai con người bất hạnh kia. Người đàn bà từ dáng vẻ đến hành

13/54
động đều thể hiện sự bất lực, buông xuôi và cam chịu thể hiện qua cánh tay buông thõng, đôi mắt
nhìn xuống dưới chân khi “đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại
buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.
Tiếp đó, Phùng lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng đau lòng. Lão đàn ông hàng chài ra
sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Với môt vẻ “hùng hổ, mặt đỏ gay”, lão đàn ông
dùng chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa để đánh vợ “chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như
lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong cơn giận dữ
như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp
vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất
xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng
mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông,
người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn.
Phùng chưa hiểu nổi những gì đang xảy ra trước mắt, sau vài phút đứng há mồm ra mà nhìn, anh
chỉ kịp vứt máy ảnh định chạy đến can thiệp, Nhưng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà
thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác, là con trai của lão đàn ông và
người đàn bà chạy tới như một mũi tên và giật chiếc thắt lưng từ tay cha nó, vung chiếc khóa sắt
quật vào giữa khuôn ngực trần của cha để che chở cho người mẹ đáng thương. Lão đàn ông từ chỗ
đánh vợ thì giờ chuyển sang đánh con “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng
được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống
cát”.

14/54
Có thể nhận thấy trong đoạn văn là một tấn bi kịch gia đình đầy đau đớn. Trong gia đình ấy có một
người chồng độc ác, đánh vợ một cách tàn độc, nguyền rủa vợ con bằng những lời lẽ nặng nề,
nghiệt ngã nhất; có một người vợ chỉ biết cam chịu trước những trận đòn vô cớ của người chồng; có
một đứa con vì thương mẹ nên căm ghét và đánh lại cả bố. Nghệ sĩ Phùng là người chứng kiến câu
chuyện gia đình ấy và từ đây trong anh có thêm những phát hiện, nhận thức về hiện thực đời sống.
Chỉ có điều, phát hiện lần này của anh đầy bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống mà
trong đó, cuộc đời thực hiện lên thật trần trụi, đau đớn biết bao. Hóa ra, cuộc sống không chỉ tồn tại
cái đẹp mà còn có bao nhiêu điều nghịch lí, đau lòng. Nếu như trước đó, cảnh tượng hiện ra trước
mắt anh là bức tranh nghệ thuật đầy lãng mạn, đẹp tuyệt đỉnh thì màn bạo lực gia đình liên
hoàn mà anh vừa chứng kiến chính là bức tranh hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã. Tất cả những
sự việc ấy diễn ra khiến cảm giác, cảm xúc trong Phùng hoàn toàn thay đổi. Không còn thấy hạnh
phúc tràn ngập tâm hồn nữa mà thay vào đó là ngạc nhiên, đau đớn. Đằng sau bức tranh nghệ thuật
đẹp, lãng mạn mà anh tưởng là toàn thiện, toàn mĩ kia hóa ra lại ẩn chứa một hiện thực đời sống
đầy nghiệt ngã, đáng sợ. Và đó là chính là tính hai mặt của hiện thực đời sống.
3. Ý nghĩa của phát hiện (Nhận xét về tình huống nhận thức trong tác phẩm)
Những khám phá, phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong đoạn trích và tác phẩm đã bộc lộ một tình
huống truyện vô cũng độc đáo, có tính nhận thức về đời sống và nghệ thuật. Thông điệp nhận thức
được thể hiện sâu sắc khi giúp người đọc nhận ra:

Cuộc sống hóa ra vốn chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và trái, xa và gần… nhiều
khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng chứa đầy những mâu thuẫn, đối lập.

15/54
Bởi vậy con người không được nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đơn giản, một chiều mà cần có cái nhìn
đa diện, nhiều chiều để khám phá ra bản chất thật của đời sống.
Những khám phá, phát hiện ấy còn giúp ta nhận thức được mối quan hệ giữa hiện thực đời sống và
nghệ thuật. Con thuyền nghệ thuật thì lãng mạn, lung linh huyền ảo nhưng ở rất xa, còn cuộc đời
đôi khi rất nghiệt ngã lại ở rất gần. Người nghệ sĩ chân chính không chỉ phải có cái nhìn đa diện
nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật của đời sống mà còn phải đừng vì nghệ thuật mà quên
cuộc đời. Bởi nghệ thuật chân chính là cuộc đời và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ biết rung động trước
cái đẹp trước hết phải là người biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời.
Vậy là Phùng đã nhận ra một điều mà có lẽ từ đó sẽ thay đổi cái nhìn của anh về lao động nghệ
thuật và khẳng định quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc
sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống. Nghệ thuật đích thực không thể xa rời cuộc đời, dù cuộc
đời đó có đau đớn, trần trụi bao nhiêu. Vì nghệ thuật sẽ không là gì nếu nó không phục vụ cho
cuộc sống và làm cho nó tốt hơn lên. Nghệ thuật chỉ có thể sống được và xanh tươi khi nó thực
sự bám rễ vào cuộc đời. Nói như Biêlinxki thì văn học“trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ
thuật”. Chi tiết Phùng vứt bỏ chiếc máy ảnh mà lao vào giúp đỡ người đàn bà đã khẳng định rõ
thêm điều này.

3. Đánh giá
Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo nên một tình huống truyện khá
độc đáo. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc kết hợp với cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật
khắc họa nhân vật sắc sảo, … Điểm nhìn linh hoạt bởi truyện được kể ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”,
và người kể chuyện chứng kiến lại toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối, ít có sự tham gia của các

16/54
nhân vật khác. Người kể chuyện mang đặc điểm của người nghệ sĩ đang đi tìm cái đẹp theo một
chủ đề: sự hài hòa trong yên tĩnh của con người và thiên nhiên khiến người đọc nhận ra nhiều điều
về cuộc sống và mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật. Bức tranh người nghệ sĩ chụp được
tưởng là bức tranh tĩnh vật thì nó lại rất động với trạng thái phức tạp, nhức nhối của nó. Tình huống
truyện giúp ta hiểu rõ hơn về các nhân vật, làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và chứa đựng giá trị
hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:
+ Giá trị hiện thực: Sau khi đất nước hòa bình thống nhất, cuộc sống đã tốt đẹp hơn rất nhiều
nhưng đâu đó vẫn còn những khoảng tối hoặc tranh sáng tranh tối. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu
tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả
dân tộc trải qua bao hy sinh gian khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người
còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của các cấp chính quyền và cộng đồng.

+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của
những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn
tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động và
hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 2


Phân tích số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài được nhà văn
Nguyễn Minh Châu thể hiện trong đoạn trích sau:
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:

17/54
– Con lạy quý toà…– Sao, sao?

– Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…

Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng
ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió
biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt, và
về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng toà án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm
nhân chứng.
– Chị cứ ngồi nguyên đấy! – Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lívừa có
thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con
mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn
mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.

– Tuỳ bà! – Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vịchánh án
– chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hoà thuận…
Đang ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng
người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.

18/54
– Chị cám ơn các chú! – Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết – Đây làchị nói
thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…
cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Ngữ văn 12, Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 74)
I. MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung


– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà…khó nhọc” đã giúp người đọc hiểu thêm
về nhân vật người đàn bà, từ đó thấy được vẻ đẹp khuất lấp của nhân vậy và góp phần thể hiện giá
trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
II. THÂN BÀI

1. Khái quát
– Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu
trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả
vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài
xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các
nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất.

19/54
Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về
thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung
một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng
quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn
chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất
ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp
được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực
đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối
rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân
lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc
của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy
liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con
thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến
vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là
một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không
chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ
khốn khổ một cách tàn bạo. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng
hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà
lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành
cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước
trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không
chống trả cũng không chạy trốn. Phùng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng
kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác là con trai của lão đàn ông và người đàn bà vì

20/54
thương mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai cái khiến
nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ người đàn bà nên chánh án Đẩu đã gọi chị đến tòa
án và trong hoàn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân vật người đàn bà được bộc lộ rõ nét.

2. Số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích
2.1. Số phận:
Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc vẫn không biết tên của người đàn bà là gì,
tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi
chị….như một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh, là hình
ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên
những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng
cá biệt và cũng không phải quá phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.

Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút
cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi
của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Số phận, cuộc đời
của chị được tác giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn khi chị đến
toà án huyện.
Vì lạc hậu, ít học, nghèo khổ và hơn nữa có thể do bị bạo hành thường xuyên nên người đàn bà xuất
hiện ở tòa án trong dáng vẻ và hành động đầy tự ti, rụt rè đến tội nghiệp. Chị xưng là con, gọi
chánh án Đẩu là quý tòa, thậm chí còn có hành động chắp tay lại vái lia lịa. Khi nhận ra Phùng là

21/54
người đã chứng kiến câu chuyện, chị nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt. Có lẽ,
chị nghĩ rằng tòa sắp xếp Phùng đến đây làm nhân chứng.
2.2. Vẻ đẹp khuất lấp

Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua
những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có
phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp
tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã
khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ nhận
thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca.
Người đàn bà hàng chài có vẻ ngoài xấu xí, ít học, lam lũ và cuộc đời đầy bất hạnh ấy hóa ra bên
trong lại ẩn chứa nhiều phẩm chất tốt đẹp. Điều đó thể hiện rõ qua cách ứng xử của chị trước bi
kịch gia đình. Khi biết hoàn cảnh gia đình của người đàn bà, cách giải quyết của chánh án Đẩu là
cho gọi người đàn bà tới và khẳng định: “Chị không sống nổi với lão vũ phu ấy đâu”. Phùng và
Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn ác và chắc chắn sẽ chấp nhận
sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi người đàn bà đã kiên quyết từ chối. Người
đàn bà thậm chí còn van lạy để đừng bắt chị bỏ chồng “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con
cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Câu trả lời cũng như phản ứng cuả người đàn bà làm cho căn
phòng “lồng lộng gió biển tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt”. Hóa ra, cách giải quyết
của Phùng và Đẩu tuy đứng về phía người đàn bà nhưng rất thiếu thực tế. Họ chỉ nghĩ giúp đỡ
người đàn bà mà chưa nghĩ đến việc những đứa trẻ rồi sẽ ra sao? Những người làm ăn lam lũ khó
nhọc ra khơi lao động cần phải có bàn tay của người đàn ông. Người đàn ông là trụ cột trong nhà.

22/54
Người đàn bà ấy và cả chục đứa trẻ vô tội ngây thơ kia sẽ sống ra sao khi trên thuyền không còn
bàn tay lao động chủ đạo của người đàn ông?…
– Vậy vì sao người đàn bà không chịu bỏ chồng. Đó là vì:

+ Thương con: Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì chị thương con. Chị
nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị có trong cuộc đời của mình. Vì
thương con nên chị cần có người đàn ông để chèo chống lúc sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy
đàn con trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà hàng chài không sống như trên đất được mà
phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để nuôi con khôn lớn. Lòng thương con của chị khiến chị
chấp nhận hi sinh bản thân, cam chịu những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn
chạy. Thậm chí, chị coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là
chuyện đương nhiên. Trong khổ đau, bất hạnh chị vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc hiếm
hoi và niềm hạnh phúc nhất của chị là khi được nhìn đàn con ăn no. Tình mẫu tử của chị như một
bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút
lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ
như chị nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng thật dễ
hiểu.
+ Thấu hiểu chồng và có tấm lòng bao dung, vị tha, nhân hậu: Bị chồng đánh tàn độc với ba
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng nhưng người đàn bà không hề oán trách chồng. Chị
hiểu nguyên nhân sâu xa lão đàn ông trở nên vũ phu là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình
hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến người chồng hiền
lành của chị trở thành ác độc. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng

23/54
trước những đứa con và khi nói chuyện với Phùng và Đẩu “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có
phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ,
khó nhọc…”. Thấu hiểu chồng phải làm ăn lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết
trách nhiệm, lỗi lầm về mình, sẵn sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.
– Từng trải, sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời và rất tinh tế: Bên trong vẻ ít học, lạc hậu của chị là sự sắc
sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời và rất tinh tế. Trong đoạn trích, người phụ nữ đáng thương đã khiến
cho Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chị không những không bỏ chồng
mà còn nói: “Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu
có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam
lũ, khó nhọc…”. Trong lời nói này ta thấy người đàn bà bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo
không ngờ. Chị nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của mình, chủ động thay đổi cách xưng hô từ
“con”- quý tòa” sang “chị – các chú”. Dưới góc nhìn ngôn ngữ có thể thấy người phụ nữ khốn khổ
ấy đã khéo léo chuyển từ mối quan hệ thứ bậc (con – quý tòa) trong đó người đàn bà ở vai dưới
sang quan hệ thân sơ (chị – chú), người đàn bà trở thành vai trên. Chị khen người ta trước “lòng
các chú tốt” rồi mới phê bình người ta “các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn
lam lũ, khó nhọc…” là cách hữu hiệu để buộc Phùng và Đẩu phải tiếp nhận câu chuyện ở một vị
thế khác, chỉ cho họ thấy được những khuyết điểm của mình là sự thiếu từng trải, va vấp. chỉ biết
nhìn cuộc đời qua một mớ lí thuyết, sách vở. Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao
điều về cuộc sống.

24/54
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Bức chân dung của người đàn bà hàng chài trong đoạn trích được tác giả xây dựng bằng nghệ thuật
đậm nét sự sáng tạo. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối
quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư
tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát
hiện đời sống. Ngôn ngữ người kể chuyện thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả.
Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng
khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật
phù hợp với đặc điểm tính cách.
Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.

3.2. Ý nghĩa của đoạn văn và vài trò của nhân vật người đàn bà
Thông qua vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà, đoạn văn cũng như tác phẩm tác phẩm đã
bộc lộ giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Đó là ca ngợi vẻ đẹp của con người giữa cuộc đời đầy
sóng gió. Người đàn bà tiêu biểu cho biết bao nhiêu phụ nữ sống nghèo khổ, bất hạnh và tiêu biểu
cho những người phụ nữ Việt Nam có nhiều phẩm chất cao quý như tảo tần, lam lũ, chịu thương
chịu khó, thương chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha cao thượng. Với nhân vật người
đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm
hồn con người Việt Nam. Từ đó khiến chúng ta rút ra rằng không thể nhìn đời, nhìn người bằng

25/54
một cái nhìn đơn giản, một chiều mà phải nhìn đời, nhìn người bằng cái nhìn đa diện nhiều chiều để
khám phá được cái đẹp về bản chất nhiều khi ẩn rất sâu trong bề ngoài thô nhám.

Đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 3


Đọc đoạn trích sau:

“Người đàn bà bổng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
– Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng vềđã đỡ
đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang tháng, cả nhà vợ chồng
con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
– Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không ? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.

– Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗichính là
đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
– Vậy sao không lên bờ mà ở – Đẩu hỏi.
– Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó ? Từ ngày cáchmạng về,
cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được !

– Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không ? – Tôi hỏi.

26/54
– Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác
uốngrượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được
với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…
– Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.

– Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vảcủa
người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
– Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trênthuyền
phải có một người đàn ông…dù hắng man rợ, tàn bạo ?
– Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động song gió chứ chú ?

Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:


– Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hang chài ở thuyền chúng tôi cầnphải có
người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào
cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rôi nuôi con cho đến khi
khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không
thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú
đừng bắt tôi bỏ nó ! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sang lên như một nụ
cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ.
– Cả đời chị có một lúc nào thật vui không ?– Đột nhiên tôi hỏi?

27/54
– Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”
(Trích“Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu – Sách Ngữ văn
12, tập hai , NXB giáo dục Việt Nam, trang 75-76).

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên.Từ đó nhận xét về vẻ đẹp
của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.
I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà chép miệng…ăn no” đã giúp người đọc
hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó cảm nhận sâu sắc hơn được vẻ đẹp của hình tượng người
phụ nữ trong văn học.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát

– Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu
trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả
vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài

28/54
xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các
nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ
sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù.
Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi
anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau
gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh
mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực
tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh
tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến
tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai
trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật
vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức
tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những
con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác
và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn.
Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Trong cơn giận dữ như
lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào
người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống
là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết
hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà

29/54
chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Phùng cũng chưa kịp
làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác
là con trai của lão đàn ông và người đàn bà vì thương mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để
rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ
người đàn bà nên chánh án Đẩu đã gọi chị đến tòa án và trong hoàn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân vật
người đàn bà được bộc lộ rõ nét.
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích

2.1. Số phận bất hạnh:


– Không có tên tuổi, xấu xí: Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc vẫn không biết
tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng
chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị….như một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số phận của
chị. Chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ
nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người
đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng không phải quá phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp
đâu đó trong cuộc đời.
Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút
cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi
của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Từ nhỏ chị đã là
một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa. Vì xấu nên không ai lấy, chị có mang với
người con trai nhà hàng chài hay đến mua bả về đan lưới rồi thành vợ chồng, được anh ta mang
theo xuống sống dưới thuyền. Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm

30/54
êm nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh, đau khổ càng làm cho
diện mạo chị trở nên xấu xí và thô kệch, thể hiện rõ qua hình ảnh lưng áo bạc phếch, gương mặt tái
ngắt như buồn ngủ vì thức trắng đêm kéo lưới, nửa thân dưới ướt sũng…Số phận, cuộc đời của chị
được tác giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn trong câu chuyện của
chị với Phùng và Đẩu ở toà án huyện.

– Nghèo khổ: Nghèo khổ, làm ăn khó nhọc lại còn đông con, cả gia đình hàng chài trên dưới mười
người phải sống chung trên con thuyền chật chội. Theo lời chị “từ ngày cách mạng về đã đỡ đói
khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái
toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…”
– Bị bạo hành: Không chỉ bị cái xấu, cái nghèo đói, lam lũ đeo đuổi mà người đàn bà còn thường
xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ. Như chánh án Đẩu nhận xét trước đó thì “Ba ngày một trận nhẹ,
năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn”. Còn theo lời người
đàn bà thì Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống
rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Nếu như ở các đoạn văn trước, người đọc chỉ
thấy người đàn bà bị chồng đánh tàn độc thì qua lời người đàn bà trong đoạn trích đã biết thêm việc
chị bị chồng đánh là hoàn toàn vô lí. Chị không có lỗi lầm gì nhưng lão đàn ông vẫn có thể đánh chị
bất cứ lúc nào. Có lẽ, người đàn bà bị đánh nhiều đến mức khiến chị nghĩ việc chị bị chồng đánh là
lẽ đương nhiên như những đàn ông hàng chài khác uống rượu, bị chồng đánh như một phần quen
thuộc của cuộc đời.
– Nỗi đau về tinh thần: Ngoài nỗi khổ vì vật chất, sự đau đớn về thể xác, người đàn bà còn phải
chịu nỗi đau về tinh thần. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ

31/54
đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó “Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa
tôi lên bờ mà đánh…”. Việc những đứa con phải chứng kiến cảnh mẹ bị đánh khiến người đàn bà
cảm thấy xấu hổ, nhục nhã và đau đớn. Hơn nữa, chị lo lắng liệu khi những đứa con nhìn thấy cảnh
bạo lực ấy tâm hồn non nớt của chúng sẽ ra sao? Chúng sẽ nghĩ gì về bố và mẹ? Sau này lớn lên
liệu chúng có giống bố không? Chị đã cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng
có niềm vui sống, tâm hồn chúng không vẩn đục nhưng chị hoàn toàn bất lực.

=> Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ, không có sự
che chở yêu thương. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận đầy bi kịch ấy
của chị được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
2.2. Vẻ đẹp của người đàn bà trong đoạn trích
Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua
những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có
phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp
tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã
khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ nhận
thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca.

* Thấu hiểu chồng, vị tha cao thượng


Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà hiểu rõ nguyên
nhân mình bị chồng đánh. Chị hiểu, lão đàn ông đánh mình không phải vì bản chất tàn ác, vũ phu

32/54
mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai
của người đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông
đánh vợ như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng
nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng trước những đứa con, trước Phùng và Đẩu. Khi Phùng hỏi
“Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như muốn quy kết cho lão đàn ông bản chất
xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn
lính”. Thấu hiểu chồng phải làm ăn lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách
nhiệm, lỗi lầm về mình cho rằng mình chính là nguyên nhân đẩy người chồng tới đau khổ “Giá tôi
đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” và ”nhưng cái lỗi chính là đám đàn
bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Thậm chí, chị sẵn sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để
không phải bỏ chồng.
* Thương con:

Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn ác và chắc chắn sẽ
chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi người đàn bà đã kiên quyết từ
chối. Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì chị thương con. Chị nhận thấy
rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị có trong cuộc đời của mình. Vì thương
con nên chị cần có người đàn ông để chèo chống lúc sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con
trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà hàng chài không sống như trên đất được mà phải sống
vì con, phải gánh lấy cái khổ để nuôi con khôn lớn “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con
chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận
hi sinh bản thân, cam chịu những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy.

33/54
Thậm chí, chị coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện
đương nhiên. Cũng vì thương con, sợ con bị tổn thương nên chị mới xin chồng lên bờ đánh. Tình
mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được bộc lộ một cách cảm
động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của
chị. Vì có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì
thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
* Sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời
Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên
mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất
thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu
xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng
của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột
của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ khi bà nói
về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải với con mắt như đang nhìn suốt cả
đời mình. Chị hiểu thiện chí của Phùng và Đẩu khi khuyên mình bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo.
Song chị càng hiểu hơn về thực tiễn đời sống trên sông nước. Chị chắt lọc từ cuộc đời nhọc nhằn,
lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị muối mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở
thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần
có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Chị cũng hiểu và tự
hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho
đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Người đàn bà quê mùa, thất học còn chỉ cho
Phùng và Đẩu bất cập trong chính sách, chủ trương của của chính quyền là Làm nhà trên đất ở một

34/54
chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng
ai ở, vì không bỏ nghề được! Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều.

* Nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường.


Trong khổ đau, bất hạnh người đàn bà vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc nhỏ bé, hiếm hoi.
Hạnh phúc của chị là những lúc trên thuyền vợ chồng con cái vui vẻ, hòa thuận với nhau. Đó chính
là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà khiến “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt
ửng sáng lên một nụ cười”. Nụ cười hạnh phúc hiếm hoi của chị được góp nhặt và chắt chiu trong
cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi, phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn, từ những nỗi
đau cả thể xác lẫn tinh thần. Để từ đó, ta nhận ra dường niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất đối với
người người đàn bà chính là sự tận tụy hi sinh cho chồng con Khi Phùng hỏi chị “Cả đời chị có một
lúc nào thật vui không?” thì câu trả lời của người đàn bà là “Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn
đàn con tôi chúng nó được ăn no…”. Điều đó, cho thấy niềm vui lớn nhất, hạnh phúc nhất của chị
là khi được nhìn đàn con ăn no. Người đàn bà thật sự đã làm người đọc xúc động vì tình mẫu tử
thiêng liêng. Vì các con, chị quên hết nhọc nhằn, cực khổ, chị coi những bất hạnh, khó khăn, ngọc
nhằn mà chị phải gánh chịu như những hạt cát để gió thổi bay còn những hạnh phúc mà chị nhận
được dù quá nhỏ nhoi nhưng chị vẫn hết sức nâng niu, trận trọng, giữ gìn.
3. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

35/54
Tạo tình huống truyện độc dáo mang ý nghĩa khám phá. Trong đoạn trích, nhân vật xuất hiện trong
cuộc đối thoại với Phùng và Đẩu. Ngôn ngữ đối thoại sinh động phù hợp với tính cách nhân vật và
đậm tính triết lý. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa. Cách kể chuyện tự nhiên, cảm xúc. Khắc
hoạ nhân vật bằng việc đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp và đầy mâu thuẫn trong cuộc sống
thường nhật. Biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người
đàn bà để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca… Ngoài ra, với bút pháp
hướng nội, cảm hứng thế sự, cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp đã làm cho câu chuyện trở
nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục.
3.2. Nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.

Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Tình yêu thương giành cho những
người phụ nữ càng sâu sắc bao nhiêu thì nỗi đau cho thân phận bất hạnh của họ trong những trang
viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ theo
dòng chảy đến với những Thị Nở, người vợ nhặt…và trở nên đầy ám ảnh trong “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng
nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động nghèo khổ, lam lũ, bất hạnh. Người
phụ nữ ấy tuy số phận đầy bất hạnh nhưng lại có những phẩm chất đáng quí của người phụ nữ Việt
Nam, tâm hồn tỏa sáng những phẩm chất cao đẹp: tảo tần, chịu thương, chịu khó, nhân hậu, bao
dung, giàu đức hy sinh và lòng vị tha, thương chồng thương con và nhất là lòng thương yêu con vô
bờ bến.

36/54
3.3. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn
Nhân vật người đàn bà hàng chài tuy xấu xí, nghèo khổ nhưng mang phẩm chất tốt đẹp của người
phụ nữ. Qua đó, tác giả đã nêu lên cách nhìn nhận, đánh giá con người phải có cái nhìn toàn diện,
nhiều chiều. Không thể nhìn nhận vẻ bề ngoài để suy ra bản chất bên trong của một con người.
Không thể nhìn nhận con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Phải đặt trong hoàn cảnh và các mối
quan hệ mới thấu hiểu được bản chất bên trong của họ. Đúng như nhà văn Nam Cao từng viết:
“Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ
gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi . . . toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta
thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương”.

Mặt khác, nhà văn còn cho ta thấy cuộc vật lộn để mưu sinh của con người đầy khó nhọc. Gánh
nặng của cuộc mưu sinh tác động và thậm chí có thể đe dọa hạnh phúc gia đình và con người cần
phải kiên cường đối diện với khó khăn, thử thách để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Với nhân vật người
đàn bà, nhà văn cũng khẳng định vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc
gia đình. Một trong những phẩm chất làm nên điều kì diệu ấy là lòng bao dung vị tha và đức hi sinh
của họ. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm
hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người Việt Nam.
3.3. Nhận xét về giá trị nhân đạo:
Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc
sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang
trái, nghịch lý của cuộc sống. Giọng kể buồn thương, thể hiện nỗi lo âu, trăn trở trước cuộc mưu

37/54
sinh nhọc nhằn của con người. Nhà văn cảm thông, chia sẻ và ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, phát
hiện và trân trọng vẻ đẹp trong tâm hồn của người đàn bà hàng chài, cảm phục trước sự hi sinh
thầm lặng của chị.

3.4. Nhận xét về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:
Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực cuộc
sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều,
phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người.

Đề thi bài CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 4


Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, qua con mắt của Phùng và lời kể của người đàn bà,
nhà văn Nguyễn Minh Châu đã viết về nhân vật người đàn ông như sau:

(…)Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão
đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ
độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của
người đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có
một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc
xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại,
ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên
có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.

38/54
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của
lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng
lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà,
lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại
nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ.
Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”(…)

(…)- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
– Không chú à, cũng nghèo khổ túng quẫn vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng cái lỗichính là
đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật.
– Vậy sao không lên bờ mà ở – Đẩu hỏi.

– Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cáchmạng về,
cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
– Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi.

– Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uốngrượu…
Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…
đưa tôi lên bờ mà đánh…

(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu,

39/54
Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2017)
Cảm nhận của anh/ chị về hình ảnh người đàn ông trong lời kể trên. Từ đó, nhận xét về
cảm hứng thế sự thể hiện trong tác phẩm.

I. MỞ BÀI
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích kể về người đàn ông đã giúp người đọc hiểu thêm về nhân
vật, từ đó thấy được cảm hứng thế sự được thể hiện rõ qua tác phẩm.

II. THÂN BÀI


1. Khái quát
– Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu
trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả
vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài
xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các
nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát.

Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ
sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù.

40/54
Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi
anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau
gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh
mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực
tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh
tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến
tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai
trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật
vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức
tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những
con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác
và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn.
Người gây ra cảnh bạo lực tàn bạo ấy chính là người đàn ông. Vậy ông ta là người thế nào mà lại
đánh vợ như vậy? Đọc tác phẩm, ta có thể nhận thấy nhân vật người đàn ông xuất hiện qua đôi mắt
quan sát và miêu tả của Phùng và qua lời kể của người đàn bà. Chừng đó thôi cũng đủ để người đọc
hiểu về nhân vật một cách rõ nét.
2. Nhân vật lão đàn ông qua cái nhìn của Phùng
2.1. Ngoại hình

Người đàn ông xuất hiện đầu tiên trước người đọc khi ông ta cùng người đàn bà bước từ dưới
thuyền lên, ông ta quát đứa con đang ở dưới thuyền “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả
mày đi bây giờ”. Đó đâu phải là lời của một con người bình thường với người khác, nhất là với

41/54
những người thân của mình. Đó là lời nói của một người gia trưởng tự cho mình cái quyền được
hành hạ người khác, miệng ra là đòi giết, là muốn người ta chết… Cùng với lời nói cộc cằn, thô lỗ,
thất học thể hiện sự tàn ác, lão đàn ông xuất hiện trong đoạn trích với những nét ngoại hình “Tấm
lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước
chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán
vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”. Những nét
ngoại hình vừa làm toát ra vẻ tàn độc vừa thể hiện vẻ lam lũ, khắc khổ, hé lộ những điều ẩn khuất
trong cuộc đầy những lo toan, vất vả, cực nhọc của lão.
3. Hành động bạo lực (tội nhân)
Đúng như dáng vẻ bề ngoài, hành động của lão cũng rất cục cằn, dữ tợn, tàn ác. Hành động đánh vợ
của gã đàn ông diễn ra một cách thô bạo “lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người
ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói
hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới
tấp vào lưng người đàn bà”. Theo suy nghĩ thông thường, một người đàn ông là trụ cột gia đình
phải yêu thương vợ con, lo lắng và chở che cho gia đình của mình. Nhưng ở đây, người đàn ông
không những không bảo vệ vợ con mà còn hành hạ họ. Lão lấy vợ mình ra để trút bỏ cơn tức giận
như lửa cháy, đối xử thú tính như đối với một kẻ thù của thời trung cổ khiến cho người đàn bà
phảichỉ biết cam chịu, phải nhẫn nhịn, chịu nhục nhã. Bấy thôi cũng quá đủ để nói lên tính cách dữ
tợn, vũ phu và độc đoán, vô lương tâm của người đàn ông.

Đi đôi với hành động trên là những lời chửi mắng độc địa của ông ta về người vợ “lão vừa đánh
vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng

42/54
cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Lão
nguyền rủa vợ con một cách nghiệt ngã bằng lời lẽ của kẻ thất học, vô văn hóa, tàn ác đã đành và
nhưng hơn nữa lời nói ấy còn có nghĩa lão nhìn nhận vợ con là gánh nặng cuộc đời. Vợ là gánh
nặng nên “mày chết đi cho ông nhờ”, con cũng là nợ đời nên “chúng mày chết hết đi cho ông
nhờ”.
Đáng trách hơn là sự tàn độc của người đàn ông không chỉ là sự bộc phát mà nó đã diễn ra rất
thường xuyên “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người
chồng nào như hắn”. Những lời nói và hành động mất hết nhân tính ấy khiến Phùng hay bất cứ ai
chứng kiến đều cảm thấy phẫn nộ, giận dữ, không hiểu vì lí do gì mà người đàn ông ấy có thể ra tay
độc ác đến vậy.
4. Người đàn ông là nạn nhân

Qua sự quan sát và miêu tả của Phùng về người đàn ông thuyền chài, ai cũng đều căm ghét cái
thói vũ phu, đánh đập tàn bạo vợ con của hắn. Nhưng lắng nghe câu chuyện của người đàn bà với
Phùng và Đẩu ở tòa án chúng ta nhận thấy ngay câu chuyện không đơn giản, Người đàn bà đã cho
ta thấy một mặt khác ở người đàn ông, đó là ông ta còn là một kẻ đáng thương.
Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như muốn quy kết cho lão đàn
ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn
đi vì trốn lính”. Qua lời người đàn bà, trước bảy nhăm, người đàn ông này không đi lính ngụy mà
trốn quân dịch. Lúc bấy giờ, anh ta “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, không bao
giờ đánh vợ con, không biết uống rượu, không biết hút thuốc…, đó là mẫu đàn ông lí tưởng. Nhưng

43/54
cũng chính vì trốn lính mà sinh ra nghèo đói, túng quẫn. Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão
lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà hiểu rõ nguyên nhân vì sao lão đàn ông lại đánh vợ. Người
đàn bà hiểu rõ, lão đàn ông đánh mình không phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói.
Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông
đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như một
cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như những người đàn ông hàng chài khác uống rượu. Như
vậy, nếu trong con mắt của Phùng, Đẩu người đàn ông là một kẻ độc ác, không có tính người thì
với người đàn bà hàng chài, ông ta không chỉ là người chồng mà còn là một ân nhân, một nạn nhân.
Ngày còn trẻ, người đàn bà xấu xí lại rỗ mặt do bị bệnh đậu mùa nên khó lấy được chồng. Khi ấy
người đàn ông hàng chài đã chấp nhận cưu mang và ban đầu đã mang đến cho người đàn bà ấy một
cuộc sống gia đình đúng nghĩa. Bạo lực, độc ác của lão đàn ông không phải do tính cách bẩm sinh
mà chủ yếu do cảnh ngộ xô đẩy. Người đàn ông hóa ra cũng là nạn nhân của cuộc sống thời hậu
chiến. Những áp lực vô hình của cuộc sống đã biến ông ta trở thành một kẻ độc ác, ích kỉ, nhẫn tâm
ngay cả với những người thân yêu nhất của mình.
Tính chất lưỡng phân ở nhân vật lão đàn ông, vừa đáng giận vừa đáng thương, vừa là nạn nhân vừa
là tội nhân, còn được thể hiện rõ qua nhiều chi tiết trong đoạn trích: Hành động vừa quất tới tấp cái
thắt lưng lính ngụy vào lưng vợ, vừa thở hồng hộc vừa nghiến răng ken két cho thấy cách “thở
hồng hộc” đúng là vũ phu rồi. Nhưng còn tiếng nghiến răng “ken két” cùng “cái giọng rên rỉ đau
đớn” kia thì phải chăng có cả sự đau đớn, xót xa. Giận đời, giận vợ, giận cả mình nữa. Tất cả biến
thành phẫn nộ vì bế tắc, cùng đường, thể hiện bằng ngôn ngữ của chiếc thắt lưng da. Nhìn vào
ngoại hình khắc khổ và giọng điệu rên rỉ đau đớn khi buông những lời chửi mắng tàn tệ có thể thấy
ông ta cũng rất đau khổ. Đau khổ vì nghèo, vì bất lực trước cuộc sống đói nghèo, bế tắc. Không ai
có thể phủ nhận sự độc ác trong hành động, lời nói của người đàn ông thế nhưng cũng cần nhìn

44/54
nhận một cách công bằng, vì ở một khía cạnh nào đó, dù khổ cực, bần cùng thì ông ta vẫn có trách
nhiệm với gia đình, cố gắng cáng đáng mà không bỏ rơi vợ con. Lão đàn ông dù có vũ phu, nguyền
rủa vợ con nhưng trên hết ông ta vẫn là người có sức khỏe, có đủ khả năng chèo lái con thuyền
trước những bão going, là chỗ dựa của người đàn bà và những đứa con. Trong đoạn trích, người
đàn bà còn kể “Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Việc
lão đàn ông chấp nhận lời cầu xin ấy của vợ cho thấy trong sâu thẳm ở ông ta tình phụ tử vẫn còn
tồn tại, vẫn còn chút lương tri như bản chất lương thiện ban đầu.

3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng tình huống nhận thức, miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc qua ngôn ngữ sắc sảo,
chọn chi tiết độc đáo. Nhân vật người đàn ông thuyền chài được tác giả đặt vào nhiều góc nhìn
khác nhau của các nhân vật. Nhờ vậy, mà nhân vật này dù chỉ xuất hiện “thoáng qua” nhưng diện
mạo, ngôn ngữ, hành động, tính cách cục cằn, tàn nhẫn cũng như bản chất của lão được bộc lộ một
cách toàn diện, rõ nét và khách quan. Một thành công nữa của Nguyễn Minh Châu là đã học tập ở
nhà văn Nam Cao trong việc diễn tả hiện tượng lưỡng tính (tính chất lưỡng phân) ở nhân vật người
đàn ông thuyền chài: vừa tàn nhẫn nhưng cũng vừa đau đớn, khốn khổ, vừa là tội nhân vừa là nạn
nhân…

45/54
3.2. Nhận xét về ý nghĩa đoạn trích
Qua hình ảnh người đàn ông hàng chài trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện quan
niệm về cuộc sống, con người và cảm hứng nhân đạo trong ngòi bút của mình.
Từ nhân vật người đàn ông ta thấy rõ ràng, không thể nhìn người và nhìn đời một phía. Trước mọi
sự vật, hiện tượng nói chung và cuộc sống con người nói riêng, chúng ta cần phải có cái nhìn đa
diện, nhiều chiều. Phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành vi của con người
trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ. Đúng như nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng tâm
sự: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào
xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”. Qua đó, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ
thuật phải gắn liền với hiện thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời,
phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người. Tác
phẩm vì vậy góp phần thể hiện phong cách truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
3.3. Nhận xét về cảm hứng thế sự trong tác phẩm

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa ra đời khi đất nước đã hòa bình thống nhất, trong hoàn
cảnh ấy con người có bao nhiêu điều phải suy ngẫm trước cuộc sống bộn bề. Nguyễn Minh Châu là
người đi trước, nên cảm hứng thế sự được thể hiện rõ trong tác phẩm qua các phương diện:
– Dự cảm, day dứt, lo âu về bất hạnh của con người trong cuộc sống thường nhật đã thôithúc
Nguyễn Minh Châu gửi đến bạn đọc thông điệp: sự nghèo đói, ngu dốt, tối tăm cùng với cuộc
sống lao động cực nhọc có thể dẫn đến cái xấu, cái ác và số phận bi thảm của con người.
Trong Chiếc thuyền ngoài xa, gia đình hàng chài chính là một bức tranh thu nhỏ cho cuộc sống ấy.
Ở đó, con người hiện lên chân thực đến trần trụi trong một cuộc sống đói nghèo tăm tối khiến tác

46/54
giả phải day dứt vì những số phận như số phận người đàn bà, số phận người đàn ông và cả số phận
những đứa trẻ…
– Nhưng hơn nữa, Nguyễn Minh Châu còn khám phá ở một tầng sâu hơn trong những bí ẩn của
con người. Thể hiện rõ qua tính chất lưỡng phân ở nhân vật người đàn ông. Trong tác phẩm,
Nguyễn Minh Châu đem đến cho ta những bất ngờ khi cho thấy người đàn ông ấy đâu chỉ là một tội
nhân mà ông ta còn là ân nhân của người đàn bà, là nạn nhân của đói nghèo, lạc hậu. Trên vai ông
ta là cả một gánh nặng mưu sinh nhọc nhằn. Còn người đàn bà, tưởng như ít học, mông muội khi
chấp nhận đòn chồng mà không van xin, chạy trốn hay chống trả lại là một người rất thấu hiểu lẽ
đời, thấu hiểu chồng, biết cảm thông cho chồng và biết hy sinh. Rõ ràng, đằng sau sự man rợ của
người đàn ông là bản tình hiền lành, chất phác; đằng sau cái vẻ xù xì, thô mộc của người đàn bà là
những vẻ đẹp bất ngờ của con người. Đó là một cách thể hiện niềm tin của Nguyễn Minh Châu vào
con người và cuộc đời. Cuộc đời và con người có thể không xấu xa, độc ác đến mức như bề ngoài
của nó.

– Nhà văn đã dám nhìn thẳng vào hiện thực đời sống với những mảng tranh tối, tranh sáng
với bạo lực, nghèo đói, lạc hậu…Đó chính là hệ quả của việc cải cách đời sống nhân dân chưa
triệt để sau những năm đổi mới giành thắng lợi. Điển hình như gia đình hàng chài ngoài nghề đánh
cá ra không biết làm nghề gì khác để sinh sống. Dù được cấp đất nhưng không được phổ biến và
dạy cách trồng trọt, chăn nuôi… nên họ có đất cũng vô nghĩa. Vậy nên họ không thể rời chiếc
thuyền được. Cuộc sống trên thuyền lại gắn liền với những cơn giông bão hiểm nguy. Nếu không
có người đàn ông khỏe mạnh chèo lái con thuyền, chắc hẳn họ cũng không thể nào sống được.

47/54
–Từ đó, nhà văn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về bạo lực gia đình, về việc phải bảo vệ trẻ em
và phụ nữ và đặt ra vấn đề phải cải tạo cuộc sống bằng những giải pháp thiết thực để con
người thoát khỏi cảnh khổ, để giảm thiểu cái xấu và cái ác trong xã hội.

Đề thi tác phẩm CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA số 5


Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau:

“Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được
treo ở nhiều nơi, nhất la trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng
mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy
từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi
tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc
phết có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ
bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12,

tập 2, NXB Giáo dục, tr 77,78)


Bài làm
I. MỞ BÀI

48/54
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
– Nêu vấn đề cần nghị luận: Nguyễn Minh Châu là người luôn trăn trở về số phận của con người
và trách nhiệm của nhà văn trong cuộc đời. Thành công của truyện ngắn được tạo nên bởi những
hình ảnh, chi tiết ấn tượng, giàu giá trị biểu đạt, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến chi tiết “tấm
ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” qua đoạn văn ngắn cuối tác phẩm. Đây là chi tiết đắt giá thể
hiện được quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của tác giả và có thể khơi dậy ở người đọc nhiều
chiêm nghiệm sâu xa.
II. THÂN BÀI

1. Khái quát
– Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu
trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả
vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài
xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống nhận thức
ấy, nhà văn khám phá và thể hiện nhiều điều về cuộc sống, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời
sống.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ
sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù.
Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi
anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau
gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh

49/54
mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực
tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh
tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến
tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai
trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật
vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức
tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những
con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác
và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn.
Những ngày sau đó, Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn bà bị đánh lần thứ hai, anh muốn ngăn
cản nên đã lao vào đánh người đàn ông và bị thương nhẹ. Chánh án Đẩu và Phùng có khuyên người
phụ nữ ấy nên ly hôn, tuy nhiên người đàn bà đã kiên quyết không chịu bỏ chồng. Rồi người đàn bà
kể cho Phùng và Đẩu nghe câu chuyện cuộc đời mình để từ đây Phùng và Đẩu đã ngộ ra nhiều điều
về cuộc sống và nghệ thuật.

2. Tấm ảnh được chọn


Tấm ảnh được nhắc đến trong đoạn trích là bức ảnh Phùng chụp được trong buổi sáng hôm ấy. Đó
là bức ảnh tĩnh vật với cảnh thuyền và biển vào buổi sáng có sương mù. Tấm ảnh Phùng chụp được
trưởng phòng rất ưng ý “Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất
bằng lòng về tôi.” Sự đánh giá cao của cấp trên xứng đáng với công sức Phùng đã bỏ ra để “phục
kích” nhiều ngày mới chụp đựơc tấm ảnh đó cũng như tài năng của anh. Không những thế, nó trở

50/54
thành bức ảnh có giá trị nghệ thuật cao, có giá trị lâu bền “không những cho bộ lịch năm ấy mà mãi
mãi về sau”. Tấm ảnh được nhiều người rất yêu thích, được “treo rất nhiều nơi trong các gia đình
sành nghệ thuật”. Tấm ảnh đó đã khẳng định tài năng, nâng cao uy tín của người nghệ sĩ trên hành
trình khám phá cái đẹp và việc nhiều người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh của Phùng cũng là
điều dễ hiểu.
Có lẽ, những người yêu nghệ thuật thực sự đã nhận ra bức ảnh đẹp toàn bích, đáng để cho họ
thưởng thức và treo ở nơi sang trọng nhất trong nhà.
Mỗi khi nhìn lại vào tấm ảnh năm ấy, dù là ảnh đen trắng nhưng Phùng vẫn nhìn thấy màu hồng
hồng của ánh ban mai, nhìn thấy hình ảnh người đàn bà làng chài lam lũ, như đang bước ra khỏi
tấm ảnh. Nhà văn viết: Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên
màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu
hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà
vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết có miếng vá, nửa thân dưới
ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn
chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”.

Với rất nhiều sự băn khoăn day dứt nên Phùng luôn “ ngắm kĩ”, “nhìn lâu hơn” để mỗi lần như thế
anh lại không chỉ rung động trước cái đẹp mà còn bị ám ảnh bởi hình ảnh người đàn bà nghèo khổ
lam lũ. Cái “màu hồng hồng của sương mai” chính là biểu tượng cho cái đẹp lãng mạn của cuộc
đời, là chất thơ của cuộc sống và đó cũng chính là biểu tượng cho vẻ đẹp của nghệ thuật. Qua đó
nói lên ngụ ý của nhà văn nghệ thuật cần có chút lãng mạn trong bề sâu tác phẩm. Và hình ảnh
người đàn bà nghèo khổ bước ra từ bức tranh là hiện thân cho cuộc đời thực nhiều sóng gió, phũ

51/54
phàng. Qua hai hình ảnh ấy, người đọc nhận ra hóa ra đằng sau vẻ đẹp trong trẻo, thánh thiện, thơ
mộng của cái màu hồng hồng ánh sương mai kia chính là hiện thực bi đát của cuộc đời, cuộc sống
lam lũ, khổ đau của người hàng chài nói riêng và người lao động nghèo sau chiến tranh nói chung.
Tấm ảnh nghệ thuật “chiếc thuyền ngoài xa” đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài. đằng sau nó là
cuộc sống rách rưới, đói nghèo, khổ đau của con người.
Qua những khám phá, phát hiện của Phùng khi ngắm nhìn bức ảnh của mình ở cuối truyện tác giả
Nguyễn Minh Châu gửi gắm đến người đọc thông điệp nhận thức:
+ Thông điệp thứ nhất là về cách nhìn cuộc đời, con người: Cuộc sống vốn chứa đầy những
nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và trái, xa và gần… Cái đẹp ngoại cảnh có khi che khuất cái xấu
của đời sống Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp bị khuất lấp. Cuộc sống nhiều khi thường “đánh lừa”
ta như thế. Hơn nữa, nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng chứa đầy
những mâu thuẫn, đối lập. Bởi vậy, con người không được nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đơn giản,
một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phải có con mắt tinh tường nhìn thấu gan ruột để
khám phá, phát hiện ra bản chất thật của đời sống.

+ Thông điệp thứ hai là về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: Thông qua hai hình ảnh đầy
ám ảnh trong bức ảnh, nghệ sĩ Phùng đã thể hiện những nhìn nhận đúng đắn về bản chất đích thực
của nghệ thuật. Không thể có nghệ thuật thuần túy, nghệ thuật vị nghệ thuật mà cái đích tối cao
của nghệ thuật là nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật chân chính phải bắt nguồn từ cuộc sống dẫu
có nhọc nhằn, lam lũ, thậm chí là khổ cực và cay đắng và quay lại phục vụ cho cuộc sống, phải
dành ưu tiên trước hết cho con người, góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói
nghèo, tăm tối và bạo lực, làm thay đổi cuộc sống theo hướng tốt đẹp hơn. Đúng như chính nhà văn

52/54
Nguyễn Minh Châu đã nói: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con
người”. Mỗi tác phẩm nghệ thuật thật sự đều phải bắt nguồn từ cuộc sống, không được tách rời
cuộc sống. Người nghệ sĩ chân chính phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận con người; phải
nhìn cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và phải dũng cảm, trung thực nhìn thẳng
vào hiện thực, biết rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời. Không những vậy, một tác
phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực
đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có sự trải
nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ.
Quan niệm về đời sống và mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống ấy của Nguyễn
Minh Châu đã được cụ thể hóa qua nhân vật Phùng và bức ảnh được chọn trong đoạn trích. Với tư
cách là một con người, Phùng là cũng là một con người chân chính, biết yêu thương, nâng đỡ cái
yếu, căm ghét cái ác, có nhưng trăn trở, băn khoăn, lo lắng trước nỗi đau khổ của những con người
bất hạnh. Với tư cách người nghệ sĩ Phùng đã nhận ra chân lí của nghệ thuật và thực hiện
được sứ mệnh, thiên chức của người nghệ sĩ, có cái tâm với nghề, đáng để người ta kính phục.
Thế nhưng, trước sự thực cuộc đời đầy cay đắng, phức tạp đôi khi người nghệ sĩ ấy còn “ngây thơ”
và có những lẽ ngang trái cuộc đời, anh không thể làm gì để thay đổi nên có những điều khiến anh
luôn phải trăn trở, day dứt thành nỗi ám ảnh. Còn bức ảnh nghệ thuật được nhắc đến trong đoạn
trích đã chuyển tải được thông điệp nghệ thuật sâu sắc nên nó trở thành bức ảnh nghệ thuật
mẫu mực, là nghệ thuật thăng hoa được công chúng đón nhận.
+ Tấm ảnh ấy cho ta thấy rõ trái tim nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Không chỉ trăn trở
về cuộc sống nghèo đói, nhìn thấy vẻ đẹp của người lao động giữa cát bụi thô nhám của cuộc đời
đầy sóng gió mà nhà văn còn quan tâm, thể hiện niềm tin vào tương lai của họ. Mỗi lần xem lại bức

53/54
ảnh, Phùng thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh. Những bước đi chắc chắn và hòa lẫn vào
đám đông của người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin của Phùng về sự hòa nhập của người lao
động trong hành trình đi lên của cuộc sống.

3. Đánh giá
Kết thúc truyện cho thấy tác phẩm được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn: mở đầu là đi tìm
ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của
truyện. Giọng văn trầm lắng, suy tư, triết lí, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ cùng lối kết thúc
mở độc đáo, gợi nhiều suy nghĩ ở người đọc như một khúc vĩ thanh không chỉ khép lại câu chuyện
mà còn mở ra một hướng mới cho số phận của con người; chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa biểu
tượng; cách kể chuyện hấp dẫn từ cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp làm cho câu chuyện
gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục…
Đoạn văn miêu tả bức ảnh nghệ thuật gợi bao thức nhận đầy đau đớn và sâu sắc và chỉ một đoạn
văn ngắn nhưng đã tổng hợp lại toàn bộ ý đồ nghệ thuật của tác giả.

54/54

You might also like