Professional Documents
Culture Documents
Giao Trinh Hoa Sinh CDYT Mien Nam1
Giao Trinh Hoa Sinh CDYT Mien Nam1
HÓA SINH
(Dùng cho sinh viên Cao đẳng)
Hóa sinh học là khoa học nghiên cứu thành phần hóa học, cấu trúc và tính chất
các hợp phần của tế bào, nghiên cứu quá trình trao đổi chất và năng lượng trong cơ thể
sinh vật, hay nói khác là khoa học nghiên cứu cơ sở hóa học của sự sống.
Với mục tiêu cung cấp cho sinh viên kiến thức ở mức độ cơ chế phân tử của các
quá trình sống: cấu tạo hóa học và tính chất của các sinh chất cùng các con đường
chuyển hóa các chất này trong cơ thể sống như: cơ chế xúc tác của enzym; sự hô hấp
mô bào; các nguồn cung cấp và dự trữ, các con đường chuyển hóa năng lượng; các giai
đoạn trung gian trong sự thoái hóa và tổng hợp các chất glucid, lipid, protein và acid
nucleic; sự bảo tồn và truyền đạt thông tin di truyền...
Với các kiến thức trên sinh viên dễ dàng tiếp thu và hiểu sâu hơn các môn học
cơ sở khác và các môn chuyên ngành có liên quan. Bên cạnh ý nghĩa thực tiễn đó, hóa
sinh cũng giúp tạo nên ở người học một thế giới quan khoa học duy vật biện chứng.
Vì lần đầu biên soạn, mặc dù đã rất cố gáng nhưng chắc chắn còn nhiều thiếu
sót, kinh mong quý thầy cô, bạn đồng nghiệp đóng góp, xây dựng ý kiến để giáo trình
được hoàn thiện hơn.
MỤC LỤC
1
2.2. Phosphoryl hóa và khử phosphoryl hóa
3. Sự hô hấp của tế bào
4. Chu trình KREBS
Mục tiêu
Trình bày được định nghĩa về hóa sinh.
Trình bày được hóa sinh tĩnh, hóa sinh động.
Trình bày được vai trò hóa sinh trong y học.
1 ĐỊNH NGHĨA
Hóa sinh là môn học nghiên cứu về thành phần hóa học, cấu tạo, các tính chất vật
lý hóa học, chức năng sinh học của các chất trong cơ thể và quá trình chuyển hóa của
chúng trong cơ thể sống, là lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng sống bằng phương
pháp hóa học.
2 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Môn học hóa sinh được hình thành trên cơ sở của sinh học và hoá học. Nó còn liên
quan mật thiết với tế bào học vì hầu hết các phản ứng hoá học đều xảy ra ở tế bào. Tế bào
là đơn vị hợp thành của cơ thể sống, có những đặc điểm chung; nhưng tế bào của những
cơ thể khác nhau, tế bào của từng loại mô trong một cơ thể có sự khác biệt về cấu trúc và
chức năng. Chính những sự chuyên biệt của các tế bào và những quá trình tiến hoá tự
nhiên đã dẫn đến sự khác biệt đa dạng và tạo nên những quá trình hoá sinh đặc hiệu. Sự
sống là hiện tượng trao đổi chất liên tục, hiện tượng này liên quan mật thiết với các quá
trình chuyển hoá vật chất. Những quá trình này được điều chỉnh nhịp nhàng ăn khớp với
nhau, bảo đảm cho nội môi của cơ thể luôn ở trạng thái động, nhưng cũng luôn ở thể ổn
định.
Hoá sinh học gồm 2 phần: Hoá sinh tĩnh - Hoá sinh động.
Hóa sinh tĩnh: Nghiên cứu các chất cấu tạo có trong thành phần của cơ thể sinh
vật ở mức độ phân tử, nguyên tử dựa vào các phương pháp hóa, lý hiện đại. Hóa sinh
tĩnh gắn liền rất mật thiết với hoá hữu cơ. Đây chính là hóa sinh mô tả.
Hóa sinh động: Nghiên cứu các quá trình chuyển hoá, số phận của các chất khi
vào cơ thể, tính đặc hiệu của những phản ứng sinh học như phản ứng giữa enzym và
cơ chất, giữa hormon và các chất tiếp nhận, nghiên cứu về mặt hoá học của sự trao đổi
chất trong mối liên quan với toàn bộ cơ thể và môi trường xung quanh.
Hóa sinh tĩnh và động liên quan với nhau rất chặt chẽ - việc nghiên cứu các quá
trình hóa sinh học sẽ vô nghĩa nếu không có sự nghiên cứu các chất tham gia trong các
quá trình này.
3 LỊCH SỬ
Trước thế kỷ XX
Hoá sinh gắn liền với những thành tựu của các lĩnh vực nghiên cứu hóa hữu cơ, sinh
lý học, học, và một số ngành khoa học khác, các nghiên cứu hóa sinh đã bắt đầu từ thế
kỷ XVIII. Hàng loạt các hợp chất hữu cơ đã được tách ra từ thực vật và từ các tổ chức
động vật: acid citric (C6H8O7 thế lỏng tan trong nước và có mùi chanh va là thành phần
tạo nên vị chua của chanh), acid malic (C4H6O5 thế lỏng tan trong nước và có mùi táo
va là thành phần tạo nên vị chua của táo.) , acid tatric (C4H6O6 có vị nho ), acid oxalic,
urea và các alkaloid.
Năm 1828, Friedrich Wöhler điều chế được carbamid (urea) bằng phương pháp
nhân tạo từ các chất vô cơ.
Năm 1974, Lavoisier đã giải thích được cơ chế hoá học của sự hô hấp và sự cháy.
Tiếp theo các công trình chiết xuất, tinh chế và phân tích các chất hữu cơ là những
công trình nghiên cứu tổng hợp các chất hữu cơ.
Cuối thế kỷ 19, đã tìm ra những số liệu về cấu trúc hóa học của axit amin,
saccarit, lipit, bản chất của liên kết peptit, bắt đầu nghiên cứu axit nucleic.
Năm 1897, Eduard Buchner thành công trong việc lên men vô bào
Năm 1886, Charles Alexander MacMunn đã tìm được cytocrom tham gia hệ
thống vận chuyển điện tử ở sinh vật. Năm 1897, Eduard Buchner lần đầu tiên chiết
được enzym thô từ tế bào nấm men có khả năng thủy phân đường.
Từ thế kỷ XX đến nay
Nhiều phát minh và ứng dụng về hóa sinh được công nhận, xác định bản chất của
enzym là protein và kết tinh thành công urease (1926), chiết xuất được ATP (Fiske và
Subbarow, 1929), mô tả vai trò của ATP trong quá trình dự trữ và chuyển vận chuyển
năng lượng (Lipmann, 1940), …
Năm 1937, Hans Krebs tìm ra chu trình acid citric (chu trình Krebs), Lohmann và
Shuster tìm ra vitamin B1 là coenzym của pyruvat decarboxylase.
Năm 1944 Avery, Maclesa và Mac Carty chỉ ra DNA là cơ sở của sự di truyền,
mở đầu cho môn hóa sinh di truyền.
Từ năm 1950, cơ bản đã xác định các tính chất chủ yếu cuả các chất và con
đường chuyển hoá các chất trong cơ thể, nghiên cứu cấu trúc phân tử protein, axit
nucleic, liên quan cấu trúc – chức năng, tổng hợp được insulin.
Năm 1961, tìm ra mô hình điều hòa gen tổng hợp protein, các quá trình tổng hợp
purin, acid amin, glicid, lipid cũng được làm rõ.
Từ 1970, bắt đầu nghiên cứu tổng hợp gen bằng phương pháp hóa học và tiếp tục
nghiên cứu các quá trình sinh tổng hợp acid nucleic, protein, sự liên quan giữa biến đổi
di truyền và các bệnh lý y học.
Năm 1980, nghiên cứu hóa sinh của hệ thống miễn dịch học được công bố (Snell,
Bena Cerraf và Dausset) và giải thưởng Nobel cho công trình nghiên cứu gắn các mẫu
DNA của Paul Berg. Năm 1981 – 1982, tổng hợp thành công gen α-interferon gồn 514
cặp base được thực hiên bởi Leicester.
Năm 1997, công trình nghiên cứu về prion của Staley Prusiner được trao giải
Nobel y học, mở ra một khái niệm mới về “nhiễm khuẩn”, gây bệnh não thể xốp ở
người và động vật.
Trong quá trình phát triển, nhiều ngành nhỏ của hoá sinh đã ra đời. Về hoá sinh
một số chức năng hệ thống quan trọng có hoá sinh miễn dịch, hoá sinh di truyền, đặc
biệt một ngành mới gần đây đã xuất hiện đó là công nghệ hoá sinh. Các lĩnh vực nhỏ
của hoá sinh đã đóng góp một cách tích cực vào thành tích chung của hoá sinh.
4 NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CƠ THỂ SỐNG
4.1. Đặc điểm về thành phần hóa học trong cơ thể sống
Trong cơ thể sống, nước là thành phần quan trọng nhất, là nơi xảy ra các quá
trình hóa học đặc trưng cho sự sống. Ở người, nước chiếm 70% thể trọng (trong tế bào
50%, ngoài tế bào 20%).
Ngoài ra người ta đã phát hiện được hơn 60 nguyên tố có trong cơ thể sống, với
những lượng rất khác nhau. Trong đó, các nguyên tố C, H, O, N, S, P, Cl, Ca, Mg, K,
Na là những nguyên tố rất cần thiết cho sự sống, 11 nguyên tố này chiếm gần 100%
khối lượng toàn phần của động thực vật.
Trong tế bào và cơ thể sống, chủ yếu là các nguyên tố: C, H, O, N; một số nguyên
+ + ++ ++ -
tố thường gặp dưới dạng ion như: Na , Ka , Ca , Mg , Cl . Ngoài ra những nguyên tố
dạng vết được gọi là yếu tố vi lượng Fe, Cu, Co, Zn, Mn, Mo, … cũng có vai trò quan
trọng trong cơ thể sống.
4.2. Đặc điểm các phản ứng hóa học trong cơ thể sống
Đặc điểm chung của hầu hết các phản ứng hóa học trong cơ thể sống là đều có xúc
tác của enzym; xảy ra ở điều kiện nhiệt, áp suất bình thường; tốc độ nhanh và chính xác.
Nhiều phản ứng khác nhau cùng xảy ra trong một thời điểm, liên hệ với nhau
theo một trình tự xác định.
Cơ chế phản ứng tinh vi, phức tạp, được kiểm soát nghiêm ngặt.
Các sản phẩm của phản ứng, sản phẩm trao đổi, sản phẩm trung gian cũng đóng
vai trò trong cơ chế phản ứng, được gọi là cơ chế tự điều hòa.
5 VAI TRÒ CỦA HOÁ SINH
Những nghiên cứu sinh học ngày nay là nghiên cứu ở mức độ phân tử, hóa sinh
là khoa học nghiên cứu sự sống ở mức độ phân tử, nên có thể nói các chuyên ngành
nào của sinh học như động vật học, thực vật học, vi khuẩn học, sinh lý học, tế bào học,
mô phôi học ... đều cần phải trang bị kiến thức và kỹ thuật hoá sinh.
Trong miễn dịch học, xác định cấu trúc và chức năng của các kháng thể có bản
chất là protein nhờ vào các kỹ thuật hóa sinh.
Trong dược lý học, hóa sinh là cơ sở khoa học giúp con người hiểu sâu về cơ chế
tác dụng của thuốc ở mức độ dưới tế bào thông qua các tác dụng của thuốc (kích thích
hay kìm hãm một hay nhiều quá trình chuyển hóa) trên cơ thể sống. Từ đó có khả năng
hiểu chính xác hơn cơ chế tác dụng của thuốc.
Qua các nghiên cứu hóa sinh nội tiết, hóa sinh thần kinh, nhiều cơ chế tác dụng
của thuốc đã được biết và làm rõ, từ đó giúp cho việc nghiên cứu các loại thuốc mới có
tác dụng hiệu quả hơn trong điều trị. Bên cạnh đó, giúp con người hiểu rỡ hơn cơ chế
tác dụng của các thuốc chống virus, ung thư, kháng chuyển hóa, kháng hormon,....
Đối với y dược học, vấn đề chủ chốt nghiên cứu bệnh nguyên, bệnh lý, chẩn đoán
và điều trị bệnh cũng đều liên quan chặt chẽ đến hoá sinh, tức liên quan đến sự thay
đổi các phân tử bệnh lý xảy ra trong cơ thể và tìm những chất hoạt tính sinh học có tác
dụng phòng chống hoặc chữa khỏi bệnh. Hóa sinh đã đóng góp phần lớn trong việc
bảo về và không ngừng nâng cao sức khỏe con người trong việc phòng chống bệnh tật.
Cung cấp kiến thức giúp con người hiểu biết sâu xa nguyên nhân bệnh tật, giúp công
tác chẩn đoán, theo dõi bệnh tật chính xác, điều chỉnh liều lượng thuốc kịp thời nhờ sử
dụng tốt công cụ hóa sinh lâm sàng.
Chương 2. CÁC CHẤT XÚC TÁC SINH HỌC
(VITAMIN – ENZYM – HORMON)
Mục tiêu
Trình bày được cấu tạo và vai trò sinh học của vitamin tan trong nước và dầu.
Trình bày được định nghĩa và chức năng của hormon.
Trình bày được bản chất hóa học và tác dụng của hormon.
Trình bày được danh pháp và phân loại theo quốc tế của enzym.
Trình bày được thành phần cấu tạo của enzym.
ĐẠI CƯƠNG
1.1. Phản ứng hóa sinh
1.1.1. Định nghĩa
Phản ứng hóa sinh là tất cả các phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể sống. Phần
lớn, các phản ứng hóa sinh là phản ứng thuận nghịch do các enzym xúc tác.
Tập hợp các phản ứng hóa sinh chính là quá trình chuyển hóa các chất, đáp ứng 2
yêu cầu:
Tạo ra các chất căn bản xây dựng cơ thể Tạo hình.
Tạo năng lượng Tạo thân nhiệt.
Tạo công đảm bảo hoạt động sống.
1.1.2. Động hóa học
Các phản ứng hóa học được chia làm 2 loại
Phản ứng 1 chiều không thuận nghịch A B
Phản ứng 2 chiều chuận nghịch A B
Chất phản ứng k1 thuận Sản phẩm
A+B C+D
Sản phẩm k2 nghịch Chất phản ứng
trạng thái cân bằng động, phản ứng vẫn xảy ra theo hai chiều với tốc độ bằng nhau.
Với: v1 = v2
k1[A][B] = k2[C][D] k1 = [C][D] = Kcb
k2 [A][B]
Mỗi phản ứng thuận nghịch có hằng số cân bằng (Kcb) riêng.
Về mặt nhiệt động học: có 2 loại phản ứng
Phản ứng phát năng (về nhiệt độ, phản ứng tỏa nhiệt).
Phản ứng thu năng (về nhiệt độ, phản ứng thu nhiệt).
1.1.3. Năng lượng tự do
Năng lượng tự do là phần năng lượng có thể biến thành Công (năng lượng có thể
sử dụng được).
Xét phản ứng từ A B
Với năng lượng tự do của A, B là GA và GB (G: Gibbs)
Biến thiên năng lượng tự do: G = GB – GA (Công sinh ra)
Phản ứng thu năng là phản ứng không tự xảy ra theo chiều từ A B, chỉ xảy ra khi
được cung cấp đủ năng lượng (phản ứng tổng hợp trong hóa sinh)
Estron nữ.
5 Estrogen Estriol Buồng trứng - Phát triển niêm mạc tử cung
++
1 Tyrocalcitonin Tuyến giáp Giảm hàm lượng Ca trong máu
2 Oxytoxin (HGF) Tuyến yên Gây co dạ con, kích thích sinh
3 Vasopressin (ADH) Tuyến yên Tăng áp, chống bài tiết
4 Melanotropin (MSH) Tuyến yên Kích thích tăng sắc tố da
5 Somatotropin (STH) Tuyến yên Kích thích tăng trưởng, tăng TĐC
6 Corticotropin (ACTH) Tuyến yên Kích thích tuyến trên thận
Thyroid-Stimulating
7 Hormon (TSH) Tuyến yên Kích thích tuyến giáp
Insulin: được tiết từ tế bào β của tiểu đảo Langerhans của tuyến tụy. Khi lượng
đường trong máu cao, Insulin kích thích các quá trình tổng hợp và kìm hãm các quá
trình phân giải glycogen ở gan, mô mỡ. Insulin còn kích thích sự phân giải glucose,
làm giảm lượng đường trong máu, chống lại bệnh đái tháo đường.
Insulin có khối lượng phân tử là 5800 Dalton, gồm 2 chuỗi polypeptid liên
kết với nhau bằng 2 liên kết disunfit. Chuỗi A có 21 acid amin, chuỗi B có 30 acid
amin. Tiền chất của insulin là proinsulin và preproinsulin.
Glucagon: có tác dụng ngược với insulin. Khi lượng đường trong máu giảm
quá mức cho phép thì tuyến tuỵ sản sinh ra glucagon có tác dụng làm tăng lượng
đường trong máu nhờ kìm hãm quá trình tổng hợp glycogen.
Glucagon có khối lượng phân tử 3.500, gồm 29 gốc acid amin tạo thành chuỗi
polypeptid mạch thẳng.
4. ENZYM
4.1. Đại cương
Enzym có bản chất là protein, do mọi tế bào sản xuất ra, do đó nó mang tính
chất của protein. Enzym có khả năng xúc tác đặc hiệu cho các phản ứng hóa học, thúc
đẩy phản ứng xảy ra mà không có mặt trong sản phẩm cuối cùng.
Khả năng xúc tác của enzym rất lớn, có thể làm tăng nhanh phản ứng hàng triệu
lần với liều lượng rất thấp.
CO2 + H2O H2CO3
Enzym xúc tác phản ứng là carbonic anhydratase, một phân tử enzym hydrat hóa
5
10 phân tử CO2 trong 1 giây tăng tốc độ phản ứng lên 10 triệu lần.
Enzym không làm thay đổi hệ số cân bằng mà chỉ làm cho phản ứng mau đạt đến
trạng thái cân bằng.
Enzym có tính đặc hiệu (chuyên biệt) rất cao, nghĩa là xúc tác những phản ứng
nhất định với những cơ chất nhất định.
Tinh bột α-Amylase Maltose, Glucose Maltase Glucose
4.2. Cách gọi tên và phân loại enzym
4.2.1. Cách gọi tên: 4 cách
Tên cơ chất + tiếp vĩ ngữ ase. Ví dụ: urease (urê), proteinase (protein),…
Tên tác dụng + tiếp vĩ ngữ ase. Ví dụ: oxidase (tác dụng oxy hóa),
aminotransferase (trao đổi amin enzym), decarboxylase (khử nhóm CO2),…
Tên cơ chất, tác dụng + tiếp vĩ ngữ ase. Ví dụ: lactat dehydrogenase (khử hydro
trên cơ chất lactat), …
Tên thường gọi : cách gọi tên này không có tiếp vĩ ngữ ase. Ví dụ : pepsin,
trypsin, chymotrypsin,…
4.2.2. Phân loại
Dựa vào tính đặc hiệu phản ứng của enzym, người ta chia enzym ra làm 6 lớp.
Mỗi lớp chia thành nhiều tổ (dưới lớp), mỗi tổ chia thành nhiều nhóm (siêu lớp).
Oxydoreductase: Xúc tác các phản ứng oxi hoá-khử. Gồm các dưới lớp:
-
Dehydrogenase: Sử dụng các phân tử không phải oxy là chất nhận e . Ví dụ: lactat
dehydrogenase…
Oxidase: Sử dụng oxy là chất nhận e nhưng không tham gia vào thành phần cơ
chất. Ví dụ: cytochrom oxidase, xanthin oxidase…
Reductase: Đưa H và e vào cơ chất. Ví dụ: -cetoacyl -ACP reductase
Catalase : 2H2O2O2 + 2H2O
Peroxidase: H2O2 + AH2A + 2H2O
Oxygenase (hydroxylase): gắn một nguyên tử oxy vào cơ chất. Ví dụ: Cytp-450
+ +
xúc tác phản ứng: RH + NADPH + H + O2 ROH + NADP + H2O
Transferase: Xúc tác cho các phản ứng chuyển vị. Gồm các dưới lớp:
Aminotransferase: vận chuyển -NH2 từ acid amin sang acid alpha cetonic. Ví dụ:
AST, ALT
Transcetolase và transaldolase: chuyển đơn vị 2C và 3C
Các acyl-, metyl-, glucosyl-transferase, phosphorylase
Các kinase: chuyển gốc phosphat từ ATP vào cơ chất. Ví dụ: Hexokinase
Các thiolase: chuyển CoA –SH vào cơ chất. Ví dụ: acyl CoA
Acetyl transferase
Các polymerase: DNA polymerase, RNA polymerase
Hydrolase: Xúc tác cho các phản ứng thủy phân. Gồm các dưới lớp:
- Các esterase: thủy phân liên kết este. Ví dụ: triacylglycerol lipase.
- Các glucosidase: thủy phân liên kết glycosid
- Các protease: thủy phân liên kết peptid
- Các phosphatase: thủy phân liên kết este phosphat
- Các phospholipase: thủy phân liên kết este phosphat trong phân tử phospholipid
- Các amidase: thủy phân liên kết N-osid. Ví dụ: nucleoside
Các desaminase: thủy phân liên kết C-N, tách nhóm amin ra khỏi cơ chất. Ví dụ:
adenosin deaminase
Các nuclease: thủy phân liên kết este phosphat trong DNA hay RNA
Lyase: Xúc tác các phản ưng phân cắt không cần nước. Gồm các dưới lớp:
Các decarboxylase: tách CO2 khỏi cơ chất. Ví dụ: glutamat decarboxylase
Các aldolase: tách 1 phân tử aldehyd từ cơ chất.
Các lyase: VD arginosuccinase.
Các hydratase: gắn 1 phân tử nước vào cơ chất.VD: fumarase.
Các dehydratase: tách 1 phân tử nước từ cơ chất. VD: -hydroxyacyl-ACP
dehydratase.
Các synthase: gắn 2 phân tử mà không cần có sự tham gia của ATP. Ví dụ: ATP
synthase, glycogen synthase, citrat synthase…
Isomerase: Xúc tác cho các phản ứng đồng phân hoá. Gồm các dưới lớp:
- Các racemase: chuyển dạng đồng phân D và L.
- Các epimerase: chuyển đồng phân epime. Ví dụ: ribose-5 phosphat epimerase.
- Các isomerase: chuyển đồng phân nhóm chức aldehyd và ceton.
- Các mutase: chuyển nhóm hóa học giữa các nguyên tử trong 1 phân tử.
Ligase (synthetase): Xúc tác cho các phản ứng tổng hợp có sử dụng liên kết giàu năng
lượng của ATP .v.v… Gồm các dưới lớp:
Synthetase.
Carboxylase: Ví dụ: pyruvat carboxylase.
Ligase: ví dụ DNA ligas.
4.3. Bản chất hóa học của enzym
Trừ một nhóm nhỏ ARN có tính xúc tác, tất cả enzym đều là protein. Tính chất
xúc tác phụ thuộc vào cấu tạo của protein. Enzym có trọng lượng phân tử khoảng
12.000 đến hơn 1000.000 Dalton. Enzym bị biến tính hay phân tách thành những tiểu
đơn vị thì hoạt tính xúc tác thường mất đi, tương tự protein, enzym bị phân cắt thành
những acid amin. Theo điều kiện hoạt động, người ta chia enzym thành 2 loại:
Enzym không cần cộng tố: là các enzym có bản chất protein thuần, gồm các
enzym thủy phân: pepsin, trypsin, cathepin...
Enzym cần cộng tố (cofactor): là các enzym protein tạp gồm 2 phần Protein
thuần + cộng tố (cofactor) = Holoenzym.
Protein thuần gọi là apoenzym.
2+ 2+ 3+ 2+ 2+
Cộng tố: kim loại (Cu , Fe /Fe , Mn , Zn ,...), chất hữu cơ (coenzym), kim loại
và chất hữu cơ. Coenzym là phân tử hữu cơ tương đối nhỏ, có thể thẩm tích được, chịu
được nhiệt. Trực tiếp tham gia vận chuyển điện tử, hydro, các nhóm hóa học,... Các
vitamin tan trong nước thường tham gia cấu tạo và hoạt động của coenzym.
Bảng 2.3. Một số coenzym và chức năng vận chuyển nhóm tương ứng
Coenzym Vận chuyển
Biocytin CO2
Coenzym A Nhóm Acyl
5’- Deoxyadenosylcobalamin
(coenzym B12) Nguyên tử H và nhóm alkyl
Flavin adenin dinucleotid Điện tử
Lipoat Điện tử và nhóm acyl
-
Nicotinamid adenin dinucleotid Ion Hydrid (:H )
Pyridoxal phosphat Nhóm Amin
Tetrahydrofolat Nhóm 1 Carbon
4.4. Sự phân bố enzym
4.4.1. Trong tế bào
Lysosom: AND-ase, ARN-ase, cathepsin, -glycuronidase, uricase …
Ty thể: các enzym của chu trình Krebs, enzym oxy hóa acid béo, chuyển amin,
khử amin…
Nhân: aldolase, enolase, ATP-ase, photphoglyceraldehyd dehydrogenase,
photphatase,…
4.4.2. Trong các tổ chức cơ quan
Enzym phân hủy glucose: aldolase, photphohexo isomerase ... có trong xương,
gan, niêm mạc, ruột, thận, nhau thai.
GOT có ở gan, tim, cơ vân; creatin kinase có trong cơ vân, cơ tim, não.
Photphatase chỉ có ở tiền liệt tuyến.
Có sự liên quan mật thiết, xem xét mức độ đặc hiệu của enzym trong lâm sàng.
Qua thực tế xét nghiệm thấy rằng:
GOT: ở gan > Tim >> Cơ
GPT, SDH: ở gan >> Tim, cơ
CPK: ở gan << Tim << cơ
LDH: ở gan > Tim < cơ
4.4.3. Enzym ở huyết tương
Enzym chức năng huyết tương:
Loại này được tạo ra ở gan, có nồng độ ở máu tương đương hay cao hơn các tổ
chức, gồm các enzym và tiền enzym như lipoprotein, cholinesterase giả, ceruloptamin,
tiền enzym đông máu và tan cục máu.
Enzym không có chức năng huyết tương:
Hoạt độ của các enzym này ở huyết tương rất thấp, gồm các enzym từ các tuyến
tiết ra (amylase từ nước bọt, tuyến tụy; lipase, photphatase acid từ tuyến tiền liệt,…).
Các enzym nội bào bình thường không có ở huyết tương mà gắn chặt với các
thành phần dưới tế bào.
4.4.4. Enzym ở nước tiểu
Thường có trọng lượng phân tử thấp, qua được thận, chủ yếu có nguồn gốc từ
thận được tách ra trong quá trình thay thế tế bào.
Enzym trong nước tiểu còn có thể có nguồn gốc từ hồng cầu, bạch cầu, các tế bào
biểu mô, chất bài tiết của các tuyến và vi khuẩn luôn đào thải ra đường tiểu.
4.5. Liên quan enzym và một số bệnh lý
4.5.1. Tăng tổng hợp enzym
Photphatase acid tăng khi carcinoma tiền liệt tuyến.
Cholinesterase tăng khi thận hư.
CPK, aldolase tăng khi loạn dưỡng cơ tiến triển.
GPT, OCT tăng trong viêm gan.
Amylase, Lipase tăng trong viêm tụy.
CPK, LDH tăng trong nhồi máu cơ tim.
CPK tăng trong viêm đa cơ.
Amylase, lipase tăng bài tiết tụy cản trở.
Photphatase kiềm tăng khi tắc đường dẫn mật.
4.5.2. Giảm tổng hợp enzym
Do khiếm khuyết về chuyển hóa.
Do bệnh lý về enzym.
Tổn thương nặng cơ quan.
Viêm xơ teo, ung thư dạ dày giảm uropepsinogen, pepsin.
Thận hư tăng đào thải ceruloplasmin ra nước tiểu.
4.6. Ứng dụng enzym trong y học
Enzym có một vị trí quan trọng trong y học. Đặc biệt là các phương pháp định
lượng và định tính enzym trong hóa học lâm sàng và phòng thí nghiệm chẩn đoán. Do
đó, hiện nay trong y học đã xuất hiện lãnh vực mới gọi là chẩn đoán enzym, nhằm:
Phân tích xác định nồng độ cơ chất như glucose, ure, cholesterol…với sự hổ trợ
của enzym.
Xác định hoạt tính xúc tác của enzym trong mẫu sinh vật.
Xác định nồng độ cơ chất với sự hổ trợ của thuốc thử enzym đánh dấu.
Dùng enzym để định lượng các chất, phục vụ công việc xét nghiệm chẩn đoán
bệnh, ví dụ: kiểm tra glucose nước tiểu, urease để định lượng ure…
Dùng enzym làm thuốc ví dụ protease làm thuốc tắc nghẽn tim mạch, tiêu mủ vết
thương, làm thông đường hô hấp, chống viêm, làm thuốc tăng tiêu hóa protein, thành
phần của các loại thuốc dùng trong da liễu và mỹ phẩm…
Trong y học các protease cũng được dùng để sản xuất môi trường dinh dưỡng để
nuôi cấy vi sinh vật sản xuất ra kháng sinh, chất kháng độc… Ngoài ra người ta còn
dùng enzym protease để cô đặc và tinh chế các huyết thanh kháng độc để chữa bệnh.
Amylase được sử dụng phối hợp với coenzym A, cytocrom C, ATP, carboxylase
để chế thuốc điều trị tim mạch, bệnh thần kinh, phối hợp với enzym thủy phân để chữa
bệnh thiếu enzym tiêu hóa.
Bảng 2.4. Một số enzym sử dụng trong điều trị
TÊN ENZYM NGUỒN GỐC ĐIỀU TRỊ
Urokinase Nước tiểu người hay tế bào Nhồi máu cơ tim cấp
thận người
Chương 3: CHUYỂN HÓA CHUNG CỦA CÁC CHẤT
Mục tiêu
Giải thích được bản chất của sự hô hấp tế bào.
Kể được các liên kết phosphat giàu năng lượng quan trọng trong cơ thể sống.
Trình bài được các giai đoạn của chu trình Krebs.
Tính được năng lượng giải phóng của sự hô hấp tế bào, chu trình Krebs.
Nêu được ý nghĩa của sự hô hấp tế bào, sự phosphoryl hóa và chu trình Krebs.
RT Cox
E = Eo + nτ ln Ckh
Với: E: Thế năng oxy hóa-khử Eo: Thế năng oxy hóa-khử chuẩn
R: Hằng số lý tưởng T: Nhiệt độ tuyệt đối
-1 -1
τ: Trị số Faraday (96,500 Coulomb hay 23,07 Kcal.vol .mol )
Số điện tử trao đổi
Cox: Nồng độ chất dạng oxy hóa trong dung dịch
Ckh: Nồng độ chất dạng khử trong dung dịch
-
Thế năng oxy hóa-khử biểu hiện sự cho và nhận e của hệ thống: hệ thống có E
-
thấp, nồng độ chất khử lớn thì xu hương phóng e cao nghĩa là hệ thống có E thấp dễ
- - -
cho e và hệ thống có E cao dễ nhận e . Hydro hay e sẽ di chuyển từ hệ thống có thế
năng thấp đến hệ thống có thế năng cao.
2.2. Phosphoryl hóa và khử phosphoryl hóa
2.2.1. Định nghĩa
Sự phosphoryl hóa là sự gắn kết acid phosphoric (gốc phosphat) vào một phân tử
chất hữu cơ (R–H) dưới xúc tác của enzym phosphorylase. Phản ứng cần cung cấp
năng lượng để tích trữ trong những liên kết phosphat.
Phosphorylase
R–H + HO–PO3H2 R – PO3H2 + H2O
(kinase)
Sự khử phosphoryl là sự cắt đứt liên kết phosphat nhờ enzym phosphatase,
giải phóng năng lượng (bằng năng lượng đã tạo thành liên kết phosphat).
Phosphatase
R – PO3H2 + H2O R – H + H3PO4
Phosphoryl hóa là một trong những phản ứng quan trọng bậc nhất trong
chuyển hóa các chất, đóng vai trò chủ yếu trong việc tích trữ và vận chuyển năng
lượng.
2.2.2. Các loại liên kết phosphat
Căn cứ vào năng lượng tự do được giải phóng từ quá trình thủy phân cắt đứt các
liên kết phosphat, các liên kết phosphat được chia làm hai loại: liên kết phosphat
nghèo năng lượng và liên kết phosphat giàu năng lượng.
a) Liên kết phosphat nghèo năng lượng, ký hiệu: - P
Khi thủy phân cắt đứt liên kết này chỉ có từ 1000 - 5000 calo được giải phóng.
Trong các liên kết phosphat chỉ có este phosphat là nghèo năng lượng.
P
b) Liên kết phosphat giàu năng lượng, ký hiệu: ~
Khi thủy phân cắt đứt liên kết này, năng lượng giải phóng lớn hơn 7000 calo.
Một số liên kết phosphat giàu năng lượng:
Liên kết pyrophosphat (Anhydrid phosphat): Adenin-Ribose-P~P~P (ATP)
Liên kết acylphosphat: R-COO~P (tạo thành do gốc acid của chất hữu cơ kết hợp
với gốc acid phosphoric).
Liên kết enol phosphat: liên kết này được tạo thành do gốc acid phosphoric kết hợp
với nhóm chức của của chất hữu cơ.
Liên kết Amit phosphat: do gốc acid phosphoric kết hợp với nhóm amin của chất
hữu cơ: R-NH~P
Chất liên kết phosphat quan trọng nhất của cơ thể là ATP. ATP có một liên kết
este phosphat nghèo năng lượng và hai liên kết pyrophosphat giàu năng lượng.
Ngoài các liên kết phosphat giàu năng lượng còn các liên kết giàu năng lượng
khác như liên kết thioste, trong acetyl coenzym A (CH3-CO ~S CoA).
3. SỰ HÔ HẤP TẾ BÀO
Hô hấp tế bào là quá trình đốt cháy các chất hữu cơ trong cơ thể (quá trình oxy
hóa-khử tế bào hay quá trình oxy hóa sinh học) cho sản cuối cùng là CO 2 và H2O.
Trong đó, sự kết hợp hydro và oxy tạo thành nước được gọi là sự hô hấp tế bào.
Trong cơ thể, oxy không trực tiếp tác dụng với carbon và hydro của các chất hữu
cơ. Các phản ứng xảy ra qua từng bước, năng lượng được giải phóng dần và được tích
trữ lại, nhiệt độ không tăng cao và không có ngọn lửa.
CO2 được tạo thành do sự khử nhóm carboxyl của các phân tử hữu cơ dưới tác
dụng của enzym decarboxylase, phản ứng này không giải phóng nhiều năng lượng.
R-COOH R-H + CO2
H2O được tạo qua một dây chuyền phản ứng gồm các quá trình tách dần hydro ra
khỏi cơ chất và vận chuyển qua một chuỗi dài các chất trung gian, cuối cùng tới oxy.
+
Trong quá trình này, hydro và oxy phân tử đều được hoạt hóa thành dạng ion H và
2-
O dễ dàng kết hợp với nhau tạo thành H2O và giải phóng nhiều năng lượng.
Tóm lại, bản chất của sự HHTB là quá trình vận chuyển hydro từ cơ chất tới oxy
tạo thành nước, là quá trình vận chuyển điện tử và giải phóng năng lượng cho cơ thể.
3.2. Cơ chế của sự hô hấp tế bào
Có thể chia chuỗi hô hấp tế bào ra làm 5 giai đoạn:
+
Giai đoạn 1: Chuyển hydro từ cơ chất (AH2) sang NAD (Nicotinamid Adenin
+
Dinucleotid) nhờ enzym dehydrogenase có coenzym NAD :
+ +
AH2 + NAD A + NADHH (phần lớn chuyển cho chuỗi HHTB)
+
Giai đoạn 2: NADHH chuyển hydro cho FAD (Flavin Adenin Dinucleotid FMN)
hoặc FMN (Flavin Mononucleotid) nhờ enzym dehydrogenase có coenzym FAD
+ +
NADHH + FAD NAD + FADH2
+
Có trường hợp FAD (FMN) nhận hydro trực tiếp từ cơ chất mà không qua NAD .
Giai đoạn 3: FADH2 chuyển hydro cho coenzym Q
FADH2 + CoQ FAD + CoQH2
Giai đoạn 4: CoQH2 nhả hydro và chuyền điện tử đến hệ thống cytocrom (cyt), từ
cyt b cyt c1 cyt c cyt a cyt a 3 (cyt a3 còn gọi là cytocrom oxydase hay enzym hô hấp
warburg).
3+ 2+ +
CoQH2 + 2cyt b Fe CoQ + 2cyt b Fe + 2H
3+
2cyt b Fe
2+ 3+ 2cyt b Fe 2+
+ 2cyt c1 Fe + 2cyt c1 Fe
3+
2cyt c1 Fe
2+
+ 2cyt c Fe
3+ 2cyt c1 Fe + 2cyt c Fe
2+
3+
2cyt c Fe
2+
+ 2cyt a Fe
3+ 2cyt c Fe + 2cyt a Fe
2+
3+
2cyt a Fe
2+
+ 2cyt a3 Cu
2+ 2cyt a Fe + 2cyt a3 Cu
+
2- 2-
Giai đoạn 5: Cyt a3 chuyển điện tử cho oxy phân tử tạo thành ion O , O gắn với
+
2H từ CoQH2 tách ra tạo thành phân tử nước:
+ ++ 2-
2 cyt a3 Cu + ½ O2 2 cyt a3 Cu +O
+ 2-
2H +O H2O
Thông thường sản phẩm cuối cùng của chuỗi HHTB là H 2O, tuy nhiên cũng có
trường hợp xảy ra phản ứng sau:
+ ++ -
2 cyt a3 Cu + ½ O2 2 cyt a3 Cu + 2O
+ -
2 H + 2O H2O2
H2O2 là một chất độc đối với tế bào, sau khi được hình thành, chất này sẽ bị thủy
phân ngay nhờ enzym catalase: H2O2 H2O + ½ O2
Toàn bộ chuỗi hô hấp tế bào từ cơ chất dạng khử AH 2 tới oxygen phân tử qua
AD, flavoprotein, coenzym Q, hệ thống cytochrome được trình bày ở hình 3.1.
Như vậy, quá trình vận chuyển hydrogen đến oxygen tạo ra H 2O, thực chất là
một quá trình trao đổi electron (cho và nhận) một cách liên tục. Bản chất của nó là một
quá trình oxy hóa khử. Vì vậy, người ta gọi hô hấp tế bào là oxy hóa-khử sinh học.
Quá trình trên được gọi là chuỗi trung bình, trong một số trường hợp, chuỗi HHTB có
thể kéo dài hay rút ngắn hơn phụ thuộc vào thế năng oxy hóa-khử của cơ chất.
Khi oxy hóa pyruvat hoặc α-cetoglutarat, hydro tách ra được gắn vào lipothitamin
+
pyrophosphat (LTPP) rồi mới chuyển tới NAD , gọi là chuỗi dài:
+
Cơ chất LTPP NAD FAD Cytocrom Oxy
Khi oxy hóa acid béo, hydro từ cơ chất được chuyển thẳng tới FAD. Chuỗi HHTB
này được gọi là chuỗi ngắn
Cơ chất FAD Cytocrom Oxy
α-Ketoglutarat
Giai đoạn 3: oxy hóa-khử carboxyl isocitrat thành α-ketoglutarat, qua chất trung
+
gian oxalosuccinat và enzym isocitrat dehydrogenase có coenzym NAD .
Giai đoạn 4:
Giai đoạn 5: tạo succinat từ succinyl CoA, succinat thiokinase (succinyl-CoA
synthetase) xúc tác và cần một acid phosphoric. Năng lượng giải phóng dưới dạng
GTP, sau đó chuyển thành ATP.
Giai đoạn 6: oxy hóa succinat thành fumarat, với enzym succinat dehydrogenase
có coenzym FAD xúc tác.
Giai đoạn 7: hydrat hóa fumarat thành malat, fumarase xúc tác.
Giai đoạn 8: oxy hóa malat thành oxaloacetat, enzym malat dehydrogenase có
+
coenzym NAD xúc tác. Phản ứng đóng vòng chu trình Krebs và phân tử tiếp tục trở
lại ngưng tụ với một phân tử acetyl CoA mới.
4.2. Năng lượng giải phóng của chu trình Krebs
Kết quả của chu trình là sự oxy hóa hoàn toàn gốc acetyl, trong đó có hai phản
ứng khử carboxyl loại carbon dưới dạng CO2 và bốn phản ứng oxy hóa cung cấp 4 cặp
hydro để chuyển đến oxy trong chuổi HHTB tạo thành H2O và năng lượng.
Năng lượng đươc tích trữ trong chu trình Krebs bao gồm:
+
- Giai đoạn 3 giải phóng 1 NADHH vào chuỗi HHTB được 3 ATP
+
- Giai đoạn 4 giải phóng 1 NADHH vào chuỗi HHTB được 3 ATP
- Giai đoạn 6 giải phóng 1 FADH2 vào chuỗi HHTB được 3 ATP
+
- Giai đoạn 8 giải phóng 1 NADHH vào chuỗi HHTB được 3 ATP
- Giai đoạn 5 giải phóng 1 GTP được 1 ATP
Tổng cộng: 12 ATP
Tùy theo số C trong mạch hydrocarbon mà có thể gọi tên các đường đơn là:
triose, tetrose, pentose, hexose. Cũng có thể chia saccharid thành 2 phân nhóm là
aldose và cetose dựa vào nhóm chức aldehyd hay ceton trong phân tử.
2.2. Tính chất của monosaccarid
Các monosaccarid là những chất không màu, không mùi tan trong nước, không
tan trong dung môi hữu cơ, tạo tinh thể khi cô đặc và có vị ngọt; có tính hoạt quang
(trừ biose vì không có C*- carbon bất đối xứng).
2.2.1. Tính chất do nhóm aldehyd, ceton
a) Phản ứng với các chất oxy hoá
Chất oxy hoá nhẹ như nước brom: Đường aldose sẽ thành acid aldonic, với cetose
phản ứng không xảy ra.
Chất oxy hoá mạnh như HNO3 đậm đặc có sự oxy hoá xảy ra ở cả chức rượu bậc
một và chức aldehyd, đều chuyển thành acid.
Nếu bảo vệ nhóm -OH glucoside bằng cách methyl hóa hay acetyl hoá trước khi
oxy hoá bằng nước brom, sản phẩm tạo thành là acid uronic.
++
Tác nhân oxy hóa là Cu : Trong môi trường kiềm nóng, các saccarid ở dạng
++ ++
endiol không bền để khử nhanh các ion kim loại nặng (Cu , Mg …) có hoá trị cao
thành ion có hóa trị thấp hay các ion kim loại thành kim loại, làm đứt các nối đôi tạo
hỗn hợp đường, acid.
Dịch thủy phân tinh Đường vận chuyển qua Có trong nước tiểu người
D – Glucose bột, đường mía, máu và là dạng sử dụng bệnh đái tháo đường kèm
maltose và lactose chính của các tổ chức tăng glucose/ máu
Không dung nạp fructose
Các dịch, mật ong, bẩm sinh tích lũy
D – Fructose thủy phân đường Có thể biến đổi thành fructose hạ đường máu
mía và inulin. glucose ở gan và ruột
Chuyểnhóathành
glucose ở gan và được
D – Galactose Thủy phân lactose tổng hợp ở tuyến vú tạo Không có khả năng
lactose, thành phần chuyển hóa gây galactose
chính của glycolipid, huyết và bệnh đục thủy
glycoprotein tinh thể
4. POLYSACCARID
Polysaccarid là đường đa, có trọng lượng phân tử rất cao, do nhiều gốc
monosaccarid kết hợp với nhau nhờ các kiểu liên kết α- hoặc β-glycosid. Công thức
chung: (C6H10O5)n.
Tùy vào thành phần monose, polysaccarid được chia thành polysaccarid thuần
(chứa một loại monose) và polysaccarid tạp (có ít nhất 2 loại monose).
Polysaccarid đóng vai trò quan trọng trong đời sống động-thực vật. Tùy theo
nguồn gốc được chia thành các nhóm: polysaccarid thực vật, động vật, vi sinh vật. Một
số polysaccarid thường gặp như tinh bột, glycogen, cellulose...
4.1. Polysaccharid thuần
4.1.1. Tinh bột
Đây là nguồn glucid quan trọng trong khẩu phần thức ăn của người và động vật.
Tinh bột là một polysaccarid dự trữ của thực vật, có nhiều trong các loại củ, hạt ngũ
cốc … có hình dạng, kích thước cấu tạo khác nhau tùy nguồn gốc.
Tinh bột không tan trong nước, đun nóng thì hạt tinh bột phồng lên rất nhanh
tạo thành dung dịch keo gọi là hồ tinh bột. Phản ứng đặc trưng để nhận biết tinh bột là
tác dụng với iod, cho màu xanh tím.
Tinh bột có cấu tạo hai phần: amylose và amylopectin, ngoài ra có khoảng 2%
phospho dưới dạng ester. Tỷ lệ amylopectin/amylose ở các đối tượng khác nhau là
khác nhau. Amylose và amylopectin khác nhau về cấu tạo và tính chất.
4.1.2. Glycogen
Là polysaccarid dự trữ ở động vật được tìm thấy trong gan và cơ, hiện nay còn
tìm thấy trong một số thực vật như ngô, nấm.
Có cấu tạo giống amylopectin, nghĩa là trong phân tử có chứa liên kết α-(1-4)
và α-(1-6) glucosid, nhưng phân nhánh nhiều hơn và độ dài mạch nhánh ngắn hơn, mỗi
nhánh gồm 11-18 gốc α-D-glucose.
4.1.3. Cellulose
Là thành phần chủ yếu của vách tế bào thực vật, gồm nhiều mạch thẳng chứa
các đơn vị β-D-glucopyranose liên kết với nhau bằng liên kết 1-4 glucosid. Cellulose
có dạng hình sợi dài, nhiều sợi kết hợp song song với nhau thành chùm nhờ các liên
kết hydro, mỗi chùm chứa khoảng 60 phân tử cellulose, cellulose không có giá trị dinh
dưỡng vì không bị thủy phân trong ống tiêu hóa. Một số nghiên cứu cho thấy nó có vai
trò trong điều hòa tiêu hoá..
4.2. Polysaccarid tạp
4.2.1. Acid hyaluronic
Acid hyaluronic rất phổ biến, là thành phần quan trọng của mô liên kết, tìm thấy
trong dịch khớp xương, trong thủy tinh thể mắt, có tác dụng vận động và bảo vệ bên
trong tế bào để chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn cũng như các chất độc khác. Acid
hyaluronic có trọng lượng phân tử rất lớn, cấu tạo bởi chuỗi disaccarid lặp lại gồm:
acid β-glucuronic và N-acetylgalactosamin sulfat (β1-3).
Acid hyaluronic bị thủy phân bởi hyaluronidase, enzym này được tìm thấy trong
khuẩn gây bệnh, trong tinh trùng. Hyaluronidase tạo dễ dàng cho tinh trùng đi vào
noãn của buồn trứng, mặt khác nó cũng là yếu tố giúp cho các chất khác và vi khuẩn
gây bệnh đi vào các mô trong cơ thể.
4.2.2. Chondroitin sulfat
Đươc cấu tạo bởi chuỗi disaccarid lặp lại gồm: acid β-glucuronic và N-
acetylgalactosamin sulfat (β1-3). Chứa nhiều trong mô liên kết, là thành phần không
thể thiếu được ở mô xương sụn dưới dạng phức chất nhầy chondromucoid.
4.2.3. Heparin
Là glycosaminoglycan acid, gồm acid iduronic và glucosamin gắn sulfat. Được
tìm thấy đầu tiên ở gan, sau đó là ở cơ, tim, phổi, … có tác dụng chống lại sự đông
máu và ngăn chặn sự biến đổi prothrombin thành thrombin. Được dùng làm chất ổn
định máu và chống đông máu.
Heparin còn có tác dụng giải phóng lipoproteinase từ tổ chức vào huyết tương.
Enzym này xúc tác sự phân hủy các phức hợp lipoprotein trong quá trình vận chuyển
và chuyển hóa lipid.
Phản ứng 6: GAP bị Oxy hóa bởi GAPDH tạo 1,3-ĐPG (1,3-Diphophoglycerat) và
NADH2.
Phản ứng 7: Cắt đứt liên kết (~), cần P-glyceratkinase: 1,3 DPG ↔ G3P +ATP
Phản ứng 8: Chuyển 3P-G = 2-PG, glyceromutase
Phản ứng 9: Loại H2O, 2-PG =>P.E.P (có Lk ~/C2) P.E.P = Phospho Enol
Pyruvat
Phản ứng 10: P.E.P cắt đứt liên kết ~ tạo ATP và Pyruvat, pyruvatkinase
Hình 4.1. Thoái hoá glucose theo con đường hexose diphosphat
2.2. Thoái hóa theo con đường Pentose Monophosphat (Hexose monophotphat –
HMP)
Glucose chi được phosphoryl hóa một lần tạo (GP6). Gồm 2 giai đoạn:
a). Oxy hóa trực tiếp glucose-6-phosphat thành pentose phosphat
Với sự xúc tác của enzym tương ứng đặc biết là glucose-6-phosphat
dehydrogennase (G6PD) và 6 phosphogluconat dehydrogenase (6PGD). Các coenzym
có bản chất là nucleotid.
+
NADPH, H được tạo thành tham gia các quá trình tổng hợp acid béo,
cholesterol, hormon steroid.
b). Chu trình Pentose
Có thể tóm tắt các con đường chuyển hóa glucid trong hình sau đây:
2.3. Ý nghĩa - Liên quan giữa Hexose diphosphat và Pentose monophosphat:
Chính phosphoglyceraldehyd (PGA) và frutose-6-phosphat (F6P) (6C) là những
mốc liên quan giữa chu trình pentose và 2 HDP.
F6P có thể được đồng phân hóa thành G6P và 2 GPA có thể biến thành F1,6 DP
thành G6P tùy theo nhu cầu của tế bào mà quá trình thoái hóa diễn ra với mức độ khác nhau.
Nếu nhu cầu về ribose-5-phosphat (R5P) nhiều hơn nhu cầu về NADPH,H+, đa
số G6P biến thành F6P theo con đường HDP.
Nếu nhu cầu về NADPH,H+ bằng nhu cầu về R5P: xảy ra giai đoạn oxy tạo
thành 2 NADPH,H+ và 1 R5P từ G6P.
Nếu nhu cầu về NADPH,H+ lớn hơn so với R5P: vừa xảy ra giai đoạn 1 (tạo 2
NADPH,H+ và 1 R5P) và cả giai đoạn 2 (chu trình pentose). Như vậy từ 1 phân tử
G6P tạo được 12 NADPH,H+; 6 phân tử G6P thoái hóa theo cả hai giai đoạn của con
đường HMP thì tái tạo trả lại 5 phân tử (qua phản ứng chuyển F6P G6P) và tạo
được 12 NADPH,H+.
Tóm lại: ý nghĩa chủ yếu của con đường HDP là sự tạo hình. HDP xảy ra chủ yếu
ở những mô cần năng lượng, HMP ở những mô cần tổng hợp một số chất (vỏ thượng
thận, tuyến giáp, gan, tuyến vú, hồng cầu…)
Trường hợp thiếu enzym glucose-6-phosphat dehydrogenase (G6PD) ở hồng cầu
làm hồng cầu dễ bị vỡ. Bệnh nhân dễ bị những cơn tiêu huyết nặng sau khi uống một số
thuốc có tính oxy hóa như thuốc sốt rét, sulfamid,… ở hồng cầu không có ty thể không có
sự hoạt động của chu trình Krebs, glucose được sử dụng theo quá trình đường phân
+
và con đường HMP, NAPDH,H cần thiết để giữ glutathion ở dạng khử (G-SH), giúp
cho sự nguyên vẹn ổn định cấu trúc hồng cầu.
+ +
2Pyruvat + 2NADH + 4H +4ATP + 2GTP +6H20 Glucose + 2NAD + 4ADP
+ 2GDP + 6Pi
Mục tiêu
Trình bày được định nghĩa, phân loại và vai trò của lipid với cơ thể.
Trình bày được quá trình tiêu hóa và hấp thu lipid.
Trình bày được quá trình chuyển hóa của lipid trong cơ thể.
Trình bày được sự rối loạn chuyển hóa lipid.
Tính chất
Triglycerid không tan trong nước, ít tan trong cồn thấp (ethanol, methanol). Tan
trong các dung môi hữu cơ (benzen, ether, chloroform). Glycerid chứa acid béo bão hòa
thể rắn, glycerid chứa acid béo không bão hòa ở thể lỏng.
Triglycerid khó thủy phân, quá trình thủy phân được thực hiện bằng các phương
pháp xà phòng hóa, acid, kiềm, thủy phân bằng lipase.
2.2.2 Sáp thật (Cerid)
Là este của acid béo cao phân tử và alcol đơn chức mạch dài (mono hoặc dialcol
từ 16-30 C). Sáp ong, sáp cá voi là este của rượu cetol và acid palmitic.
Trong tự nhiên, sáp là chất chống thấm sinh học rất phổ biến có ở động thực vật.
Da của động vật có tuyến sáp giúp bảo vệ tóc và da, làm lông chim không bị thấm nước.
thực vật nó thường tạo thành một lớp mỏng phủ lên lá, thân, quả của cây giữ cho
không bị thấm nước, không bị khô và tránh sự xâm nhập của vi khuẩn gây hại.
2.2.3. Sterid
Sterid là este của acid béo mạch dài với rượu sterol có vòng và este của acid béo
mạch dài với vitamin A, D.
Sterol có trọng lượng phân tử rất lớn tiêu biểu là cholesterol, acid mật. Acid béo
thường là palmitic, oleic, ricinoleic.
2.3. Lipid tạp
Cấu tạo ngoài acid béo, alcol còn có P, N, S, glucid. Có nhiều ở các tổ chức gan,
tim, thận, não. Thành phần tương đối cố định.
2.3.1. Phosphatid
Phosphatid là diester của acid phosphoric. Một nhóm -OH của acid phosphoric
liên kết với glycerol, nhóm khác tạo liên kết với X. Tùy cấu tạo của X có các loại
glycerophospholipid khác nhau
Lecithin: X là cholin. Lecithin có nhiều trong lòng đỏ trứng gà, trong đậu nành,
trong máu, trong các dây thần kinh.
Cephalin: X là ethanolamin, cấu tạo gồm hai phần ưa nước và kị nước, là thành
phần của dây thần kinh và có nhiều trong não.
2.3.2. Glycolipid
Thành phần: sphingosin, acid béo, đường hexose (galactose hay các dẫn xuất
của galactose, glucose), không có H3PO4.
Cerebrosid: cấu tạo gồm sphingosin liên kết với acid béo bằng liên kết peptid, với
galactose (X) bằng liên kết glucosid. Các cerebrosid khác nhau về thành phần acid béo,
có nhiều trong mô thần kinh, hồng cầu, bạch cầu, tinh trùng…
Sulfatid: dẫn xuấ của cerebrosid, galactose được este hóa ở vị trí C3 với H2SO4.
Ganglyosid: cấu tạo gồm sphingosin, acid béo và 3 phân tử hexose. Có nhiều trong
não, đầu dây thần kinh, có nhiệm vụ dẫn truyền luồng thần kinh.
PHẦN 2. CHUYỂN HÓA LIPID
TIÊU HÓA VÀ HẤP THU
1.1. Tiêu hóa
Sự tiêu hóa lipid thực chất là sự thủy phân triglycerid xảy ra theo từng giai đoạn ở
hành tá tràng nhờ tác dụng của enzym lipase cùng với sự tham gia của các tác nhân
nhũ tương hóa là mật và muối mật.
Trước khi thủy phân, lipid được nhũ tương hóa bởi muối mật có trong dịch mật, vì
trạng thái nhũ tương lipid có diện tích tiếp xúc lớn, làm tăng tác động của lipase và
được phân tán dưới những hạt nhỏ để có thể khuếch tán dễ dàng qua màng ruột.
Lipase tách các acid béo từ phân tử glycerid với tốc độ khác nhau tùy thuộc vào
vị trí của acid béo trong phân tử glycerid.
1.2. Hấp thu
Hỗn hợp lipid bị thủy phân chưa hoàn toàn được hấp thu qua màng ruột ở dạng
nhũ tương nhờ các acid mật.
Glycerol và acid béo mạch ngắn (<10C) theo máu đến gan, chủ yếu qua tĩnh
mạch cửa. Các acid béo di chuyển trong máu dưới dạng kết hợp với albumin.
Các acid béo mạch dài, mono-, di-glycerid được sử dụng để tổng hợp lại triglycerid
màng ruột. Các triglycerid mới được tổng hợp này khuếch tán qua mạch bạch huyết
vào máu để vận chuyển đến gan, các tổ chức, cơ, mô mỡ dưới dạng những hạt
liporotein gọi là chylomicron.
Tại các tổ chức, phần lớn triglycerid của chylomicron được thủy phân thành
glycerol và acid béo. Những sản phẩm này sẽ được chuyển hóa tiếp tục ở tế bào.
cơ, các acid béo bị oxy hóa để giải phóng năng lượng; ngược lại, ở mô mỡ các
acid béo được este hóa trở lại thành triglycerid dự trữ. Khi khẩu phần ăn chứ nhiều
acid béo hơn nhu cầu cần cho cơ thể, triglycerid tổng hợp ở gan được vận chuyển vào
máu dưới dạng lipoprotein tới các tổ chức, đăc biệt là mô mỡ để dự trữ, và đến cơ để
cung cấp năng lượng.
THOÁI HÓA LIPID
2.1. Thoái hóa glycegol
gan và một số tổ chức khác, glycerol được phosphoryl hóa thành glycerol-3-
phosphat dưới tác dụng của enzym glycerolkinase. Chất này sau đó được oxy hóa
thành phosphat-dioxiaceton. phosphat-dioxiaceton được chuyển thành glyceraldehyd-
3-phosphat dưới tác dụng của enzym triose-phosphat-isomerase. Chất này tiếp tục
tham gia con đường Embden Meyerhof hay tổng hợp glycogen.
Mô mỡ không có enzym glycerolkinase.
Sơ đồ 5.1. Thoái hóa glycerol
Những acid béo mạch ngắn (<12C) có thể di chuyển qua ty thể mà không cần chất
vận chuyển.
2.2.2. Quá trình oxy hóa
Acid béo chưa bão hòa tạo thành trong giai đoạn này có cấu trúc dạng trans, trong
khi phần lớn acid béo thiên nhiên thuộc loại Cis.
- FAD kết hợp với một cặp H tách ra từ C và C của cơ chất tạo FADH2
- FADH2 tạo thành được oxy hóa trở lại bởi enzym trong chuỗi hô hấp tế bào.
b) Phản ứng kết hợp nước
Sự kết hợp nước vào nối đôi của trans- 2 enoyl CoA được xúc tác bởi enzym enoyl
CoA hydratase ( gốc OH được gắn vào C ) tạo thành - hydroxyacyl CoA.
Nhóm thiol của CoA tác động tại C của -keto acylCoA, phân cắt liên kết giữa C
và C , tách một phân tử acetyl CoA ra khỏi -ketoacyl CoA. Phản ứng này được xúc tác
bởi enzym -ketothiolase (acyl CoA acetyl transferase) và có sự tham gia của một phân
tử coenzym A tự do.
Như vậy, kết quả của một chu trình oxy hóa là tách ra được một phân tử acetyl
CoA và một phân tử acyl CoA ngắn đi 2 C so với acid béo ban đầu. Acyl CoA ngắn đi
C lại tiếp tục bị oxy hóa qua các giai đoạn như trên cho đến khi toàn bộ phân tử acid
béo biến thành acetyl CoA.
R – CH2 – CH2 – CO ~ SCoA
(Acyl CoA ban đầu)
FAD
(Acyl CoA dehydrogenaz)
FADH2 CHHTB 2ATP R –
CH = CH – CO ~ SCoA
(Trans - ∆2 – enoyl CoA)
H2O
(Trans - ∆2 – enoyl hydralaz)
R – CH – CH2 – CO ~ SCoA
R – C – CH2 – CO ~ SCoA
O O
2.2.3. Các con đường thoái hóa tiếp tục của acetyl CoA
a). Oxy hóa ở chu trình Krebs
Bình thường acetyl CoA sẽ tiếp tục vào chu trình Krebs, tiếp tục bị oxy hóa hoàn
toàn thành 2 CO2, 4 H2O và 12 năng lượng ATP.
b). Sự tạo thành các thể ceton
Acetyl CoA được tạo thành từ phản ứng oxy hóa của acid béo cũng có thể biến
đổi thành các thể ceton. Các thể ceton gồm acetoacetat, - hydroxybutyrat và aceton.
Hai phân tử acetyl CoA ngưng tụ với nhau tạo thành aceto acetyl CoA, dưới tác
động của enzym - cetothiolase.
- Aceto acetyl CoA ngưng tụ với 1 phân tử acetyl CoA nữa tạo thành -hydroxy--
metylglutaryl-CoA (HMG CoA) dưới tác động của enzym HMG CoA synthetase. Sau
đó, chất này phân tích để cho trở lại acetyl CoA và acetoacetat dưới tác động của
enzym HMG CoA lyase.
Acetoacetat bị khử thuận nghịch để tạo thành hydroxybutyrat dưới tác động
của enzym -hydroxybutyrat dehydrogenase.
Acetoacetat bị khử nhóm carboxyl dưới tác động của enzym acetoacetat
decarboxylase để tạo thành aceton.
Acetoacetat, -hydroxybutyrat được tạo thành ở gan, vào máu rồi chuyển đến các
tổ chức. Tại đây, chúng được biến đổi thành acetyl-CoA và bị oxy hóa trong chu trình
acid citric để cung cấp năng lượng cho mô, đặc biệt là cơ xương, cơ tim và vỏ thượng
thận. Não thường sử dụng năng lượng từ glucose, có thể thay bằng năng lượng từ các
chẩt trên khi bị đói kéo dài, hay cơ thể thiếu glucose.
2.3. Thoái hóa acid béo không bão hòa
Được oxy hóa gần giống như con đường OXH AB bão hòa nhưng có 2 điểm khác:
Trong quá trình thoái hóa các AB bão hòa phải được chuyển từ dạng cis sang dạng
trans, dạng D sang L, các liên kết đôi ở những vị trí khác nhau lần lượt chuyển sang
dạng ∆2. . Đây là những dạng chuyển hóa trung gian thích hợp cho hoạt động của hệ
thống enzyme beta OXH
Số lượng phân tử ATP tạo thành trong quá trình oxy hóa AB không bão hòa thấp
hơn số lượng ATP tạo thành khi OXH AB bão hòa có số carbon tương ứng.
TỔNG HỢP LIPID
3.1. Tổng hợp acid béo bão hòa
Quá trình tổng hợp acid béo bão hoà xảy ra ở nhiều tổ chức nhưng mạnh nhất trong
gan, mô, mỡ, ruột và tuyến vú. Sự tổng hợp cũng gồm 4 giai đoạn ngược lại với quá trình
-oxy hóa: phản ứng oxy hóa, khử nước, các enzym có coenzym NADH 2, NADPH2 (được
cung cấp do quá trình đường phân theo con đường pentose và chu trình acid citric.
3.2. Tổng hợp triglycerid
Triglycerol được tổng hợp ở nhiều tổ chức, tế bào của gan, thận, mô mỡ, ruột…
Nguyên liệu ban đầu là glycerol và acid béo dưới dạng hoạt hóa glycerol-3-phosphat
và acyl-CoA.
Quá trình sinh tổng hợp triglycerid là sự este hóa glycerol và acid béo dưới xúc
tác của enzym transacylase. Dùng acyl-CoA làm cơ chất.
Acid phosphatidic chuyển thành 1,2 diglycerid nhờ sự xúc tác của enzym
phosphatase.
Diglycerid tiếp tục phản ứng với một acyl-CoA thứ ba, dưới tác dụng của enzym
diglycerid-acyl-transferase để tạo thành triglycerid.
CHUYỂN HÓA CHOLESTEROL
Cholesterol tham gia vào thành phần cấu tạo của màng tế bào, quá trình tổng hợp
nhiều hormon steroid. Được tạo ra từ 2 nguồn: nội sinh và ngoại sinh, nó được tổng
hợp nhiều ở gan, vỏ thượng thận với nguồn nguyên liệu là acetyl-CoA. Cholesterol có
nhiều trong thức ăn như thịt, gan, não, lòng đỏ trứng được cơ thể hấp thu gọi là
cholesterol ngoại sinh. Phần lớn cholesterol được tổng hợp bởi những tế bào chủ yếu là
gan, cholesterol này được gọi là cholesterol nội sinh.
4.1. Tổng hợp cholesterol
Chủ yếu ở gan, ruột, ngoài ra cũng được tổng hợp ở thượng thận, tinh hoàn,
buồng trứng, da, hệ thần kinh. Người lớn, trung bình tổng hợp được 1 g/ngày.
Nguyên liệu chính để tổng hợp cholesterol là 2 phân tử acetyl CoA. Gồm hàng
loạt các phản ứng ngưng tụ, đóng vòng rất phức tạp tạo phân tử cholesterol gốm 27 C,
một liên kết đôi, một nhóm –OH
Xảy ra qua 4 giai đoạn chính:
GĐ II
GĐ III
Squalen (30C)
GĐ IV
Cholesterol (27C)
Mục tiêu
Trình bày được thành phần cấu tạo của nucleotid và acid nucleic.
Trình bày cấu trúc và vai trò của ADN, ARN.
Trình bày được quá trình thoái hóa và tổng hợp nucleotid và acid.
Trình bày được sự điều hòa chuyển hóa acid nucleic.
Ribonucleosid Deoxyribonucleosid
Base
5’-monophosphat 5’-monophosphat
Adenosin monophosphat Deoxyadenosinmonophosphat
A
(AMP) (dAMP)
Guanosin monophosphat Deoxyguanosinmonophosphat
G
(GMP) (dGMP)
Cytidin monophosphat Deoxycytidinmonophosphat
C
(CMP) (dCMP)
Uridin monophosphat
U
(UMP)
Deoxythymidinmonophosphat
T
(dTMP)
H2O Nuclease
Nucleotid
Pvc Nucleotidase
Nucleosid
Nucleosidase
Base N + Pentose
Purin Pyrimidin
Ure
nucleosidase.
xanthin oxidase
Acid uric xanthin hypoxanthin
nucleosidase.
Khối
Tên acid Tên acid amin gọi theo danh Tên Ký
lượng
amin pháp hoá học viết tắt hiệu
(MW)
Glycin Acid α-aminoacetic Gly G 75
Alanin Acid α-aminopropionic Ala A 89
Hình 7.1. Công thức cấu tạo của các acid amin nhóm I (a), II (b)
Hình 7.2. Công thức cấu tạo của các acid amin nhóm III
Hình 7.3. Công thức cấu tạo các acid amin nhóm IV
Hình 7.4. Công thức cấu tạo của các acid amin nhóm V
2.3. Tính chất của acid amin
2.3.1. Tính chất lý học
Acid amin dễ tan trong dung môi phân cực (nước, ethanol), không tan trong
dung môi không phân cực (benzen, ether). Các acid amin thường có vị ngọt kiểu
đường, muối natri của acid glutamic có vị ngọt kiểu đạm (được dùng làm chất gia vị).
2.3.2. Tính chất lưỡng tính
Trong phân tử acid amin có nhóm carboxyl -COOH nên có khả năng nhường
+
proton (H ) thể hiện tính acid, mặt khác có nhóm amin –NH 2 nên có khả năng nhận
proton nên thể hiện tính base. Vì vậy acid amin có tính chất lưỡng tính.
Trong môi trường acid, acid amin ở dạng cation (tích điện dương), nếu tăng dần
pH thì acid amin lần lượt nhường proton thứ nhất chuyển qua dạng lưỡng cực (trung
hoà về điện), và tiếp tục tăng pH acid amin sẽ nhường proton thứ hai chuyển thành
dạng anion (tích điện âm). Vì vậy người ta coi nó như một di-acid.
Các acid amin đều có nhóm –NH2 và -COOH liên kết với Cα, vì vậy chúng có
những tính chất hoá học chung. Mặt khác các acid amin khác nhau bởi gốc R, vì vậy
chúng có những phản ứng riêng biệt.
a). Phản ứng do gốc R
Do gốc R mang những nhóm hóa học khác nhau nên có thể dùng để xác định
từng acid amin riêng rẽ nhờ các phản ứng đặc trưng của nó, như phản ứng oxy hoá
khử (do nhóm -SH của cystein), tạo muối (do nhóm -COOH hay -NH2 của glutamat
hay lysine), tạo este do nhóm -OH của tyrosin v.v...
b). Phản ứng do cả 2 nhóm α-carboxyl -COOH và α-amin
Phản ứng Ninhydrin
Tất cả các acid amin trong phân tử protein đều phản ứng với hợp chất ninhydrin
tạo thành phức chất màu xanh tím, riêng imino acid như proline tạo thành màu vàng.
Phản ứng này được ứng dụng rộng rãi trong sắc ký, điện di … để xác định các
acid amin định tính, định lượng).
Phản ứng tạo lên kiết peptid
Đây là phản ứng quan trọng nhất của các acid amin, xảy ra giữa nhóm α-amin
của acid amin này với nhóm α-carboxyl của acid amin khác, tạo nên liên kết peptid và
giải phóng một phân tử nước.
c). Phản ứng do nhóm α-carboxyl
Ngoài các phản ứng thông thường tạo este, tạo amid, tạo muối ... mhóm -
COOH còn có những phản ứng đặc trưng khác như có thể bị khử thành hợp chất rượu
amino dưới sự xúc tác của NaBH4
R-NH2-CH–COOH R-NH2-CH–CH2OH
Nhóm -COOH có thể tạo thành phức aminoacyl-adenylat trong phản ứng hoạt
hoá acid amin để tổng hợp protein, hay có thể loại CO 2 (gặp rất nhiều trong quá trình
thoái hoá acid amin).
d). Phản ứng do nhóm α-amin
Nhiều phản ứng của nhóm amin được dùng để định tính và định lượng các chỉ
tiêu của acid amin như:
Để định lượng nitrogen của acid amin người ta cho phản ứng với HNO2 để giải
phóng N2.
HOOC–CH–R HOOC–CH–R
Giữ nguyên tên acid amin có đầu C tận và thay đuôi của các acid amin khác bằng
đuôi YL
Ví dụ: Serin – Alanin – Methionin – Valin – Glycin
Seryl – Alanyl – Methionyl – Valyl – Glycin
Gọi theo tên riêng:
Ví dụ: Glutathion:tripeptid gồm γ-glutamyl – cysteyl – glycin
Glucagon: polypeptid gồm 29 acid amin
Insulin: polypeptid gồm 51 acid amin
Để biểu thị thành phần và thứ tự acid amin, dùng ký hiệu chữ hoặc một chữ (nếu
chuỗi peptid dài) của acid amin viết liền nhau, từ đầu N tận đến đầu C tận, từ trái qua
phải.
Ví dụ: Alanin – Valin – Leucin – Histidin – Prolin
Ala – Val – Leu – His – Pro
AVLHP
H2N – Ala – Val – Leu – His – Pro – COOH
3.4. Tính chất hóa học
Phân tử peptid có các nhóm -NH2 và -COOH tự do có tính chất hóa học như
acid amin nên các phương pháp điện di, sắc ký,… dùng xác định các acid amin cũng
được dùng xác định các peptid.
Các gốc R của peptid cũng cho những phản ứng màu đặc trưng của các acid
amin tự do tương ứng. Một trong những phản ứng màu đặc trưng nhất để xác định
liên kết peptid đó là phản ứng màu Biuret. Biuret là sản phẩm ngưng tụ của 2 phân
tử urê kèm theo sự giải phóng 1 phân tử NH 3. Phản ứng này không xảy ra với acid
amin tự do và với dipeptid.
NH2
NH2 NH2 O=C
O=C + O=C NH3 + NH
NH2 NH2 O=C
NH2
Trong môi trường kiềm mạnh, liên kết peptid phản ứng với
Urê Urê Biuret
CuSO4 tạo phức chất màu tím đỏ (hình 3.11.), hấp thụ cực đại ở bước sóng 540
nm. Đây là phản ứng được sử dụng rộng rãi để định lượng protein.
3.5. Các peptid thường gặp trong thiên nhiên
Trong tự nhiên, tồn tại nhiều dạng peptid có chức phận quan trọng liên quan đến
hoạt động sống của cơ thể: hormon, chất kháng sinh, những chất tiền thân của tế bào
khuẩn v.v... Bên cạnh đó cũng có những peptid chức phận chưa rõ ràng, có những
peptid là sản phẩm thuỷ phân đang còn dang dở của protein.
M ột số peptide quan trọng,có nhiều ý nghĩa đối với cho hoạt động sống của sinh
vật.
3.5.1. Glutathion và các chất tương tự
Glutathion là một tripeptide γ-glutamyl-cysteyl-glycine có công thức cấu tạo:
NH2 CH2 - SH
+ 2H
2 GSH GSSG
+ 2H
Glutathion là một trong những peptid nội bào phổ biến nhất, đóng vai trò là một
hệ thống oxy hoá khử (vận chuyển hydrogen)., nó phân bố nhiều trong các mô và các
cơ quan như: gan, thận, lách, tim, phổi, hồng cầu v.v…
3.5.2. Các hormon sinh trưởng (HGH)
Hormon sinh trưởng của người (HGH – human growth hormone) còn gọi STH
(somatotropin hormone) là một chuỗi polypeptid gồm 191 acid amin có khối lượng
phân tử 20.000. Trong cấu trúc có hai cầu disulfua được tạo thành giữa acid amin 53-
165 và giữa acid amin 182-189. Chuỗi hoạt động sinh học gồm 134 acid amin.
HGH có tác dụng đối với sự tăng trưởng nói chung, kích thích tạo sụn hơn là tạo
xương, đây cũng là một chất chuyển hoá, kích thích sự tổng hợp protein và là hormon
gây tăng đường huyết đồng thời kích thích sự thoái hoá lipid để đảm bảo nhu cầu
năng lượng trong cơ thể, gây tăng acid béo tự do trong huyết tương.
3.5.3. Insulin
Từ 1953, Sanger (giải thưởng Nobel 1958) nghiên cứu, tinh chế và xác định hoàn
toàn cấu trúc của phân tử insulin. Gồm 51 acid amin, khối lượng phân tử 5.700, gồm 2
chuỗi polypeptid (chuỗi A có 21 acid amin, chuỗi B có 30 acid amin) nối với nhau
bằng 2 cầu disulfua. Trong chuỗi A cũng hình thành 1 cầu disulfua giữa acid amin thứ
6 và acid amin thứ 11. Phần đặc hiệu của loài chỉ tập trung vào các acid amin thứ 8-9-
10, 12-14 của chuỗi A và đặc biệt là acid amin thứ 30 của chuỗi B.
Insulin có tác dụng rõ nhất trong tất cả các hormon của tuyến tụy, đặc biệt đối với
quá trình chuyển hoá glucid, có tác dụng hạ đường huyết, kích thích quá trình tổng hợp
và ức chế quá trình thoái hoá glycogen ở cơ, gan và mô mỡ. Đặc biệt, insulin tăng
cường tổng hợp acid béo, protein và kích thích sự đường phân. Tác dụng quan trọng
nhất của insulin là kích thích sự thâm nhập glucose, một số ose, acid amin trong tế bào
cơ, mỡ. Do vậy insulin làm giảm lượng glucose trong máu. Ngoài ra insulin cũng làm
giảm sự tân tạo glucose do làm giảm nồng độ enzym như pyruvat carboxylase và
fructose 1-6 diphosphatase.
3.6. Một số peptid có hoạt tính sinh học khác
Oxytocin: là một peptid có 9 acid amin, tác dụng trên cơ trơn của tử cung và tuyến
vú, gây co khi tử cung sinh con và kích thích sự tiết sữa khi cho con bú.
Vasopressin: là một peptid 9 acid amin, tác dụng chống lợi niệu, tăng cường tái
hấp thu nước ở thận, đồng thời làm co mạch, do đó có tác dụng tăng huyết áp.
Glucagon: có 29 acid amin, tác dụng làm tăng đường huyết.
Bradykinin: là chất gây hạ huyết áp cơ trơn, tăng hoạt động tự kích thích và phản
ứng tự vệ, liều thấp có tác dụng giảm đau.
Kallidin: tác nhân gây hạ huyết áp cơ trơn.
Peptid kháng sinh: do vi khuẩn hoặc nấm sinh sản: gramicillin, penicilin,
tyrocidin, bacitracin.
PROTEIN
Định nghĩa
Protein là những đại phân tử có khối lượng > 6000 dalton, gồm hàng trăm, hàng
ngàn acid amin kết hợp lại với nhau tạo thành một chuỗi polypetid.
4.2. Phân loại
Protein có thể được phân loại theo nhiều cách: có thể dựa vào cấu tạo, khả năng
hòa tan, hình dạng, chức năng v.v…
4.2.1. Phân loại theo cấu tạo
Protein thuần ( protein đơn giản): là các protein khi thủy phân cho các acid amin
thường gặp, ví dụ: albumin, globumin, protamine, histon, v.v…
Protein tạp (protein liên hợp): gồm protein thuần và phần phi protein ( có bản chất
không phải là protein, có thể là glucid, lipid, acid nucleic, kim loại, v.v…).
Protein khi thủy phân dở dang tạo thành các peptid, khi thủy phân đến cùng biến
thành các acid amin.
4.2.2. Phân loại theo hình dạng
Protein hình cầu: là những protein có kích thước chiều dài/kích thước ngang < 10
dalton; gồm protein enzym và protein huyết thanh.
Protein hình sợi: là những protein có kích thước chiều dài/kích thước chiều ngang
10, gồm keratin của tóc, móng và collagen của mô liên kết.
4.3. Cấu trúc của protein
Cấu trúc bậc I: biểu thị thứ tự sắp xếp các acid amin trong chuỗi polypeptid, hoặc
nhiều chuỗi polypeptide và vị trí của liên kết disulfid.
Cấu trúc bậc II: biểu thị sự xoắn của chuỗi polypeptide, điển hình là cấu trúc bậc
II của protein sợi, liên kết hydrogen đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc bậc II.
Cấu trúc bậc III: biểu thị sự xoắn và gấp khúc của chuỗi polypeplid, liên kết
disulfide đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cấu trúc bậc III.
Cấu trúc bậc IV: biểu thị sự kết hợp của nhiều chuỗi polypeptide có cấu trúc bậc
III trong phân tử protein. Ví dụ: hemoglobin có cấu trúc bậc IV.
4.4. Tính chất của protein
4.4.1. Tính chất lý – hoá
a) Tính tan
Các loại protein khác nhau có khả năng hoà tan dễ dàng trong một số loại dung
môi nhất định, như: albumin dễ tan trong nước, globulin dễ tan trong muối loãng,
glutelin chỉ tan trong dung dịch kiềm hoặc acid loãng v.v...
Tính ngậm nước
Trong môi trường nước, protein kết hợp với nước trương lên thành dạng keo
(hydrate hoá), các phân tử nước bám vào các nhóm ưa nước trong phân tử protein như
-NH2, -COOH... Lớp áo nước bao quanh phân tử protein là một trong các yếu tố làm
bền vững cấu trúc, ngăn cách các phân tử protein không cho chúng dính vào nhau để
thành tủa.
Độ nhớt của dung dịch protein
Các protein khác nhau có độ nhớt khác nhau khi hòa tan trong dung dịch . Tính
chất này dùng để xác định khối lượng phân tử của protein (độ nhớt càng cao thì khối
lượng phân tử càng cao).
d) Hằng số điện môi của dung dịch protein
Khi thêm các dung môi hữu cơ trung tính như ethanol, aceton vào dung dịch
protein trong nước thì độ tan của protein giảm và protein sẽ kết tủa do việc giảm mức
độ hydrate hoá của các nhóm ion hoá của protein, các phân tử protein kết hợp với
nhau thành tủa. Như vậy, hằng số điện môi của dung môi làm ngăn cản lực tĩnh điện
giữa các nhóm tích điện của protein và nước.
e) Tính chất điện li của protein
Cũng như acid amin, protein là chất điện li lưỡng tính vì trong phân tử có nhiều
nhóm phân cực mạnh (gốc R) của acid amin.
Trạng thái tích điện của các nhóm này phụ thuộc vào pH của môi trường. Ở một
pH nào đó mà tổng điện tích (+) và điện tích (-) của phân tử protein bằng không, phân
tử protein không di chuyển trong điện trường gọi là pHi (isoelectric - điểm đẳng điện)
của protein.
Trong môi trường có pH = pHi của protein, protein dễ dàng kết tụ lại với nhau,
do đó, tính chất này dung để xác định pHi của protein cũng như để kết tủa protein.
Mặt khác do sự sai khác nhau về pHi giữa các protein mà có thể điều chỉnh pH của
môi trường để tách riêng các protein ra khỏi hỗn hợp của chúng.
Sự kết tủa bằng muối của dung dịch protein
Muối trung tính có ảnh hưởng rõ tới độ hoà tan của protein hình cầu, nồng độ
thấp làm tăng độ hoà tan. Khi tăng nồng độ muối, độ hòa tan giảm và ở nồng độ muối
rất cao, protein có thể kết tủa hoàn toàn.
Các protein khác nhau bị kết tủa ở những nồng độ muối trung tính khác nhau.
Người ta dùng tính chất này để chiết xuất và tách riêng protein khỏi hỗn hợp. Đó là
phương pháp diêm tích (kết tủa protein bằng muối).
g) Sự biến tính
Khi các liên kết (trừ liên kết peptid) trong phân protein bị cắt đứt, làm cấu trúc
protein thay đổi, protein bị biến tính. Hiện tượng biến tính làm giảm độ hòa tan, mất
các hoạt tính sinh học. Khi bị biến tính, cấu trúc protein đảo lộn, các nhóm kỵ nước
quay ra ngoài, các nhóm ưa nước quay vào trong, sự hydrat hóa giảm, các protein dễ
kết hợp với nhau. Tính chất này được áp dụng trong xét nghiệm protein niệu.
Các tác nhân gây biến tính:
Vật lý: nhiệt độ, tia tử ngoại, áp suất cao, …
Hóa học: acid mạnh (a. tricloacetic, a. nitric,…), muối kim loại nặng (HgCl 2), kiềm
mạnh, alcol, …
Phân biệt 2 loại biến tính:
Thuận nghịch: protein biến tính có thể trở về trạng thái ban đầu (sự hoàn
nguyên). Dung dịch trypsin bị biến tính khi bị đun nóng ở pH = 3 và hoàn nguyên sau
khi làm lạnh trong một thời gian nhất định.
Không thuận nghịch: protein biến tính không thể trở về trạng thái ban đầu, như luộc
trứng gà.
4.4.2. Các phản ứng hoá học của protein
Protein có các phản ứng hoá học tương tự các acid amin và peptid: phản ứng
của các nhóm -COOH, -NH2, gốc R và phản ứng tạo màu đặc trưng của liên kết
peptid như phản ứng biuret.
Ngoài ra, còn có một số phản ứng màu đặc trưng khác, có ý nghĩa quan trọng
trong phát hiện protein và các gốc acid amin khác trong chuỗi polypeptid.
Phản ứng với thuốc thử Folin-Ciocateau
Thuốc thử Folin-Ciocateau chứa phosphomolipdic acid và phosphovolframic acid. Các
chất này làm tăng độ nhạy của phản ứng biuret, mặt khác phản ứng với gốc Tyr và Trp trong
phân tử protein. Các gốc này tham gia trong quá trình tạo phức chất màu xanh da trời.
Protein
3.2. Sự vận chuyển NH4+ vào các hợp chất sinh học
+
NH4 hình thành sẽ được chuyển vào các hợp chất sinh học qua glutamat và glutamin.
Quá trình tổng hợp glutamin đơn giản và giống nhau ở mọi cơ thể sống.
+
Tạo glutamin : Con đường quan trọng nhất là tập trung NH4 vào glutamat và
glutamin dưới sự xúc tác của enzym glutamin synthetase.
Tạo glutamat:
Ở vi khuẩn: tổng hợp glutamat bằng cách amin hóa -ketoglutarat nhờ enzym
glutamat synthetase, glutamin là chất chuyển nhóm amin.
+
-ketoglutarat + Glutamin + NADPHH 2 Glutamat + NADP
Ở động vật: Sự tạo thành glutamat chủ yếu bằng trao đổi amin với
+
cetolutarat hoặc có thể gắn với NH4 với cetoglutarat.
+ +
cetoglutarat + NH4 + NADPHH Glutamat + NADP + H2O
+
Trong cơ thể NH4 được đưa vào phân tử sinh học ở dạng nhóm amin của glutamat
hoặc glutamin. Các nhóm amin này tham gia quá trình sinh tổng hợp của các acid amin
và những hợp chất có chứa nitơ khác.
3.3. Sự tổng hợp acid amin
Tổng hợp 20 acid amin thường gặp ở các thể sinh vật có sự khác nhau. Thực vật
thượng đẳng tổng hợp được tất cả các acid amin cần cho sự tổng hợp protid từ các
+
nguồn nitơ, nitrit, nitrat. VD: E.coli tổng hợp được tất cả các acid amin từ NH4 .
Quá trình tổng hợp acid amin là quá trình gắn nhóm amin vào khung carbon
tương ứng tạo các acid amin tương ứng. Từ khung carbon (các chất chuyển hóa trung
gian) tổng hợp nên một số acid amin gọi là họ của acid amin: họ -ketoglutarat, họ 3
phosphoglycerat, họ oxaloacetat và pyruvat, họ phosphoenol pyruvat, v.v...
Sự tổng hợp acid amin được điều hòa theo cơ chế điều khiển ngược (Feedback),
sản phẩm cuối cùng của quá trình ức chế enzym xúc tác đầu tiên.
4. TỔNG HỢP PROTID
Tổng hợp protid hay còn gọi là sự dịch mã (dịch mã di truyền từ ARNm sang trật
tự acid amin trong phân tử protid).
Mọi sự sai lệch trong cấu trúc phân tử protid tổng hợp (do di truyền hay do quá
trình tổng hợp) có thể dẫn tới những trạng thái bệnh lý nghiêm trọng của cơ thể sống
Quá trình sinh tổng hợp protid
Sinh tổng hợp có thể mô tả 2 quá trình: sao chép mã (phiên mã) và dịch mã.
Quá trình phiên mã: là quá trình tổng hợp ARNm trên khuôn mẫu ADN nhờ enzym
ARN polymerase.
Quá trình dịch mã : được hiểu là quá trình sinh tổng hợp protid. Gồm 2 bước :
Bước 1: hoạt hóa acid amin.
Bước 2 gồm 3 giai đoạn: mở đầu, kéo dài và kết thúc.
4.1. Hoạt hóa acid amin
Sự hoạt hóa acid amin xảy ra ở bào tương dưới tác dụng của enzym aminoacyl-
ARNt synthetase.
Trước hết phản ứng tạo chất trung gian là aminoacyl adenylat gắn với trung tâm
hoạt động của enzym. Sau đó tạo phức hợp với aminoacyl-ARN t. Enzym aminoacyl-
ARNt synthetase đặc hiệu với acid amin không cao lắm, nên có thể hoạt hóa đối với
những acid amin tương tự nhau. Nhưng những acid amin được hoạt hóa nhầm này
không chuyển sang ARNt tương ứng.
Phản ứng có thể tóm tắt như sau:
E + Acid amin + ATP [Aminoacyl-AMP] E + PPi
ARNt AMP
Aminoacyl-ARNt
Mục tiêu
Trình bày đúng thành phần hóa học của gan, mật.
Trình bày đầy đủ các chức năng hóa sinh của gan, mật.
Nắm được một số xét nghiệm sinh hóa thăm dò chức năng gan, mật.
1. ĐẠI CƯƠNG
Gan là một trong những cơ quan quan trọng nhất của cơ thể về chức năng chuyển
hóa, là cơ quan nặng thứ hai sau hệ xương (~ 2 kg). Các hoạt động chuyển hóa của gan
xảy ra ở các tế bào nhu mô, chiếm 80% khối lượng gan. Gan gồm các tế bào Kupffer,
chứa hệ thống lưới nội nguyên sinh chất.
Do đảm nhận nhiều chức năng chuyển hóa, là cửa ngõ của các chất vào cơ thể qua
bộ máy tiêu hóa, nên gan là cơ quan dễ bị nhiễm bệnh. Tỷ lệ bệnh gan mật thường cao
hơn bệnh lý của các cơ quan khác và các xét nghiệm hóa sinh là rất quan trọng, giúp
cho việc chẩn đoán, theo dõi điều trị các bệnh lý của hệ thống này.
2. THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Protid: Chiếm ½ khối lượng gan khô (15% khối lượng gan tươi). Gồm: albumin,
globulin, một ít nucleoprotein, collagen, feritin (dự trữ sắt), acid amin tự do:
methionin, tryptophan, arginin, glycin, histidin, acid glutamic.
Glucid: Chủ yếu là glycogen (2–10% trọng lượng khô). Người trưởng thành glycogen
chứa trong gan có thể tới 150 – 200g.
Lipid: Gan chiếm một lượng lipid khá lớn (chiếm khoảng 5% trọng lượng khô của
gan). Trong đó: 40% là mỡ trung tính, 50% là phosphatid, 10% là cholesterol.
Enzym: Gan là cơ quan quan trọng trong chuyển hóa, tập trung nhiều enzym
như: lipase, transaminase, phosphorylase, phosphatase, glutaminase, decarboxylase, hệ
thống enzym xúc tác tổng hợp urê, phân ly glycogen và một số enzym khác.
Vitamin: Có nhiều caroten (tiền vit A); các vitamin D3, nhóm B (B1, B6, B12), C,
3+, + + 2+
K. Ngoài ra, còn có nhiều ion kim loại như: Fe Na , K , Mg ,...
3. CHỨC NĂNG SINH HÓA CỦA GAN
3.1. Chức năng tạo mật
3.1.1. Thành phần hóa học của mật Gồm: sắc tố mật, muối mật, cholesterol.
Muối mật được tạo thành do sự kết hợp của glycin/taurin với các acid mật, là sản
phẩm thoái hóa cuối cùng của cholesterol ở gan. Sắc tố mật là sản phẩm thoái hóa của
hemoglobin, chủ yếu là bilirubin liên hợp và biliverdin.
3.1.2. Quá trình bài xuất mật
Mật được tạo ra ở tế bào gan, dự trữ ở túi mật, được tiết xuống tá tràng để tham gia
vào quá trình tiêu hóa.
Mật có màu vàng (bilirubin). Trong túi mật, mật có màu sẫm hơn từ màu xanh lá
cây đến màu nâu nhạt (do bilirubin bị oxi hóa thành biliverdin và bị cô đặc).
Ở tá tràng mật không bị biến đổi về hóa học, phần lớn được tái hấp thu qua hệ tĩnh
mạch cửa về gan, một phần nhỏ theo phân ra ngoài. Lượng mật bài xuất hằng ngày tùy
thuộc vào tính chất và khối lượng thức ăn, trung bình gan bài tiết 1 lít mật/ngày.
Tác dụng của mật
Muối mật có tác dụng:
Nhũ tương hóa lipid tăng diện tích tiếp xúc với lipase. Những hạt nhũ tương nhỏ
(đường kính < 0,5 micron) có thể được hấp thu trực tiếp ở ruột. Vì vậy, tiêu hóa và hấp
thu lipid phụ thuộc vào lượng muối mật có trong mật.
Hoạt hóa lipase giúp cho lipid được tiêu hóa và hấp thu dễ dàng cùng với các
vitamin tan trong dầu.
Khi bài xuất xuống ruột, mật làm tăng nhu động ruột. Mật kéo theo rất nhiều chất
độc được gan giữ lại và đào thải theo phân.
Nếu tổn thương gan và đường dẫn mật sẽ ảnh hưởng đến quá trình tạo mật và bài
xuất mật, ảnh hưởng đến tiêu hóa - hấp thu lipid và các vitamin tan trong dầu, ảnh
hưởng đến việc đào thải một số chất độc qua đường mật.
Dùng xét nghiệm định lượng bilirubin trong huyết thanh, tìm sắc tố mật, muối
mật trong nước tiểu để chẩn đoán vàng da.
3.2. Chức năng chuyển hóa glucid
3.2.1. Tổng hợp glycogen
Glycogen là dạng dự trữ glucid cho cơ thể. Gan tổng hợp glycogen từ:
Glucose, các ose khác (galactose, fructose, manose) nhờ hệ enzym chỉ có ở gan.
Từ các sản phẩm chuyển hóa trung gian như: acid pyruvic, acetyl CoA, lactat.
3.2.2 Phân ly glycogen: tạo glucose cung cấp cho các mô.
Thủy phân: thủy phân với sự tham gia của enzym amylase, maltase. Quá trình thủy
phân xảy ra ở gan ít, chủ yếu là quá trình khử phosphoryl.
Phân ly: Với sự tham gia của phosphorylase là enzym xúc tác phản ứng sau:
Glycogen Glucose-1-phosphat Glucose-6-phosphat
G6 phosphatase
Glucose-6-phosphat Glucose + H3PO4 (Sơ đồ)
Enzym glucose-6-phosphatase chỉ có ở gan, nên quá trình phân ly từ glycogen
thành glucose chỉ xảy ra ở gan.
3.2.3 Gan tham gia điều hòa đường huyết
Chức năng phân ly glycogen cùng với các yếu tố khác như: thần kinh thể dịch,
hormon (insulin, adrenalin) tham gia vào quá trình điều hòa đường huyết.
Bình thường glucose trong máu 90 - 130 mg/dl.
Glucose máu < 90 mg/dL Gan tăng cường thoái hóa glycogen để tạo glucose,
đưa glucose vào máu và giảm tổng hợp glycogen.
Glucose máu > 130 mg/dL Gan tăng tổng hợp glycogen dự trữ cho cơ thể.
Trên lâm sàng dùng nghiệm pháp dung nạp glucose nhằm thăm dò chức năng
chuyển hóa glucid: cho bệnh nhân uống liều glucose 75 g/250ml trong vòng 5 phút và
lấy máu để định lượng glucose sau 2 giờ uống.
Bình thường glucose tăng ngay sau uống ½ giờ (từ 100mg% - 150mg%).
Giảm dần, sau 3 giờ bình thường.
Gan suy: Khả năng chuyển glucose mới hấp thu thành đường dự trữ kém.
Glucose máu tăng 200mg/l sau 1 giờ.
Rồi từ từ hạ về mức cũ sau 3 giờ.
- Bilirubin toàn phần trong huyết thanh < 1mg/dl Có thể tăng
Mục tiêu
Trình bày được chức năng của thận.
Trình bày được tính chất chung của nước tiểu.
Trình bày được các chất bất thường có trong nước tiểu.
ĐẠI CƯƠNG
Hai thận ở người trưởng thành nặng khoảng 300g (0,5% khối lượng cơ thể). Tuy
khối lượng không lớn nhưng hoạt động của thận rất mạnh. Thận sử dụng 8-10% oxy
của cơ thể. Hàng ngày khoảng 1000-1500 lít máu qua thận, 10% làm nhiệm vụ cung
cấp chất dinh dưỡng cho thận, 90% làm nhiệm vụ bài tiết.
Thận có các chức năng:
Bài tiết các chất cặn bã có hại hoặc không cần thiết của quá trình chuyển hóa ra
ngoài cơ thể, bằng cơ chế lọc và tái hấp thu.
Tham gia điều hòa thăng bằng acid – base nhờ cơ chế bài tiết ion hydro và giữ
base dưới dạng muối natri.
Tham gia chuyển hóa các chất.
Chức năng nội tiết.
Đơn vị chức năng của thận là nephron, mỗi thận có khoảng 1-1,5 triệu nephron.
Mỗi nephron gồm:
Cầu thận: gồm một bó bao mao động mạch hình cầu (quản cầu thận) được bọc
bằng hai túi màng (bọc Bowman).
Ống thận: gồm ống lượn gần nói với bọc Bowman, quai Henlé và ống lượn xa.
Ống lượn xa nối với ống góp và cuối cùng là bể thận.
CHỨC NĂNG CỦA THẬN
2.1. Chức năng bài tiết
Các chức năng chính của thận gồm sự lọc, tái hấp thu và bài tiết. Thận kết hợp
những chức năng này để duy trì và điều hòa cân bằng nội mô. Sự hình thành nước tiểu
là tổng hợp các quá trình: siêu lọc ở cầu thận; tái hấp thu và bài tiết xảy ra ở ống thận.
2.1.1. Quá trình siêu lọc
Siêu lọc là giai đoạn đầu của quá trình tạo thành nước tiểu, hàng ngày có khoảng
lít nước tiểu ban đầu được hình thành. Màng cầu thận cho nước và các chất trong máu
qua lại một cách dễ dàng. Nước và các phân tử nhỏ qua lại màng cầu thận như một
sàng phân tử. Các phần tử lớn như protein có các phân tử lớn hơn 70.000 Da (Dalton)
không qua được. Vì vây, nước tiểu ban đẩu có thành phần giống như huyết tương trừ
protein.
Sự lọc của màng cầu thận đối với các chất khác nhau tùy thuộc vào: kích thước
của phân tử được lọc, sự tích điện của phân tử protein, hình dáng của phân tử được lọc
và tùy thuộc vào trình trạng huyết động cục bộ hay lưu lượng máu.
2.1.2. Quá trình tái hấp thu
Quá trình tái hấp thu là quá trình xảy ra liên tục ở ống thận. Các chất được tái hấp
thụ ở ống thận với mức độ khác nhau: tái hấp thu hoàn toàn, tái hấp thu phần lớn, tái
hấp thu một phần và không được tái hấp thu. Mặt khác, ống thận cũng sản xuất ra một
số chất được đào thải ra ngoài.
Tái hấp thu hoàn toàn
Những chất có ngưỡng tái hấp thu cao như glucose hầu hết được tái hấp thụ hoàn
toàn chủ yếu ở ống thận. Trong điều kiện bình thường glucose được lọc qua cầu thận
với tốc độ 150 g/24 giờ và hầu như được tái hấp thu hoàn toàn nên trong nước tiểu chỉ
có 6 mg/24 giờ. Nồng độ glucose 1,75 g/l gọi là ngưỡng tái hấp thu của thận.
người bình thường, khi nồng độ glucose trong máu lớn hơn 1,75g/l đều có đường
niệu là do thận tái hấp thu không hoàn toàn. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp
ngưỡng tái hấp thu glucose thấp hơn 1,75g/l thì đường niệu xuất hiện ở mức đường
huyết thấp hơn.
Sự tái hấp thụ glucose kèm theo sự tái hấp thu natri ở tế bào ống thận.
Tái hấp thu hầu hết
Rất nhiều chất được tái hấp thu hầu hết để đảm bảo sự cân bằng nội môi.
Nước được tái hấp thu khoảng 99% chủ yếu ở ống lượn gần, sự tái hấp thu nước
thường đi kèm với sự tái hấp thu natri và clo.
Kali được tái hấp thu khoảng 98%.
Phosphat được tái hấp thu khoảng 95%.
Bicarbonat được tái hấp thu trên 90% chủ yếu ở ống lượn gần.
Các acid amin cũng được tái hấp thu gần hết.
Tái hấp thu phần lớn
Natri, clor và nhiều muối khác được tái hấp thu phần lớn ở ống lượn gần. Sự tái
+
hấp thu Na liên quan đến tái hấp thu nước và nhiều chất tan khác.
Thận tái hấp thu phần lớn những protein đã được lọc qua cầu thận. Khoảng 99 %
albumin lọc qua cầu thận được tái hấp thu ở ống lượn gần. Nhờ quá trình tái hấp thu ở
ống thận mà hầu hết các protein lọc qua cầu thận đều được tái hấp thu.
Nước tiểu ở người khỏe mạnh lượng protein rất ít. Các xét nghiệm thông thường
không phát hiện được và thường coi nước tiểu người khỏe mạnh không có protein.
Tái hấp thu một phần
Các chất như urê, urat, vitamin C ... được tái hấp thu khoảng 50 % tại ống thận.
e) Không tái hấp thu
Các chất được lọc qua cầu thận nhưng không được tái hấp thu ở ống thận là
inilin, mannitol và natri hyposulfid. Do đó, thường đo độ thanh thải của các chất này
để khảo sát chức năng lọc của cầu thận.
2.1.3. Quá trình bài tiết
Chức năng bài tiết của thận nhằm loại bỏ các sản phầm chuyển hóa cuối cùng và
các chất vô cơ dư thừa trong chế độ ăn ra khỏi cơ thể, là quá trình các chất từ huyết
tương được tế bào ống thận đào thải vào nước tiểu.
Các sản phẩm dư thừa được bài tiết gồm: hợp chất urê có nitơ không phari là
protein, một số acid hữu cơ (gồm cả acid amin) được bài tiết với số lượng nhỏ. Các
+ +
chất như kali, acid uric, creatinin, H , NH4 , … cũng được bài tiết vào ống thận khi
nồng độ trong máu cao.
Ngoài ra, các chất được đưa vào cơ thể để điều trị hay chẩn đoán như P.S.P
(phenyl sulfo phtalein), acid para amino hippuric (P.A.H), penicillin … cũng được bài
tiết ở ống thận.
Qua các chức năng trên của thận, có thể thấy rằng nước tiểu cô đặc được hình
thành thông qua các quá trình siêu lọc, tái hấp thu và bài tiết. Đây cũng chính là cơ chế
đào thải có chọn lọc của thận.
2.2. Chức năng chuyển hóa
Thận tham gia chuyển hóa các chất chủ yếu là quá trình thoái hóa glucid, lipid để
cung cấp năng lượng cho thận hoạt động.
Chuyển hóa glucid chiếm ưu thế, chu trình pentose xảy ra không mạnh mẽ chủ
yếu là con đường đường phân.
Chuyển hóa lipid các lecithin được khử phosphat nhờ glycerophosphatase. Các
chất cetonic đượcthoái hóa hoàn toàn.
Chuyển hóa protid. Thận có nhiều hệ thống emzym khử amin tạo ra các acid
+
cetonic, giải phóng NH3 dưới dạng NH4 ở thận.
2.3. Chức năng điều hòa cân bằng acid - base
Thận đóng vai trò chính trong việc duy trì thăng bằng acid – base thông qua việc
+ +
tái tại bicarbonat và bài tiết NH4 , H .
Máu động mạch có pH hằng định khoảng 7.38 - 7.42. Sự hằng định này bị thay
+
đổi bởi sản sinh hàng ngày khoảng 1 mEq/kg ion H . Thận là cơ quan duy nhất bày tiết
sự thừa acid, do đó pH của nước tiểu bao giờ cũng thấp hơn so với pH máu. Tuy nhiên,
khả năng điều hòa của thận bắt đầu có hiệu lực sau vài giờ, không nhanh bằng các hệ
đệm trong máu. Có ba cơ chế chính để điều hòa thăng bằng acid - base nhằm duy trì
lượng bicarbonate có trong khu vực ngoài tế bào.
Sự tái hấp thu bicarbonat: Gần 90% bicarbonat được tái hấp thu ở ống lượng gần.
Trong tế bào ống thận CO2 và H2O được tạo thành trong quá trình chuyển hóa, dưới
tác dụng của carbonic anhydrase chuyển thành H2CO3, H2CO3 là một acid yếu phân ly
+ - + - +
thành H và HCO3 . Ion H được tiết ra ngoài ống thận, HCO 3 cùng với Na được hấp
thu trở lại máu.
+ +
Sự tái tạo lại ion bicarbonat bằng cách đào thải ion H : Ở ống lượn xa ion H
+ -
cũng được đào thải thế chỗ cho Na được tái hấp thu cùng với HCO3 . Các muối
phosphate di-natri trở thành muối phosphat mononatri trong nước tiểu, pH giảm.
+
Sự tái tạo lại ion bicarbonat bằng cách bài xuất NH 4 : tế bào ống thận bài tiết
+
ion H dưới dạng muối amoni xảy ra ở ống lượn xa. Ở tế bào ống thận amoniac được
tạo ra chủ yếu do thủy phân glutamin dưới tác dụng của glutaminase. Amoniac khuếch
+ +
tán thụ động ra nước tiểu, cùng với H đào thải dưới dạng NH4 .
Đào thải các acid không bay hơi như acid lactic, thể cetonic, acid sulfuric (sản phẩm
chuyển hóa của protid), acid phosphoric (sản phẩm chuyển hóa các phospholipid).
+
Các acid này kết hợp với các cation mà chủ yếu là Na . Các cation này sẽ tái hấp thu ở
+
tế bào ống thận thế chỗ cho H đào thải ra ngoài.
2.4. Chức năng nội tiết của thận
2.4.1. Hệ thống Renin – angiotensin – aldosterone
Hệ thống bên cạnh cầu thận tổng hợp bài tiết ra một emzym thủy phân protein là
renin. Renin có phân tử lượng 40.000 Da. Renin được đổ vào tĩnh mạch thận. Trong
máu, renin có tác dụng đặc hiệu trên protein là angiotensinogen được tổng hợp từ gan.
Cơ chế tác dụng của renin: renin thủy phân chặt liên kết petid giữa acid amin 10
và 11 giải phóng angiotensin I không có tác dụng sinh học. Một enzym khác trong máu
(enzym chuyển) cắt hai acid amin ở đầu C tận của angiotensin I tạo thành angiotensin
có tác dụng sinh học rất mạnh. Angiotensin II có tác dụng: co mạch, tăng huyết áp, co
cơ trơn, tăng bài tiết aldosterone của vỏ thượng thận.
2.4.2. Sự bài tiết yếu tố tạo hồng cầu
Lượng hemoglobin lưu thông phụ thuộc chủ yếu vào sự cung cấp oxy ở tế bào, sự
thiếu oxy ở tổ chức kích thích tạo hồng cầu. Năm 1950, xác định được mối liên quan
trực tiếp giữa tình trạng thiếu oxy và nồng độ một hormon mới trong huyết tương, chất
tạo hồng cầu (erythropoietin – Ep)
2.4.3. Prostaglandin
Ba dạng prostaglandin được tìm thấy ở thận là PGE 2, PGI2, TXA2, PGE2, PGI2 có
tác dụng giống như angiotensin II, làm đào thải natri và lợi tiểu nhẹ. PGE 2 còn có tác
dụng lên sự tổng hợp REF thông qua hoạt hóa adenylat cyclase (AC) để tạo AMPv.
TXA2 là yếu tố co mạch.
2.4.4. Vitamin D
Vitamin D3, (cholecalciferol) là tiền hormon phụ thuộc vào tia tử ngoại, được tạo
thành ở da đến huyết tương nhờ sự vận chuyển của D 3-binding protein, được oxy hóa
thành 25-OH-D3 ở gan và 1, 25-(OH)2-D3 hay calcitriol ở thận. Calcitriol có tác dụng
tăng cường hấp thu calci ở ruột và tái hấp thu calci ở thận.
TÍNH CHẤT CHUNG CỦA NƯỚC TIỂU
Thể tích nước tiểu
Thể tích nước tiểu trung bình của người lớn trong 24 h là khoảng 1000 - 1400 ml,
tương đương với thể tích từ 18 - 20 ml/kg trọng lượng cơ thể. Thể tích nước tiểu thay
đổi theo điều kiện sinh lý và bệnh lý.
3.2. Màu sắc nước tiểu
Nước tiểu bình thường có màu từ vàng nhạc tới màu hổ phách tùy vào lượng
nước tiểu bài xuất và đậm độ nước tiểu.
3.3. Độ trong suốt
Nước tiểu bình thường, lấy trong điều kiện đúng quy cách, thường trong suốt.
Nước tiểu sau một thời gian ngắn để lắng sẽ tạo thành một đám mây vẩn đục lơ lửng ở
giữa hay ở ống đựng nước tiểu tùy thuộc vào tỷ trọng của nước tiểu. Những vẩn đục
trên là những tế bào bình thường của nội mô đường tiết niệu và các chất nhày
urosomucoid. Nước tiểu bình thường để trong lọ để chỗ mát hay lạnh vẫn có thể có tủa
lắng xuống, đó có thể là cặn acid uric, muối urat natri hoặc phosphate.
3.4. Độ sánh
Nước tiểu bình thường có độ sánh cao hơn nước một chút. Trong một số trường
hợp bệnh lý, tính chất của nước tiểu thay đổi do sự có mặt của một số chất như mủ
máu, protein, mucoprotein, dưỡng chất v.v… sánh hơn và có nhiều bọt.
3.5. Mùi
Nước tiểu bình thường có mùi đặc biệt. Để ngoài không khí có mùi khai do sự
biến đổi urê thành ammoniac. Trong một số trường hợp bệnh lý nước tiểu có mùi
aceton, mùi hôi (sốt cao, ung thư thận, ung thư bang quang).
3.6. Sức căng bề mặt
2
Nước tiểu bình thường có sức căng bề mặt 64- 69 dynes/cm (thấp hơn nước
nước, 72). Một số thuốc có acol, ether, chloroform làm giảm sức căng bề mặt nước
tiểu. Trong trường hợp bệnh lý như viêm gan tắc mật trong nước tiểu có muối mật thì
thì sức căng bề mặt của nước tiểu giảm.
3.7. Tỷ trọng
Tỷ trọng nước tiểu thay đổi trong ngày. Nước tiểu 24h ở người lớn bình thường,
o
chế độ ăn hỗn hợp, do điều kiện nhiệt độ 15 C, có tỷ trọng trung bình khoảng là 1,018
0,22. Trong một số trường hợp bệnh lý, đái tháo đường do tụy, tỷ trọng nước tiểu có
khi tới 1,030 – 1,040. Trong trường hợp đái nhạt tỷ trọng nước tiểu lại thấp.
3.8. pH của nước tiểu
Nước tiểu 24h ở người bình thường có pH hơi acid, khoảng 5-6 ttrung bình
khoảng 5,8. Độ acid của nước tiểu là do sự có mặt trong nước tiểu của những acid tự
do. pH nước tiểu thay đổi theo chế độ ăn. Trong trường hợp bệnh lý như: viêm bể thận,
viêm bàng quang, pH nước tiểu thường rất kiềm do phản ứng lên men ammoniac; bệnh
đái tháo đường nặng thể cetonic niệu, pH nước tiểu acid.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA NƯỚC TIỂU
Các chất vô cơ
Clo: sự bài xuất clo phụ thuộc vào chế độ ăn. Trong một số bệnh lý như viêm
thận, bệnh nhiễm trùng như viêm phổi thì clo trong nước tiểu giảm.
Phosphat: phần lớn phosphat trong nước tiểu là phosphat mono kim loại.
Phosphat nước tiểu có hai nguồn gốc: thức ăn và do dự thoái hóa các hợp chất có
photsphat tăng trong một số bệnh về xương, ưu năng tuyến cận giáp và giảm trong
thiểu năng tuyến cận giáp.
4.2. Các chất hữu cơ
Urê: Urê là thành phần có nhiều nhất trong nước tiểu. Sự bài xuất urê phụ thuộc
vào chế độ ăn, tỷ lệ thuận với chế độ ăn giàu đạm. Sự bài xuất urê tăng trong các
trường hợp sốt cao, đái tháo đường, ưu năng tuyến thượng thận, nhiễm độc v.v… Sự
bài xuất urê giảm trong viêm thận cấp, viêm thận do nhiễm độc chì, thủy ngân.
Creatinin: bài xuất creatin trung bình ở người trưởng thành nam giới khoảng 20-
25mg/kg thân trọng, nữ giới là 15-20mg/kg thể trọng. Lượng creatinin trong nước tiểu
tăng trong các trường hợp bệnh teo cơ kèm thoái hóa cơ, ưu năng tuyến cận giáp.
Acid uric: Lượng acid uric bài xuất trong nước tiểu thay đổi theo chế độ ăn, tăng
chế độ ăn có nhiều đạm, trường hợp bệnh lý về thận như viêm thận, bệnh lý về chuyển
hóa nucleoprotein ở tế bào.
Acid amin: Nước tiểu có chứa tất cả các acid amin có trong protein. Ở một số
bệnh lý lượng acid amin cao hơn trong nước tiểu.
Các hormon, vitamin và enzym: Trong nước tiểu còn có chứa enzym như
amylase, các vitamin như B1, PP, C và các dạng dẫn xuất của chúng; các hormon sinh
dục nam, sinh dục nữ, vỏ thượng thận dưới dạng dẫn xuất glucuronic liên hợp.
CÁC CHẤT BẤT THƯỜNG TRONG NƯỚC TIỂU
Các chất được gọi là bất thường là những chất chỉ xuất hiện trong nước tiểu ở các
trường hợp bệnh lý.
5.1. Glucid
Nước tiểu bình thường bao giờ cũng có chưa một lượng nhỏ các ose như
glucose, fructose, arabinose, galactose, ribose. Ose bất thường xuất hiện trong nước
tiểu là glucose, được gọi là glucose niệu. Glucose niệu thường gặp trong bệnh đái tháo
đường tụy do thiếu insulin. Ở một số trường hợp bệnh lý, trong nước tiểu xuất hiện
một số ose khác như fructose, galactose do rối loạn enzym bẩm sinh.
5.2. Protein
Trong nước tiểu ở người bình thường có khoảng 50 – 150mg protein/24h. Với
nồng độ này bằng các xét nghiệm thông thường không phát hiện ra được vì vậy, người
ta coi như không có protein trong nước tiểu.
Lượng protein đào thải hằng ngày phụ thuộc vào tuổi, giới, tư thế đứng lâu, phụ
thuộc vào hoạt động của cơ. Trong trường hợp lao động nặng, phụ nữ có thai lượng
protein trong nước tiểu cũng tăng hơn bình thường là albumin.
Bằng xét nghiệm thông thường phát hiện có protein trong nước tiểu thì đó là niệu
bệnh lý. Protein niệu bệnh lý xuất hiện trong các trường hợp: sốt cao, đái đường, bệnh
tim mạch (suy tim, huyết áp cao), bệnh thận.
5.3. Các chất Ketonic
Nước tiểu bình thường chứa khoảng vài mg acetic/1 lít và vài trăm mg acid beta
hydroxybutyric. Các chất cetonic trong nước tiểu tăng trong các rối loạn chuyển hóa
glucid, bệnh đái đường, đói lâu ngày, tăng chuyển hóa glucid, sau một trường hợp
dùng thuốc gây mê.
5.4. Sắc tố mật, muối mật
Trong một số trường hợp tổn thương gan và đường mật, nhất là vàng da do viêm
gan, vàng da do tắc mật, bilirubin liên hợp có trong nước tiểu ( gọi là sắc tố mật).
5.5. Hồng cầu và hemoglobin
Nước tiểu có hồng cầu trong viêm thận cấp, lao thận, ung thư thận. Nước tiểu có
hemoglobin trong trường hợp sốt rét ác tính, vàng da do tiêu huyết, bỏng nặng.
5.6. Porphyrin
Người bình thường bài xuất khoảng 50-200mg porphyrin/24h. Có hai loại
porphyrin niệu:
Porphyrin niệu vô căn di truyền do thiếu một enzym của quá trình tổng hợp hem
ở tủy xương và gan.
Rối loạn porphyrin niệu thứ phát do nhiễm độc, chất độc ức chế tổng hợp hem.
5.7. Dưỡng chấp
Nước tiểu có dưỡng chấp trong các trường hợp bệnh giun chỉ có tổn thương hệ
bạch huyết tại chổ liên quan tới đường bài xuất nước tiểu.
THĂM DÒ CHỨC NĂNG THẬN
Protein niệu
Protein niệu là một trong những xét nghiệm hàng loạt trong việc kiểm tra sức
khỏe thường kỳ. Bằng các xét nghiệm thông thường không phát hiện được protein niệu
ở người bình thường.
Protein niệu trên 150mg /24h được coi là khởi đầu bệnh lý.
Protein niệu vừa: khi lượng protein trong nước tiểu < 0,2g/l, thường gặp trong viêm
thận cấp, viêm bể thận cấp hoặc mạn.
Protein niệu nặng: khi lượng protein trong nước tiểu > 0,25g/l, thường gặp trong
hội chứng thận nhiễm mỡ.
Việc định tính protein nước tiểu bằng phương pháp điện di có thể giúp ta đánh giá
được mức độ tổn thương của thận đồng thời có thể xác định được tổn thương ở cầu
thận hay ở ống thận.
6.2. Urê
Định lượng urê trong máu là một trong những xét nghiệm cơ bản. Ở người bình
thường nồng độ urê trong máu từ 1,7-8,3 mmol/l. Nồng độ urê trong nước tiểu khoảng
333 – 583mmol/24h. Nồng độ urê trong máu được coi là bệnh lý khi > 8,3mmol/l. Nồng
độ urê máu giảm rất hiếm khi gặp. Thường gặp urê máu cao thể hiện sự thiểu năng thận.
6.3. Creatinin
Khi bị tổn thương, nồng độ creatinin trong máu tăng sớm hơn so với urê. Ở người
bình thường, nồng độ creatinin trong huyết thanh là 53-97mmol/l (nam giới) và 44-80
mmol/l (nữ giới).
Các xét nghiệm nước tiểu và máu sơ bộ có thể đánh giá chức năng của thận. Các
xét nghiệm protein niệu, soi cặn để xác định hồng cầu và trụ hạt là hai xét nghiệm đơn
giản để nghĩ đến thận có bệnh lý hay không. Sự tăng nồng độ urê hay creatinin máu là
một dấu hiệu hóa sinh để nghi vấn chức năng lọc của thân. Theo dõi biến đổi urê hay
creatinin máu có thể tiên lượng sự tiến triển của bệnh đặc biệt là viêm thận mạn tính.
Tuy nhiên, các xét nghiệm trên không hoàn toàn đặc hiệu cho thận, mà chúng còn
phụ thuộc vào chế độ ăn, dùng thuốc và một số bệnh khác. Để dánh giá chức năng của
thận một cách chính xác và cụ thể cần phải tiến hành các nghiệm pháp thăm dò chức năng
như độ thanh thải, nghiệm pháp Zimnisky (nghiệm pháp 8 cốc), nghiệm pháp PSP (phenol
sulphophtalein). Ngoài ra, ở các cơ sở chuyên khoa có thể thăm dò phức tạp hơn như thăm
dò cân bằng acid – base của thận, định lượng hoạt độ renin trong huyết tương.
Ngoài những xét nghiệm trên, để đánh giá mức độ suy thận, người ta làm thêm
các xét nghiệm như nồng độ kali trong huyết thanh, nếu kali trong huyết thanh cao
phải cho chạy thận nhân tạo. Cần xét nghiệm ion đồ huyết thanh và nước tiểu, các
thông số về pH, pO2, pCO2 v.v…