Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 8

PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM TRẠNG THÚY KIỀU

TRONG ĐOẠN TRÍCH TRAO DUYÊN


“Cảo thơm lần giở trước đèn
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa
Trăm năm trong cõi người ta
Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau
Khen tài nhả ngọc phun châu
Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình.”
Nhắc đến Nguyễn Du là nhắc đến một đại thi hào lỗi lạc của thơ ca trung
đại Việt Nam. Không chỉ có đóng góp lớn cho văn học nước nhà ông còn
được cả thế giới biết đến với thi phẩm Truyện Kiều. Có thể nói Nguyễn Du
chính là một hiện tượng của nền văn học Việt Nam nói riêng và của thế giới
nói chung. Nguyễn Du có tên chữ là Tố Như hiệu là Thanh Hiên sinh năm
1765 mất năm 1820, quê tại làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân Tỉnh Hà Tĩnh.
Sinh thời ông có một nền tảng gia đình vô cùng danh giá, nhiều đời làm
quan và có truyền thống văn học đồ sộ.
Tuổi thơ ông trải qua một cách đầy biến động, phải tha hương nhiều nơi lúc
thì về quê cha, khi về quê mẹ và có một thời gian phải phiêu dạt tận quê vợ
ở Thái Bình, cộng thêm vào giai đoạn đó lịch sử nước nhà có nhiều rối ren
các thế lực phong kiến chém giết và tàn sát lẫn nhau. Những yếu tố đó đã
tác động không nhỏ đến tình cảm cũng như nhận thức của nhà thơ. Có thể
nói chính cuộc sống chìm nổi cùng với thời thế đầy biến động, phiêu bạt
nhiều nơi đã là những thứ hồ để tạo nên một Nguyễn Du có học vấn sâu
rộng, trái tim chất chứa yêu thương và cảm thông sâu sắc với những kiếp
người nghèo khổ. Ông cũng được coi như 1 trong năm người giỏi nhất nước
Nam thời bấy giờ. Ông để lại cho đời cả một kho tàng văn học phong phú
với khoảng hơn ngàn tác phẩm bao gồm cả chữ hán và chữ nôm. Trong đó
chữ Hán có Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài, Bắc hành tạp lục 125 bài, Nam
trung tạp ngâm 40 bài... chữ Nôm có văn chiêu hồn, Văn tế, và tiêu biểu là
tác phẩm Truyện Kiều hay còn có tên gọi khác là Đoạn trường Tân Thanh.
Truyện Kiều hay còn có tên gọi là Đoạn trường Tân Thanh được nhà thơ
sáng tác vào cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19 ( 1805 -1809). Đây là một tác phẩm
tiêu biểu viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện tiểu thuyết của Thanh Tâm
tài nhân ( Trung Quốc) tuy nhiên đã được sáng tạo tài tình cải biến để phù
hợp với xã hội Việt Nam. Đây là câu truyện được kể bằng 3254 câu thơ chia
làm 3 phần chính: Gặp gỡ và đính ước, Gia biến và lưu lạc, Đoàn tụ.Thực ra
trong đó có vô vàn tiếng kêu thương. Mà Trao duyên (thuộc phần Gia biến
và lưu lạc) có lẽ là tiếng kêu đứt ruột đầu tiên khởi đầu một chuỗi dài đau
thương chất chồng lên cuộc đời truân chuyên của một người con gái tài sắc.
Thuý Kiều đứt ruột trao duyên. Và Nguyễn Du cũng đã viết nên cảnh Trao
duyên bằng những lời thơ tan nát can tràng. Dường như 4 từ “Đoạn trường
tân thanh” đã được diễn tả gần như hoàn toàn trong đoạn trích “Trao
duyên” khi mà diễn biến tâm trạng bên trong và bên ngoài Thúy Kiều đang
phát triển phức tạp nhất, kịch liệt nhất. Đoạn trích “Trao duyên” từ câu
723-756 của “Truyện Kiều” là tiếng lòng đau xót và tê tái, tâm trạng giằng
xé đầy đau khổ của Thúy Kiều khi phải chia lìa hạnh phúc của mình.
Mở đầu đoạn trích là hai câu thơ:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.
Trong cuộc sống đời thường, việc chị nhờ cậy em là điều gì đó rất bình
thường, thế nhưng ở đây, trong lời Thúy Kiều nhờ cậy Thúy vân có điều gì
đó rất bất thường. Kiều đã sử dụng hai từ “cậy” và “chịu” thay vì hai từ
“nhờ” và “nhận”. Từ “cậy” ở đây mang hàm nghĩa gửi gắm, tin tưởng, trông
mong, hi vọng nơi quan hệ ruột thịt. Thanh trắc truyền tải nặng nề sự quằn
quại, đau đớn, khó nói. Có thể thấy so với từ “nhận” thì cậy mang sức nặng
của niềm tin hơn, chỉ có em là người mà chị tin cậy vào lúc này. “Nhận” có
phần nào tự nguyện, người nhận có thể từ chối yêu cầu nhưng đối với
“chịu”, đây là một thỉnh cầu bắt buộc, không thể không nhận. “Chịu” mang
hàm ý nài ép nhiều quá, nể mà phải nhận, buộc Vân phải chịu. Cũng trong
lời ấy, Thúy Kiều đã lồng ghép vào các động từ như “ngồi”, “lạy”, “thưa”.
Đây đều là những thái độ đối với người bề trên hoặc với những người có ơn
với mình; đều là những hành động đột ngột, bất thường. Ở đây không còn
tồn tại vai vế chị- em mà giống hệt hành động của người chịu ơn đối với
người ban ơn, những hành động này hàm ẩn sự biết ơn đến khắc cốt ghi
tâm. Hai câu đầu đoạn trích, ta nhận ra dù trong hoàn cảnh tan nát lòng thì
Thúy Kiều vẫn dung những lời lẽ đoan trang, tế nhị, chính xác, chặt chẽ;
đồng thời cũng cho thấy tài năng sử dụng ngôn ngữ của bậc thầy Nguyễn
Du.
Mười hai câu tiếp theo là lời Thúy Kiều kể với Thúy Vân về chuyện tình giữa
mình và Kim Trọng, tái hiện cảnh ngộ gia đình, đồng thời dặn dò em và trao
kỉ vật cho Thúy Vân:

”Giữa đường đứt mối tương tư.


Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ.
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Chiếc vành với bức tờ mây.
Duyên này thì giữ, vật này của chung.”
Ở hai câu đầu, tình yêu của Kiều và Kim Trọng đang chớm nở, yên bình thì
“đứt gánh”. “Gánh tương tư” là gánh nặng nhớ nhung, khắc khoải; “đứt”
biểu trưng cho mối tình dở dang, đứt quãng, hoàn cảnh éo le khi duyên
phận lỡ dở. Hình ảnh “keo loan”- thứ keo chế bằng huyết chim loan, dung
để gắn kết các vật. Đây chính là một điển tích để chỉ tình cảm gắn bó sâu
nặng của Thúy Kiều với Kim Trọng. “Tơ thừa” ở đây chính là mối tình giữa
Kim Trọng và Thúy Kiều. Thế nhưng ở đây, “chắp mối”là sự xót xa của Kiều,
Kiều hiểu Vân phải chịu nhiều thiệt thòi khi thay mình nối duyên với Kim
Trọng. Kim Trọng đến với Kiều là cái duyên nhưng Kim Trọng đến với Thúy
Vân lại là tơ thừa, sự khác nhau đó cho thấy được hoàn cảnh bắt buộc của
Thúy Vân khi phải nhận lời của người chị. “Mặc em” là sự ủy thác, phó mặc
tùy em; vừa có ý mong muốn vừa có ý bắt buộc Thúy Vân phải nhận lời.
Qua đây chúng ta có thể thấy được sự dứt khoát đoạn tuyệt mối tình đầu
của Thúy Kiều, từ đây mối tình đầu đã “mặc em”, không còn liên quan đến
Kiều nữa. Lời trao duyên ở đây thể hiện kiểu là một người chu toàn, thấu
hiểu sâu sắc cho tình cảnh của Vân.
Sau khi đã giải bày, Thúy Kiều đã đưa ra những lí lẽ để thuyết phục, ép
buộc em mình phải nhận lời trao duyên. Thúy Kiều kể lại những kỉ niệm gắn
liền với mối tình đầu. “Quạt ước”- tặng quạt ngỏ ý hẹn ước trăm năm;
“chén thề”- uống rượu thề nguyền chung thủy. Những kỉ niệm này càng
đẹp thì lòng Kiều càng đau bởi nàng đang phải lìa xa mối tình đẹp đẽ đó.
“Ngày”, “đêm” thể hiện một mối tình sâu đậm, gắn bó bền chặt với Kim
Trọng. Khi ngày, đêm luân phiên như thế, trong đầu Kiều lúc nào cũng nghĩ
đến Kim Trọng, có nghĩa tình cảm Thúy Kiều dành cho Kim Trọng rất lớn.
Điệp từ “khi” cho thấy những kỉ niệm đẹp đẽ này xoáy sâu trong lòng Thúy
Kiều, tình nghĩa sâu đậm đó không thể quên được tức khắc. Một tai họa đột
ngột ập đến với gia đình Thúy Kiều- “sóng gió bất kì”- cha và em bị buộc tội,
phải chịu những hành hạ đau đớn. Trong hoàn cảnh đó bắt buộc Thúy Kiều
phải hành động. “Hiếu tình” là hiếu với cha mẹ, tình với người yêu. Trong
quan niệm xưa, bản thân bất kì một ai cũng đề cao chữ hiếu hơn. Cho nên
khi phải lựa chọn giữa hiếu và tình thì đây chính là bi kịch. Và cuối cùng
nàng đã chọn hiếu, để bán mình chuộc lại cha vâf em trai của mình. Sau khi
chọn chữ hiếu, nàng mới thấy được sự xót xa của mình dành cho người yêu
khi không thể đền đáp trọn vẹn nghĩa tình đã thề nguyện. Hiếu và tình vốn
là hai sự việc không thể đặt lên trên bàn cân, vì khi đó người ở giữa sẽ rất
khó lựa chọn, phần lớn sự chiến thắng đều giành chiến thắng. Từ bi kịch
này ta thấy rằng hạnh phúc đang êm đềm, kéo dài thì hoàn cảnh buộc Kiều
phải đứng ra bảo vệ gia đình. Vì Thúy Kiều đã chọn hiếu thế nên nàng mong
Vân nối duyên trả nghĩa cho Kim Trọng. “Ngày xuân”- hình ảnh ẩn dụ chỉ
tuổi trẻ- Vân vẫn còn trẻ, tương lai phía trước còn dài, đủ thời gian để giứp
chị trả nghĩa cho Kim Trọng. “Tình máu mủ” ở đây là tình cảm ruột thịt, chị
em thiêng liêng. Dựa vào tuổi tác, mối quan hệ gia đình, Thúy Kiều mong
em mình tiếp tục “lời nước non”- (ẩn dụ) tình yêu này. Kiều mong Vân chấp
nhận sự gán duyên này để tiếp tục với lời thề của chàng Kim. “Thịt nát
xương mòn” gợi ra cái chết bi thảm, đau đớn, bất hạnh. Thúy Kiều bắt đầu
nhận ra được tương lại không mấy êm đẹp của bản thân. “Ngậm cười chín
suối” tức vong hồn Kiều nơi âm phủ cũng được an ủi, thơm lây từ sự hi sinh
đầy ân đức của Vân. Thúy Kiều vừa tưởng tượng ra cái chết của mình vừa
gợi sự thương cảm ở Thúy Vân nhằm thuyết phục Thúy Vân. Qua lời dặn dò
em của Thúy Kiều, ta thấy được tác giả đã sử dụng thành ngữ, điển tích,
ngôn ngữ có chọn lọc, chính xác, độc đáo để tăng tính thuyết phục của lời
nói về phương tiện tình cảm. Đồng thời qua đó, ta cảm nhận được Thúy
Kiếu là một người con hiếu thảo, có đức hi sinh và lòng vị tha, nặng tìnhn
nặng nghĩa; tâm trạng Kiều chính là biết ơn chân thành, yên tâm, thanh
thản và đặt lí trí lên trên tình cảm của bản thân. Lúc này nàng bắt đầu ý
thức được rằng mối tình này đã đến lúc kết thức và nàng phải trao kỉ vật để
không còn xót thương về người tình cũ. Thúy kiều đã trao cho Vân 2 kỉ vật:
“chiếc vành”- vòng, xuyến đeo tay và “bức tờ mây”- ghi lời thề nguyền/thư
từ giữa 2 người. Kỉ vật này là minh chứng thiêng liêng cho tình yêu lứa đôi
ngày xưa. Kèm với hành động trao kỉ vật, Thúy Kiều lại đưa ra một lời dặn
dò “Duyên này thì giữ” nhưng “vật này của chung.”. Tình Kiều, Kim Trọng
nay là tình riêng của Kim Trọng và Vân nhưng Kiều muốn rằng những kỉ vật
này là “của chung” 3 người. Chúng ta thấy được bắt đầu có một sự mâu
thuẫn ở trong bản thân Thúy Kiều. Trao duyên rồi thì nàng phải trao hết tất
cả kỉ vật, chối bỏ hết những thứ thuộc về tình yêu đó, nhưng không nàng
vẫn xót xa, lưu luyến vì mối tình này quá sâu đậm. Lời dặn dò gợi lên tâm
trạng Kiều đầy mâu thuẫn giữa hành động và lí trí. Một mặt Kiều khẩn
khoản, van nài Vân thay mình lấy Kim Trọng, một mặt trao kỉ vật lại thấy
mình cũng có một phàn trong đó nên níu giữ. Hai mặt đối lập này cho thấy
được Kiều chỉ có thể trao duyên nhưng tình không thể trao. Câu thơ hàm ý
sự đau xót của Thúy Kiều khi phải chia tay với kỉ vật tình yêu.
Sau khi trao kỉ vật cho em, Thúy Kiều tưởng tượng ra cảnh em mình “nên
vợ nên chồng” với Kim Trọng- một tương lai hạnh phúc, đầm ấm. Đối lập
với tương lai của em, tương lai của Kiều là một “người mệnh bạc”, số phận
không may mắn, không thoát khỏi định mệnh chết hận, chết oan. Kiều đang
dự đoán tương lai u ám, tăm tối của bản thân. “Phím đàn”, “mảnh hương”
ở đây chính là việc đốt hương, gảy đàn của Thúy Kiều và Kim Trọng trong
đêm thề nguyền, đây cũng chính là kỉ vật minh chứng cho đêm trăng thề
nguyền. Bây giờ Kiều đã vĩnh viễn “mất người”, mất đi hạnh phúc lứa đôi
nhưng “của tin”- sự tin tưởng Kiều, Trọng dành cho nhau vẫn còn đó. Mâu
thuẫn trong lòng Kiều lại tiếp tục tăng cao xoay quanh quá khứ tươi đẹp
(phím đàn, mảnh hương nguyền ngày xưa) với tương lai tan vỡ (Kiều vẽ ra
cảnh Vân cùng Kim Trọng nên vợ nên chồng còn bản thân thì bạc mệnh,
hẩm hiu). Lòng Kiều chất chứa bao đau đớn, giằng xé, chua chát.
Mặc dù ở đây, Kiều vẫn đang đối thoại với em mình, vẫn đang nói chuyện
với Vân nhưng dần dần Kiều quên đi sự hiện diện của em mình và bắt đầu
chuyển sang độc thoại, nói với chính bản thân mình:
“Mai sau dù có bao giờ.
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây.
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề.
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời.
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”
“Mai sau” đó là một tương lai chắc chắn cố định sẽ xả ra nhưng lại đặt cạnh
“dù có bao giờ”- một giả định không có thật đã tạo nên một mâu thuẫn
mới, nói ra được nỗi lòng tan tác của kẻ thấy trước tương lai mà cứ mắc kẹt
mãi ở quá khứ. Kiều vẫn đang vương chặt với tiếng tơ trên phím đàn, với
mùi hương mảnh trầm. Hình ảnh Thúy Kiều trong tương lai: “hiu hiu gió”,
“hồn”, “Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “người thác oan”.
Đây đều là những hình ảnh tượng trưng cho người đã chết, cho linh hồn đã
khuất, gợi ra tương lai thảm khốc, nghiệt ngã của Kiều. Người ta cho rằng
linh hồn tồn tại trong thể xác, khi không còn thì trở về trong làn gió thông
qua ngọn cỏ lá cây. Hồn Kiều trở về khi Vân, Trọng tiếp tục đàn trên phím
đàn ngày xưa, đốt mảnh hương trầm ấy. Tức là nàng sẽ trở về khi những kỉ
niệm ngày xưa tiếp tục được vang lên. Cũng chính vì tình yêu quá sâu nặng
nên linh hồn Thúy Kiều còn “mang nặng lời thề”, không thể siêu thoát
được. “Nát thân bồ liễu” gợi lên hình ảnh thân xác tàn tạ, bị phá hủy của
người phụ nữ yếu đuối- một hình ảnh quá thảm khốc. Hình ảnh ấy lại đi
kèm với “đền nghì trúc mai”. Có thể hiểu đây là đáp ơn nghĩa tình cảm lứa
đôi hoặc đáp ơn nghĩa với quân tử- Kim Trọng. Kiều nguyện dù chết thì hồn
cũng quyết báo đáp đền ơn với người đã giữ trọn lời thề với nàng. Kiều vẽ
ra 2 thế giới cách biệt: âm, dương. Đây cũng là thế giới cách biệt giữa nàng
với em và Kim Trọng; đó là sự tuyệt vọng, tủi thân, đau đớn của Kiều khi
biết rằng tương lai không thể nào gặp lại Kim Trọng nữa. “Người thác
oan”là người chết vì oan ức, Thúy Kiều ám chỉ việc mình sẽ chết trong
tương lai là do kẻ bán tơ kia vu oan cho gia đình Kiều, khiến Thúy Kiều phải
đặt trong tình cảnh khó khăn. Đồng thời vạch ra tương lai gắn với cái chết
không hề thanh thản, yên bình, linh hồn nàng vẫn còn oan ức. Bản thân
nàng chết đi đâu phải là việc nàng mong muốn mà vì người khác đã hãm
hại, đẩy nàng vào tình cảnh đó. Qua đó ta khái quát được những người phụ
nữ trong xã hội xưa hay những con người tài hoa là họ bị đẩy vào những số
phận mà học không hề mong muốn, những số phận đau đớn, bất hạnh.
“Rưới xin giọt nước” thể hiện sự cầu xin, mong muốn nhận được sự thương
cảm, thấu hiểu của Kim Trọng để linh hồn được giải oan. Bản thân Kiều khi
hiện hồn trở về, không hề mong muốn Vân bày cho mình vật lễ gì cao siêu,
nàng chỉ xin “giọt nước”- hình ản biểu trưng cho sự thanh khiến, mong
muốn được giải oan, thoát khỏi những oan nghiệt kia để có thể siêu thoát.
Qua những hình ảnh của Thúy KIều trong tương lai do nàng tưởng tượng ra
ta thấy được sự hoang mang, tuyệt vọng, hoảng loạn đến cùng cực của Kiều
khi hình dung về tương lai mờ mịt đã đẩy nàng vào trạng thái nửa tỉnh nửa
mơ. Nàng vẫn đang sống và nói chuyện với em mình về việc trao duyên thế
nhưng vẫn cứ mải mê trong những tưởng tượng về cuộc đời mình sau này
sẽ chết vì oan ức. Thông qua việc dặn dò Thúy Vân, Kiều bộc lên một khát
vọng hạnh phúc dù mong manh về sự sum họp, hội ngộ; đồng thời bật lên
tài năng miêu tả mâu thuẫn nội tâm tinh tế trong Kiều của Nguyễn Du.
Tám câu thơ cuối là hình ảnh Kiều đã trở về thực tại và đau xót khi tiếp tục
nhớ tới Kim Trọng:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
“Bây giờ” nối tiếp mạch thời gian của tâm trạng, chuyển mạch suy nghĩ,
tâm trạng của nhân vật từ tương lai của cõi chết về với thực tại tiếp diễn,
nhấn mạnh tâm trạng hiện tại. Kiều bắt đầu ý thức về cái hiện hữu của bản
thân. “Trâm gãy gương tan” ám chỉ người đẹp đã chết, tình duyên dang dở.
Thúy Kiều xin Vân nhận cho nàng gửi “trăm lạy” vì đã phụ tình. Đây là sự
xót xa, đau đớn, choáng ngợp trước nỗi đau hiện hữu của bản thân khi
không thể chống chọi lại được bi kịch này. Nàng hiểu rằng mối tình đầu
đành phải kết thúc. Kiều than rằng “phận bạc như vôi”, số phận bản thân
sao quá hẩm hiu, “nước chảy hoa trôi”- cuộc đời lênh đênh, vô định, không
biết đi đâu về đâu. Qua những ý thức thực tại, ta cảm nhận được tâm trạng
vô cùng đau đớn của Kiều khi ý thức rõ về thân phận bạc bẽo và tình cảm
mất mát, không thể hàn gắn. Sau khi đã ý thức rõ về thực tại, Thúy Kiều cất
lên tiếng khóc hướng trực tiếp đến Kim Trọng:
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Thán từ “ôi”, “hỡi” chỉ sự đau đớn, than khóc, kêu gào kết hợp điệp từ
“Kim lang” để nhấn mạnh tình nghĩa sâu đậm hướng về Kim Trọng. Nhịp
thơ 3/3 kết hợp 2 dấu chấm than bộc bạch một tiếng khóc nnác lên đầy đau
đơn, tuyệt vọng của Thúy Kiều. “Thôi thôi” thể hiện sự xót xa, day dứt, bế
tắc, tuyệt vọng vì lời trao duyên đã biến thành lời trăn trối, tưởng như
Nguyễn Du cũng đã đứt từng khúc ruột để trao duyên. Xưng hô của Kiều
“thiếp –chàng”, mặc dù đã dứt duyên nhưng trong cách xung hô ta vẫn thấy
được tình cảm gắn bó, tha thiết về mối tình đầu. Bản thân Kiều đã tự trách
mình đã “phụ” người yêu, đã phản bội bởi trong hoàn cảnh ấy Thúy Kiều
làm sao không thể trở thành kẻ phụ bạc được. Nhịp thơ 2/4/2 kết hợp dấu
chấm than đã ánh lên tình cảnh Kiều đau đớn đến tột độ nhưng vẫn sáng
ngời nhân cách cao thượng, vị tha, hi sinh cao quý.
Qua đoạn trích “Trao duyên” ta thấy được tình yêu sâu nặng luôn hướng
về người yêu của Thúy Kiều; Bi kịch- hi sinh hạnh phúc cá nhân; vẻ đẹp tâm
hồn, nhân cách, tấm lòng vị tha của Kiều; tư tưởng nhân văn: khẳng định ý
thức cá nhân và khát vọng tình yêu. Đồng thời ngợi ca tài năng nghệ thuật
của Nguyễn Du trong việc miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật và sử dụng
ngôn ngữ miêu tả nội tâm: đối thoại, độc thoại..
Đoạn trích mang chủ nghĩa nhân đạo độc đáo. Tuy tình yêu đã tan vỡ
nhưng khát vọng tình yêu của Kiều được khẳng định. Ý thức cá nhân của
Kiều thông qua việc Kiều thiết tha với tình yêu riêng tư. Biết rằng phải chọn
chữ hiếu nhưng với những người trong xã hội phong kiến xưa, khi chọn
chưc hiếu họ sẽ không còn màng đến chữ tình còn Kiều thì vẫn đau đáu với
tình yêu, nàng nhen nhóm được ý thức cá nhân trong con người, rằng mình
cũng là một cá thể, cũng có quyền này quyền kia. Ngoài ra Nguyễn Du còn
để cho nhân vật sống trong đau khổ hiện tại, không ru ngủ nhân vật, không
để nhân vật sống trong hoài bão. Đây cũng chính là chủ nghĩa nhân đạo vì
nếu cú cho nhân vật ngủ trong giấc mơ, không nhận ra thực tại của mình
thì làm sao có thể phấn đấu vươn lên để có một cuộc sống, tương lai tốt
đẹp hơn.
Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” bậc
nhất trong thiên “Đoạn trường tân thanh” của cuộc đời Kiều. Với con mắt
tinh đời “trông thấu sáu cõi nhân gian”, Nguyễn Du đã tái hiện lại cuộc trao
duyên với biết bao cảm xúc ngổn ngang ấy. Qua đó, ta càng thêm hiểu hơn
cho Thúy Kiều hiểu hơn cho quyết định trao duyên những tưởng đầy vô lý
ấy nhưng lại thấm đượm một tình yêu chân thành mà nàng dành cho Kim
Trọng.

You might also like