“Cảo thơm lần giở trước đèn Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa Trăm năm trong cõi người ta Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau Khen tài nhả ngọc phun châu Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình.” Nhắc đến Nguyễn Du là nhắc đến một đại thi hào lỗi lạc của thơ ca trung đại Việt Nam. Không chỉ có đóng góp lớn cho văn học nước nhà ông còn được cả thế giới biết đến với thi phẩm Truyện Kiều. Có thể nói Nguyễn Du chính là một hiện tượng của nền văn học Việt Nam nói riêng và của thế giới nói chung. Nguyễn Du có tên chữ là Tố Như hiệu là Thanh Hiên sinh năm 1765 mất năm 1820, quê tại làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân Tỉnh Hà Tĩnh. Sinh thời ông có một nền tảng gia đình vô cùng danh giá, nhiều đời làm quan và có truyền thống văn học đồ sộ. Tuổi thơ ông trải qua một cách đầy biến động, phải tha hương nhiều nơi lúc thì về quê cha, khi về quê mẹ và có một thời gian phải phiêu dạt tận quê vợ ở Thái Bình, cộng thêm vào giai đoạn đó lịch sử nước nhà có nhiều rối ren các thế lực phong kiến chém giết và tàn sát lẫn nhau. Những yếu tố đó đã tác động không nhỏ đến tình cảm cũng như nhận thức của nhà thơ. Có thể nói chính cuộc sống chìm nổi cùng với thời thế đầy biến động, phiêu bạt nhiều nơi đã là những thứ hồ để tạo nên một Nguyễn Du có học vấn sâu rộng, trái tim chất chứa yêu thương và cảm thông sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Ông cũng được coi như 1 trong năm người giỏi nhất nước Nam thời bấy giờ. Ông để lại cho đời cả một kho tàng văn học phong phú với khoảng hơn ngàn tác phẩm bao gồm cả chữ hán và chữ nôm. Trong đó chữ Hán có Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài, Bắc hành tạp lục 125 bài, Nam trung tạp ngâm 40 bài... chữ Nôm có văn chiêu hồn, Văn tế, và tiêu biểu là tác phẩm Truyện Kiều hay còn có tên gọi khác là Đoạn trường Tân Thanh. Truyện Kiều hay còn có tên gọi là Đoạn trường Tân Thanh được nhà thơ sáng tác vào cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19 ( 1805 -1809). Đây là một tác phẩm tiêu biểu viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân ( Trung Quốc) tuy nhiên đã được sáng tạo tài tình cải biến để phù hợp với xã hội Việt Nam. Đây là câu truyện được kể bằng 3254 câu thơ chia làm 3 phần chính: Gặp gỡ và đính ước, Gia biến và lưu lạc, Đoàn tụ.Thực ra trong đó có vô vàn tiếng kêu thương. Mà Trao duyên (thuộc phần Gia biến và lưu lạc) có lẽ là tiếng kêu đứt ruột đầu tiên khởi đầu một chuỗi dài đau thương chất chồng lên cuộc đời truân chuyên của một người con gái tài sắc. Thuý Kiều đứt ruột trao duyên. Và Nguyễn Du cũng đã viết nên cảnh Trao duyên bằng những lời thơ tan nát can tràng. Dường như 4 từ “Đoạn trường tân thanh” đã được diễn tả gần như hoàn toàn trong đoạn trích “Trao duyên” khi mà diễn biến tâm trạng bên trong và bên ngoài Thúy Kiều đang phát triển phức tạp nhất, kịch liệt nhất. Đoạn trích “Trao duyên” từ câu 723-756 của “Truyện Kiều” là tiếng lòng đau xót và tê tái, tâm trạng giằng xé đầy đau khổ của Thúy Kiều khi phải chia lìa hạnh phúc của mình. Mở đầu đoạn trích là hai câu thơ: “Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. Trong cuộc sống đời thường, việc chị nhờ cậy em là điều gì đó rất bình thường, thế nhưng ở đây, trong lời Thúy Kiều nhờ cậy Thúy vân có điều gì đó rất bất thường. Kiều đã sử dụng hai từ “cậy” và “chịu” thay vì hai từ “nhờ” và “nhận”. Từ “cậy” ở đây mang hàm nghĩa gửi gắm, tin tưởng, trông mong, hi vọng nơi quan hệ ruột thịt. Thanh trắc truyền tải nặng nề sự quằn quại, đau đớn, khó nói. Có thể thấy so với từ “nhận” thì cậy mang sức nặng của niềm tin hơn, chỉ có em là người mà chị tin cậy vào lúc này. “Nhận” có phần nào tự nguyện, người nhận có thể từ chối yêu cầu nhưng đối với “chịu”, đây là một thỉnh cầu bắt buộc, không thể không nhận. “Chịu” mang hàm ý nài ép nhiều quá, nể mà phải nhận, buộc Vân phải chịu. Cũng trong lời ấy, Thúy Kiều đã lồng ghép vào các động từ như “ngồi”, “lạy”, “thưa”. Đây đều là những thái độ đối với người bề trên hoặc với những người có ơn với mình; đều là những hành động đột ngột, bất thường. Ở đây không còn tồn tại vai vế chị- em mà giống hệt hành động của người chịu ơn đối với người ban ơn, những hành động này hàm ẩn sự biết ơn đến khắc cốt ghi tâm. Hai câu đầu đoạn trích, ta nhận ra dù trong hoàn cảnh tan nát lòng thì Thúy Kiều vẫn dung những lời lẽ đoan trang, tế nhị, chính xác, chặt chẽ; đồng thời cũng cho thấy tài năng sử dụng ngôn ngữ của bậc thầy Nguyễn Du. Mười hai câu tiếp theo là lời Thúy Kiều kể với Thúy Vân về chuyện tình giữa mình và Kim Trọng, tái hiện cảnh ngộ gia đình, đồng thời dặn dò em và trao kỉ vật cho Thúy Vân:
”Giữa đường đứt mối tương tư.
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kỳ. Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. Chiếc vành với bức tờ mây. Duyên này thì giữ, vật này của chung.” Ở hai câu đầu, tình yêu của Kiều và Kim Trọng đang chớm nở, yên bình thì “đứt gánh”. “Gánh tương tư” là gánh nặng nhớ nhung, khắc khoải; “đứt” biểu trưng cho mối tình dở dang, đứt quãng, hoàn cảnh éo le khi duyên phận lỡ dở. Hình ảnh “keo loan”- thứ keo chế bằng huyết chim loan, dung để gắn kết các vật. Đây chính là một điển tích để chỉ tình cảm gắn bó sâu nặng của Thúy Kiều với Kim Trọng. “Tơ thừa” ở đây chính là mối tình giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Thế nhưng ở đây, “chắp mối”là sự xót xa của Kiều, Kiều hiểu Vân phải chịu nhiều thiệt thòi khi thay mình nối duyên với Kim Trọng. Kim Trọng đến với Kiều là cái duyên nhưng Kim Trọng đến với Thúy Vân lại là tơ thừa, sự khác nhau đó cho thấy được hoàn cảnh bắt buộc của Thúy Vân khi phải nhận lời của người chị. “Mặc em” là sự ủy thác, phó mặc tùy em; vừa có ý mong muốn vừa có ý bắt buộc Thúy Vân phải nhận lời. Qua đây chúng ta có thể thấy được sự dứt khoát đoạn tuyệt mối tình đầu của Thúy Kiều, từ đây mối tình đầu đã “mặc em”, không còn liên quan đến Kiều nữa. Lời trao duyên ở đây thể hiện kiểu là một người chu toàn, thấu hiểu sâu sắc cho tình cảnh của Vân. Sau khi đã giải bày, Thúy Kiều đã đưa ra những lí lẽ để thuyết phục, ép buộc em mình phải nhận lời trao duyên. Thúy Kiều kể lại những kỉ niệm gắn liền với mối tình đầu. “Quạt ước”- tặng quạt ngỏ ý hẹn ước trăm năm; “chén thề”- uống rượu thề nguyền chung thủy. Những kỉ niệm này càng đẹp thì lòng Kiều càng đau bởi nàng đang phải lìa xa mối tình đẹp đẽ đó. “Ngày”, “đêm” thể hiện một mối tình sâu đậm, gắn bó bền chặt với Kim Trọng. Khi ngày, đêm luân phiên như thế, trong đầu Kiều lúc nào cũng nghĩ đến Kim Trọng, có nghĩa tình cảm Thúy Kiều dành cho Kim Trọng rất lớn. Điệp từ “khi” cho thấy những kỉ niệm đẹp đẽ này xoáy sâu trong lòng Thúy Kiều, tình nghĩa sâu đậm đó không thể quên được tức khắc. Một tai họa đột ngột ập đến với gia đình Thúy Kiều- “sóng gió bất kì”- cha và em bị buộc tội, phải chịu những hành hạ đau đớn. Trong hoàn cảnh đó bắt buộc Thúy Kiều phải hành động. “Hiếu tình” là hiếu với cha mẹ, tình với người yêu. Trong quan niệm xưa, bản thân bất kì một ai cũng đề cao chữ hiếu hơn. Cho nên khi phải lựa chọn giữa hiếu và tình thì đây chính là bi kịch. Và cuối cùng nàng đã chọn hiếu, để bán mình chuộc lại cha vâf em trai của mình. Sau khi chọn chữ hiếu, nàng mới thấy được sự xót xa của mình dành cho người yêu khi không thể đền đáp trọn vẹn nghĩa tình đã thề nguyện. Hiếu và tình vốn là hai sự việc không thể đặt lên trên bàn cân, vì khi đó người ở giữa sẽ rất khó lựa chọn, phần lớn sự chiến thắng đều giành chiến thắng. Từ bi kịch này ta thấy rằng hạnh phúc đang êm đềm, kéo dài thì hoàn cảnh buộc Kiều phải đứng ra bảo vệ gia đình. Vì Thúy Kiều đã chọn hiếu thế nên nàng mong Vân nối duyên trả nghĩa cho Kim Trọng. “Ngày xuân”- hình ảnh ẩn dụ chỉ tuổi trẻ- Vân vẫn còn trẻ, tương lai phía trước còn dài, đủ thời gian để giứp chị trả nghĩa cho Kim Trọng. “Tình máu mủ” ở đây là tình cảm ruột thịt, chị em thiêng liêng. Dựa vào tuổi tác, mối quan hệ gia đình, Thúy Kiều mong em mình tiếp tục “lời nước non”- (ẩn dụ) tình yêu này. Kiều mong Vân chấp nhận sự gán duyên này để tiếp tục với lời thề của chàng Kim. “Thịt nát xương mòn” gợi ra cái chết bi thảm, đau đớn, bất hạnh. Thúy Kiều bắt đầu nhận ra được tương lại không mấy êm đẹp của bản thân. “Ngậm cười chín suối” tức vong hồn Kiều nơi âm phủ cũng được an ủi, thơm lây từ sự hi sinh đầy ân đức của Vân. Thúy Kiều vừa tưởng tượng ra cái chết của mình vừa gợi sự thương cảm ở Thúy Vân nhằm thuyết phục Thúy Vân. Qua lời dặn dò em của Thúy Kiều, ta thấy được tác giả đã sử dụng thành ngữ, điển tích, ngôn ngữ có chọn lọc, chính xác, độc đáo để tăng tính thuyết phục của lời nói về phương tiện tình cảm. Đồng thời qua đó, ta cảm nhận được Thúy Kiếu là một người con hiếu thảo, có đức hi sinh và lòng vị tha, nặng tìnhn nặng nghĩa; tâm trạng Kiều chính là biết ơn chân thành, yên tâm, thanh thản và đặt lí trí lên trên tình cảm của bản thân. Lúc này nàng bắt đầu ý thức được rằng mối tình này đã đến lúc kết thức và nàng phải trao kỉ vật để không còn xót thương về người tình cũ. Thúy kiều đã trao cho Vân 2 kỉ vật: “chiếc vành”- vòng, xuyến đeo tay và “bức tờ mây”- ghi lời thề nguyền/thư từ giữa 2 người. Kỉ vật này là minh chứng thiêng liêng cho tình yêu lứa đôi ngày xưa. Kèm với hành động trao kỉ vật, Thúy Kiều lại đưa ra một lời dặn dò “Duyên này thì giữ” nhưng “vật này của chung.”. Tình Kiều, Kim Trọng nay là tình riêng của Kim Trọng và Vân nhưng Kiều muốn rằng những kỉ vật này là “của chung” 3 người. Chúng ta thấy được bắt đầu có một sự mâu thuẫn ở trong bản thân Thúy Kiều. Trao duyên rồi thì nàng phải trao hết tất cả kỉ vật, chối bỏ hết những thứ thuộc về tình yêu đó, nhưng không nàng vẫn xót xa, lưu luyến vì mối tình này quá sâu đậm. Lời dặn dò gợi lên tâm trạng Kiều đầy mâu thuẫn giữa hành động và lí trí. Một mặt Kiều khẩn khoản, van nài Vân thay mình lấy Kim Trọng, một mặt trao kỉ vật lại thấy mình cũng có một phàn trong đó nên níu giữ. Hai mặt đối lập này cho thấy được Kiều chỉ có thể trao duyên nhưng tình không thể trao. Câu thơ hàm ý sự đau xót của Thúy Kiều khi phải chia tay với kỉ vật tình yêu. Sau khi trao kỉ vật cho em, Thúy Kiều tưởng tượng ra cảnh em mình “nên vợ nên chồng” với Kim Trọng- một tương lai hạnh phúc, đầm ấm. Đối lập với tương lai của em, tương lai của Kiều là một “người mệnh bạc”, số phận không may mắn, không thoát khỏi định mệnh chết hận, chết oan. Kiều đang dự đoán tương lai u ám, tăm tối của bản thân. “Phím đàn”, “mảnh hương” ở đây chính là việc đốt hương, gảy đàn của Thúy Kiều và Kim Trọng trong đêm thề nguyền, đây cũng chính là kỉ vật minh chứng cho đêm trăng thề nguyền. Bây giờ Kiều đã vĩnh viễn “mất người”, mất đi hạnh phúc lứa đôi nhưng “của tin”- sự tin tưởng Kiều, Trọng dành cho nhau vẫn còn đó. Mâu thuẫn trong lòng Kiều lại tiếp tục tăng cao xoay quanh quá khứ tươi đẹp (phím đàn, mảnh hương nguyền ngày xưa) với tương lai tan vỡ (Kiều vẽ ra cảnh Vân cùng Kim Trọng nên vợ nên chồng còn bản thân thì bạc mệnh, hẩm hiu). Lòng Kiều chất chứa bao đau đớn, giằng xé, chua chát. Mặc dù ở đây, Kiều vẫn đang đối thoại với em mình, vẫn đang nói chuyện với Vân nhưng dần dần Kiều quên đi sự hiện diện của em mình và bắt đầu chuyển sang độc thoại, nói với chính bản thân mình: “Mai sau dù có bao giờ. Đốt lò hương ấy so tơ phím này. Trông ra ngọn cỏ lá cây. Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Hồn còn mang nặng lời thề. Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt khuất lời. Rưới xin giọt nước cho người thác oan.” “Mai sau” đó là một tương lai chắc chắn cố định sẽ xả ra nhưng lại đặt cạnh “dù có bao giờ”- một giả định không có thật đã tạo nên một mâu thuẫn mới, nói ra được nỗi lòng tan tác của kẻ thấy trước tương lai mà cứ mắc kẹt mãi ở quá khứ. Kiều vẫn đang vương chặt với tiếng tơ trên phím đàn, với mùi hương mảnh trầm. Hình ảnh Thúy Kiều trong tương lai: “hiu hiu gió”, “hồn”, “Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “người thác oan”. Đây đều là những hình ảnh tượng trưng cho người đã chết, cho linh hồn đã khuất, gợi ra tương lai thảm khốc, nghiệt ngã của Kiều. Người ta cho rằng linh hồn tồn tại trong thể xác, khi không còn thì trở về trong làn gió thông qua ngọn cỏ lá cây. Hồn Kiều trở về khi Vân, Trọng tiếp tục đàn trên phím đàn ngày xưa, đốt mảnh hương trầm ấy. Tức là nàng sẽ trở về khi những kỉ niệm ngày xưa tiếp tục được vang lên. Cũng chính vì tình yêu quá sâu nặng nên linh hồn Thúy Kiều còn “mang nặng lời thề”, không thể siêu thoát được. “Nát thân bồ liễu” gợi lên hình ảnh thân xác tàn tạ, bị phá hủy của người phụ nữ yếu đuối- một hình ảnh quá thảm khốc. Hình ảnh ấy lại đi kèm với “đền nghì trúc mai”. Có thể hiểu đây là đáp ơn nghĩa tình cảm lứa đôi hoặc đáp ơn nghĩa với quân tử- Kim Trọng. Kiều nguyện dù chết thì hồn cũng quyết báo đáp đền ơn với người đã giữ trọn lời thề với nàng. Kiều vẽ ra 2 thế giới cách biệt: âm, dương. Đây cũng là thế giới cách biệt giữa nàng với em và Kim Trọng; đó là sự tuyệt vọng, tủi thân, đau đớn của Kiều khi biết rằng tương lai không thể nào gặp lại Kim Trọng nữa. “Người thác oan”là người chết vì oan ức, Thúy Kiều ám chỉ việc mình sẽ chết trong tương lai là do kẻ bán tơ kia vu oan cho gia đình Kiều, khiến Thúy Kiều phải đặt trong tình cảnh khó khăn. Đồng thời vạch ra tương lai gắn với cái chết không hề thanh thản, yên bình, linh hồn nàng vẫn còn oan ức. Bản thân nàng chết đi đâu phải là việc nàng mong muốn mà vì người khác đã hãm hại, đẩy nàng vào tình cảnh đó. Qua đó ta khái quát được những người phụ nữ trong xã hội xưa hay những con người tài hoa là họ bị đẩy vào những số phận mà học không hề mong muốn, những số phận đau đớn, bất hạnh. “Rưới xin giọt nước” thể hiện sự cầu xin, mong muốn nhận được sự thương cảm, thấu hiểu của Kim Trọng để linh hồn được giải oan. Bản thân Kiều khi hiện hồn trở về, không hề mong muốn Vân bày cho mình vật lễ gì cao siêu, nàng chỉ xin “giọt nước”- hình ản biểu trưng cho sự thanh khiến, mong muốn được giải oan, thoát khỏi những oan nghiệt kia để có thể siêu thoát. Qua những hình ảnh của Thúy KIều trong tương lai do nàng tưởng tượng ra ta thấy được sự hoang mang, tuyệt vọng, hoảng loạn đến cùng cực của Kiều khi hình dung về tương lai mờ mịt đã đẩy nàng vào trạng thái nửa tỉnh nửa mơ. Nàng vẫn đang sống và nói chuyện với em mình về việc trao duyên thế nhưng vẫn cứ mải mê trong những tưởng tượng về cuộc đời mình sau này sẽ chết vì oan ức. Thông qua việc dặn dò Thúy Vân, Kiều bộc lên một khát vọng hạnh phúc dù mong manh về sự sum họp, hội ngộ; đồng thời bật lên tài năng miêu tả mâu thuẫn nội tâm tinh tế trong Kiều của Nguyễn Du. Tám câu thơ cuối là hình ảnh Kiều đã trở về thực tại và đau xót khi tiếp tục nhớ tới Kim Trọng: “Bây giờ trâm gãy gương tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Phân sao phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” “Bây giờ” nối tiếp mạch thời gian của tâm trạng, chuyển mạch suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật từ tương lai của cõi chết về với thực tại tiếp diễn, nhấn mạnh tâm trạng hiện tại. Kiều bắt đầu ý thức về cái hiện hữu của bản thân. “Trâm gãy gương tan” ám chỉ người đẹp đã chết, tình duyên dang dở. Thúy Kiều xin Vân nhận cho nàng gửi “trăm lạy” vì đã phụ tình. Đây là sự xót xa, đau đớn, choáng ngợp trước nỗi đau hiện hữu của bản thân khi không thể chống chọi lại được bi kịch này. Nàng hiểu rằng mối tình đầu đành phải kết thúc. Kiều than rằng “phận bạc như vôi”, số phận bản thân sao quá hẩm hiu, “nước chảy hoa trôi”- cuộc đời lênh đênh, vô định, không biết đi đâu về đâu. Qua những ý thức thực tại, ta cảm nhận được tâm trạng vô cùng đau đớn của Kiều khi ý thức rõ về thân phận bạc bẽo và tình cảm mất mát, không thể hàn gắn. Sau khi đã ý thức rõ về thực tại, Thúy Kiều cất lên tiếng khóc hướng trực tiếp đến Kim Trọng: “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” Thán từ “ôi”, “hỡi” chỉ sự đau đớn, than khóc, kêu gào kết hợp điệp từ “Kim lang” để nhấn mạnh tình nghĩa sâu đậm hướng về Kim Trọng. Nhịp thơ 3/3 kết hợp 2 dấu chấm than bộc bạch một tiếng khóc nnác lên đầy đau đơn, tuyệt vọng của Thúy Kiều. “Thôi thôi” thể hiện sự xót xa, day dứt, bế tắc, tuyệt vọng vì lời trao duyên đã biến thành lời trăn trối, tưởng như Nguyễn Du cũng đã đứt từng khúc ruột để trao duyên. Xưng hô của Kiều “thiếp –chàng”, mặc dù đã dứt duyên nhưng trong cách xung hô ta vẫn thấy được tình cảm gắn bó, tha thiết về mối tình đầu. Bản thân Kiều đã tự trách mình đã “phụ” người yêu, đã phản bội bởi trong hoàn cảnh ấy Thúy Kiều làm sao không thể trở thành kẻ phụ bạc được. Nhịp thơ 2/4/2 kết hợp dấu chấm than đã ánh lên tình cảnh Kiều đau đớn đến tột độ nhưng vẫn sáng ngời nhân cách cao thượng, vị tha, hi sinh cao quý. Qua đoạn trích “Trao duyên” ta thấy được tình yêu sâu nặng luôn hướng về người yêu của Thúy Kiều; Bi kịch- hi sinh hạnh phúc cá nhân; vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách, tấm lòng vị tha của Kiều; tư tưởng nhân văn: khẳng định ý thức cá nhân và khát vọng tình yêu. Đồng thời ngợi ca tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du trong việc miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật và sử dụng ngôn ngữ miêu tả nội tâm: đối thoại, độc thoại.. Đoạn trích mang chủ nghĩa nhân đạo độc đáo. Tuy tình yêu đã tan vỡ nhưng khát vọng tình yêu của Kiều được khẳng định. Ý thức cá nhân của Kiều thông qua việc Kiều thiết tha với tình yêu riêng tư. Biết rằng phải chọn chữ hiếu nhưng với những người trong xã hội phong kiến xưa, khi chọn chưc hiếu họ sẽ không còn màng đến chữ tình còn Kiều thì vẫn đau đáu với tình yêu, nàng nhen nhóm được ý thức cá nhân trong con người, rằng mình cũng là một cá thể, cũng có quyền này quyền kia. Ngoài ra Nguyễn Du còn để cho nhân vật sống trong đau khổ hiện tại, không ru ngủ nhân vật, không để nhân vật sống trong hoài bão. Đây cũng chính là chủ nghĩa nhân đạo vì nếu cú cho nhân vật ngủ trong giấc mơ, không nhận ra thực tại của mình thì làm sao có thể phấn đấu vươn lên để có một cuộc sống, tương lai tốt đẹp hơn. Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” bậc nhất trong thiên “Đoạn trường tân thanh” của cuộc đời Kiều. Với con mắt tinh đời “trông thấu sáu cõi nhân gian”, Nguyễn Du đã tái hiện lại cuộc trao duyên với biết bao cảm xúc ngổn ngang ấy. Qua đó, ta càng thêm hiểu hơn cho Thúy Kiều hiểu hơn cho quyết định trao duyên những tưởng đầy vô lý ấy nhưng lại thấm đượm một tình yêu chân thành mà nàng dành cho Kim Trọng.