Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

ĐỀ BÀI 1

MỞ BÀI 2
Câu 1: Phân tích các yêu cầu để Thông tư số 06/2023/TT-NHNN bảo đảm
tính hợp pháp 3
Câu 2: Hoạt động Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật kiểm tra Thông
tư số 06/2023-NHNN có phải là hoạt động quản lý hành chính nhà nước
không? Tại sao? 8
Câu 3: Kết luận của Cục Kiểm tra VBQPPL đối với Thông tư số
06/2023/TT-NHNN có phải một quyết định hành chính không? Tại sao? 10
Câu 4: Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh (HoREA) là loại tổ
chức xã hội nào? Phân tích vai trò của loại tổ chức xã hội đó trong quản lý
hành chính nhà nước. 12
Câu 5: Quan hệ giữa Hiệp hội Bất động sản tpHCM và Thủ tướng CP,
NHNN VN thuộc nhóm đối tượng điều chỉnh nào của LHC? Phân tích các
đặc điểm của quan hệ pháp luật này? 13
KẾT LUẬN 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
ĐỀ BÀI
Ngày 28/3/2023 Thông đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư số
06/2023/TT-NHNN Sữa đổi, bố sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN
ngày 30/12/2016 Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tin dụng, chỉ nhánh ngân
hàng nước ngoải đổi với khách hàng. Sau khi Thông tư số 06/2023/TT-NHNN được
ban hành, Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh (HoREA) đã có văn bản
kiến nghị gửi Thủ tướng Chính phú, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để nghị xem xét
sữa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư để nâng cao khả năng tiếp cận tin dụng
cho doanh nghiệp.
Thực hiện thẩm quyền kiểm tra văn băn được Chinh phú giao, ngày 27/12/2023,
Cục trưởng Cục Kiêm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp đã ban hành Kết
luận kiểm tra đổi với Thông tư số 06/2023/TT-NHNN và khẳng dịnh có một số nội
dung của Thông tư trái pháp luật.
Câu hỏi:
1. Phân tích các yêu cầu để Thông tư số 06/2023/TT-NHNN bảo đảm tính hợp
pháp
2. Hoạt động Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật kiểm tra Thông tư số
06/2023-NHNN có phải là hoạt động quản lý hành chính nhà nước không? Tại
sao?
3. Kết luận của Cục Kiểm tra VBQPPL đối với Thông tư số 06/2023/TT-NHNN
có phải một quyết định hành chính không? Tại sao?
4. Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh (HoREA) là loại tổ chức xã hội
nào? Phân tích vai trò của loại tổ chức xã hội đó trong quản lý hành chính nhà
nước.
5. Quan hệ giữa Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh và Thủ tướng
Chính Phủ, Ngân hàng nhà nước Việt Nam thuộc nhóm đối tượng điều chỉnh
nào của Luật hành chính? Phân tích các đặc điểm của quan hệ pháp luật này?

1
MỞ BÀI
Trong quá trình hoạt động của một quốc gia, việc ban hành và thực thi các văn bản luật
đóng vai trò không thể phủ nhận trong việc tạo ra một hệ thống pháp luật được thống
nhất và phản ánh đúng đắn ý chí của pháp luật nhằm điều chỉnh, quản lý, và định hình
hành vi của các tổ chức và cá nhân. Trên cơ sở này, việc đảm bảo tính hợp pháp của
các văn bản pháp luật trở thành một mối quan tâm lớn, đặc biệt là khi có những kiến
nghị, phản ánh về sự phù hợp và khả năng thực thi của chúng.

Đặc biệt trong nền kinh tế hiện đại, hoạt động tín dụng và cho vay của các tổ chức
ngân hàng đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và xã
hội. Việc ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam trong bối cảnh này với mục đích sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng đã gây được sự quan tâm đặc biệt.

Đáng chú ý, sau khi Thông tư này được ban hành, Hiệp hội Bất động sản Thành phố
Hồ Chí Minh (HoREA) đã có văn bản kiến nghị gửi Thủ tướng Chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, đề xuất sửa đổi để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng
cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, sau quá trình kiểm tra của Cục Kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật, một số nội dung của Thông tư đã bị đánh giá là không phù hợp với
quy định của pháp luật.

Trong bài viết này, nhóm chúng em sẽ đi sâu vào việc phân tích các yêu cầu để Thông
tư số 06/2023/TT-NHNN bảo đảm tính hợp pháp, đồng thời đặt câu hỏi về tính chất
của hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật và quan hệ giữa các tổ chức xã hội
với cơ quan nhà nước. Bằng cách này, chúng ta sẽ có cơ hội nhìn nhận và thảo luận về
sự phức tạp, đa chiều của quy trình lập pháp và quản lý hành chính nhà nước trong một
xã hội pháp lý ngày càng phát triển.

2
NỘI DUNG
Câu 1: Phân tích các yêu cầu để Thông tư số 06/2023/TT-NHNN bảo đảm tính
hợp pháp
Xét về tính hợp pháp của Thông tư số 06/2023/TT-NHNN tức là xét các yêu cầu để
Thông tư phù hợp với pháp luật dưới dạng của một quyết định hành chính. Do đó để
Thông tư số 06/2023/TT-NHNN đảm bảo tính hợp pháp thì Thông tư phải đáp ứng các
yêu cầu sau:

1. Được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền


Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định, Thông tư là hình thức
văn bản pháp luật được một số chủ thể có thẩm quyền ban hành như Chánh án Toà án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, bộ trưởng, thủ trưởng
cơ quan ngang bộ.

Theo quy định tại Điều 1 của Nghị định số 102/2022/NĐ-CP, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam được xác định là một cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ, là Ngân hàng
Trung ương của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong trường hợp được đưa ra,
chủ thể đã ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN chính là Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.

Căn cứ Điều 8 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 quy định về lãnh đạo, điều
hành Ngân hàng Nhà nước như sau:

“Lãnh đạo, điều hành Ngân hàng Nhà nước

1. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là thành viên của Chính phủ, là người đứng đầu và
lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước
Quốc hội về quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.

2. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức và chỉ đạo thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo thẩm quyền;
b) Tổ chức và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước theo
quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
c) Đại diện pháp nhân của Ngân hàng Nhà nước.”

3
Do đó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được quy định là người đứng đầu
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, Thông tư 06/2023/TT-NHNN đã đáp ứng
đúng yêu cầu về chủ thể ban hành quyết định.”
2. Phù hợp với luật về nội dung, mục đích
Để đáp ứng được yêu cầu về tính hợp pháp, Thông tư 06/2023/TT-NHNN với tư cách
là quyết định dưới luật, phải có sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật và
không được trái với các quyết định của Quốc hội cũng như quyết định của hội đồng
nhân dân cùng các quyết định của cơ quan hành chính cấp trên.

Cụ thể trong tình huống được đặt ra, Thông tư 06/2023/TT-NHNN được Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực ngân hàng, để có thể đảm bảo tính hợp pháp thì Thông tư 06/2023/TT-NHNN
phải đạt được sự thống nhất giữa các quy phạm pháp luật hành chính được ban hành
bởi các chủ thể có thẩm quyền ngang cấp, cùng địa vị pháp lý hành chính khác.

Xét về mặt nội dung, đã phát hiện một số điểm mâu thuẫn trong Thông tư 06/2023/TT-
NHNN khiến cho quyết định hành chính này không còn tính hợp pháp.

Cụ thể, tại điểm c khoản 6 Điều 1 Thông tư 06 quy định quy trình thẩm định, phê
duyệt và quyết định cho vay trong quy định nội bộ về cho vay của tổ chức tín dụng,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu tổ chức tín dụng "Trong trường hợp cho vay
để thanh toán tiền nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, phải có biện pháp phong tỏa số
tiền giải ngân vốn cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay theo quy định của pháp luật,
thỏa thuận của các bên tại thoả thuận cho vay cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo
đảm".

Biện pháp bảo đảm là những cách thức, giải pháp nhằm hỗ trợ, khẳng định, bảo đảm
cho việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, thỏa thuận một cách chắc chắn. Biện pháp
bảo đảm đi liền, không tách rời với nghĩa vụ chính trong hợp đồng, giao dịch chính.
Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các
nghĩa vụ đã cam kết, thì bên có quyền có thể áp dụng biện pháp bảo đảm đã thỏa thuận
hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để buộc bên có nghĩa vụ phải
thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết nhằm bảo đảm quyền lợi cho mình.

Tuy nhiên, văn bản pháp lý về biện pháp bảo đảm theo Bộ luật Dân sự năm 2015 và
Nghị định số 21/2021/NĐ-CP chỉ quy định gửi tiền vào tài khoản bị phong tỏa tại một
tổ chức tín dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp ký quỹ; không có

4
quy định về phong tỏa số tiền giải ngân vốn cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay như
quy định trong Thông tư 06.
Ngoài ra, theo Khoản 2, Điều 12 của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về thanh toán
không dùng tiền mặt, tài khoản có thể bị phong tỏa một phần hoặc toàn bộ trong ba
trường hợp:

Thứ nhất, khi không có quyết định hoặc yêu cầu bằng văn bản từ cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật;

Thứ hai, khi tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phát hiện có nhầm lẫn, sai sót về
chuyển tiền. Số tiền bị phong tỏa trên tài khoản thanh toán không vượt quá số tiền bị
nhầm lẫn, sai sót;

Thứ ba, khi có tranh chấp giữa các chủ tài khoản thanh toán chung.

Do đó, Thông tư 06/2023/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc
phong tỏa số tiền giải ngân vốn cho vay tại tổ chức tín dụng cho vay để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ không phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nghị định
101/2012/NĐ-CP, và hạn chế quyền lựa chọn biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trong quan hệ dân sự giữa các bên liên quan.

3. Được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy
định
Để đảm bảo tính hợp pháp, Thông tư 06/2023/TT-NHNN cần phải được ban hành theo
đúng trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy định tại Văn bản hợp nhất số
10/VBHN-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn trình tự, thủ
tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam. Quy trình xây dựng và ban hành thông tư phải được thực hiện qua 5 bước chính
như sau:

3.1 Xây dựng báo cáo đánh giá tác động của chính sách mới (nếu có)
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 31 Nghị ĐỊnh Trường hợp phát sinh chính sách mới trong
quá trình soạn thảo nghị định quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tính quy định chi tiết văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên thì cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm đánh giá tác động của chính
sách theo quy định của Luật và Nghị định này trước khi soạn thảo văn bản.

5
3.2 Xây dựng dự thảo thông tư.
Theo khoản 1 Điều 19 của Thông tư 27/2016/TT-NHNN, đơn vị chủ trì soạn thảo có
trách nhiệm nghiên cứu thông tin, tư liệu có liên quan và trên cơ sở báo cáo đánh giá
tác động chính sách để thực hiện việc xây dựng đề cương; dự thảo thông tư; dự thảo tờ
trình và bản thuyết minh nội dung của dự thảo thông tư hoặc bản so sánh và thuyết
minh những điểm khác nhau giữa dự thảo thông tư với văn bản được sửa đổi, bổ sung,
thay thế.

Do đó, đơn vị chủ thể soạn thảo của Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm phối hợp với
Vụ pháp chế và các đơn vị liên quan tổng kết tình hình thi hành pháp luật; khảo sát,
đánh giá thực trạng quan hệ xã hội trong lĩnh vực liên quan đến dự thảo; nghiên cứu
thông tin, tư liệu có liên quan; chuẩn bị đề cương, biên soạn và chỉnh lý dự thảo; chuẩn
bị tờ trình và tài liệu có liên quan đến dự thảo.

Trong quá trình soạn thảo, có thể huy động sự tham gia của viện nghiên cứu, trường
đại học, hội, hiệp hội, tổ chức khác có liên quan hoặc các chuyên gia, nhà khoa học có
đủ điều kiện và năng lực vào việc tổng kết, đánh giá tình hình thi hành pháp luật; rà
soát đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành; khảo sát, điều tra xã hội học;
đánh giá thực trạng quan hệ xã hội có liên quan đến nội dung dự thảo; tập hợp, nghiên
cứu so sánh tài liệu, điều ước quốc tế có liên quan đến dự thảo.

3.3. Lấy ý kiến, tiếp thu ý kiến tham gia đối với dự thảo thông tư.
Theo điều 21 Văn bản hợp nhất số 10/VBHN-NHNN sau khi hoàn thành dự thảo
thông tư, đơn vị chủ trì soạn thảo báo cáo Thống đốc hoặc Phó Thống đốc phụ trách
trong trường hợp được Thống đốc giao duyệt nội dung và cho phép lấy ý kiến đối với
dự thảo thông tư.

Đối với các đơn vị có liên quan thuộc Ngân hàng Nhà nước, đơn vị chủ trì soạn thảo
cần gửi văn bản lấy ý kiến của các bên liên quan thuộc Ngân hàng Nhà nước, trong đó
nêu những vấn đề cần lấy ý kiến phù hợp với chức năng của từng đơn vị. Ngoài ra,
đơn vị soạn thảo cần lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản,
cơ quan, tổ chức, các nhân khác có liên quan. Đơn vị chủ trì soạn thảo cần phải đề xuất
với Thống đốc danh sách các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan để gửi lấy ý kiến về nội dung dự thảo.

6
Sau đó, đơn vị chủ trì soạn thảo gửi dự thảo thông tư đến Ủy ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam; gửi dự thảo thông tư liên quan đến quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp đến Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam để lấy ý kiến. Đơn vị chủ trì
soạn thảo đăng tải toàn văn dự thảo trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ và
Cổng thông tin điện tử của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian ít nhất là 60 ngày để
cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

3.4 Thẩm định dự thảo thông tư


Căn cứ vào điều 24 Văn bản hợp nhất số 10/VBHN-NHN, sau khi đã sửa đổi bản dự
thảo theo ý kiến tham gia của các đơn vị, tổ chức, và cá nhân liên quan, cũng như chỉ
đạo từ Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, đơn vị chủ trì soạn thảo sẽ gửi hồ sơ bản dự
thảo thông tư đến Vụ Pháp chế để được thẩm định.

Trong trường hợp cần làm rõ nội dung của dự thảo, Vụ Pháp chế yêu cầu đơn vị chủ trì
cung cấp thông tin, tài liệu liên quan hoặc yêu cầu giải thích rõ ràng về các quy định
trong dự thảo. Sau khi nhận được văn bản thẩm định, đơn vị chủ trì sẽ nghiên cứu, tiếp
thu và chỉnh sửa dự thảo thông tư, sau đó gửi văn bản đến Vụ Pháp chế để thông báo
việc tiếp thu ý kiến thẩm định, kèm theo bản dự thảo đã được chỉnh sửa theo ý kiến đó.
Khi nhận được văn bản tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định, Vụ Pháp chế sẽ hợp tác
với đơn vị chủ trì soạn thảo để hoàn thiện dự thảo thông tư.

Trong trường hợp đồng ý với nội dung của dự thảo thông tư, Vụ Pháp chế sẽ đóng dấu
thẩm định lên bản dự thảo để đơn vị chủ trì soạn thảo trình Thống đốc. Nếu cần làm rõ
hơn về nội dung, Vụ Pháp chế sẽ trao đổi trực tiếp hoặc mời đại diện từ đơn vị chủ trì
soạn thảo để đạt được sự thống nhất trước khi đóng dấu thẩm định. Trong trường hợp
có ý kiến khác, Vụ Pháp chế sẽ gửi văn bản bảo lưu ý kiến cho đơn vị chủ trì soạn
thảo. Đơn vị chủ trì sẽ báo cáo cho Thống đốc xem xét và quyết định. Vụ Pháp chế sẽ
đóng dấu thẩm định theo hướng dẫn của Thống đốc trước khi dự thảo được trình lên để
ban hành.

3.5 Trình ký ban hành Thông tư


Đơn vị chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm
định để hoàn thành dự thảo và hồ sơ trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét,
phê duyệt, ký và ban hành theo quy trình tại luật định.

7
Câu 2: Hoạt động Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật kiểm tra Thông tư
số 06/2023-NHNN có phải là hoạt động quản lý hành chính nhà nước không? Tại
sao?

1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước


a) Khái niệm quản lý:
Theo giáo trình Luật Hành Chính của Đại học Luật Hà Nội, quản lý theo điều khiển
học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào
những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy
vận động theo ý muốn của người quản lí nhằm đạt được những mục đích đã định
trước.

Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động, phát sinh khi cần có
sự nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Quản lý diễn ra ở mọi tổ chức, từ phạm
vi nhỏ đến phạm vi lớn, từ đơn giản đến phức tạp.

Với ý nghĩa phổ biến thì quản lý là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức và
định hướng của chủ thể quản lý lên một đối tượng quản lý để điều chỉnh các quá trình
xã hội và hành vi của con người, nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng
quản lý theo những mục tiêu đã định.

Quản lý bao gồm các yếu tố sau:


Chủ thể quản lý: là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể có thể là một cá nhân
hoặc tổ chức.

Khách thể quản lý: chịu sự tác động hay chịu sự điều chỉnh của chủ thể quản lý, đó là
hành vi của con người và các quá trình xã hội.

Đối tượng quản lý: tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý. Tùy theo từng loại đối
tượng khác nhau mà người ta chia thành các dạng quản lý khác nhau.

Mục tiêu quản lý: là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định do chủ thể
quản lý định trước.

Quản lý là một hoạt động phức tạp và nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Các
yếu tố đó là: con người; hệ thống và tư tưởng chính trị; tổ chức; thông tin; văn hóa…

b) Khái niệm quản lý hành chính nhà nước:


8
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Quản lý nhà nước
thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay quản lý nhà nước bao gồm hoạt động lập
pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành pháp của Chính phủ và hoạt động tư pháp
của cơ quan tư pháp.

Có thể hiểu quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực
nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các hành vi của con người trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực
hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển
của xã hội.

Quản lý hành chính nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với quản lý nhà nước vì:
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp, tức là hoạt động
chấp hành và điều hành;
Chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan, cán bộ, công chức hành chính
nhà nước trong hệ thống hành chính từ Trung ương đến cơ sở.

Như vậy, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp nhằm
tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã
hội và hành vi của công dân do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở thực hiện để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phát
triển kinh tế - xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân.

Khái niệm trên có ba điểm cần lưu ý:


Một là, quản lý hành chính nhà nước có tính quyền lực nhà nước;

Hai là, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực hiện hàng ngày, tổ chức và điều
chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân bằng việc ra các quyết
định quản lý hành chính và thực hiện các hành vi hành chính.

Ba là, quản lý hành chính nhà nước được thực hiện bởi các pháp nhân công quyền.
Trong hệ thống này đứng đầu là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, các cơ
quan hành chính nhà nước Trung ương, các cấp quản lý hành chính nhà nước địa
phương.

2. Kết luận:

9
Theo khái niệm của quản lý hành chính nhà nước, hoạt động Cục Kiểm tra văn bản
quy phạm pháp luật kiểm tra Thông tư số 06/2023 -NHNN không phải là hoạt động
quản lý hành chính nhà nước vì chưa đáp ứng đủ các đặc điểm của quản lý hành chính
nhà nước. Vì:
Thứ nhất, chủ thể sử dụng quyền chính là Thủ tướng Chính Phủ và cơ quan nhà nước
Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đã được trao quyền trong lĩnh vực hành
chính và hành pháp.
Thứ hai, hoạt động Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật kiểm tra Thông tư số
06/2023 -NHNN đã đáp ứng được tính chất thứ nhất của hoạt động quản lý hành chính
của nhà nước là tính chấp hành: chấp hành quyền lực nhà nước và pháp luật. Ở đây,
bên chấp hành là Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thực hiện thẩm quyền
kiểm tra văn bản được Chính phủ giao. Thứ hai, hoạt động này có nội dung đảm bảo
sự chấp hành pháp luật - tổ chức, chỉ đạo thực hiện pháp luật nhằm đảm bảo an ninh
trật tự, an toàn xã hội, phát triển kĩ thuật, văn hóa - xã hội, Cục Kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật đã thực hiện chức năng tham mưu cho Bộ Tư pháp để Bộ Tư pháp đã
ban hành Kết luận kiểm đối với Thông tư số 06/2023/TT-NHNN và khẳng định một
số nội dung của Thông tư trái pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động Cục Kiểm tra văn bản
quy phạm pháp luật kiểm tra Thông tư số 06/2023 -NHNN chưa đáp ứng được tính
chất thứ hai của hoạt động quản lý hành chính nhà nước là tính điều hành, Cục Kiểm
tra văn bản quy phạm pháp luật chưa có hoạt động phân công công việc, điều hành
xuống cấp dưới. Vậy nên hoạt động Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật kiểm
tra Thông tư số 06/2023 -NHNN không được xem là hoạt động quản lý hành chính nhà
nước.

Câu 3: Kết luận của Cục Kiểm tra VBQPPL đối với Thông tư số 06/2023/TT-
NHNN có phải một quyết định hành chính không? Tại sao?
Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật, nó là kết quả sự thể hiện
ý chí quyền lực của nhà nước thông qua những hành vi của các chủ thể được thực
hiện quyền hành pháp trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành
theo một trình tự dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật, nhằm
đưa ra những chủ trương, biện pháp, đặt ra các quy tắc ứng xử hoặc áp dụng những
quy tắc ứng xử đó giải quyết một công việc cụ thể trong đời sống xã hội nhằm thực
hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước.1 Các quyết định hành chính được ban
hành theo thủ tục ban hành văn bản dưới luật (nghị quyết, nghị định, quyết định, thông

1 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2024,
tr.182
10
tư) và được quy định trong Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ
sung 2019. Các quyết định hành chính thường có nội dung chứa đựng các quy tắc xử
sự chung hoặc chứa đựng các mệnh lệnh hành chính.

Như vậy, từ khái niệm về quyết định hành chính được nêu trên thì kết luận của Cục
Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đối với Thông tư số 06/2023/TT-NHNN không
phải là một quyết định hành chính vì:

Thứ nhất, xét về thẩm quyền, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật không có
thẩm quyền ban hành quyết định hành chính. Theo quy định tại Quyết định số
1189/QĐ-BTP ngày 28 tháng 6 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật thì vị trí của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là đơn vị thuộc
Bộ Tư pháp. Cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật có các chức năng như tham
mưu; rà soát, kiểm tra, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật; thực hiện kiểm
tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc trách nhiệm và thẩm quyền kiểm tra của Bộ Tư
pháp,... Nếu phát hiện văn bản có nội dung trái pháp luật, Cục chỉ có quyền kiến nghị
cơ quan, người đã ban hành văn bản xem xét, tự xử lý; hoặc đề nghị Bộ trưởng, kiến
nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý các văn bản trái pháp luật theo luật định. 2

Thứ hai, xét về mặt nội dung. Các quyết định hành chính được ban hành để thực hiện
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, do đó nội dung của chúng thường chứa đựng
các quy phạm pháp luật hành chính, chính sách chủ trương nhà nước về quản lý hành
chính hoặc chứa đựng mệnh lệnh hành chính cụ thể. Tuy nhiên, nội dung trong kết
luận của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đối với Thông tư số 06/2023/TT-
NHNN không hề chứa đựng các quy phạm pháp luật hành chính hay các mệnh lệnh
hành chính nào mà chỉ đơn thuần là phân tích và chỉ ra điểm chưa đúng trong thông tư.
Cho nên, kết luận của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trên không phải là
một quyết định hành chính.

2 Xem điểm c), khoản 7, Điều 2 Quyết định số 1189/QĐ-BTP Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật.
11
Câu 4: Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh (HoREA) là loại tổ chức
xã hội nào? Phân tích vai trò của loại tổ chức xã hội đó trong quản lý hành chính
nhà nước.
Hiệp hội bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh (HoREA) là tổ chức xã hội nghề
nghiệp tự nguyện được tổ chức, công dân Việt Nam hoạt động trong ngành bất động
sản và liên quan đến bất động sản của địa bàn thành phố, chịu sự quản lý Nhà nước
của UBND thành phố và Sở tài nguyên và môi trường.3

Vai trò của hiệp hội bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh (HoREA) trong quản lý
hành chính nhà nước:

Mục đích hoạt động của Hiệp hội bất động sản là tập hợp, đoàn kết các doanh nghiệp
và đơn vị, cá nhân hoạt động trong ngnahf bất động sanr và liên quan đến bất động sản
hoạt động trên địa bàn thành phố nhằm bảo vệ lợi ích chung và quyền và lợi ích hợp
pháp của các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản; hỗ trợ các nhà đầu tư kinh doanh bất
động sản về kinh nghiệm, kiến thức dầu tư, quản lý, sản xuất, kinh doanh và dịch vụ,
chuyển giao khoa học công nghệ, kỹ thuật và trợ giúp pháp lý để góp phần thúc đẩy thị
trường bất động sản thành phố phát triển ổn định theo đúng chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước.4

Hiệp hội có nhiệm vụ chấp hành các quy định pháp luật có liên quan đến tổ chức, hoạt
động của Hiệp hội và Điều lệ Hiệp hội không được lợi dụng hoạt động của Hiệp hội để
làm hại đến an ninh quốc gia. Luôn phối hợp với cơ quan quả lý Nhà nước, các đơn vị
có chức năng để thường xuyên cung cấp cho hội viên các thông tin về chính sách, pháp
luật , kinh tế, tài chính, dự báo thị trường bất động sản, các dự báo phát triển bất động
sản cũng như các tiến bộ về khao học kỹ thuật công nghệ cao có liên quan đến ngành
nghề giúp hội viên mở rộng kiến thức5 . Hiệp hội chấp hành sự hưỡng dẫn, kiểm tra,
thanh tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tuân thủ pháp luật.

Điều quan trọng hơn hết là tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan nội dung hoạt động của Hiệu hội theo quy định cảu pháp luật. Kiến nghị với
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối vưới các vấn đề khó khăn, cướng mắc liên quan
tới sự pháp triển của các thành viên trong Hiệp hội và các lĩnh vực mà Hiệp hội hoạt
động. Là đại diện cho hội viên trong việc thiết lập các mối mối quan hệ với các tổ chức
kinh tế, khoa học công nghệ, các hiệp hội khác trong nước và ngoài nước theo quy

3 https://baochinhphu.vn/phe-duyet-dieu-le-to-chuc-va-hoat-dong-sua-doi-cua-hiep-hoi-bat-dong-san-
tphcm-10259250.htm

4 https://baochinhphu.vn/phe-duyet-dieu-le-to-chuc-va-hoat-dong-sua-doi-cua-hiep-hoi-bat-dong-san-
tphcm-10259250.htm
5 http://www.congbao.hochiminhcity.gov.vn/tin-tuc-tong-hop/Dieu-le-To-chuc-va-hoat-dong--sua-doi--
cua-Hiep-hoi-Bat-dong-san-thanh-pho-
12
định của pháp luật, đại diện cho hội viên trong việc thiết lập mối quan hệ với các tổ
chức kinh tế, khoa học công nghệ, các hiệp hội khác trong nước và ngoài nước theo
quy định pháp luật.

Câu 5: Quan hệ giữa Hiệp hội Bất động sản tpHCM và Thủ tướng CP, NHNN
VN thuộc nhóm đối tượng điều chỉnh nào của LHC? Phân tích các đặc điểm của
quan hệ pháp luật này?

Các đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính được chia thành ba nhóm sau: Nhóm
thứ nhất, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cơ quan hành chính nhà nước
thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Nhóm thứ hai, các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình cơ quan nhà nước thực hiện quản lý hành chính nội bộ. Nhóm
thứ ba, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cá nhân, tổ chức được nhà nước
trao quyền quản lý hành chính. Mối quan hệ giữa Hiệp hội bất động sản thành phố Hồ
Chí Minh với Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng nhà nước Việt Nam là mối quan hệ
giữa tổ chức xã hội với các cơ quan hành chính nhà nước. Do đó, quan hệ này thuộc
nhóm đối tượng điều chỉnh thứ nhất của Luật hành chính.

Đây là nhóm đối tượng điều chỉnh cơ bản của luật hành chính. Thông qua việc thiết
lập các quan hệ này các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng cơ bản của
mình. Đặc điểm của nhóm đối tượng này là:

1. Mang tính quyền lực nhà nước:


Bởi vì đây là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước thực
hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước nên đây cũng là nhóm đối tượng mang
tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương. Các cơ quan
nhà nước thực hiện chức năng quản lý chủ yếu bằng pháp luật hoặc ban hành ra các
văn bản pháp luật để đặt ra các quy phạm pháp luật hay các mệnh lệnh cụ thể để buộc
các đối tượng bị quản lý phải thực hiện.

2. Mang tính chấp hành, điều hành:


Đây là nhóm đối tượng phong phú, đa dạng nhất và cũng là nhóm đối tượng thể hiện
rõ nét nhất đặc điểm cơ bản của hoạt động quản lý hành chính: đó là tính chấp hành -
điều hành.

Tính chấp hành được thể hiện ở mục đích của quản lý hành chính nhà nước: đó là đảm
bảo sự chấp hành luật, đảm bảo thực hiện các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà
nước trên thực tế. Mọi hoạt động quản lý hành chính đều được tiến hành trên cơ sở
pháp luật và để thực hiện pháp luật.

Tính điều hành của quản lý hành chính được thể hiện ở chỗ đảm bảo các văn bản pháp
luật của các cơ quan nhà nước được thực hiện trên thực tế. Ngoài ra, tính điều hành
của quản lý hành chính nhà nước còn được thể hện ở việc chỉ đạo và tổ chức một cách

13
thường xuyên trong công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội, hành chính, chính trị, văn
hóa. Các chủ thể có thẩm quyền có thể quản lý hành chính nhà nước bằng cách sử
dụng quyền lực nhà nước, ban hành ra các văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các
quy tắc xử sự hoặc đề ra các mệnh lệnh cụ thể bắt buộc các đối tượng quản lý có liên
quan phải thực hiện.

Hoạt động chấp hành - điều hành là hai nội dung cơ bản, chúng gắn với nhau và tạo
thành hai mặt thống nhất trong quản lý hành chính nhà nước. Qua đó thể hiện một cách
rõ nét mối quan hệ “quyền lực - phục tùng” giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị quản
lý.

3. Mang tính linh hoạt, chủ động, sáng tạo:


Nhóm đối tượng này bao gồm rất nhiều những quan hệ phong phú, có thể kể đến như:
quan hệ giữa cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp dưới; quan hệ
giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền chung với cơ quan hành chính có thẩm quyền
chuyên môn; quan hệ giữa những cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn với
nhau; quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với những tổ chức xã hội, với công dân,
người nước ngoài;...

Chính bởi sự phức tạp và đa dạng trong các đối tượng quản lý nên hoạt động quản lý
nhà nước luôn mang tính linh hoạt, sáng tạo và chủ động. Tính chủ động, sáng tạo của
hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thể hiện rõ nét trong quá trình các chủ
thể của quản lý hành chính nhà nước đề ra chủ trương, biện pháp quản lý thích hợp đối
với các đối tượng khác nhau, tạo điều kiện cho họ lựa chọn cách thức tốt nhất để hoàn
thành nhiệm vụ trên cơ sở nghiên cứu, xem xét tình hình cụ thể.6

KẾT LUẬN
Như vậy, bằng những phân tích phía trên, em xin được kết luận như sau:
Thứ nhất, để Thông tư số 06/2023/TT-NHNN được đảm bảo tính hợp pháp, cần
đảm bảo ba yêu cầu: được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền, phù hợp với nội dung
mục đích và được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy
định.

6 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2024,
tr.15
14
Thứ hai, hoạt động Cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật kiểm tra Thông tư số
06/2023/TT-NHNN không phải là một hoạt động quản lý hành chính vì chưa đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu của hoạt động quản lý hành chính.
Thứ ba, kết luận của Cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đối với Thông tư số
06/2023/TT-NHNN không phải là một quyết định hành chính vì chưa đáp ứng đủ các
yêu cầu của một quyết định hành chính.
Thứ tư, Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh (HoREA) là loại tổ chức xã
hội nghề nghiệp tự nguyện thành lập.
Thứ năm, quan hệ giữa Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh và Thủ
tướng Chính phủ, Ngân hàng nhà nước Việt Nam thuộc nhóm đối tượng điều chỉnh
thứ nhất: các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình cơ quan hành chính nhà nước
thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2024
2. Quyết định số 1189/QĐ-BTP ngày 28 tháng 6 năm 2023 của Bộ Tư pháp về
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Kiểm tra
văn bản quy phạm pháp luật.
15
3. Báo điện tử Chính phủ, ngày 24/01/2011, Phê duyệt Điều lệ Tổ chức và hoạt
động (sửa đổi) của Hiệp hội Bất động sản TPHCM,
<https://baochinhphu.vn/phe-duyet-dieu-le-to-chuc-va-hoat-dong-sua-doi-cua-
hiep-hoi-bat-dong-san-tphcm-10259250.htm>
4. Công báo Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24/01/2011, Điều lệ Tổ chức và hoạt
động (sửa đổi) của Hiệp hội Bất động sản thành phố,
<http://www.congbao.hochiminhcity.gov.vn/tin-tuc-tong-hop/Dieu-le-To-chuc-
va-hoat-dong--sua-doi--cua-Hiep-hoi-Bat-dong-san-thanh-pho->

16

You might also like