Đề cương Tư tưởng

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 113

MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1+2: 2
Câu 1: Khái niệm, đối tượng, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa học tập môn Tư tưởng
Hồ Chí Minh; 2
Câu 2: Phân tích khái niệm tư tưởng HCM 4
Câu 3: Nguồn gốc của tư tưởng HCM: 6
Câu 4: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh; 9
Câu 5: Điều kiện xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh? 16
Câu 6: Quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh. 19
Câu 7: Liên hệ bản thân 21
Câu 1: Tư tưởng HCM về độc lập dân tộc 23
Câu 2: Tư tưởng HCM về chủ nghĩa xh và xd cnxh ở VN 25
Câu 3: Tư tưởng HCM về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cnxh 26
Câu 4: Vận dụng tư tưởng HCM về độc lập dt và cnxh ở giai đoạn hiện nay 27
Câu 5: Tư tưởng HCM về cm giải phóng dt 28
Câu 6; Tư tưởng HCM về mục tiêu của CNXH 29
Câu 7: Tư tưởng HCM về động lực của CNXH 30
Câu 8: Tư tưởng HCM về thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN 31
VẤN ĐỀ 5+6: 32
Câu 1: Sự ra đời và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam 32
Câu 3: Phân tích sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam 48
Câu 4: Nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất GCCN của Đảng cộng sản 49
Câu 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam; 50
Câu 6: Vận dụng những nguyên tắc xây dựng Đảng của Người vào việc xây dựng và chỉnh
đốn Đảng ta hiện nay? + Giáo trình trang 164,165 50
VẤN ĐỀ 6: tư tưởng hcm về nhà nước của dân, do dân, vì dân 53
Câu 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân;+ bản cấp giai cấp của
NN (bên trên)+ giáo trình 142-150 55
Câu 8: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền; 57
Câu 9: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước trong sạch, vững mạnh. 59
Câu 10: Vận dụng tư tưởng đó trong việc xây dựng Nhà nước ta hiện nay như thế nào? +
Giáo trình trang 166,167,168 63
Câu 11: Những thuận lợi, nguy cơ và thách thức đối với nhân dân ta ngày nay? 65
Câu 12: Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc làm trong sạch bộ máy nhà nước ở
Việt Nam ta hiện nay 68

1
Vấn đề 7+8: 71
Câu 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc; 71
Câu 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế; 72
Câu 3; Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hóa 73
Câu 4: Quan điểm Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của văn hóa 73
Câu 5:Vận dụng tư tưởng HCM về văn hóa của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện
nay 76
Câu 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của đại đoàn kết dân tộc 76
Câu 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc; 79
Câu 8: Tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc; 80
Câu 10: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, tính chất và chức năng của văn hóa; 81
Câu 9: Vận dụng đại đoàn kết dt và đại đoàn kết quốc tế vào giai đoạn hiện nay 83
VẤN ĐỀ 9+10: 84
Câu 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, bản chất của đạo đức: 84
Câu 2: Quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng 85
Câu 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. 90
Câu 4: Nội dung sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM 93
Câu 5: Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người: 96
Câu 6: Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của con người (Con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng): 99
Câu 7: Quan điểm của Hồ Chí Minh về Xây dựng con người (Quan điểm của Hồ Chí Minh
về chiến lược trồng người) 101
Câu 8: tư tưởng hồ chí minh với chiến lược xây dựng con người của đảng hiện nay 106
VẬN DỤNG TẤT CẢ MỌI THỨ TRÊN ĐỜI 108

2
ĐỀ CƯƠNG MÔN TƯ TƯỞNG HCM

VẤN ĐỀ 1+2:

Câu 1: Khái niệm, đối tượng, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa học tập
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh;
● Khái niệm
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam , là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giảI phóng giai
cấp giả phóng con người”.
– Trong định nghĩa này, Đảng ta đã bước đầu làm rõ được:
+ Một là bản chất Cách mạng , khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh .
+ Hai là, nguồn gốc tư tưởng – lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh : chủ nghĩa
Mác- lênin; giá trị văn hoá dân tộc; tinh hoa văn hóa nhân loại.
+ Ba là, nội dung cơ bản nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh , bao gồm những vấn
đề có liên quan trực tiếp đến Cách mạng Việt Nam
+Bốn là, giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí
Minh : soi đường thắng lợi cho Cách mạng Việt Nam , tài sản tinh thần to lớn
của đảng và dân tộc.
-> Văn kiện đại hội XI của đảng “ Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và
quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng
của Nhân dân ta giành thắng lợi.” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội).
– Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao
gồm nhiều lĩnh vực, là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác
nhau. Song chủ yếu bao gồm những luận điểm sau. Tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Về dân tộc và Cách mạng giải phóng dân tộc.
+ Về Đảng cộng sản Việt Nam .
+ về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
+ Về đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết quốc tế.
+ Về dân chủ và xây dựng NN của dân, do dân, vì dân.
+ Về đạo đức,văn hoá và xây dựng con người mới.
– Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh : Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh nội dung
cơ bản, cốt lõi, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam , đó là tư tưởng Về
Độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ; độc lập dân tộc gắn liền với chủ
3
nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người.
-> Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tư tưởng về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh bao
gồm một hệ thống các quan điểm cơ bản về chính trị, các quan điểm về kinh tế,
văn hóa, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa và phương pháp cách mạng Hồ
Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là nền tảng lý luận và định hướng cho Đảng ta xây
dựng đường lối đúng đắn, tổ chức lực lượng cách mạng và dẫn dắt nhân dân đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong toàn bộ tiến trình của cách mạng nước
ta.
Đảng ta chỉ rõ cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, đã đem lại thắng lợi cho
công cuộc đổi mới ở nước ta sẽ tiếp tục dẫn dắt chúng ta trên con đường xây
dựng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập –Tự Do –Hạnh phúc.
● Đối tượng nghiên cứu:

● Nghiên cứu, làm rõ những nội dung chủ yếu trong hệ thống tư tưởng
HCM: cơ sở hình thành, nội dung, vận dụng, kế thừa
● Nghiên cứu cách thức hcm vận dụng sáng tạo và phát triển CN mac le,
tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa thời đại: sự vận động của TTHCM
trong thực tiễn (sự minh chứng thực tiễn đối với tthcm, giá trị tthcm trong
thời đại ngày nay) có phải sự sao chép của khổng tử, sáng tạo nhưng có đi
ngược lại với chủ nghĩa mác lênin, (no k mâu thuẫn dù sáng tạo từ chủ
nghĩa mác vận dụng cách linh hoạt vào thực tiễn vn)
● nghiên cứu cách thức vận dụng tư tưởng hcm hiện nay

● Cách thức vận dụng tư tưởng hcm để không dập khuôn bảo thủ giáo điều

=> Những vấn đề mà thực tiễn đã vượt trước tư tưởng HCM, nếu vượt trước thì
có quyền đóng góp, lm mới, thể hiện tầm nhìn vượt trước.

● Ý nghĩa
– Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác
+ Soi đường cho Đảng và nhân dân trên con đg thực hiện mục tiêu DG-NM-CB-
VM
+ Làm rõ truyền thụ nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ
bản của Cách mạng Việt Nam để nâng cao nhận thức của sv về vai trò vị trí của
Tư tưởng Hồ Chí Minh với Cách mạng Việt Nam
+ Làm cho Tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đs tinh thần của thế
hệ trẻ.
+ Củng cố cho SV thanh niên lập trường ,qđ Cách mạng kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn với Chủ nghĩa xã hội tích cực đấu tranh phê phán quan điểm sai
trái
4
+ Biết vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết những vấn đề trong cs
bảo vệ Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chủ trương
chính sách của Đảng và NN ta.
– Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức Cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị
+ Giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất Cách mạng theo Tư tưởng Hồ Chí
Minh; đồng thời bồi dưỡng, củng cố lập trường, quan điểm Cách mạng trên nền
tảng chủ nghĩa và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
Chủ nghĩa xã hội.
+ Nâng cao lòng tự hào về Hồ Chí Minh Về Đảng, TQ Việt Nam, tự nguyện
“sống ,chiến đấu lao động và học tập theo gương bác Hồ vĩ đại”
– Giáo dục cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân phát huy truyền thống
đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, phấn đấu không ngừng cho sự nghiệp Cách
mạng Việt Nam.
Trên cơ sở đó vận dụng vào cuộc sống tu dưỡng, rèn luyện và hoàn thành tốt
chức trách của mình ,góp phần vào sự nghiệp Cách mạng theo con đg mà Đảng
và Bác đã chọn

Câu 2: Phân tích khái niệm tư tưởng HCM

a) Khái niệm tư tưởng

- Trong thuật ngữ “ tư tưởng Hồ Chí Minh” khái niệm “ tư tưởng” có ý nghĩa ở
tầm khái quát triết học.

- "Tư tưởng" ở đây không phải dùng với nghĩa tinh thần - tư tưởng, ý thức tư
tưởng của một cá nhân, một cộng đồng, mà với nghĩa là một hệ thống những
quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học(thế
giới quan và phương pháp luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của
một giai cấp, một dân tộc được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở
lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.

Khái niệm "tư tưởng" liên quan trực tiếp đến khái niệm "nhà tư tưởng". Một
người xứng đáng là nhà tư tưởng, theo V.I.Lênin khi người đó biết giải quyết
trước người khác tất cả những vấn đề chính trị-sách lược, các vấn đề về tổ chức,
về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.

b) Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh

Quá trình nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh đi từ thấp đến cao, từ
những vấn đề cụ thể đến hệ thống hoàn chỉnh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991) đánh dấu một cột mốc
quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã
khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền

5
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Văn kiện của Đại hội định nghĩa:
"tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh
đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc".

Kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, công tác nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh được tiến hành nghiêm túc và đạt được những kết quả
quan trọng. Những kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp luận cứ khoa học có sức
thuyết phục để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001)
và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) xác định khá
toàn diện và có hệ thống những vấn đề cốt yếu thuộc nội hàm khái niệm tư
tưởng Hồ Chí Minh. "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. kết quả của
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá
của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta giành thắng lợi" . !

Dựa trên định hướng cơ bản các văn kiện đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam,
các nhà khoa học đã đưa ra định nghĩa: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa;
là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác—Lênin vào
điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời
đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”.

- Phân tích định nghĩa:

+ Thứ nhất: Trước hết phải hiểu TTHCM với tư cách là một bộ môn khoa hoc.
Mặt khác, TTHCM gắn liền với tiến trình CMVN từ khi có Đảng=> TTHCM và
tư tưởng của Đ là thống nhất.

+ Thứ hai: TTHCM không phải ra đời trên một mảnh đất trống không mà hình
thành, phát triển trên một mảnh đất hiện thực. Đó là sự kết tinh của truyền thống
dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và trí tuệ thời đại. Trong đó, chủ nghĩa Mác-
Lênin được coi là cơ sở lý luận chủ yếu và trực tiếp nhất, tạo ra bước nhảy vọt
về chất trong TTHCM.HCM đã vận dụng một cách sáng tạo vào trong điều kiện
cụ thể của Việt Nam,

+ Thứ 3: Vấn đề cốt lõi trong TTHCM là giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người ( Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH), nghĩa
là CM phải triệt để, Cm phải đến nơi.

6
=> TTHCM là ngọn cờ thắng lợi của CMVN trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp
tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng một đất nước VN hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.

Câu 3: Nguồn gốc của tư tưởng HCM:

1. Giá trị truyền thống dân tộc

Đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất, tự lực tự cường để dựng nước và
giữ nước được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử; Trải qua hàng nghìn năm
hun đúc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là giá trị tinh thần cao nhất của dân tộc
ta, nhưng có đặc điểm sâu sắc là nó mang trong mình một giá trị kép: Yêu nước-
Thương dân, Thương dân-Yêu nước. Vấn đề dân tộc vì thế gắn liền với vấn đề
con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người.
Là tinh thần cộng đồng, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái; tinh thần
lạc quan yêu đời, ý thức dân chủ, tất cả được nuôi dưỡng trong quá trình dựng
nước, giữ nước và trở thành giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những giá
trị này được biểu hiện trong kinh tế nhưng trong chế độ ruộng đất công điền; về
xã hội là vấn đề dân chủ và tự chủ trong tổ chức làng xã, xây dựng hương ước;
trong văn hóa là sự tôn vinh các giá trị anh hùng, thờ phụng những người có
công dựng nước, giữ nước, xây dựng làng xã, nghề nghiệp và trọng người hiền
tài. Con người cá nhân trong lịch sử Việt Nam quan hệ chặt chẽ với cộng đồng,
làng xã và dân tộc.
Là truyền thống Dũng cảm, cần cù, hiếu học, thông minh, sáng tạo của dân tộc
Việt Nam trong lao động, trong chiến đấu, đồng thời luôn mở rộng đón nhận
những giá trị văn minh của nhân loại để bảo tồn dân tộc và phát triển đất nước.
Thu nhận cái hay để tồn tại, phát triển là tư duy mở, mềm dẻo của con người
Việt Nam. Một dân tộc sau hàng ngàn năm là nô lệ, bị cưỡng bức đồng hóa về
thể chất và tinh thần nhưng vẫn không chịu khuất phục, kiên nhẫn chịu đựng và
nuôi dưỡng ý thức độc lập dân tộc rồi lại đứng lên giành lấy độc lập dân tộc, xây
dựng một quốc gia là sự thật lịch sử dân tộc Việt Nam. Sức mạnh ấy là những
giá trị truyền thống tốt đẹp.
-> Trong những giá trị truyền thống tốt đẹp đó, Chủ nghĩa yêu nước-nhân văn
Việt Nam là cội nguồn, là giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, là điểm xuất
phát, là động lực lên đường cứu nước và là bộ lọc các học thuyết để Hồ Chí
Minh lựa chọn, tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao của nó là chủ
nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Lúc đầu, chính chủ nghĩa
yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lênin và Quốc tế
thứ Ba.

2. Tinh hoa văn hoá nhân loại:

2.1. Tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Đông

7
Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vốn sống, vốn kinh nghiệm
để làm giàu tri thức của mình và phục vụ cho cách mạng Việt Nam. Người đã
tiếp thu và phát triển tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, và tư tưởng tiến bộ khác
của văn hoá phương Đông.

- Về Nho giáo: Hồ Chí Minh đã khai thác những giá trị tích cực của nho giáo.
Người nhận xét: Nho giáo nói chung và Khổng giáo nói riêng là khoa học về
đạo đức và phép ứng xử, triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp
đời, là lý tưởng về một xã hội bình trị, một thế giới đại đồng. Đây là tư tưởng
tiến bộ. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những hạn chế của Nho giáo,
như: tư tưởng phân biệt đẳng cấp, trọng nam khinh nữ, đề cao lao động trí óc,
coi thường lao động chân tay, coi thường thực nghiệp, doanh lợi.

- Về phật giáo: Hồ Chí Minh tiếp thu những yếu tố tích cực của phật giáo như:
tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái; tư tưởng bình đẳng, dân chủ chất phác chống lại
mọi phân biệt đẳng cấp; đề cao nếp sống đạo đức, trong sạch, chăm làm điều
thiện, coi trọng lao động, chống lười biếng. Phật giáo du nhập vào Việt Nam kết
hợp với chủ nghĩa yêu nước sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia
vào cộng đồng chống kẻ thù chung của dân tộc. Nhưng bên cạnh đó Phật giáo
còn một số điểm hạn chế như: thủ tiêu đấu tranh giai cấp, tư tưởng an phận.

- Hồ Chí Minh còn tiếp thu những tư tưởng triết học phương đông của Lão tử,
Mặc tử, Tôn tử, Quản tử...

- Khi đã trở thành người Mác-xít, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu tư tưởng dân chủ
tiến bộ của Tôn Trung Sơn để làm phong phú thêm tư tưởng của mình và vận
dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam.

2.2. Tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Tây

- Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách mạng
phương Tây: trong 30 năm hoạt động ở nước ngoài chủ yếu là châu Âu nên Hồ
Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách mạng
phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của Đại cách mạng Pháp 1791, Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ
(1776). Người cũng tiếp thu tư tưởng của những nhà Khai sáng Pháp như:
Voltaire, Rousso, Montesquieu...

- Hồ Chí Minh đã hình thành nên phong cách làm việc dân chủ, cách thực hiện
dân chủ thông qua hoạt động thực tiễn ở phương Tây: Người tham gia hội họp,
sinh hoạt trong các tổ chức chính trị, viết báo, viết kịch, viết sách phê phán chế
độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân ngay trên chính quê hương của nó.

8
- Với thiên chúa giáo: Hồ Chí Minh quan niệm: Tôn giáo là văn hoá. Người đã
tiếp nhận những điểm tích cực của Thiên chúa giáo và đánh giá cao lòng nhân
ái, đức hy sinh của chúa Jesu.

Hồ Chí Minh trên hành trình tìm kiếm con đường cách mạng đã tiếp thu chắt lọc
những gì tinh túy trong tư tưởng văn hoá Đông - Tây. Từ đó, Người đã vận
dụng một cách phù hợp, tạo cho mình một phong cách riêng, một phương pháp
tư duy biện chứng để tìm ra con đường, một lý luận cách mạng phù hợp với
điều kiện Việt Nam.

3. Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh:

- Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp quyết định bản chất cách
mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, chính tư tưởng của Người góp
phần làm phong phú thêm Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa đối với một nước thuộc địa như Việt nam.

- Vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh ở
những nội dung sau: Quyết định bản chất thế giới quan khoa học của tư tưởng
Hồ Chí Minh là phương pháp tư duy biện chứng trên quan điểm duy vật. Đồng
thời, quyết định phương pháp hành động biện chứng của Hồ Chí Minh.

- Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh nổi lên một
số điểm đáng chú ý:

+ Thông qua thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-
Lênin như một lẽ tự nhiên "tất yếu khách quan và hợp với quy luật". Chủ nghĩa
Mác-Lênin là bộ phận văn hoá đặc sắc nhất của nhân loại: tinh tuý nhất, cách
mạng nhất, triệt để nhất và khoa học nhất

+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là xuất phát từ nhu cầu tất yếu của
cách mạng Việt Nam là tìm con đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đồng
bào. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khắc phục được sự khủng hoảng về đường lối
cách mạng của dân tộc, vạch ra con đường cứu nước đúng đắn - giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vô sản.

- Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin bằng tinh thần triết học
phương Đông, không sách vở, không kinh viện, không tìm kết luận có sẵn mà tự
tìm ra giải pháp riêng, cụ thể phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt nam.

4. Nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh

9
- Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán tinh tường
và sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế
giới.

- Hồ Chí Minh có phẩm chất không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh tri thức,
kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào giải phóng dân tộc. Nhân cách, phẩm
chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã giúp Người đến với chủ nghĩa Mác
- Lênin và tiếp thu được các giá trị văn hoá nhân loại.

- Hồ Chí Minh có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng
sản nhiệt thành cách mạng; một trái tim yêu thương nhân dân, thương người
cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của
nhân dân.

Hồ Chí Minh từ một người yêu nước ra đi tìm đường cứu nước tiếp thu Chủ
nghĩa Mác-Lênin và trở thành người cộng sản, từ một người tìm đường Hồ Chí
Minh đã trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc đi theo.

Câu 4: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh;

1. Cơ sở khách quan.

a) Bối cảnh lịch sử hình thành TTHCM. (thực tiễn)

* Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 19, đầu tk 20.

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có nhiều
biến động.

- XH VN trước khi thực dân Pháp xâm lược:


Phong kiến lạc hậu, bảo thủ, trì trệ, thậm chí mang tính phản động. Lí do nói
như vậy: thông qua chính sách thống trị của triều đình pk VN qua văn hóa- tư
tưởng, kinh tế, xã hội, chính trị, quân sự.
+ Chính trị: đàn áp bóc lột nhân dân trong nước, tạo ra mâu thuẫn giữa nd vn
với địa chủ pk. Chính sách bế quan tỏa cảng: đóng cửa, k có sự giao lưu
Có 2 mâu thuẫn chủ yếu nông dân với địa chủ; toàn thể dân tộc vn với thực dân
pháp xâm lược
Các khuynh hướng cứu nước cuối thế kỉ 19 đầu 20

- Khuynh hướng phong kiến: lỗi thời


- Khuynh hướng dân chủ tư sản: khuynh hướng mới nhưng do cách du nhập
lại mang manh nha lạc hậu (phong trào đông du)

Thực tiễn vn cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20


Giống như đêm tối không có đường ra, khủng hoảng về đường lối cứu nước

10
+ Văn hóa
+ Kinh tế
B thực tiễn thế giới cuối 19 đầu 20
Có 2 khuynh hướng vận động chủ yếu
- cntb chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa
- nhân dân các dân tộc thuộc địa và
Các sự kiện tác động đến naq
=> K cbi tiềm lực về vật chất, tinh thần để đấu tranh giành độc lập
- XHVN khi TDP xâm lược nước ta
+ Sự vận động của 2 khuynh hướng mang tính đối lập.
Thứ nhất là triều đình nhà Nguyễn k cbi tiềm lực đầy đủ, thông qua hiệp ước
hác măng (1882), hiệp ước Pa tơ nốt (1884- chính thức trở thành thuộc địa của
Pháp).-> Trong nước, chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước
cuộc xâm lược của tư bản Pháp, biểu hiện cụ thể bằng việc lần lượt ký kết các
hiệp ước đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt
Nam.
Thứ 2 là nhân dân việt nam, Vn đã đứng lên đấu tranh, các phong trào diễn ra
sôi nổi, các phong trào diễn ra theo khuynh hướng phong kiến (Phong trào Cần
Vương...). Khuynh hướng phong kiến là các phong trào đc dẫn dắt bằng hệ tư
tưởng phong kiến, thiết lập chế độ quân chủ chuyên chế.-> Cho đến cuối thế kỷ
XIX các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “cần vương" do các sĩ phu,
văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi
thời trước các nhiệm vụ lịch sử. Các cuộc khai thác của thực dân Pháp cũng
khiến cho xã hội nước ta có sự biến chuyển và phân hóa, tầng lớp.
- Đầu thế kỉ XX:
+ Chính sách thống trị của TDP: Khai thác thuộc địa, làm du nhập vào VN
phương thức sản xuất mới (tư bản chủ nghĩa)
+ Phân hóa giai cấp: địa chủ, công nhân, nông dân, tư sản

Tiểu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện, tạo ra những tiền đề bên trong cho
phong trào yêu nước - giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Cùng vào thời điểm lịch sử đó, các “tân thư”, “tân văn”, tân báo” và những ảnh
hưởng của trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam, phong
trào yêu nước của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản.

Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, các sĩ phu nho học có tư tưởng tiến
bộ, thức thời, tiêu biểu như Phan Bội Châu. Phan Chu Trinh đã cố gắng tổ chức
và vận động cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu và phương
pháp mới. Song, chủ trương cầu ngoại viện, dùng bạo lực để khôi phục độc lập
của Phan Bội Châu đã thất bại. Chủ trương “ ỷ Pháp cầu tiến bộ”, khai thông
dân trí, nâng cao dân khí trên cơ sở đó mà lần lần tính chuyện giải phóng... của
Phan Chu Trinh cũng không thành công. Còn con đường khởi nghĩa của người
anh hùng Hoàng Hoa Thám thì vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”, chưa
11
phải là lối thoát rõ ràng, hướng đi đúng đắn. Phong trào cứu nước của nhân dân
ta muốn giành được thắng lợi, phải đi theo một con đường mới.

+ Văn hóa tư tưởng: Chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng dân chủ tư sản vào VN,
thông qua 2 con đường: thông qua cuộc vận động cải cách (Trương Hán Siêu,..),
hệ tư tưởng dân chủ tư sản (Duy Tân- Minh Trị )
=> Tính chất VN có sự thay đổi: Thuộc địa nửa phong kiến
- Xh có những mâu thuẫn:
+ Toàn thể dân tộc VN với đế quốc xâm lược, pk tay sai =>mâu thuẫn dân tộc,
là cơ bản
+ Trong nội bộ dân tộc: giữa nông dân với địa chủ pk =>Mâu thuẫn giai cấp
=>dẫn tới đấu tranh, có mâu thuẫn là có đấu tranh, các cuộc đấu tranh đều thất
bại, dẫn tới khủng hoảng về đường lối, phương pháp CM.
=>Muốn cứu nước phải có đường lối đúng đắn, pp phù hợp =>yêu cầu của lịch
sử

* Bối cảnh quốc tế, ảnh hưởng của thời đại đến việc hình thành tư tưởng
HCM:

Khi con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi tới thì lịch sử
thế giới trong giai đoạn này cũng đang có những biến chuyển to lớn.

Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc
quyền, đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. Chủ
nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.

Có một thực tế lịch sử là trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa
thực dân tại các nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ - latinh, sự
bóc lột phong kiến trước kia vẫn được duy trì, và bao trùm lên nó là sự bóc lột
tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện thêm các
giai cấp tầng lớp xã hội mới.

Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản cuối thế kỷ XIX và
nhất là “sự thức tỉnh châu Á” đầu thế kỷ XX đã dẫn đến một cao trào mới của
cách mạng thế giới với đỉnh cao là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.

Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập Chính quyền
Xô viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người. Với thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười, nhiều dân tộc vốn là thuộc địa của đế quốc Nga đã được tự
do, được hưởng quyền dân tộc tự quyết, hình thành nên các quốc gia độc lập và
dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (1922).

Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga với sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (3-
,

1919), phong trào công nhân trong các nước tư bản phương Tây và phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông càng có quan hệ mật

12
thiết với nhau hơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc.

Ở Hồ Chí Minh cũng như ở nhiều anh hùng, danh nhân khác của dân tộc ta, sự
kết hợp hài hòa giữa những điều kiện khách quan và chủ quan chính là nhân tố
có ý nghĩa quyết định dẫn tới hành động cách mạng và giành thắng lợi.

* Ảnh hưởng của quê hương và gia đình

- Nghệ An là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, là
quê hương của nhiều vị anh hùng trong lịch sử : Nguyễn Công Trứ, Mai Trúc
Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Vương
Trúc Mậu, Nguyễn Sinh Quyến,..

- HCM đc sinh ra và lớn lên trong 1 gia đình nhà nho yêu nước, Thân sinh của
Người- cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là 1 nhà nho cấp tiến, giàu lòng yêu
nước, thương dân, chủ trương dựa vào dân để cải cách chính trị đã có ảnh
hưởng sâu sắc đối với sự hình thành nhân các của HCM.

- Ngay từ nhỏ, HCM – lúc đó còn là cậu bé Nguyễn Sinh Cung- đã vô cùng đau
xót khi phải chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn áp và bóc lột đến cùng cực
của đồng bào ngay trên mảnh đất quê hương. Cậu đã chứng kiến sự bạc nhược,
ươn hèn của quan Triều, đặc biệt qua 2 lần đến Huế.

b) Những tiền đề tư tưởng – lý luận

- Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam

Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyền
thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề tư
tưởng, lý luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là truyền thống
yêu nước, kiên cường, bất khuất, là tinh thần tương thân tương ái, lòng nhân
nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng, là ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, là trí thông minh, tài sáng tạo, quý trọng hiền tài, khiêm tốn tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc...

Trong những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là tư tưởng, tình cảm
cao quý, thiêng liêng nhất, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm
của người Việt Nam, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc.

Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục Nguyễn Tất Thành quyết
chí ra đi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc.

Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực sự khi nó ăn sâu vào
tiềm thức, vào ý chí và hành động của mỗi con người. Chính từ thực tiễn đó Hồ
13
Chí Minh đã đúc kết chân lý: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là
một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng,
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
cướp nước”.

-Tinh hoa văn hóa nhân loại

Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với các thành tựu
hiện đại của văn minh phương Tây - đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình
thành tư tưởng, nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh.

Đối với văn hóa phương Đông, cùng với những hiểu biết uyên bác về Hán học,
Hồ Chí Minh biết chắt lọc lấy những gì tinh túy nhất trong các học thuyết triết
học, hoặc trong tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử... Người tiếp thu những
mặt tích cực của Nho giáo. Đó là các triết lý hành động tư tưởng nhập thể, hành
đạo, giúp đời, đó là ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục, hòa đồng, là triết
lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu
học. Người dẫn lời của V.I.Lênin: "Chỉ có những người cách mạng chân chính
mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại".

Về phật giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị
tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; là nếp
sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; là tinh thần bình
đẳng, dân chủ, chống phân biệt đẳng cấp; là việc đề cao lao động, chống lười
biếng "nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực"; là chủ trương sống không xa lánh
việc đời mà gắn bó với dân, với nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của
nhân dân chống kẻ thù dân tộc... Đến khi đã trở thành người mácxít. Hồ Chí
Minh lại tiếp tục tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn vì thấy trong
đó "những điều thích hợp với điều kiện của nước ta".

Cùng với những tư tưởng triết học phương Đông. Hồ Chí Minh còn tiếp thu nền
văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây. Người sớm làm quen với văn hóa
Pháp, tìm hiểu các cuộc cách mạng ở Pháp và ở Mỹ. Người trực tiếp đọc và tiếp
thu các tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái qua các tác phẩm của các nhà Khai
sáng như Vonte (Voltaire), Rútxô (Rousso), Môngtétxkiơ (Montésquieu). Người
tiếp thu các giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách
mạng Pháp, các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc
của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776.

Nói tóm lại, trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã tự biết làm giàu trí tuệ
của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây vừa tiếp thu, vừa gạn lọc
để từ tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận
dụng và phát triển.

14
- Chủ nghĩa Mác — Lênin

Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng
Hồ Chí Minh.

Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền tảng của
những tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị vốn
hiếu biết phong phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt động đấu tranh vì mục tiêu
cứu nước và giải phóng dân tộc.

Bản lĩnh trí tuệ đã nâng cao khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo ở
Người khi vận dụng những nguyên lý cách mạng của thời đại vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam.

Quá trình đó cũng diễn ra một cách tự nhiên, chân thành và giản dị. Điều này đã
được Hồ Chí minh cắt nghĩa trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Mác -
Lênin: "Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự
nhiên... Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng
đồng bào mình... Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua vì các "ông bà" ấy -
(hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế) đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc
đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu".

Quá trình tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh thực chất "là chặng
đường chiến thắng biết bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được
những sai lầm dẫn tới ngõ cụt" .
[2]

Thực tiễn trong suốt 10 năm đi tìm đường cứu nước, nhất là sau khi đọc Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I.Lênin (1920), Nguyễn Ái Quốc đã "cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng... vui mừng đến phát khóc, vì đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc.
Như vậy, chính luận cương của V.l.Lênin đã nâng cao nhận thức của Hồ Chí
Minh về con đường giải phóng dân tộc. Nó phù hợp và đáp ứng những tình
cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ từ lâu nay đang trở thành hiện thực Người
viết: "Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản
đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba".

Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã tiến dần tới
những nhận thức "lý tính", trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu sắc hơn để rồi
tiếp thu học thuyết của các ông một cách có chọn lọc, không rập khuôn máy
móc, không sao chép giáo điều. Người tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo phương
pháp mác xít, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường,
quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết
những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết
luận có sẵn trong sách vở.
15
Thế giới quan và phương pháp luận Mác Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết
kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước: "trong cuộc
đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần
dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới"; "Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"; 'Chính là do cố gắng vận dụng
những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với thực
tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được thắng lợi to
lớn"'.

2. Nhân tố chủ quan:

- Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh

Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để học tập,
nghiên cứu, Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm
phong phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở quan
trọng để tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của
Người về sau.

Các nhà yêu nước tiền bối và cùng thời với Hồ Chí Minh tuy cũng đã có những
quan sát, nhưng họ chưa nhận thấy, hoặc nhận thức chưa đúng về sự thay đổi
của dân tộc và thời đại. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh
khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của
các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ
đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ vào con
đường nhận thức chân lý như vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị
khách quan, cách mạng và khoa học.

- Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn. Mục tiêu đấu tranh giải
phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại và sự nhận thức đúng đắn về
thời đại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt động có hiệu quả cho dân tộc và
nhân loại.

Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và tài năng trí tuệ siêu việt
của Hồ Chí Minh.

Phẩm chất, tài năng đó được biểu hiện trước hết ở tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nhận xét, đánh
giá các sự vật sự việc xung quanh.

Phẩm chất, tài năng đó cũng được biểu hiện ở bản lĩnh kiên định, luôn tin vào
nhân dân; khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi; nhạy bén với cái mới, có phương
pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã khám phá

16
ra lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới trên cơ sở đó xây dựng một hệ
thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng Việt Nam, kiên trì
chân lý và định ra các quyết sách đúng đắn, sáng tạo để đưa cách mạng đến
thắng lợi.

Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở sự khổ công học tập để
chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu nước chân
chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước
thương dân, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh
phúc của đồng bào.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện
khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa
nhân loại. Từ thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển
hóa sắc sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ
Chí Minh đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.

Câu 5: Điều kiện xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?

Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng giống như tư tưởng của nhiều vĩ nhân khác được
hình thành dưới tác động, ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử-xã hội nhất
định của dân tộc và thời đại mà nhà tư tưởng đã sống. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan và là
sự giải đáp thiên tài của Hồ Chí Minh về những nhu cầu bức thiết đó của cách
mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX tới ngày nay. Những điều kiện lịch sử-
xã hội tác động, ảnh hưởng tới sự ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh có thể khái quát
những vấn đề chính như sau:

· Điều kiện lịch sử-xã hội Việt Nam

Cho đến năm 1958, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam thì nước ta
vẫn là một xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Khi thực dân Pháp
xâm lược, lúc đầu triều đình nhà Nguyễn có chống cự yếu ớt, sau đã từng bước
nhân nhượng, cầu hoà và cuối cùng là cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng
và lợi ích riêng của hoàng tộc. Nhân dân ta lâm vào hoàn cảnh khó khăn chưa
bao giờ có là cùng một lúc phải chống “cả Triều lẫn Tây”.

Từ năm 1958 đến cuối thế kỷ XIX, dưới ngọn cờ phong kiến, phong trào vũ
trang kháng chiến chống Pháp bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù
giặc sôi sục đã rầm rộ bùng lên, dâng cao và lan rộng trong cả nước: từ Trương
Định, Nguyễn Trung Trực... ở Nam Bộ: Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn
Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn
Quang Bích... ở miền Bắc. Nhưng đường lối kháng chiến chưa rõ ràng nên

17
trước sau đều thất bại. Rõ ràng ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
đã bất lực trước đòi hỏi giành lại độc lập của dân tộc.

Sang đầu thế kỷ XX trước chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và phân hoá, các tầng lớp
tiểu tư sản và mầm mống giai cấp tư sản bắt đầu xuất hiện. Đồng thời các “tân
thư” và ảnh hưởng của cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải
Siêu từ Trung Quốc vào Việt Nam. Phong trào chống Pháp của nhân dân ta
chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong trào
Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Việt Nam Quang phục hội... Các
phong trào chưa lôi cuốn lớp nhân dân và chủ yếu vẫn do các sĩ phu phong kiến
cựu học dẫn dắt nên có rất nhiều hạn chế và cuối cùng cũng lần lượt bị dập tắt.

Cuối thập niên đầu của thế kỷ XX, khi Nguyễn Tất Thành lớn lên, phong trào
cứu nước đang ở vào thời kỳ khó khăn nhất. Muốn giành thắng lợi, phong trào
cứu nước của nhân dân ta phải đi theo một con đường mới.

· Gia đình và quê hương

Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân
dân. Thân phụ của Người là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc-một nhà nho cấp
tiến, có lòng yêu nước thương dân sâu sắc, có ý chí kiên cường vượt qua gian
khổ, khó khăn, đặc biệt có tư tưởng thương dân, chủ trương lấy dân làm hậu
thuẫn cho mọi cải cách chính trị-xã hội đã ảnh hưởng sâu sắc đối với sự hình
thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành. Tiếp thu tư tưởng trên của người cha,
sau này Nguyễn ái Quốc nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính
trị của mình.

Quê hương của Hồ Chí Minh là Nghệ Tĩnh, một miền quê giàu truyền thống yêu
nước, chống giặc ngoại xâm, xuất hiện nhiều anh hùng như Mai Thúc Loan,
Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu... Ngay mảnh đất
Kim Liên đã thấm máu anh hùng của bao liệt sĩ như Vương Thúc Mậu, Nguyễn
Sinh Quyến... Anh chị của Nguyễn Tất Thành cũng hoạt động yêu nước, bị thực
dân Pháp bắt giam cầm và lưu đầy hàng chục năm.Quê hương, gia đình, đất
nước đã chuẩn bị cho Nguyễn Tất thành nhiều mặt và có vinh dự đã sinh ra vị
anh hùng giải phóng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà văn hoá kiệt xuất.

· Điều kiện thời đại

Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Chúng vừa tranh giành xâu xé thuộc địa vừa vào hùa với nhau
để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu trong vòng kìm kẹp thuộc địa của chúng. Bởi
vậy, cuộc đấu tranh giải phóng thuộc địa đã trở thành cuộc đấu tranh chung của
các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc thực dân gắn liền với cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản quốc tế.
18
Khi còn ở trong nước, Nguyễn Tất Thành chưa nhận thức được đặc điểm của
thời đại. Tuy vậy, Người cũng thấy rõ con đường cứu nước của các bậc cha anh
là cũ kỹ, không thể có kết quả. Nguyễn Tất Thành xác định phải đi ra nước
ngoài, đi tìm một con đường mới. Nguyễn Tất Thành đã vượt ba đại dương, bốn
châu lục, tới gần 30 nước-quan sát nghiên cứu các nước thuộc địa và các nước
tư bản. Nguyễn Tất Thành trở thành người đi nhiều nhất, có vốn hiểu biết phong
phú nhất.

Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh về sống và hoạt động ở Pari-thủ đô
nước Pháp. Gắn bó với phong trào lao động Pháp, với những người Việt Nam,
với những nhà cách mạng từ các thuộc địa Pháp, Nguyễn Tất Thành đã đến với
những người phái tả của cách mạng Pháp và sau đó gia nhập Đảng xã hội Pháp
(1919)- một chính đảng duy nhất của Pháp bênh vực các dân tộc thuộc địa.

Năm 1919, Hội nghị hoà bình được khai mạc ở Vécxây, Nguyễn ái Quốc đã có
hoạt động mang nhiều ý nghĩa. Người đã nhân danh những người Việt Nam yêu
nước gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam, đòi các quyền tự do,
dân chủ tối thiểu cho nước ta. Bản yêu sách đã không được chấp nhận. Từ đó,
Nguyễn ái Quốc đã rút ra kết luận: Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có
thể trông cậy vào bản thân mình.

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 nổ ra và giành thắng lợi đã mở ra thời
đại mới-thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở ra con
đường giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.

Trước sự phân hoá về đường lối trong các Đảng Dân chủ Xã hội- Quốc tế II,
tháng 3-1919, Lênin sáng lập ra Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III)- là tổ chức có
sứ mệnh bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới, và dẫn dắt
phong trào cách mạng thế giới. Quốc tế Cộng sản ra đời có ý nghĩa và tác động
to lớn tới phong trào cách mạng trên thế giới.

Trên hành trình tìm đường cứu nước, đến giữa năm 1920, Nguyễn ái Quốc đã
có những nhận thức kế cận với những quan điểm của chủ nghĩa Lênin. Nguyễn
ái Quốc đã nhận thức về quan hệ áp bức dân tộc đến nhận thức về quan hệ áp
bức giai cấp; từ quyền của các dân tộc đến quyền của con người; từ xác định rõ
kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc đến nhận rõ bạn đồng minh là nhân dân lao động ở
các nước chính quốc và thuộc địa. Bởi vậy, giữa tháng 7-1920, khi đọc Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin,
Nguyễn ái Quốc thấy những điều mình nung nấu bấy nay được Lênin diễn đạt
một cách đầy đủ và sâu sắc. Từ đây Người hoàn toàn tin tưởng theo
Lênin.Nguyễn ái Quốc cùng các đảng viên khác trong Đảng xã hội Pháp tham
gia vào cuộc tranh luận về đường lối chiến lược, sách lược của Đảng. Đến Đại
hội lần thứ 18 Đảng xã hội Pháp (12-1920) kết thúc cuộc tranh luận kéo dài này
đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn ái Quốc: từ chủ

19
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành người cộng sản, tìm
thấy con đường giải phóng dân tộc mình trong trào lưu cách mạng thế giới.

Như vậy, trong điều kiện lịch sử Việt Nam và thế giới cuối thế kỷ XIX đến
những năm 20 của thế kỷ XX, với trí tuệ lớn của Hồ Chí Minh đã trở thành hợp
điểm gặp gỡ quan trọng của trí tuệ Việt Nam và trí tuệ thời đại, giữa chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam và chủ nghĩa Mác-Lênin, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh.

Câu 6: Quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh.

a. Từ năm 1890-1911: Tiếp nhận chủ nghĩa yêu nước và hình thành ý chí cứu
nước

Đây là giai đoạn Nguyễn Sinh Cung tiếp nhận các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam từ gia đình, quê hương.
Tiếp nhận văn hóa phương Đông Việt Nam qua nền giáo dục Nho giáo Việt
Nam và bắt đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Nguyễn Tất Thành quyết
định đi theo con đường mới, tìm mẫu hình mới cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc và con người Việt Nam.

b. Từ năm 1911-1920: Đi tìm đường cứu nước

Đây là giai đoạn Nguyễn Tất Thành đi sang phương Tây, đến các châu lục khảo
sát, tìm hiểu một cách toàn diện đời sống của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa của nhân loại và nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế
giới, đặc biệt là cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ. Nguyễn Ái Quốc đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin sau khi Người tiếp xúc với Luận cương của Lênin về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, tìm ra con đường của cách mạng Việt Nam chỉ có thể là
con đường cách mạng vô sản. Người đã biểu quyết tán thành Quốc tế III, tham
gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

c. Từ năm 1920-1930: Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành

Đây là giai đoạn Người tham gia và trưởng thành qua thực tiễn trong phong trào
Cộng sản quốc tế và giải phóng dân tộc thế giới, bắt đầu tiến hành truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin. Thông qua các tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925), Đường cách mệnh (1927), Chính cương vắn tắt của Đảng, Sách lược
vắn tắt của Đảng, Chương trình vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt (1930) của
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định những luận điểm cơ bản về cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng Việt Nam.

d. Từ năm 1930-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện và phát triển ở
Việt Nam

20
Tư tưởng Hồ Chí Minh gặp khó khăn thử thách (1930-1940)

Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng vô sản qua các
văn kiện đầu tiên là Chính cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng,
Chương trình vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt (1930) của Đảng là sự sáng tạo
của Hồ Chí Minh khi vận dụng nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam.

Do tình hình thực tiễn lúc bấy giờ và bị chi phối bởi các quan điểm tả khuynh
của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(10-1930) đã chỉ trích, phê bình xung quanh các vấn đề về mối quan hệ dân tộc
- giai cấp, vấn đề Mặt trận Dân tộc thống nhất, tên Đảng và ra nghị quyết thủ
tiêu các văn kiện này, đồng thời quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc vẫn kiên trì quan điểm
của mình. Chỉ sau khi Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (7-1935) phê phán khuynh
hướng tả khuynh, biệt phái trong phong trào cộng sản quốc tế và từ thực tiễn
cách mạng nước ta, Đảng ta từng bước điều chỉnh và đề ra những chủ trương
theo quan điểm đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện đúng đắn ở Việt Nam

Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần
thứ 8. Tại Hội nghị này, những quan điểm của Hồ Chí Minh về đường lối cách
mạng Việt Nam, chủ yếu là giải quyết mối quan hệ dân tộc - giai cấp, đặt quyền
lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, đoàn kết toàn dân trong xây dựng lực
lượng cách mạng, xây dựng mặt trận đoàn kết dân tộc và phương pháp cách
mạng Hồ Chí Minh được khẳng định. Với những quan điểm đúng đắn đó, Mặt
trận Việt Minh được Đảng ta tổ chức đã phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy phong
trào giải phóng dân tộc trên cả nước, đồng thời tạo ra cơ sở chính trị vững chắc
cho sự ra đời của lực lượng vũ trang Nhân dân. Đó là những nhân tố căn bản
đưa tới thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945.

Tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển trong điều kiện mới

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập
và chủ nghĩa xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh được phát triển đáp ứng tình hình,
nhiệm vụ cách mạng mới. Quan điểm của Người về xây dựng nhà nước dân chủ
mới ở nước ta; về những vấn đề chính trị, đối nội, đối ngoại; về xây dựng nền
kinh tế, văn hóa, con người mới .v.v. để bảo vệ thành quả của Cách mạng Tháng
Tám.

Quan điểm về vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, thực hiện toàn dân kháng chiến,
toàn diện kháng chiến, trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951) là sự phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh trong xây dựng Đảng ta qua Cương lĩnh, Điều lệ, tên mới của Đảng là
21
Đảng Lao động Việt Nam và về đường lối cách mạng Việt Nam từ cách mạng
dân tộc dân chủ Nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đất nước bị chia cắt làm hai miền, tư tưởng
Hồ Chí Minh được phát triển đáp ứng tình hình, nhiệm vụ mới. Hồ Chí Minh đã
để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta bản Di chúc thiêng liêng, chỉ rõ sự tất thắng
của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước; tổng kết những bài học của cách mạng Việt
Nam; chỉ ra những phương hướng lớn để xây dựng đất nước sau chiến tranh.

Câu 7: Liên hệ bản thân

Qua nghiên cứu về lịch sử hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, bản
thân tôi rút ra một số điểm tâm đắc như sau:

a) Về quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: Đối với tiến trình phát triển
của lịch sử dân tộc, sự kiện Bác Hồ quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước là một
dấu son mở đầu trang sử mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ chủ nghĩa yêu
nước, Người đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn ra con đường cách mạng
Việt Nam: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, con đường cách mạng
đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của lịch sử nước ta, đưa cách mạng
nước ta đến thành công…

Cuộc hành trình của Hồ Chí Minh là một bước ngoặt lớn của cách mạng, làm
cho chủ nghĩa yêu nước vươn lên tầm thời đại, mà sau này là biểu tượng trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong cuộc tái thiết
và phát triển đất nước theo con đường đi lên xã hội chủ nghĩa. Cuộc hành trình
tìm đường cứu nước của Bác Hồ đã tạo nên những bước ngoặc lớn trongcách
mạng Việt Nam, đã làm thay đổi hướng phát triển của lịch sử và thay đổi số
phận của cả dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20.

Thông qua quá trình đó của cuộc hành trình vĩ đại đến với các dân tộc, chủng
tộc ở các châu lục, đặc biệt là trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng ở nhiều
nước đã nâng cao trí tuệ, làm giàu văn hóa và mở rộng thế giới quan cho Người
- từ tầm mức dân tộc đến nhân loại.

Đó là cơ sở tạo ra sự khác biệt giúp cho Người thấu hiểu được sự tương đồng và
khác biệt giữa triết lý phương Đông và phương Tây; đã nhận thấy nguồn gốc
trực tiếp nỗi khổ đau chung của các dân tộc thuộc địa và những người lao động,
không phân biệt chủng tộc, màu da, trên hành tinh này và đi tới khẳng định: vấn
đề giải phóng dân tộc, giải phóng con người không chỉ là nhu cầu của dân tộc và
con người Việt Nam mà là của các dân tộc bị áp bức và nhân dân cần lao trên
thế giới.

22
b) Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh ở giai đoạn thứ nhất cho
tôi thấy nhiều ý nghĩa:

Bằng trực tiếp khảo sát tại quê hương của các cuộc cách mạng tư sản điển hình
(Pháp, Anh và Mỹ), với trí tuệ thiên tài của mình, Nguyễn Tất Thành đã phát
hiện và tiếp nhận “những lời bất hủ” mang giá trị chung của nhân loại về quyền
dân tộc và quyền con người được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp. Đồng thời, Người cũng
thấy rõ hạn chế giữa lí thuyết và thực tế mà nổi bật là tính chất “không đến nơi”
của các cuộc cách mạng này. Những kết luận trên đây không phải chỉ là kết quả
của sự trải nghiệm.

Chỉ với tầm trí tuệ không ngừng được nâng cao, trên cơ sở được làm giàu về các
giá trị văn hóa-văn minh nhân loại và với một tầm nhìn thế giới trong phân tích
lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn, Nguyễn Tất Thành mới có thể đúc rút thành
những kết luận khoa học đúng đắn có giá trị quan trọng như vậy. Do đó, Người
không chỉ dừng lại ở phân tích lý luận và thực tiễn để chọn lọc và thâu thái các
giá trị văn hóa - văn minh nhân loại, mà còn trên cơ sở các kết luận đó, tìm lời
giải đáp những vấn đề đang được đặt ra trong lịch sử tiến hóa của loài người.

Với những biến cố lịch sử trong một thế kỉ qua, từ sự bế tắc trong đường lối cứu
nước hồi đầu thế kỉ XX, với sự hy sinh của biết bao bậc tiên liệt cho nhiệm vụ
mở lối, tìm đường cho dân tộc, đến thực tiễn của những thắng lợi đã đạt được
trong trong cuộc tranh đấu giành và bảo vệ quyền dân tộc cơ bản cũng như
trong xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh lựa chọn, chúng ta càng thấu hiểu thêm ý nghĩa lịch sử và thời đại của sự
kiện đi ra thế giới (với với phương hướng và pháp mới) để thâu thái những giá
trị văn hóa-văn minh nhân loại mưu tìm con đường cho sinh tồn và phát triển
của dân tộc mà Người đã thực hiện.

c) Về nguồn gốc hình thành:

Đi từ Dân tộc đến Nhân loại, tiếp thu chủ nghĩa Marx-Lenin là quá trình từ nhận
thức cảm tính đến khoa học. Với thế giới quan khoa học và cách mạng, Bác đã
phát hiện và nhận thức được quy luật tiến hóa, xu thế phát triển trong tiến trình
đi lên của loài người và đi tới khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.”

d) Một số bài học rút ra cho bản thân:

- Không nề hà khó khăn dám dấn thân, bất chấp hoàn cảnh khó khăn. Không
ngừng tìm tòi con đường mới, cách làm mới trong công tác, trong chuyên môn,
trong hoạt động đoàn thể. Tại cơ quan Sở Tư pháp, trong thời gian sinh hoạt Chi
đoàn tôi nhận thấy: Chi đoàn cần tăng cường giao lưu giữa các đoàn viên với
nhau, với các đoàn viên trong Đoàn Sở và các chi đoàn bạn để không ngừng học
23
hỏi, học tập mở mang kiến thức từ phong cách kỹ năng làm việc, quan điểm về
nghề nghiệp, đặc thù công việc, những cách làm hay, mô hình hay của bạn để từ
đó rút ra cho chính bản thân mình những bài học riêng qua đó tự hoàn thiện bản
thân trong cách làm việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc cũng như
đóng góp cho chi đoàn, cho cơ quan những sáng kiến, ý kiến cải tiến công
tácĐộc lập dân tộc mà không gắn với CNXH thì nhân dân ta sẽ không được
hưởng một nền dân chủ thực sự và một xã hội ổn định. Dân chủ tư sản phục vụ
cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản và giai cấp này nắm mọi quyền hành
trong tay chi phối toàn xã hội. Đó là một nền dân chủ cho số ít, chuyên chính
cho số đông và là căn nguyên mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội tư bản không
được hưởng một nền dân chủ thực sự. Trái lại, dân chủ XHCN, với tư cách là
chế độ nhà nước được sáng tạo bởi nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, cho nên, luôn đảm bảo mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân
dân. Nhà nước XHCN là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp công
nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của mình. Điều đó cho thấy, dân chủ
XHCN vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và
tính dân tộc sâu sắc.+ Hai là, xác định rõ bước đi và chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, trên nguyên tắc đặt lợi
ích đất nước, lợi ích dân tộc lên trên hết.

Vấn đề 3+4:

Câu 1: Tư tưởng HCM về độc lập dân tộc


Khái niệm dân tộc: là 1 vấn đề rộng gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế,
lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và vh giữa các dt, các nhóm dt và bộ tộc => vấn đề
dt mà HCM đề cập là vấn đề dân tộc thuộc địa
Luận điểm 1: độc lập tự do được coi là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm
của tất cả các dân tộc
- độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của HCM và nhân dân VN
- cơ sở hình thành quan điểm HCM về độc lập tự do:
+ từ truyền thống yêu nước gắn liền với ý thức tự lực, tự cường, yêu chuộng hòa
bình của dân tộc
+ từ quyền con người đc nhân loại thừa nhận
+ tư tưởng HCM về độc lập tự do được hình thành trên cơ sở sự kế thừa trên sự
đấu tranh truyền thống giữ nước, cứu nước => sợi chỉ đỏ xuyên suốt
+ kế thừa những quyền tự nhiên cá nhân trên cơ sở được ghi nhận trong tuyên
ngôn của nhà nước tư sản
+ quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng tự do, độc lập:

24
● sự kiện 1919: gửi bản yêu sách 8 điểm=> thể hiện quan điểm gì về độc lập tự
do. Tham gia Đảng xh pháp, gửi “Yêu sách của nhân dân An Nam” đến hội
nghị Vecxai
● 1911: . Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước
● 1930: Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt: quan điểm về độc lập tự do. chủ
trì hội nghị thành lập đảng
● 1941:chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. hội nghị trung ương
8: chuyển hướng CM, thống nhất quan điểm của HCM và Đông Dương
● 1945: đọc bản tuyên ngôn độc lập, thể hiện quyền độc lập, tự do
● 1946-1954: và kháng chiến chống mỹ cứu nước với tinh thần: “không có gì
quý hơn độc lập tự do”
● Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
● Lời kêu gọi kháng chiến cách mạng
- Ý nghĩa của tư tưởng độc lập tự do:
+ Không có gì quý hơn độc lập tự do vừa là học thuyết chính trị, vừa là tư
tưởng, vừa là lẽ sống của cả dân tộc vn, với tinh thần này chúng ta buộc kẻ thù
phải ký vào các hiệp định tôn trọng chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, tôn
trọng độc lập, tự do dân tộc vn.
Luận điểm 2: độc lập dân tộc phải gắn liền với cơm no áo ấm, độc lập của
nhân dân
- HCM tiếp thu và phát triển CN Tam dân, quyền tự do bình đẳng trong tuyên
ngôn tư sản
- là quan điểm, mục tiêu nhất quán của HCM và CMVN
- Sau CMT8/1945
+ Diệt giặc đói
+ Diệt giặc dốt
=> độc lập phải gắn với hạnh phúc của nhân dân do đó ngay sau thắng lợi
CMT8 thì HCM đã yêu cầu chúng ta phải thực hiện ngay:
+ làm cho dân có ăn
+ làm cho dân có mặc
+ làm cho dân có chỗ ở
+ làm cho dân có học hành
Luận điểm 3: Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, hoàn toàn, triệt để
- đế quốc tuyên truyền về nền độc lập, tự do do giả hiệu:
+ trong quá trình xâm lược các nước, thực dân, đế quốc hay dùng chiêu bài
mị dân, thành lập các chính phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là
“độc lập tự do” giả hiệu cho nhân dân các nước thuộc địa nhưng thực chất
là nhằm che đậy bản chất “ăn cướp” và “giết người” của chúng.
- ĐLDT phải là nền độc lập hoàn toàn, triệt để trên tất cả các phương diện:
+ Người nhấn mạnh “độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về
ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng,.. thì
độc lập chẳng có ý nghĩa gì”.

25
+ sau cmt8 người cùng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng
nhiều biện pháp trong đó có biện pháp ngoại giao, để đảm bảo nền độc
lập của đất nước.
Luận điểm 4: ĐLDT phải gắn liền với sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
- thực dân Pháp thi hành chính sách chia để trị: TDP khi xâm lược đã chia đất
nước ta ra ba kỳ và mỗi kỳ có chế độ cai trị riêng
- HCM luôn đấu tranh cho thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
+ sau cách mạng t8/1945
+ sau hiệp định giơnevơ 1954

Câu 2: Tư tưởng HCM về chủ nghĩa xh và xd cnxh ở VN


A. Tư tưởng HCM về chủ nghĩa xh

Luận điểm 1: Tiến lên CNXH là tất yếu khách quan

- HCM tiếp cận CNXH từ những phương diện nào:

+ HCM tiếp cận cnxh từ quan điểm duy vật lịch sử của Mác

+ Từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc

+ Từ phương diện đạo đức: CNXH có nhiều điểm ưu việt cần phát huy vận
dụng

+Từ truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam

=> con đường tiến tới cnxh của các dân tộc là con đường chung của thời đại,
của lịch sử không ai ngăn cản nổi.

Luận điểm 2: Những đặc trưng bản chất của CNXH

- CNXH là một chế độ xh do nhân dân lao động làm chủ: lần đầu tiên nhân dân,
những ng bị áp bức trở thành chủ nhân của xh

- CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu

- CNXH là 1 xh phát triển cao về văn hóa, đạo đức

- CNXH là 1 xh công bằng và hợp lý và văn minh

- CNXH là 1 công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới
sự lãnh đạo của Đảng

B. Tư tưởng HCM về xây dựng cnxh ở VN

26
Luận điểm 1: Mục tiêu của CNXH ở VN (câu 6)

Luận điểm 2: Động lực của CNXH ở VN (câu 7)

Luận điểm 3: Tư tưởng HCM về thời kỳ quá độ lên cnxh ở VN (câu 8)

Câu 3: Tư tưởng HCM về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cnxh

Luận điểm 1: độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để
tiến lên chủ nghĩa xã hội:

- con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn:

+ Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản,
trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được thực
hiện tiến trình từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc

+ cách mạng xã hội chủ nghĩa.

=> Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục
tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách.

Luận điểm 2: độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự
quyết định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản:

Trong thời đại mới, chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Luận điểm 3: chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân
tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để:

- Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa
mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của
một quá trình cách mạng. Cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho
cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ
vững chắc nền độc lập dân tộc.

=> Theo Hồ Chí Minh, độc lập bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh
phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của
cách mạng dân tộc dân chủ.

Để bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo,
lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc
trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành
được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để đảm bảo cho độc lập và

27
phát triển dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có
cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân
chính.

Câu 4: Vận dụng tư tưởng HCM về độc lập dt và cnxh ở giai đoạn hiện nay
A. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và quá độ đi lê CNXH ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay
1. Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
- Độc lập dân tộc và CNXH là nội dung cốt lõi trong TTHCM. Đây cũng là mục
tiêu cao cả, bất biến của toàn Đảng, toàn dân.
- Trong điều kiện nước ta hiện nay, giành được độc lập phải tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật tiến hóa trong quá trình phát triển. Độc lập dân
tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội sẽ
đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc.
- Trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế, phải tận dụng mọi điều
kiện để phát triển đất nước, xây dựng những tiền đề vật chất
– kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, tranh thủ những yếu tố bên ngoài
đảm bảo khai thác tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực.
2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ các nguồn lực,
trước hết là nội lực để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức
- Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo. Do đó phải
biết phát huy sức mạnh của toàn dân trong quá trình xây dựng đất nước.Muốn
vậy cần:
+ Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực
+ Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc.
3. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, để xây dựng thành công CNXH cần phải
phát huy tốt nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực. Vì vậy cần phải có đường lối
độc lập tự chủ để tận dụng những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới.
4. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy
mạnh đấu tranh chống quan lieu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính, chí, công, vô tư để xây dựng CNXH.
- Xây dựng ĐCSVN cầm quyền, mỗi Đảng “đạo đức văn minh”.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ
- Giáo dục tinh thần nhân dân.
=> KLC: Quan điểm của HCM về CNXH ở VN là chỉnh thể thống nhất các luận
điểm nêu trên. Đó là một quan điểm vô cùng đúng đắn và sáng tạo, trở thành tài

28
sản vô giá , cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì và giữ vững định
hướng XHCN của Đảng ta.

Câu 5: Tư tưởng HCM về cm giải phóng dt

Luận điểm 1: CM giải phóng dt muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản:

- sự lựa chọn con đường giải phóng DT:

+ rút kinh tự sự thất bại phong trào yêu nước của VN( trước đó là khuynh
hướng phong kiến lỗi thời, nặng cốt cách pk, đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa
sau, xin giặc rủ lòng thương.

+ cách mạng tư sản là CM không triệt để

+ CMT10 Nga là cuộc thành công đến nơi

+ NAQ tìm thấy con đường cứu nước chân chính cho CMVN: 1920

- HCM vận dụng sáng tạo học thuyết CMVS vào VN


+ GPDT gắn liền với gp giai cấp
+ GPDT là vấn đề trên hết, là mục tiêu hàng đầu của CMVN
+ độc lập dân tộc gắn liền với cnxh

Luận điểm 2: CM giải phóng dt trong điều kiện của VN muốn thắng lợi phải do
Đảng CS lãnh đạo

- Đảng CS là nhân tố để giai cấp CN hoàn thành sứ mệnh lịch sử


- NAQ kđinh vai trò to lớn của Đảng dvs CM GPDT
- sáng lập ĐCS- tổ chức duy nhất lãnh đạo CMVN

Luận điểm 3: CM giải phóng dân tộc cần dựa trên lực lượng CM:khối đại đoàn
kết dân tộc, lấy liên minh công- nông làm nền tảng

- lực lượng của CM bao gồm toàn thể dân tộc: xuất phát từ lý luận và thực
tiễn, nguyên lý CM là sự nghiệp của quần chúng của CN Mác - Lê.

=> cách mạng là việc chung của cả dân chúng


Luận điểm 4: CM giải phóng dt cần Tính chủ động, sáng tạo, có khả năng
giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc: phân chia giai cấp, nếu k để họ theo
mình thì để họ theo trung lập
- Khi nói CM GPDT thì cuộc cm diễn ra ở các nc thuộc địa thì giải quyết
vấn đề dân tộc là chủ yếu
+ CM chính quốc: nước đi xâm lược thuộc địa
29
+ CM vô sản: cuộc đấu tranh của GC vô sản ở nc chính quốc
- quan điểm của lênin và quốc tế cộng sản đều thống nhất ở việc coi thắng
lợi của cm thuộc địa phụ thuộc vào sự thành công của cm vô sản ở chính
quốc
- quan điểm của hcm dựa trên cơ sở:
· Chỉ ra mối quan hệ giữa vô sản chính quốc và người lao động ở thuộc
địa là mối quan hệ bình đẳng
· Thuộc địa là khâu yếu của chủ nghĩa đế quốc
· Khả năng cm của người dân thuộc địa
Luận điểm 5: CM giải phóng dt phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực
cm

- Quan điểm của Mác-Lênin: Bạo lực là quy luật tất yếu đối với mọi CM
- Quan điểm của HCM:
+ tất yếu phải sd pp bạo lực cm
+ hình thức bạo lực cm ở vn: lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang,
kết hợp

Câu 6; Tư tưởng HCM về mục tiêu của CNXH

- Mục tiêu chính trị

+ Xây dựng 1 chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ: xây dựng nhà
nước của dân, do dân và vì dân, nhà nước phản ánh bản chất của nd.

- Mục tiêu kinh tế:

+ xây dựng 1 nền kinh tế xhcn với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa
học và kỹ thuật tiên tiến, xóa bỏ dần các hình thức áp bức, bóc lột cũ, hình
thành nền kinh tế XHCN (chúng ta ko đặt ra vấn đề xóa bỏ ngay mà xóa bỏ dần
bởi khi chúng ta đi lên xd cnxh là hướng tới xd về công hữu:1 toàn dân mà ở
thời điểm đó vn cần thừa nhận 4 hình thức sở hữu gồm nhà nước, tập thể, tư liệu
sx thuộc về những người lao động riêng lẻ, tư nhân tư bản chủ nghĩa

+ 4 hình thức sở hữu: sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa, sở hữu cá thể => nhiều thành phần kinh tế => hướng tới sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu.

Để làm được cần có định hướng, để dần dần xây dựng công cộng về sở hữu, áp
dụng khoa học kĩ thuật,…

30
- Mục tiêu văn hóa: xây dựng nền văn hóa XHCN về nội dung, dân tộc về hình
thức, mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng. Văn hóa có thể đi trước 1 bước,
có thể sửa đổi được.

- Mục tiêu quan hệ xã hội và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa: cần xây
dựng 1 xh công bằng, dân chủ, có quan hệ tốt đẹp giữa người với người, “muốn
xây dựng cnxh trước hết cần có những con người mới xhcn”

* Tiêu chí về Con người mới xã hội chủ nghĩa

- Luôn thiết tha, say sưa với lý tưởng cnxh

- Có tinh thần và năng lực làm chủ

- Có đạo đức cần kiệm liêm chính

- có tri thức và kiến thức khoa học, kĩ thuật, nhạy bén với cái mới

- có tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm

Câu 7: Tư tưởng HCM về động lực của CNXH

Động lực là những nhân tố góp phần thúc đẩy ktxh thông qua nguồn lực con ng.
Người đưa ra những cách thức để tác động trên 2 bình diện

- Con người trên bình diện xã hội (chủ yếu)

+ phát huy sức mạnh, sức sáng tạo của con người trong khối đại đoàn kết dân
tộc, bao gồm con ng ở mọi giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, mọi tổ chức chính trị,
đồng bào trong nước, và kiều bào ở nước ngoài…Phải có chính sách đoàn kết
rộng rãi, chặt chẽ, đúng đắn, chân thành, k phân biệt, k định kiến.

- Con người trên bình diện cá nhân (quan trọng): đây là động lực quan trọng
nhất

+ tác động vào nhu cầu lợi ích: đảm bảo lợi ích chính đáng cho con người; phát
triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân

+ tác động vào động lực chính trị- tinh thần: phát huy quyền làm chủ và ý thức
làm chủ của người lao động; thực hiện công bằng xã hội; sử dụng vai trò điều
chỉnh của các nhân tố tinh thần khác.

* Trở lực của chủ nghĩa xã hội

- chủ nghĩa cá nhân

- Tham ô, lãng phí, quan liêu


31
- Chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật

- Chủ quan, giáo điều, lười biếng

Câu 8: Tư tưởng HCM về thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN

2 hình thức quá độ: trực tiếp: TBCN đi lên cộng sản cn và gián tiếp: tiền TBCN
lên CSCN (có 1 nước đã làm cn thành công giúp đỡ và có 1 nước vô sản đủ
mạnh …

a/Tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ

- Nhận thức rõ tính quy luật chung của lịch sử và căn cứ vào đặc điểm cụ thể
của cách mạng thuộc địa, hcm đã pt sáng tạo hình thức quá độ gián tiếp ở vn là
cần phải trải qua chế độ dân chủ nhân dân

- Đặc điểm bao trùm của thời kỳ quá độ lên cnxh ở vn “từ 1 nước nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên cnxh không phải qua kinh qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa”

- Mâu thuẫn thời kỳ quá độ: mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tiến lên xây dựng 1
chế độ xh mới có nền kte pt cao, vh, kh tiên tiến vs tình trạng lạc hậu, kém phát
triển và những cản trở, phá hoại của các thế lực phản động trong và ngoài nước.

- Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ: xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của cnxh
có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến, cải tạo
xh cũ, xdung xh mới trong đó xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài

- Những nhân tố đảm bảo việc thực hiện thắng lợi cnxh vn

+ giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng

+ nâng cao vai trò quản lý của nhà nước

+ phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị-xh

+ xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ cả đức và tài

b. một số nguyên tắc xây dựng cnxh trong thời kỳ quá độ

+ mọi tư tưởng, hành động phải được thực hiện trên nền tảng ch mác-lênin

+ phải đoàn kết, học tập kinh nghiệm của các nước ae

+ pải xây đi đôi với chống

32
VẤN ĐỀ 5+6:

Câu 1: Sự ra đời và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

1. Sự ra đời:

Khi đề cập các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản, xuất phát từ hoàn
cảnh cụ thể của nước Nga và của phong trào công nhân châu Âu. V l.Lênin nêu
lên hai yếu tố, đó là sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Khi đề cập sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố chủ
nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân. Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố
thứ ba đó là phong trào yêu nước. Trong bài Thường thức chính trị viết năm
1953. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam
với chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Hồ Chí
Minh viết bài “Ba mươi năm hoạt động của Đảng”, trong đó nói rõ: chủ nghĩa
Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn
tới việc thành lập đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930. Đây chính là
một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản
Việt Nam là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở tổng kết
thực tiễn Việt Nam.
Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách
mạng Việt Nam và đối với quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người cũng đánh giá cao vị trí, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt
Nam trong sắp xếp lực lượng cách mạng, số lượng giai cấp công nhân Việt Nam
tuy ít nhưng theo Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của lực lượng cách mạng
không phải do số lượng của lực lượng đó quyết định. Hồ Chí Minh chỉ rõ đặc
điểm của giai cấp công nhân Việt Nam là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ
chức, có kỷ luật. Giai cấp tiên tiến nhất trong sản xuất, gánh trách nhiệm đánh
đổ chủ nghĩa tư bản và đế quốc để gây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân
có thể thấm nhuần tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin.

33
Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, sở dĩ giai cấp công nhân Việt Nam giữ vai trò lãnh
đạo cách mạng Việt Nam còn là vì: giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác -
Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác -
Lênin. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai
cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử
tiên tiến.
Hồ Chí Minh- nêu thêm yếu tố phong trào yêu nước, coi nó là một trong ba
yếu tố kết hợp dần đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam vì những lý do
sau đây:
Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình
phát triển của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường
tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp
chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chỉ tính riêng trong hơn 80 năm bị thực dân
Pháp đô hộ, phong trào yêu nước của nhân dân ta dâng lên mạnh mẽ như những
lớp sóng cồn nối tiếp nhau. Phong trào yêu nước liên tục và bền bỉ trong hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước đã kết thành chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở
thành giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam.
Hai là phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì
hai phong trào đó đều có mục tiêu chung. Khi giai cấp công nhân Việt Nam ra
đời và có phong trào đấu tranh, lúc đầu là đấu tranh kinh tế, và sau này là đấu
tranh chính trị, thì phong trào công nhân kết hợp được ngay từ đầu và kết hợp
liên tục với phong trào yêu nước. Cơ sở của sự kết hợp giữa hai phong trào này
là do xã hội nước ta tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với bọn đế quốc và tay sai. Vì vậy giữa hai phong trào đều có một mục tiêu
chung, yêu cầu chung giải phóng dân tộc làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc
lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa chính bản thân phong trào công
nhân, xét về nghĩa nào đó lại mang tính chất của phong trào yêu nước, vì phong

34
trào đấu tranh của công nhân không những chống lại ách áp bức giai cấp mà còn
chống lại ách áp bức dân tộc.
Ba là phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong
trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Đầu thế kỷ XX, nông
dân Việt Nam chiếm tới khoảng hơn 90% dân số. Giai cấp nông dân là bạn
đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân. Ở Việt Nam, do điều kiện lịch sử
chi phối, không có công nhân nhiều mà họ xuất thân trực tiếp từ người nông dân
nghèo. Do đó giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp thành quân
chủ lực của cách mạng.
Bốn là, phong trào yêu nước của tri thức Việt Nam là nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phong trào yêu nước Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX ghi dấu ấn đậm
nét bởi vai trò của trí thức, tuy số lượng không nhiều nhưng lại là những "ngòi
nổ" cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp xâm lược và
bọn tay sai, cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất nước. Trong lịch
sử Việt Nam một trong những nét nổi bật nhất là sự bùng phát của các tổ chức
yêu nước mà thành viên và những người lãnh đạo tuyệt đại đa số là tri thức. Với
một bầu nhiệt huyết, yêu nước, thương nòi, căm giận bọn cướp nước và bọn bán
nước, họ rất nhạy cảm với thời cuộc, do vậy, họ chủ động và có cơ hội đón nhận
những "luồng gió mới" về tư tưởng của tất cả các trào lưu trên thế giới dội vào
Việt Nam.

� Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của Đảng Cách

mạng Việt Nam và trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930,
ở Việt Nam đx từng tồn tại mọt số tổ chức Đảng -> Sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam là tất yếu lịch sử. Năm 1930, Đảng Cộng sản VN ra
đời mang một số ưu điểm sau:

35
+ Được trang bị lý luận Cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin thông
qua vai trò Nguyễn Ái Quốc.
+ Được xây dựng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản
+ Trên cơ sở thế giới quan khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản
VN có khả năng đề ra đường lới và phương pháp cách mạng đúng đắn.
+ Đảng Cộng sản VN củng cố được mối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện
đoàn kết quốc tế -> lực lượng duy nhất Cách mạng Việt Nam-“nhân tố quyết
định thắng lợi”
Phát triển: +) Cách mạng giải phóng dân tộc: Cách mạng Tháng 8/1945, Chiến
tranh Điện Biên Phủ 1954, 30/4/1975 -> giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước
+) Bảo vệ và xây dựng tổ quốc: Chiến tranh biên giới, bảo vệ tổ
quốc...; xây dựng đất nước: công cuộc đổi mới của Đảng 1986

2. Vai trò của ĐCS

Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp đoàn kết và
được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. ĐCS là
nhân tố quyết định hàng đầu đưa CMVN đến thắng lợi. Hồ Chí Minh khẳng
định: "Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là
vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng
lợi" giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được. Trong
cuốn sách Đường cách mệnh xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh viết: "Cách
mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì
vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô
sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy"[1]. Hồ Chí Minh cho rằng: "Muốn khỏi đi
lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình,
đường lối và định phương châm cho đúng. Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian
khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức
36
rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức về giáo
dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đuổi kẻ địch, tranh lấy
chính quyền. Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo".
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với
quy luật phát triển của xã hội, vì Đảng không có mục đích tự thân, ngoài lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc Việt
Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Đảng không có lợi ích nào khác.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính quyết định hàng đầu từ
sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được thực tế lịch sử
chứng minh, không có môt tổ chức chính trị nào có thể thay thế được. Mọi mưu
toan nhằm hạ thấp hoặc nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đều xuyên tạc thực tế lịch sử cách mạng dân tộc ta, trái với mặt lý luận lẫn
thực tiễn, đều đi ngược lại xu thế phát triển của xã hội Việt Nam.

3. Bản chất:

Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất của giai cấp
công nhân.
Quan điểm của Hồ Chí Minh hoàn toàn tuân thủ những quan điểm của
V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Nhưng Hồ Chí Minh
còn có một cách thể hiện khác về vấn đề "đảng của ai". Trong Báo cáo chính trị
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, (tháng 2-1951). Hồ Chí Minh
nêu rõ: "Trong giai đoạn này quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt
Nam". Năm 1953. Hồ Chí Minh viết: "Đảng lao động là tổ chức cao nhất của
giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc. Đảng là đảng của giai cấp
lao động, mà cũng là đảng của toàn dân". Năm 1957. Hồ Chí Minh khẳng định:
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong
37
của dân tộc. Trong thời kỳ miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội năm 1961 Hồ
Chí Minh tiếp tục khẳng định: Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là
của dân tộc, không thiên tư, thiên vị. Năm 1965, Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng
ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân
dân lao động và của cả dân tộc.
Tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau như vậy nhưng quan điểm nhất quán
của Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp của Đảng là Đảng ta mang bản chất giai
cấp công nhân. Điều này cũng giống như Đảng ta mang tên là Đảng lao động
nhưng bản chất giai cấp của Đảng chỉ là bản chất giai cấp công nhân. Trong Báo
cáo chính trị tại đại hội II, khi nêu lên Đảng ta còn là Đảng của nhân dân lao
động và của toàn dân tộc, Hồ Chí Minh cùng nêu lên toàn bộ cơ sở lý luận và
các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng, những nguyên tắc này tuân thủ một
cách chặt chẽ học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản V.I.Lênin.
Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp cộng nhân của Đảng ta dựa trên
cơ sở thấy rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Còn các giai
cấp tầng lớp khác chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trở thành đồng minh
của giai cấp công nhân. Nội quy quy định bản chất giai cấp công nhân không
phải chỉ là số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân mà còn ở nền tảng lý luận
và tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin; mục tiêu của Đảng cần đạt tới
là chủ nghĩa cộng sản: Đảng tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ những
nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Hồ Chí Minh phê phán
những quan điểm không đúng như không đánh giá đúng vai trò to lớn của giai
cấp công nhân, cũng như quan điểm sai trái chỉ chú trọng công nông mà không
thấy rõ vai trò to lớn của các giai cấp, tầng lớp khác.
Quan niệm Đảng: không những là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là
Đảng của nhân dân lao động và của toàn dân tộc có ý nghĩa lớn đối với cách
mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc cho nên nhân dân
Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình. Trong thành
phần, ngoài công nhân còn có những người ưu tú thuộc giai cấp nông dân, trí

38
thức và các thành phần khác. Đảng ta cũng đã khẳng định rằng, để bảo đảm và
tăng cường bản chất giai cấp công nhân, Đảng luôn luôn gắn bó mật thiết với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong tất cả các thời
kỳ của cách mạng. Trong quá trình rèn luyện Đảng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú
trọng tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng
không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp
nhân dân lao động khác.

4. Quan niệm về Đảng cầm quyền

a) Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền.
Qua những năm tháng hoạt động thực tiễn, tìm tòi học hỏi nghiên cứu lý
luận, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cách mạng ở chủ nghĩa Mác - Lênin
và quyết định đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười vĩ đại. Khi sắp trở
thành đảng viên, đồng thời cũng là một trong những người sáng lập đảng cộng
sản Pháp, Hồ Chí Minh - người cộng sản đầu tiên của Việt Nam — đã sớm xác
định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách
mạng Việt Nam.
Từ lý tưởng cao cả ấy. Hồ Chí Minh thấy cần phải có một đảng cộng sản để
lãnh đạo phong trào cách mạng, thực hiện mục tiêu nói trên. Chính vì vậy, từ
những năm 1920 trở đi. Người tích cực chuẩn bị cả ba mặt: chính trị, tư tưởng
và tổ chức để tiến tới thành lập Đảng. Tới năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời, đánh dấu một trang mới trong lịch sử dân tộc ta.
Trong Đường cách mệnh. Hồ Chí Minh đã khẳng định vị trí, vai trò quan
trọng của đảng cách mạng - nhân tố đầu tiên, quyết định sự thắng lợi của cách
mạng. Thấu hiểu bài học lịch sử về sức mạnh quần chúng, lại được soi rọi dưới
ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin người chỉ rõ: công nông là gốc cách mạng,
nhưng "trước phải làm cho dân giác ngộ". Dân phải được tổ chức, được lãnh
đạo thì mới trơ thành lực lượng to lớn, mới là chủ, là gốc cách mạng được. Nếu
dân không được tổ chức thì như đũa "mỗi nơi một chiếc". Để Đảng vững được
39
"phải có chủ nghĩa làm cốt". Thành lập Đảng là để mọi thành viên trong Đảng
đó thống nhất về tư tưởng, từ đó thống nhất trong hành động. Người đã nghiên
cứu nhiều học thuyết trên thế giới, tìm tòi, suy ngẫm, lựa chọn và khẳng định:
"Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin". Tóm lại Hồ Chí Minh nhất quán cho
rằng: cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo con đường chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng chân chính, mang
bản chất của giai cấp công nhân. Đảng không bao giờ "hy sinh quyền lợi của
giai cấp công nhân va nông dân cho giai cấp khác". Đảng dìu dắt giai cấp vô
sản, lãnh đạo giai cấp vô sản, lãnh đạo cách mạng Việt Nam là để đem lại cuộc
sống tự do, hạnh phúc cho toàn thể dân tộc Đảng không phải là một tổ chức tự
thân và vì vậy, mục đích, tôn chỉ của đảng là "tận tâm", "tận lực", "phụng sự" và
"trung thành" với lợi ích của dân tộc Việt Nam.
Chỉ có một Đảng như thế mới có thể đem lại độc lập cho dân tộc. tự do, hạnh
phúc cho nhân dân, phồn vinh cho đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ. Đảng đã lãnh đạo toàn
thể dân tộc giành chính quyền, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó
cũng là thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quvền.
b) Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
"Đảng cầm quyền" là khái niệm đảng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng
chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để
điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Khái
niệm "Đảng cầm quyền" đã từng được dùng phổ biến tại các nước tư bản chủ
nghĩa. Ở các nước này nếu một chính đảng có đại biểu giành được đa số phiếu
tại các cuộc bầu cử trong quốc hội thì đảng đó trở thành đảng cầm quyền.
Về mặt thuật ngữ trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có thể bắt gặp các khái
niệm cũng chỉ một hiện tượng Đảng lãnh đạo xã hội sau khi giành được chính

40
quyền nhà nước: "Đảng nắm quyền", "Đảng lãnh đạo chính quyền". "Đảng cầm
quyền" Trong đó thuật ngữ "Đảng cầm quyền" phản ánh rõ nhất, chính xác nhất
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cụm từ "Đảng cầm quyền" được Hồ Chí Minh ghi trong bản Di chúc của
người năm 1969. Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là Đang tiếp tục lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân
dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà
nước đó tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội.
Khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ chính trong các cuộc đấu tranh của dân
tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là lật đổ chính quyền bè lũ thực dân và phong
kiến, thiết lập chính quyền nhân dân. Phương thức lãnh đạo, công tác chủ yếu
của Đảng là giáo dục, thuyết phục, vận động tổ chức quần chúng, đưa quần
chúng vào đấu tranh giành chính quyền.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản chất của Đảng không thay đổi. Khi có
chính quyền trong tay, một vấn đề mới cực kỳ to lớn, cũng là thử thách hết sức
nặng nề của Đảng là người đảng viên cộng sản không được lãng quên nhiệm vụ,
mục đích của mình, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân: trên thực tế, đã có
một số cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất trở thành "quan cách mạng". Với
Chủ tịch Hồ Chí Minh,
"Độc lập - Tự do — Hạnh phúc" là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là
điểm xuất phát để xây dựng Đảng ta xứng đáng với danh hiệu "Đảng cầm
quyền".
Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền.
Theo Hồ Chí Minh. Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ
quốc, của nhân dân. Đó là mục đích, lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ: "Những người
cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là

41
phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng
lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới"1. Khi trở thành Đảng cầm quyền, mục
đích, lý tưởng đó không những không thay đổi mà còn có thêm những điều kiện
và sức mạnh nhằm hiện thực hóa mục đích, lý tưởng ấy.
Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành
của nhân dân.
Quan điểm này của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là sự vận dụng, phát
triển hết sức sáng tạo lý luận Mác - Lênin về đảng vô sản kiểu mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam "là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân". Xác định "người lãnh đạo" là xác định quyền lãnh đạo duy
nhất của Đảng đối với toàn bộ xã hội và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo
chính quyền nhà nước. Đối tượng lãnh đạo của Đảng là toàn thể quần chúng
nhân dân trong toàn dân tộc, nhằm đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no và
hạnh phúc cho nhân dân mà trước hết là quần chúng nhân dân lao động. Nhưng
muốn lãnh đạo được nhân dân lao động, trước hết Đảng phải có tư cách, phẩm
chất, năng lực cần thiết. Vì "Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách,
đạo đức và "chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi
thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới
giành được địa vị lãnh đạo":.
"Là người lãnh đạo", theo Hồ Chí Minh, bằng giáo dục, thuyết phục, Đảng
phải làm cho dân tin, dân phục để dân theo. Đảng lãnh đạo nhưng quyền hành
và lực lượng đầu ở nơi dân, cho nên Đảng "Phải đi đường lối quần chúng,
không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân"1, mà phải giáo dục, tuyên
truyền, giác ngộ dân chúng để thức tỉnh họ. Đồng thời, Đảng phải tổ chức, đoàn
kết họ lại thành một khối thống nhất, bày cách cho dân và hướng dẫn họ hành
động. Vì vậy, chức năng lãnh đạo và sự lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm trên
tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phải quan tâm chăm lo đến đời
sống nhân dân từ việc nhỏ đến việc lớn: "Đảng vừa lo tính công việc lớn như
đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa

42
tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà
mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân".
Là người lãnh đạo, Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân. Lắng
nghe ý kiến của dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của
nhân dân, bởi "sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ
trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng'". Đảng phải thực hành triệt để dân
chủ mà trước hết dân chủ trong nội bộ Đảng, để phát huy được mọi khả năng trí
tuệ sáng tạo, của quần chúng; lãnh đạo nhưng phải chống bao biện, làm thay,
phải thông qua chính quyền nhà nước "của dân, do dân và vì dân" để Đảng thực
hiện quyền lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Do đó, Đảng phải lãnh đạo
Nhà nước một cách toàn diện, mà trong đó và trước hết là lãnh đạo xây dựng
luật pháp để quản lý, điều hành xã hội; đồng thời Đảng phải thường xuyên coi
trọng công tác giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức hoạt
động trong bộ máy nhà nước, luôn bảo đảm cho Nhà nước thực sự trong sạch,
vững mạnh, thực sự là Nhà nước "của dân, do dân và vì dân".Với tư cách người
lãnh đạo,Hồ Chí Minh còn đề cập một cách sâu sắc đến việc Đảng phải thực
hiện chế độ kiểm tra và phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ đảng viên, cán
bộ của Đảng
Là người lãnh đạo, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cũng có nghĩa bao
hàm cả trách nhiệm "là người đầy tớ" của dân. Song "đầy tớ" ở đây không có
nghĩa là "tôi tớ, tôi đòi hay theo đuổi quần chúng" mà là tận tâm, tận lực phụng-
sự nhân dân nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho nhân dân. Người nhấn
mạnh: "Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì có
lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức
tránh"'. Người sử dụng cụm từ "đầy tớ trung thành" là để nhắc nhở và chỉ rõ vai
trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoạt động của mình đều
phải quan tâm thực sự đến lợi ích của nhân dân: "Khổ trước thiên hạ và vui sau
thiên hạ", tận tụy với công việc, gương mẫu trước nhân dân, phải thường xuyên
"tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt". Phải làm

43
cho dân tin, dân phục để dân hết lòng ủng hộ, giúp đỡ. Mỗi cán bộ, đảng viên
"đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân. chứ không phải
để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật".
Mặt khác, ý nghĩa cụm từ "đầy tớ trung thành của nhân dân", theo tư tưởng
Hồ Chi Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có tri thức khoa học, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ giỏi; thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng: "cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư". Không chỉ nắm vững và thực hiện tốt quan
điểm, đường lối của Đảng, mà còn phải biết tuyên truyền, vận động lôi cuốn
quần chúng đi theo Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, "là người lãnh đạo", "là người đầy tớ" tuy là hai khái niệm nhưng
đều được Hồ Chí Minh sử dụng và chỉ ra sự gắn bó thống nhất. quan hệ biện
chứng giữa hai khái niệm đó với nhau. Dù là "người lãnh đạo" hay "người đầy
tớ", theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đều cùng chung một mục đích: vì dân.
Làm tốt chức năng "lãnh đạo" và làm tròn nhiệm vụ "đầy tớ" cho nhân dân là cơ
sở vững chắc nhất bảo đảm uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng không những
được ăn sâu, bám chắc trong lòng giai cấp công nhân, mà còn trong cả tầng lớp
quần chúng nhân dân lao động và trong toàn thể dân tộc Việt Nam.
Đảng cầm quyền, dân là chủ:
Vấn đề cơ bản nhất của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Tuy
nhiên, theo C.Mác, đó là cánh cửa vào xã hội mới chứ chưa phải là xã hội mới.
Vì vậy, vấn đề quan trọng là chính quyền thuộc về ai. Hồ Chí Minh đã nghiên
cứu kinh nghiệm, lý luận của các cuộc cách mạng trên thế giới và kết luận:
"Cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một
bọn ít người". Như vậy theo Hồ Chí Minh, quyền lực phải thuộc về nhân dân.
Người đã đề cập xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, Đảng lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và
củng cố quyền làm chủ của nhân dân. Theo Người, quyền lực thuộc về nhân dân
là bản chất, là nguyên tắc của chế độ mới, một khi xa rời nguyên tắc này. Đảng

44
sẽ trở thành đối lập với nhân dân. Dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, Đảng phải lấy
"dân làm gốc".
Mặt khác, dân muốn làm chủ thực sự thì phải theo Đảng. Mỗi người dân
phải biết lợi ích và bổn phận của mình tham gia vào xây dựng chính quyền.
Với tư tưởng nhân văn cao cả về mối quan hệ biện chứng giữa Đảng với dân.
Hồ Chí Minh luôn suy tư, trăn trở để tìm giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện
nguyên tắc dân là chủ, dân là gốc. Theo Người, cơ chế ấy chỉ có thể trở thành
hiện thực, không bị vi phạm khi cán bộ, đảng viên khi còn là người đầy tớ trung
thành của nhân dân.

Câu 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc tổ chức và xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam;
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh phải bảo đảm nhiều
yếu tố, trong đó những nội dung thuộc về các nguvên tắc tổ chức và xây dựng
Đảng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Bởi vì, sức mạnh của một đảng cách
mạng, đảng chân chính theo học thuyết đảng kiểu mới của Lênin bắt nguồn từ
các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Đảng không giữ vững nguyên tắc tổ
chức, sinh hoạt thì chỉ như là một câu lạc bộ.
Trước hết phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là
một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ trung ương xuống cơ sở. Đảng là tổ chức tiên
phong đấu tranh của giai cấp công nhân, có tính kỷ luật cao. Hệ thống tổ chức
của Đảng coi chi bộ là tổ chức hạt nhân quyết định chất lượng lãnh đạo của
Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên. Chi
bộ là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Chi bộ tốt thì Đảng mạnh,
chi bộ kém thì Đảng yếu.
1, Nguyên tắc tập trung dân chủ: là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng
Đảng. Nguyên tắc này thể hiện sự thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa “tập
trung” và “dân chủ”. Mặt này là điều kiện của mặt kia và ngược lại,về mối quan
hệ giữa “tập trung” và “dân chủ” được Hồ Chí Minh khẳng định: tập trung trên

45
nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, là cơ sở của tập trung.
Nếu không có sự gắn bó và thống nhất với nhau thì sẽ dẫn tới độc đoán chuyên
quyền và tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Tuy nhiên, “tập trung” và “dân chủ” có
nội dung cụ thể.
“Tập trung" là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên
chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho Đảng ta “tuy nhiều
người, nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”.
Còn dân chủ theo Hồ Chí Minh, là của quý báu nhất của nhân dân là thành quả
của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân chủ được thể hiện tư tưởng phải
được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề mọi người được quyền tự do
bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng
là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy
chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Hồ
Chí Minh nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ nội bộ, vì nếu
không có dân chủ nội bộ thì sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”. Hơn nữa dân
chủ trong Đảng mới có thể nói dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc
xây dựng một chế độ dân chủ thật sự.
2, Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: là nguyên tắc lãnh đạo
hay chế độ lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc này cũng có hai mặt gắn bó mật thiết
với nhau, gần với nguyên tắc tập trung dân chủ vì tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá
nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập
trung. Trong lãnh đạo phải tập thể vì nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, còn
một người, dù tài giỏi đến mấy cũng không thể xem xét tất cả mọi mặt của vấn
đề. Ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất giản đơn chân lý của nó rất rõ rệt. Tục ngữ
có câu: "Khôn bầy hơn khôn độc” là nghĩa đó.
Cá nhân phụ trách là trên cơ sở bàn bạc kỹ lưỡng của tập thể, công việc mới
chạy, kế hoạch định rõ ràng rồi thì giao cho một người hoặc một nhóm người
phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách. Không
có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người kia

46
ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không
xong. Tục ngữ có câu: “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa" là như thế.
Trong khi thực hiện nguyên tắc phải chống lại căn bệnh độc đoán chuyên quyền
và dựa dẫm vào tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm.
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc
đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến
cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh
đạo cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
3, Nguyên tắc tự phê bình và phê bình: là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là
quy luật phát triển của Đảng. Ý nghĩa của nguyên tắc này ở chỗ Đảng cũng từ
trong xã hội mà ra nên có những căn bệnh trong xã hội lây ngấm vào Đảng. Cá
nhân đảng viên, cán bộ cũng là con người, cũng có cái tốt, cái xấu, thiện, ác
trong lòng. Con người ta không phải là thánh thần, ai cũng có khuyết điểm cả.
Vì vậy tự phê bình và phê bình giống như việc rửa mặt hàng ngày, làm cho
phần tốt trong mỗi con người này nở như hoa mùa xuân, phần xấu mất dần đi.
Cán bộ, đảng viên có khuyết điểm giống như người có bệnh Vì vậy phải uống
thuốc. Tự phê bình là thuốc đắng nhưng giã tật. Ngược lại nếu không tự phê
bình thì như người có bệnh mà không uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng
thêm. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là
một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ
những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết
điểm đó. rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một
Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Tự phê bình và phê bình nhằm làm cho Đảng vững mạnh, cán bộ, đảng viên tiến
bộ, để chữa các bệnh trong Đảng. Đó cũng là một trong những cách tốt nhất để
thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, giữ vững và củng cố uy tín của Đảng.
Tuy nhiên, một điều rất quan trọng là cách thức tự phê bình và phê bình. Hồ Chí
Minh thường dặn phải thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình trên
cơ sở tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Trong phê bình và tự phê bình phải

47
thật thà, thẳng thắn, không nể nang, không giấu giếm, không thêm bớt khuyết
điểm. Phê bình và tự phê bình là vấn đề khoa học và là nghệ thuật. Vấn đề
không phải chỉ luôn luôn dùng mà còn phải khéo dùng cách phê bình và tự phê
bình. Cán bộ chủ chốt, lãnh đạo càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình.
Phải tuyệt đối chống các biểu hiện không đúng trong phê bình và tự phê bình
như: thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không
dám phê bình, nể nang, né tránh, "dĩ hòa vi quý”, hoặc ngược lại, lợi dụng phê
bình để nói xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác.
4, Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, chặt chẽ tự giác: là một nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng kiểu mới của Lênin. Sức mạnh của Đảng một phần lớn
là ở kỷ luật của tổ chức. Kỷ luật của Đảng thể hiện ở chỗ chấp hành kỷ luật,
điều lệ của Đảng; mọi đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng và pháp luật
của Nhà nước.Tự phê bình là mỗi đảng viên phải tự thấy rõ mình để phát huy
mặt ưu điểm, khắc phục nhược điểm. Tự phê bình mà tốt thì mới phê bình
người khác được. “muốn đoàn kết trong Đảng, phải thống nhất tư tưởng, mở
rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Đó là vũ khí sắc bén để
rèn luyện đảng viên.
“Một đảng mà giấu diếm khuyết điểm đó là một đảng hỏng. Một đảng có gan
thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó vì đâu mà có khuyết
điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm cách để sửa chữa
khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân
chính”.
Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình thật đúng và nghiêm túc không
phải dễ dàng. Nó là vấn đề khoa học và nghệ thuật Cách mạng . “Phải tiến hành
thường xuyên như rửa mặt hàng ngày: phải trung thực, chân thành, thẳng thắn,
không nể nang, không giấu giếm và cũng không thêm bớt khuyết điểm, phải có
tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”. Bác nhắc, tránh lợi dụng phê bình để nói
xấu nhau, bôi nhọ nhau, đả kích nhau…
5, Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng:

48
Cơ sở để đoàn kết nhất trí trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng,
điều lệ của Đảng. “Ngày nay, sự đoàn kết trong đảng là quan trọng hơn bao giờ
hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. Nguyên tắc này phải
được thực hiện từ Trung ương đến các chi bộ. Phải giữ gìn sự đoàn kết trong
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Để đoàn kết có sức mạnh thật sự
phải dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, quan điểm của Đảng;
phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự
phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, sống với
nhau có tình có nghĩa.

Câu 3: Phân tích sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng cộng
sản Việt Nam
– Xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và phong trào CN Châu Âu,
Lênin cho rằng, sự ra đời của Đảng cộng sản là sự kết hợp của 2 yếu tố đó là:
Chủ nghĩa Mác với phong trào CN .
– Khi đề cập đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố là
Chủ nghĩa Mác – Lê nin và phong trào CN , Hồ Chí Minh còn nêu lên yếu tố
thứ 3, đó là phong trào yêu nước.
– Đây chính là quy luật hình thành và phát triển Đảng cộng sản Việt Nam , đồng
thời là sự bổ sung sáng tạo vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Là
sự vận dụng sang tao vào Việt Nam nơi Giai cấp công nhân còn ít về số
lượng ,nhưng vô sản bị áp bức bóc lột thì đông : phong trào yêu nước có vị trí,
vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phong tràoriển của dân tộcViệt Nam, phong
trào CN kết hợp với phong trào yêu nước vì nó đều có mục tiêu chung. Phong
trào yêu nước Việt Nam là phong trào rộng lớn nhất có trước phong trào CN từ
nghìn năm lịch sử. Nó cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân , toàn dân tộc đứng lên
chống kẻ thù. Phong trào CN ngay từ khi mới ra đời đã kết hợp với phong trào
yêu nước. Khác với những người cộng sản phương Tây, Hồ Chí Minh và những

49
người cộng sản Việt Nam đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp.
Phong trào nông dân kết hợp với phong trào CN ngay từ đầu. Hơn 90% dân số
là nông dân, họ là bạn đồng minh tự nhiên của Giai cấp công nhân .
Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam .
Quy luật hình thành Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở kết hợp vấn đề dân tộc
với giai cấp, có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành Đảng ở một
nước thuộc địa. Đảng định hướng đúng đắn và thúc đẩy phong trào Cách mạng .
Hồ Chí Minh tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong dân, vào
phong trào yêu nước, phong trào CN .
Cách mạng Việt Nam đi từ tự phát đến tự giác, có tổ chức, có đường lối được
giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin giành được thắng lợi to lớn đó là nhờ có Đảng
cộng sản Việt Nam .

Câu 4: Nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất GCCN của Đảng cộng
sản
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất GCCN của Đảng cộng sản Việt
Nam chúng ta thấy nhận thức của Hồ Chí Minh về vấn đề này là nhất quán. Quá
trình này được thể hiện:
+ Trong Cương lĩnh tháng 2, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng là đội tiên phong
của giai cấp vô sản..
+ Trong Báo cáo chính trị tại ĐH II, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong giai đoạn này,
quyền lợi của GCCN và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì
Đảng lao động Việt Nam là Đảng của GCCN và nhân dân lao động, cho nên nó
phảI là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
+Năm 1953, Hồ Chí Minh “Đảng lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần
lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc… Đảng là đảng của giai cấp lao động
mà cũng là đảng của toàn dân”.

50
+ Năm 1957, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng là đội tiên phong của Giai cấp
công nhân , đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc.
+ Năm 1961 – thời kỳ miền Bắc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, Người khẳng định:
Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là đảng của dân tộc, không thiên
tư, thiên vị.
+ Năm 1965, Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ
tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
– Cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về bản chất GCCN của Đảng xét về mặt ngôn
từ có nhiều chổ khác nhau, nhưng thực chất Người luôn khẳng định tính chất
GCCN của Đảng. Điều này thể hiện:
+ Hồ Chí Minh khẳng định bản chất GCCN của Đảng ta dựa trên cơ sở thấy rỏ
sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam, tuy số lượng ít so với dân số nhưng có
đầy đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo đất nước thực hiện những mục tiêu của
Cách mạng . Còn các tầng lớp, giai cấp khác chịu sự lãnh đạo của Giai cấp công
nhân .
+ Về lý luận: Hồ Chí Minh luôn chủ trương Đảng phảI theo Chủ nghĩa Mác –
Lê nin, lấy Chủ nghĩa Mác – Lê nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của Đảng. Chủ nghĩa Mác – Lê nin là hệ tư tưởng của Giai cấp công
nhân .
+ Về mục tiêu: Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng sẽ đưa đất nước đI lên Chủ nghĩa
xã hội và CNCS
+ Về tổ chức: TC và sinh hoạt theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của Giai
cấp công nhân .

Câu 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản
Việt Nam;

Kết hợp ý 2 câu 1 và câu 4

51
Câu 6: Vận dụng những nguyên tắc xây dựng Đảng của Người vào việc xây
dựng và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay? + Giáo trình trang 164,165

Một trong những vấn đề bức xúc và cấp thiết hiện nay là phải xây dựng Đảng ta
thật trong sạch và vững mạnh ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Phải nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, để:

Đảng luôn đi tiên phong về lý luận và hoạt động thực tiễn. Đó không chỉ là
nguyện vọng thiết tha của toàn thể nhân dân mà cũn là yờu cầu tất yếu của lịch
sử. Sự thật này sẽ tồn tại và phát triển bất chấp mọi õm mưu và hành động phá
hoại của kẻ thù. Do vậy, ghi sâu lời căn dặn, “ lý luận tạo cho các đồng chí làm
công tác thực tế, sức mạnh định hướng, sự sáng suốt dự kiến tương lai, kiên
định trong công tác và lòng tin ở thắng lợi của sự nghiệp của chúng ta” (9), kiên
định lý tưởng cộng sản và lập trường chính trị, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (1986) - những người cộng sản Việt Nam đó tự đổi mới. Khởi
xướng và trong 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, Đảng Cộng sản
Việt Nam đó từng bước đưa đất nước ta thoát ra khỏi tỡnh trạng khủng hoảng.
Thực tế cho thấy, tự chỉnh đốn và tự đổi mới, Đảng ta đó trỏnh được những sai
lầm cố hữu, tránh được những tổn thất do chủ quan duy ý chí, đưa đất nước tiến
lên.

Song cũng từ chính những lời can dặn đầy tâm huyết của Hồ Chí Minh: mỗi cán
bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, phải cố gắng
học tập chính trị, chuyên môn, gắn bó với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây
dựng và chỉnh đốn Đảng, gương mẫu trước quần chúng, Đảng ta đó cú nhiều
nghị quyết và chỉ thị của các cấp về vấn đề làm trong sạch đội ngũ đảng viên
theo tinh thần của Hội nghị lần thứ 3 BCHTƯ khoá VII: “Về một số nhiệm vụ
đổi mới , chỉnh đốn Đảng”, đặc biệt là Hội nghị TƯ6 (lần 2) khoá VIII về xây
dựng và chỉnh đốn Đảng. Đồng thời, cùng với việc nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, Đảng đó “tập trung chỉ đạo qyuết liệt
hơn nhiệm vụ xây dựng Đảng tương xứng với vị trí là nhiệm vụ then chốt” và
52
nhấn mạnh nhiệm vụ “kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong cán bộ đảng viên” (10), thực hiện mối liên hệ gắn bó
Đảng – Dân. Không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, Đảng đồng thời phải đổi
mới hơn nữa phương thức lónh đạo để “xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh,
nâng cao sức chiến đấu và vai trũ lónh đạo, nâng cao uy tín và thanh danh của
Đảng ta” (11).

Xác định vị trí của Đảng cầm quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh đồng nghĩa với
việc khẳng định vai trũ lónh đạo của tổ chức cơ sở Đảng. Sự đoàn kết, thống
nhất của tổ chức cơ sở Đảng làm nên sức mạnh vô địch của Đảng, cho nên việc
coi trọng và kiện toàn các cơ sở Đảng về các mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức,
cán bộ… đề cao tinh thần phê bỡnh và tự phờ bỡnh, để Đảng thành một lực
lượng vững mạnh, đưa sự nghiệp đổi mới đến thành công càng trở nên cực kỳ
quan trọng.

Then chốt trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là thật thà tự phê bình và phê bình. Bởi rằng, cú thường xuyên làm được
như vậy, người đảng viên mới gột rửa những tư tưởng, quan điểm, hành vi sai
trái với phẩm chất của của người cách mạng. Hơn nữa, phê và tự phê của người
cán bộ, đảng viên chính là đấu tranh để góp phần nâng cao sức chiến đấu của
Đảng, loại bỏ những phần tử xấu ra khỏi Đảng, “cốt để đoàn kết và thống nhất
nội bộ”. Tuy nhiên vẫn chính Hồ Chí Minh đó từng nhiều lần nhấn mạnh, tự
phờ bỡnh và phờ bỡnh là phải thành khẩn, trung thực, kiên quyết và có văn hoá,
để đó thực sự là xây dựng Đảng, là để học cái hay và tránh cái dở. Trong bối
cảnh hiện tại, khi xây dựng văn hoá Đảng đang trở nên cần thiết hơn bao giờ
hết, khi tham nhũng đó trở thành quốc nạn, khi suy thoỏi đạo đức không cũn
dừng lại ở một “bộ phận” thỡ những điều căn dặn của Hồ Chí Minh về phê và tự
phê (đặc biệt ở đội ngũ lãnh đạo cấp cao) trong Đảng, về thực hiện dân chủ, về
giám sát, kiểm tra càng trở nờn cú ý nghĩa.

53
Chúng ta đều biết, sức mạnh của Đảng là ở sự đoàn kết, thống nhất. Chúng ta
càng không quên rằng: khi khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng rạn nứt thì sức
chiến đấu của Đảng bị tê liệt, nguồn sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết
toàn dõn cũng vỡ thế mà suy kiệt. Vỡ vậy, càng đầy cam go, thử thách, Đảng
càng phải thống nhất ý chí, thống nhất hành động trên cơ sở thấm nhuần sâu sắc
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,

càng phải có tình thương yêu đồng chí lẫn nhau. Đảng phải gắn lợi ích giai cấp,
dân tộc với đoàn kết quốc tế để tranh thủ nguồn sức mạnh của dân tộc và thời
đại, đảm bảo đưa cách mạng đến thắng lợi.

Sự nghiệp Đổi mới của nhân dân Việt Nam là con đường vẻ vang, tự hào song
cũng đầy gian nan, thử thách. Hồ Chí Minh – Người sáng lập, xây dựng và rèn
luyện Đảng ta đó yờu cầu Đảng phải thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn để
tăng cường sức mạnh, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ mới. Với Người - đó
không chỉ là nhiệm vụ của một Đảng cầm quyền, đó cũn là trỏch nhiệm của
những người cộng sản Việt Nam trước lịch sử, nhân dân và dân tộc.

VẤN ĐỀ 6: tư tưởng hcm về nhà nước của dân, do dân, vì dân

Dàn ý nội dung

- Nguồn gốc tư tưởng HCM về nhà nước

+ Nguồn gốc

+ Sự lựa chọn mô hình nhà nước của HCM

- Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước

+ Bản chất giai cấp của nhà nước: thống nhất giữa bản chất GCCN và tính
nhân dân, dân tộc
1, Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân

54
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân
với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nhà nước ta được coi là Nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng bản chất giai
cấp của Nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân. Vì:
Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này được thể hiện:
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà
nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của bản Hiến pháp
năm 1959 khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền
tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp
với từng thời kỳ. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước, đất nước ta
phải vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng và bảo vệ Tổ
quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới.
* Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể
chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
* Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng
viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.
* Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã
hội chủ nghĩa của sự phát triển của đất nước. Điều này đã được thể hiện ngay từ
khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời ngày 2 tháng 9 năm 1945
trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc
tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí
Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy,
cơ quan nhà nước, nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát

55
huy cao độ tập trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả
mọi quyền lực vào tay nhân dân.
2. Bản chất giai cấp của nước ta thống nhất với tính nhân dân, tính
dân tộc: Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân
tộc.
Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa, thống nhất giữa bản chất giai cấp với
tính nhân dân, tính dân tộc và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:
Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ
bản. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà
nước ta không những thể hiện ý chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý
chí của nhân dân và của toàn dân tộc.
- Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh
đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của
Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới. Con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội rồi đi tới chủ nghĩa cộng sản
-> Tính thống nhất thể hiện ở chỗ:
– NN dân chủ mới ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ với
sự hy sinh xương máu của bao thế hệ Cách mạng .
– NN ta vừa mang bản chất giai cấp vừa có tính nhân dân và tính dân tộc vì nó
lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng và bảo vệ lợi ích cho nhân dân . Trong thời
gian Người lãnh đạo đất nước, nhờ sách lược mềm dẻo, cũng như Người dung
nạp nhiều nhân sĩ, trí thức, quan lại cao cấp của chế độ cũ vào bộ máy NN đã
thể hiện tư tưởng NN ta là NN của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
– NN ta vừa ra đời đã đảm nhiệm vai trò lịch sử là tổ chức toàn dân kháng
chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự
phong trào tiến bộ của thế giới.

56
+ Quan điểm HCM về nhà nước dân chủ (của dân, do dân, vì dân): Câu 7

+ Quan điểm HCM về nhà nước pháp quyền: Câu 8

+Quan điểm HCM về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh: Câu 9

Câu 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân;+ bản
cấp giai cấp của NN (bên trên)+ giáo trình 142-150
Quan điểm về nhà nước của dân, do dân, vì dân, chúng ta thấy trong di
sản tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
a) Nhà nước của dân
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực
trongnhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ
tịch nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến
pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của Người được thể
hiện trong các bản Hiến pháp đó. Chẳng hạn, Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: tất cả
quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt
nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết.
Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân
có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại
biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ
dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời
cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi
miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những
đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ
có nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền,
nghĩa vụ của dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được
hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách

57
nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ
của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được
đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh
đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình,
không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, "cậy thế" với dân, "quên
rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân". Một nhà nước như thế là một nhà
nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại.
b) Nhà nước do dân
Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm
cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ,
nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà nước của mình. Hồ
Chí Minh khẳng định: việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách
nhiệm "ghé vai gánh vác một phần". Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi
với trách nhiệm, nghĩa vụ.
c) Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm
mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích
nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc
lợi nào. Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách
đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố
gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của
nước. Hồ Chí Minh cho rằng: phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc,
phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành.
Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch
nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân
dân chứ không phải "làm quan cách mạng" để "đè đầu cưỡi cổ nhân dân" như
dưới thời đế quốc thực dân.

58
Câu 8: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền;

a, Xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp

Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước hết là một nhà nước hợp hiến. Vỡ
vậy sau khi giành chính quyền, Hồ Chớ Minh đó thay mặt chính phủ lâm thời
đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai
sinh nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chính phủ lâm thời có địa vị hợp
pháp, tổng tuyển cử bầu ra quốc hội rồi từ đó lập chính phủ và các cơ quan nhà
nước mới.

Sau đó Người bắt tay xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức TỔNG TUYỂN CỬ
với chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội nhất trí bầu
làm chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là chính phủ hợp hiến đầu
tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết các
vấn đề đối nội và đối ngoại.

b. Nhà nước thượng tôn pháp luật: -> Quản lý Nhà nước bằng pháp luật và
chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống

Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý là nhà nước quản lý đất nước bằng
pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong nhà nước
dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau, đảm bảo cho chính quyền
trở nên mạnh mẽ. Mọi quyền dân chủ phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và
pháp luật. Xây dựng một nền pháp chế XHCN đảm bảo việc thực hiện quyền
lực của nhân dân là mối quan tâm của Hồ Chí Minh. Là người sáng lập Nhà
nước Việt Nam dân chủ, có công lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp: một
mặt, Người chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nhà nước
ta, mặt khác, Người chăm lo đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo cơ chế đảm bảo
cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành của các cơ

59
quan nhà nước và của nhân dân. “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Sức
mạnh là do con người và vỡ con người, vỡ vậy, Hồ Chớ Minh yờu cầu mọi
người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị
nào. Công tác giáo dục luật cho mọi người, đặc biệt là cho thế hệ trẻ cực kỳ
quan trọng trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý,
đảm bảo quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống.

c. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của nhà nước có đủ đức và
tài

Để tiến tới một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ, Bác Hồ cho rằng,
phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hỡnh thành một đội ngũ viên chức
nhà nước có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành
chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính chí công vô tư, một tiêu
chuẩn cơ bản của người cầm cân công lý. Yêu cầu của đội ngũ cán bộ phải có
đức và tài trong đó đức là gốc, đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và cú hiệu
quả. Cụ thể là:

(1) Tuyệt đối trung thành với cách mạng.

(2) Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.

(3) Phải có mối liên hệ mật thiết với nhõn dõn.

(4) Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán,
dám chịu trách nhiệm, nhất là những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu,
bại không nản”.

Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký
sắc lệnh ban hành Quy chế công chức. Công chức theo chế độ chức nghiệp, vì
vậy phải qua thi tuyển công chức để bổ nhiệm vào ngạch, bậc hành chính. Nội
dung thi tuyển khi toàn diện bao gồm 6 môn thi: chính trị, kinh tế, pháp luật, địa

60
lý, lịch sử và ngoại ngữ. Điều này thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy hiện đại,
tinh thần công bằng dân chủ ... của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng
nền móng cho pháp quyền Việt Nam.

d, Pháp quyền nhân nghĩa : Giáo trình 155

Câu 9: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
1. Kiểm soát quyền lực nhà nước
Theo quản điểm của Hồ Chí Minh, kiểm soát quyền lực của Nhà nước là
tất yếu.Phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng lãnh
đạo: Kiểm soát đội ngũ cán bộ, đảng viên. Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì
toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính
sách của Đảng. Vì vậy các cấp ủy đảng phải tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát xem có làm đúng hay không. Ví dụ: Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam là cơ quan kiểm tra, giám sát chuyên trách của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam; tham mưu, giúp Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Quá trình kiểm tra, giám sát
phải được thực hiện và diễn ra thường xuyên. Nhân dân là chủ thể tối cao của
quyền lực nhà nước, vì thế, nhân dân có quyền kiểm soát quyền lực nhà nước.
Đảng cầm quyền phát huy vai trò kiểm soát quyền lực của nhân dân. Đối với
Nhà nước, là công bộc của dân, “mọi công tác phải dựa hẳn vào quần chúng,
hoan nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra”.
2. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng
và xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
a. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng

61
Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định đạo đức là gốc, là nền tảng, là sức mạnh,
là tiêu chuẩn hàng đầu của người cách mạng. Trong tác phẩm “Đạo đức cách
mạng” năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “...Sức có mạnh thì mới gánh
được nặng và đi xa. Người cách mạng phải có đạo đức và cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Ngày nay, cùng với
sự phát triển vượt bậc của xã hội trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
khoa học, pháp luật... thì mức độ đan xen, tác động qua lại giữa Pháp luật và
Đạo đức ngày càng có những sự ảnh hưởng lẫn nhau đúng như quan niệm của
Đảng ta: “Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao
đạo đức”.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng của sự kết hợp hoàn hảo giữa đạo đức và pháp
luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc rằng, trong việc xây dựng Nhà nước
kiểu mới, tấm gương đạo đức của các bậc lãnh đạo, của các nhà cầm quyền có ý
nghĩa vô cùng to lớn.
b. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
- Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
Cán bộ, công chức phải là những người kiên cường bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ Nhà nước. Hồ Chí Minh nhấn mạnh lòng trung thành đó không
phải là những điều trừu tượng, chung chung, mà phải được thể hiện hằng ngày,
hằng giờ, trong mọi lĩnh vực công tác, thể hiện trong kết quả thực tế công tác.
- Thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
Xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán bộ, công chức. Đẩy
mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn. Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo
đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp để thực thi đầy đủ
trách nhiệm công vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
- Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa đội ngũ
cán bộ, công chức với nhân dân. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở mọi cán bộ, công

62
chức không được lãng phí của công; phải sẵn sàng phục vụ nhân dân, luôn luôn
nêu cao đạo đức cách mạng, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân mình cho Tổ
quốc, lấy phục vụ quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt
động của mình. Luôn trong trạng thái sẵn sàng phục vụ nhân dân, dám quyết
định, chịu trách nhiệm về những quyết định của mình.
- Thường xuyên tự phê bình và phê bình.
Luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.
Với chức trách là những người phục vụ nhân dân, thì cán bộ, công chức phải tận
tụy, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Muốn vậy, theo Hồ Chí Minh cán bộ,
công chức phải thường xuyên tự phê bình và phê bình để giữ vững phẩm chất
đạo đức cách mạng và năng lực công tác. Đồng thời, cán bộ, công chức phải
chăm lo xây dựng bộ máy nhà nước để nhà nước đúng là nhà nước của dân, do
dân, vì dân.
3. Phòng, chống tiêu cực trong nhà nước
Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không bao giờ tách rời với việc
làm cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này luôn luôn thường trực
trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh luôn chú ý đến việc
bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi vì những lúc
đó cách mạng đứng trước những thử thách rất gay gắt và những tiêu cực rất dễ
trở thành nguy cơ làm biến chất Nhà nước.
a. Đặc quyền, đặc lợi
Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã định vị những căn bệnh ấy
trong các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị với biểu hiện thứ 9: “Vướng
vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước
mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù
không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp
xếp vào vị trí có nhiều lợi ích”. Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi
hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để lạm
quyền, hách dịch với dân, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân mình.

63
b. Tham ô, lãng phí, quan liêu
Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong
lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người
“lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của
Hồ Chí Minh là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù có hay không, cũng là
bạn đồng minh của thực dân và phong kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi
Việt gian, mật thám”. Hồ Chí Minh nêu rõ: “phải có chuẩn bị, kê hoạch, tổ
chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên”. Đấu tranh chống tham ô, lãng phí cần
phải bằng hệ thống các biện pháp đồng bộ, cả trước mắt và lâu dài, kết hợp chặt
chẽ giữa “xây” và “chống”.
c. “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”
Tư túng là việc bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không có
chuyên môn, không đủ điều kiện tiêu chuẩn vào các vị trí lãnh đạo, quản lý hoặc
sắp xếp vào cái vị trí có nhiều lợi ích.
Chia rẽ được biểu hiện ở việc các cán bộ được phân công phụ trách ở vùng nào
thì ra sức hoạnh họe, hách dịch, coi thường cấp trên lấn áp cấp dưới, ra vẻ quan
cách khiến cho quần chúng sợ hãi. Từ đó nó làm chia rẽ giữa các các bộ, đoàn
thể xa nhân dân. Các cán bộ tạo lập các phe cánh từ đó dẫn đến các việc chia rẽ.

Câu 10: Vận dụng tư tưởng đó trong việc xây dựng Nhà nước ta hiện nay
như thế nào? + Giáo trình trang 166,167,168
Xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới.
a) Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân
Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu
xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước đòi hỏi phải chú trọng bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường
pháp chế XHCN có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ của nhân

64
dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp
luật vào trong cuộc sống. Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người được bình
đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp luật,
bất kể sự vi phạm đó do tập thể hoặc cá nhân nào gây ra. Có như vậy dân mới
tin và mới bảo đảm được tính chất nhân dân của Nhà nước ta.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngoài vấn đề thực thi
nghiêm chỉnh pháp luật, còn cần chú ý tới thực hịên những quy tắc dân chủ
trong các cộng đồng dân cư, tùy theo điều kiện của từng vùng, miễn là các quy
tắc đó không trái với những quy định của pháp luật. Theo đó, cần thực hiện tốt
các Quy chế dân chủ ở cơ sở đã được Chính phủ ban hành.
b) Kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về lĩnh vực này đòi hỏi phải chú trọng cải cách
và xây dựng, kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước, bảo đảm một nền hành
chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, phải đẩy mạnh cải cách hành
chính theo hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực và có hiệu
quả đối với nhân dân. kiên quyết khắc phục quan liêu, hách dịch, cửa quyền,
gây phiền hà, sách nhiễu, tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, một bộ
phận không nhỏ cán bộ, công chức sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng, năng
lực thực hành nhiệm vụ công chức kém cỏi.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay còn cần chú ý cải
cách các thủ tục hành chính; đề cao trách nhiệm trong việc giải quyết các khiếu
kiện của công dân theo đúng những quy định của pháp luật; tiêu chuẩn hóa cũng
như sắp xếp lại đội ngũ công chức, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức
vừa có đức, vừa có tài, tinh thông chuyên môn, nghiệp vụ. Nguồn lực đội ngũ
công chức yếu thì không thể nói đến một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân mạnh được. Do vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải
được đặt lên hàng đầu và phải được tiến hành thường xuyên, bảo đảm chất
lượng. Theo đó, hệ thống các trường dạy nghề, đặc biệt là các trường đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ chuyên ngành tư pháp phải được đổi mới, nâng cao chất

65
lượng đào tạo.
c) Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng tất yếu gắn liền với tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đây là trách nhiệm cực kỳ quan trọng của
Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền. Trong giai đoạn hiện nay, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước thể hiện ở những nội dung như: lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối,
chủ trương của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò quản lý
của Nhà nước; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: lãnh
đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan Nhà
nước, bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên hoạt động
trong bộ máy Nhà nước, bằng công tác kiểm tra, Đảng không làm thay công
việc quản lý của Nhà nước. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ
thống chính trị trên cơ sở bảo đảm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà
nước theo luật định. Bản chất, tính chất của Nhà nước ta gắn liền với vai trò,
trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó, đến lượt Đảng, một tiền đề tất yếu
được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là
yếu tố quyết định cho thành công của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Câu 11: Những thuận lợi, nguy cơ và thách thức đối với nhân dân ta ngày
nay?

● Thuận lợi:

Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới. Việt Nam kiên trì chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đi theo con đường mà Hồ Chí Minh
đã lựa chọn. Thực hiện đường lối đổi mới đất nước ở Việt Nam có những đặc
điểm chủ yếu sau đây:
66
Một là: đất nước đã thu được những thành tựu cơ bản. Đất nước trải qua hàng
chục năm chiến tranh khốc liệt để lại hậu quả nặng nề; các thế lực phản động
chống phá quyết liệt nhằm phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam khiến đất
nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã vượt qua được những thử thách đó, đã thoát
ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế mở cửa, sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển.
Trước những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp
độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước
luôn luôn giữ được ổn đinh. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không
ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và lực của đất nước ta mạnh lên
rất nhiều so với những năm trước đổi mới cho phép nước ta tiếp tục phát huy
nội lực kết hợp tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững, trước mắt
phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường;
thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế
của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao.
Hai là: Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau.
Sự nghiệp đổi mới của nước ta trong những năm tới, có cơ hội lớn để phát triển
của đất nước. Đó là lợi thế so sánh để phát triển do nhiều yếu tố, trong đó yếu tố
nội lực là hết sức quan trọng. Những cơ hội tạo cho đất nước ta có thể đi tắt,

67
đón đầu, tiếp thu nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ
trên thế giới.
Thực hiện đường lối ngoại giao Hồ Chí Minh, quan hệ đối ngoại rộng mở và
tăng cường hợp tác quốc tế theo phương châm độc lập tự chủ, đa phương hóa,
đa dạng hóa, hợp tác các bên đều có lợi trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc
cơ bản của mỗi quốc gia-dân tộc là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ. Mặt khác, chúng ta rút ra được nhiều bài học từ cả những thành công
và yếu kém của gần hai chục năm tiến hành sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh sự
nghiệp cách mạng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép nước ta tiếp tục đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa Việt Nam trở
thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng
thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN, phát huy hơn
nữa nội lực. Đồng thời Đảng và Nhà nước ta tranh thủ nguồn lực bên ngoài và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường an
ninh quốc phòng.

● Khó khăn:

Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những
khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Bốn nguy cơ mà Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn
tại. Các nguy cơ đó diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau, chúng ta
không thể xem nhẹ nguy cơ nào. trong tình hình thế giới hiện nay, phát triển
nhanh và bền vững là một thách thức lớn. Nếu nước ta không tận dụng cơ hội

68
hiện nay để phát triển nhanh, thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu thì cơ hội sẽ bị bỏ
lỡ.
Nguy cơ chệch hướng XHCN phải được đề phòng không những ở việc xây
dựng và thông qua cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết, pháp luật của
Đảng và Nhà nước mà còn ở trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã
hội. Nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống cản trở
việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, giảm niềm tin trong nhân dân.
các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến
hòa bình”, chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.

Câu 12: Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc làm trong sạch bộ
máy nhà nước ở Việt Nam ta hiện nay
1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc làm trong sạch
bộ máy nhà nước ở Việt Nam ta hiện nay
a, Thành tựu
+ Phát huy kết quả và rút kinh nghiệm về công tác đấu tranh, phòng, chống
tham nhũng trong các giai đoạn trước, trong 10 năm gần đây, với việc thành lập
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí (trực thuộc Bộ
Chính trị) đến nay, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được Trung
ương lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, ngày càng đi vào chiều sâu, có bước
tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể, rất quan trọng, toàn diện, để lại dấu ấn tốt,
tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội và thực sự "đã trở
thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược", được cán bộ, đảng viên và nhân
dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được bạn bè quốc tế ghi nhận.
+ Tổ chức bộ máy quản lí nhà nước tiếp tục được kiện toàn phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ, theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, giảm cấp trung gian,
tinh giảm biên chế được đẩy mạnh và đạt kết quả bước đầu. Công tác cải cách
thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền điện tử cung cấp dịch vụ công trực
tuyến đạt nhiều kết quả tích cực, cơ chế một cửa, một cửa liên thông, một cửa
quốc gia, một cửa ASEAN tiếp tục được duy trì, mở rộng cải thiện về chất

69
lượng, hiệu quả hoạt động đã giúp cải thiện chỉ số xếp hạng quốc tế về năng lực
cạnh tranh, môi trường kinh doanh, đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững.
+ Hoạt động thanh tra hành chính và chuyên ngành được tăng cường và đạt kết
quả tích cực. Chính sách, pháp luật về phòng chống tham nhũng dần được hoàn
thiện, trong đó lần đầu tiên đã mở rộng việc phòng chống tham nhũng sang cả
khu vực tư nhân như: cung cấp dịch vụ điện nước, cơ sở hạ tầng, cho thuê mặt
bằng hay tình trạng móc nối, hối lộ trong lĩnh vực ngân hàng để cho vay sai
nguyên tắc, một số nhân viên ngân hàng, kho bạc, quỹ tín dụng lợi dụng nhiệm
vụ được giao để mua chứng khoán hoặc cho vay lại với lãi suất cao hơn, khi bị
thua lỗ, lừa đảo mất khả năng trả nợ, gây thiệt hại lớn.
+ Đặc biệt, đã xuất hiện loại tội phạm tham nhũng mới với tính chất hết sức
nghiêm trọng như tham ô, cố ý làm trái và lừa đảo qua mạng hay các tội phạm
trong lĩnh vực chứng khoán (như sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng
khoán - giao dịch nội gián hay thao túng giá chứng khoán…). Công tác kiểm
tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các
vụ việc tham nhũng, lãng phí được chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ đồng bộ, hiệu
quả, tạo bước tiến mới trong phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí. Cấp ủy, ủy
ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.209 cán bộ, đảng viên có liên quan
đến tham nhũng; trong đó có 113 cán bộ diện Trung ương quản lý cả đương
chức và đã nghỉ hưu. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã
chỉ đạo quyết liệt không có vùng cấm, không có ngoại lệ; nhiều vụ án, vụ việc
tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm đã được xử lý
nghiêm minh, đúng pháp luật, có tác dụng cảnh báo, răn đe, siết chặt kỷ luật, kỷ
cương trong Đảng và bộ máy nhà nước, khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà
nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Ví dụ: Các đối tượng bị khởi tố vụ án xảy ra tại cục lãnh sự, bộ ngoại giao. Bộ
ngoại giao: Trong đó quan chức cao nhất bị khởi tố là Tô Anh Dũng nguyên thứ
trưởng bộ ngoại giao về tội nhận hối lộ; bộ công an: Nguyên Phó cục trưởng
Cục Quản Lý xuất nhập cảnh Bộ công an: Trần Văn Dự; bộ y tế: Nguyên
chuyên viên Vụ Trang thiết bị và Công trình y tế: Phạm Trung Kiên; bộ giao
thông vận tải: Nguyên Chuyên viên Vụ hợp tác quốc tế: Ngô Quang Tuấn. Đây
là những vụ án tiêu biểu nhất trong năm qua về những thành tựu đạt được về áp
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc làm sạch bộ máy nhà nước.
b, Hạn chế
- Kiểm soát quyền lực nhà nước chưa thực sự hiệu quả đối với người đứng đầu
vấn đề tha hóa quyền lực, tình trạng lạm dụng quyền lực của cán bộ và cơ quan
nhà nước vẫn còn tồn tại sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhiều lần phê

70
phán rất nghiêm khắc tình trạng lạm dụng quyền lực của một số cán bộ, đảng
viên.
Ví dụ: Vụ án Đinh La Thăng và đồng phạm phạm tội "Cố ý làm trái quy định
của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" và "Tham ô tài
sản" xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) – là vụ án kinh tế lớn được
TAND TP Hà Nội đưa ra xét xử sơ thẩm tháng 01/2018 với bị cáo Đinh La
Thăng và 21 bị cáo đồng phạm.
- Hiện tượng suy thoái đạo đức của cán bộ trong bộ máy nhà nước
Hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang diễn ra sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu nhân dân, trái với
chuẩn mực đạo đức của người cộng sản “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư”, làm cho nhân dân bất bình, lo lắng. Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang diễn ra với
mức độ nghiêm trọng, có xu hướng lan rộng ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực, nhiều đối tượng.
Ví dụ: Vụ Đại án "Vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công
gây hậuquả nghiêm trọng" và "Đưa, nhận hối lộ" xảy ra tại Tổng công ty viễn
thông MobiFone được Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an khởi tố từ ngày
10/7/2018. Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, nhiều ý kiến cho
rằng vụ án này xứng đáng đi vào "lịch sử tố tụng hình sự" Việt Nam không chỉ
bởi số tiền hối lộ ước lên tới 6,2 triệu USD "lót tay", vụ án này còn có tới 2 cựu
Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông hầu tòa.
- Phòng, chống tiêu cực trong nhà nước vẫn rất cam go quyết liệt tuy nhiên vẫn
còn một số bất cập hạn chế
Có thể nói, tham nhũng, lãng phí đã và đang xuất hiện ở nhiều cấp, nhiều
ngành, nhiều địa phương. Hoạt động thanh tra, kiểm toán phát hiện nhiều vi
phạm pháp luật trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội nhưng số vụ việc có
dấu hiệu tham nhũng được phát hiện chuyển sang cơ quan điều tra còn ít; quá
trình giải quyết một số vụ án tham nhũng của các cơ quan tiến hành tố tụng còn
chậm, nhất là các vụ án tham nhũng có nội dung phức tạp; việc xem xét, xử lý
các hành vi tham nhũng trong một số trường hợp chưa nghiêm, nặng về xử lý
hành chính, cho hưởng án treo.
2. Đề xuất giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại
Một là, đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm chính trị cho cán
bộ, đảng viên về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

71
Hai là, nêu cao tự phê bình và phê bình đối với mỗi cán bộ, đảng viên cũng như
mỗi cấp ủy, tổ chức đảng. Trên cơ sở đó, trực tiếp nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách đảng viên,
nâng cao uy tín của Đảng và củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng,
qua đó góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.
Ba là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm phòng ngừa, răn đe, trừng
trị tham nhũng, lãng phí. Để thực hiện tốt yêu cầu này, trước hết cần đẩy mạnh
việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực có
nguy cơ xảy ra tình trạng tham nhũng, lãng phí cao như: quản lý và sử dụng đất
đai, khai thác tài nguyên, khoáng sản; thu, chi ngân sách, mua sắm tài sản công,
tài chính, ngân hàng, thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, giáo dục và
đào tạo, y tế…
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội
thamgia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Muốn vậy, cần tiếp tục
thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách, thể chế, luật pháp và giám sát
cán bộ, công chức, các cơ quan, tổ chức, đơn vị để phát hiện, đấu tranh với các
hiện tượng tham nhũng, lãng phí.

Vấn đề 7+8:

Câu 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc;


Luận điểm 1: vai trò của đại đoàn kết dt (câu 6)
Luận điểm 2: lực lượng của khối đại đoàn kết dt (câu 7)
Luận điểm 3: điều kiện để xd khối đại đoàn kết dt

- Lấy lợi ích chung là điểm quy tụ, đồng thời tôn trọng các lợi ích khác biệt,
chính đáng

-Kế thừa, truyền thống yêu nước- nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc

- có lòng khoan dung, độ lượng, thương yêu con người

- có niềm tin vào nhân dân

Luận điểm 4: hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dt (câu 8)
Luận điểm 5; Phương thức xd khối đại đoàn kết dt
72
* làm tốt công tác dân vận

- mục đích của công tác dân vận

- biện pháp

+ tuyên truyền, giáo dục

+ hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân thực hiện chính sách của đảng, nhà nước

+ nắm bắt nguyện vọng của nhân dân

+ xuất phát từ trình độ dân trí và văn hóa của nhân dân

* thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng cụ thể để
tập hợp quần chúng

Câu 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế;

Luận điểm 1: Sự cần thiết phải đoàn kết quốc tế

- Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo
thành sức mạnh tổng hợp

- thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại

Luận điểm 2: Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức

a. Các lực lượng cần đoàn kết

- Phong trào cộng sản và công nhân thế giới

- phong trào gpdt thuộc địa

- các lực lượng tiến bộ, những người ưa chuộng hòa bình, dân chủ, tự do và
công lý

b. Hình thức tổ chức

- Thành lập 1 liên minh chiến đấu giữa 3 nước Đông Dương (mặt trận đoàn kết
việt- miên- lào)

- Thiết lập mặt trận trong phe dân chủ (Á- Phi)

- Thiết lập mặt trận đối với các lực lượng yêu chuộng hòa bình, công lý

Luận điểm 3: Nguyên tắc đoàn kết quốc tế


73
- Thống nhất mục tiêu, lợi ích có lý có tình

+ PTCS- CNQT: ĐLDT gắn liền với CNXH

+ Các dân tộc TG: độc lập, tự do, bình đẳng

+ Các lực lượng tiến bộ: hòa bình, công lý

- Giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường

+ tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế

+ đường lối độc lập, tự chủ

Câu 3; Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hóa

1. Khái niệm văn hóa

- Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người

- Văn hóa là đời sống tinh thần

- Văn hóa là trình độ học vấn

- Tiếp cận theo phương thức sử dụng công cụ sinh hoạt

2. Vị trí, vai trò của văn hóa

* Văn hóa là mục tiêu của cách mạng

* Văn hóa là động lực của cách mạng

* QĐ HCM về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác

3. Tính chất của văn hóa

- 1951: xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng

- 1960: xây dựng nền văn hóa có nội dung XHCN và tính chất dân tộc

4. Chức năng của văn hóa

- Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp của con người

74
- Nâng cao dân trí

- Hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ

Câu 4: Quan điểm Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính của văn hóa

1. Văn hóa giáo dục

- HCM phê phán nền giáo dục trong xh cũ

- QĐ HCM về văn hóa giáo dục

+ Mục tiêu của văn hóa giáo dục

+ Nội dung giáo dục

+ Phương châm, phương pháp giáo dục

+ Đội ngũ giáo viên

Mục tiêu của văn hoá giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa
bằng giáo dục, có nghĩa là bằng dạy và học. Đó là đào tạo những con người toàn
diện vừa có đức vừa có tài, những công dân biết làm và đủ điều kiện làm chủ để
xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó là cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, thực
hiện công nông trí thức hoá, trí thức công nông hoá, xây dựng đội ngũ trí thức
ngày càng đông đảo, trình độ ngày càng cao.

- Chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với
những bước phát triển của nước ta, phản ánh được mục tiêu không chỉ dạy và
học chữ mà phải dạy và học làm người.

- Học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết hợp với
lao động, phải luôn luôn gắn nội dung giáo dục với thực tiễn Việt Nam. Có như
vậy, văn hoá giáo dục mới có tính hướng đích đúng đắn, rõ ràng, thiết thực.

- Phải tạo môi trường giáo dục lành mạnh, -dân chủ trường phải ra trường, lớp
phải ra lớp, thầy ra thầy, trò ra trò. Đồng thời phải phối hợp cả ba khâu nhà
trường, gia đình và xã hội trong giáo dục.

- Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người: học suốt đời; phải coi trọng việc tự
học, tự đào tạo và đào tạo lại.

2. Văn hóa văn nghệ

- Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén

75
- Văn nghệ phải gắn liền với đời sống của nhân dân

- Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới

Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén
trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.

Quan điểm trên đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong việc tập hợp ngày càng
đông đảo văn nghệ sĩ vào một mặt trận chiến đấu bằng vũ khí sắc bén của mình
trên tinh thần: nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Và hướng vào việc “phò chính trừ tà”, “phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ
quốc, phụng sự nhân dân”, đặc biệt là trong việc xây dựng con người mới, xã
hội mới.

Quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã tạo nên một nền văn nghệ cách
mạng và đội ngũ các nghệ sĩ cách mạng. Nó đặt văn nghệ cách mạng của ta vào
vị trí tiên phòng chống đế quốc thực dân của thế kỷ XX.

Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân.

Thực tiễn đời sống nhân dân là lao động, chiến đấu, sinh hoạt và xây
dựng xã hội mới. Văn nghệ phản ánh và hướng thực tiễn ấy phát triển theo quy
luật của cái đẹp. Cái đẹp của cuộc sống đang vận động và biến đổi, do con
người tạo ra, đồng thời cũng tạo ra sự hoàn thiện của con người chứ không phải
là cái đẹp siêu thực, vĩnh hằng. Theo tinh thần đó, Hồ Chí Minh yêu cầu chiến
sĩ văn nghệ phải thật hòa mình với quần chúng, nguồn nhựa sống sáng tác của
nhà văn là từ nhân dân. Nhà văn quên điều đó thì nhân dân cũng quên nhà văn.

3. Văn hóa đời sống

- Đạo đức mới: Hồ Chí Minh đã phát động phong trào xây dựng đời sống mới
và viết tác phẩm Đời sống mới để hướng dẫn thực hiện trong xã hội.

Khái niệm "Đời sống mới” mà Hồ Chí Minh đưa ra bao hàm cả đạo đức mới,
lối sống mới và nếp sống mới. Đạo đức mới được đề cập ở phần tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức, ở đây chỉ trình bày về lối sống và nếp sống mới.

- Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá của nhân loại. Xây dựng
lối sống mới, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải: “sửa đổi những việc rất cần thiết, rất
phổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách
ở, cách đi lại, cách làm việc”. Đó là 5 cách phải sửa đổi không chỉ với mỗi
người mà còn cho cả tập thể, cộng đồng.
- Nếp sống mới: Nếp sống mới. Quá trình làm cho lối sống mới dần dần thành
nề nếp, thói quen, ổn định ở mỗi người, thành phong tục tập quán của tập thể

76
hay cả cộng đồng, trong khu vực hay cả nước, thường gọi là nếp sống mới hay
nếp sống văn hoá.

Hồ Chí Minh dạy chúng ta chẳng những phải biết kế thừa, mà còn phải
phát triển những thuần phong mỹ tục, đồng thời phải biết cải tạo những phong
tục tập quán cũ lạc hậu. Việc sửa đổi những thói quen, phong tục tập quán
không còn phù hợp, loại bỏ những cái xấu, xây dựng những cái tốt là công việc
rất khó khăn, phức tạp.

Câu 5:Vận dụng tư tưởng HCM về văn hóa của Đảng và Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay

Câu 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của đại đoàn kết dân tộc

- Đoàn kết có thể hiểu một cách đơn giản là sự tập hợp, kết thành một khối
thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó.

- Người định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức là trước hết
phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó
cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn
phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”

Luận điểm 1: đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có tính chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng

- chiến lược:

- chiến lược đại đoàn kết:

+ đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ đơn giản là
phương pháp tổ chức, tập hợp lực lượng, mà cao hơn là một bộ phận hữu cơ,
một tư tưởng xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng, Người khẳng
định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính
trị”.

+ đại đoàn kết không phải là một chủ trương, một chiến lược xuất phát từ
nguyện vọng, từ ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo mà là sự đúc kết
những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng tiến hành.

77
+ nhìn nhận đoàn kết dân tộc như một đòi hỏi tự thân, khách quan của quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng thì đại đoàn kết là sự nghiệp
của dân, do dân và vì dân.

=> Do đó, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Người yêu cầu không được có
bất cứ lúc nào lơ là nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại trong nhận thức mà được cụ thể
hóa trong mọi bước đi, giai đoạn phát triển của cách mạng.

- đoàn kết là vấn đề sống còn, quyết định thành bại của cách mạng:

+ Là người lãnh đạo tối cao cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí
Minh nhận thức sâu sắc đoàn kết không chỉ tạo nên sức mạnh mà là vấn đề có ý
nghĩa quyết định tới việc sống còn, thành bại, được mất trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù

+ Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã trả lời, có đoàn kết mới có thắng lợi, càng
gặp kẻ thù lớn, càng khó khăn gian khổ bao nhiêu lại cần phải đoàn kết chặt
chẽ, rộng rãi và vững chắc bấy nhiêu

+ Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người đặc biệt quan tâm tới vấn đề đoàn
kết vì đoàn kết là mấu chốt của thắng lợi và rút ra một bài học lớn đồng thời là
quy luật mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam: “Sử ta dạy cho ta bài học
này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do.
Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.

Luận điểm 2: đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng

- đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng:

+ đại đoàn kết là mục tiêu lâu dài của cm

+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước nhân nghĩa - đoàn kết là sức mạnh, là
mạch nguồn của mọi thắng lợi

78
+ đảng là lực lượng lãnh đạo cm vn nên tất yếu đại đoàn kết dt phải đc xác định
là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực, từ
đường lối, chủ trương, chính sách đến hoạt động động thực tiễn của đảng

+ Trong các buổi nói chuyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nêu: "Mục đích
của Đảng có thể bao gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ
quốc”. (Để thực hiện mục tiêu này, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng
viên phải thấm nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng
nghe quần chúng; vận động, tổ chức và giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của
cách mạng là ở nơi quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy "dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong").

+ vai trò của thực lực cách mạng

● đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là
nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng.
● cách mạng muốn thành công nếu chỉ có đường lối đúng thì chưa đủ, mà
trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục
tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn
lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực
lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc
● Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần
chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của
quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong
khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì
độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.

- đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của toàn dân tộc:

+ đại đoàn kết là yêu cầu khách quan quan của sự nghiệp khách quan

+ Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là một công việc
hết sức hệ trọng, to lớn và vô cùng khó khăn. Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong phong trào đấu tranh để tự
giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn
kết và sự hợp tác.
79
+ Thực tiễn cách mạng đã trả lời giữa đoàn kết và thành công có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau bởi phạm vi, mức độ, quy mô của thành công trước hết phụ
thuộc vào chính quy mô và mức độ của khối đại đoàn kết.

Câu 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc;

Luận điểm 1: Chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc

- chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc bao gồm toàn thể nhân dân

+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân, nhân dân có một nội hàm rất rộng. “Nhân
dân” trong tư tưởng HCM: vừa là con người VN cụ thể, vừa là tập hợp đông
đảo quần chúng nhân dân, cả hai đề là chủ thể của khối đại đoàn kết dt.

+ là tập hợp, đoàn kết được tất cả người dân vào 1 khối thống nhất ko phân biệt
dt, giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, lứa tuổi,..

+ Đoàn kết trong tư tưởng của Người là đoàn kết rộng rãi, mở rộng và tranh thủ
tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ.

+ Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi được dựa trên điểm tương đồng là: “Bất kỳ ai
mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những người
đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”.
“Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta
đoàn kết với họ”

- giải quyết hài hóa mqh giữa dân tộc và giai cấp trên lập trường giai cấp công
nhân:

+ đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối qh giữa
giai cấp => tập hợp lực lượng, ko bỏ sót 1 lực lượng nào miễn họ trung thành và
sẵn sàng bv tổ quốc

+ định hướng cho xd khối đại đoàn kết: từ cm dt dân chủ đến cm xhcn

Luận điểm 2: nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc

- nền tảng của khối đại ĐK là liên minh công- nông- trí thức:

+ đoàn kết dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công nông làm gốc
+ không một lúc nào quên đi lợi ích giai cấp song Người cũng có một tư duy
vượt trước khi khẳng định chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của cách mạng
Việt Nam.

80
- hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết trong đảng cộng sản:

+ đại đoàn kết dt trước hết phải đại đoàn kết số nhân dân, mà đại đa số nhân dân
là công nhân, nông dân và tầng lớp nhân dân lao động khác => đó là nền gốc
của đại đoàn kết

+ yếu tố “hạt nhân” là sự đoàn kết và thống nhất trong đảng vì đó là điều kiện
cho sự đoàn kết ngoài xh.
+ Cả dân tộc hay toàn dân chỉ có thể tạo nên một sức mạnh to lớn, trở thành lực
lượng vô địch khi được tổ chức thành một khối chặt chẽ, được giác ngộ sâu sắc
về mục tiêu lý tưởng, được định hướng bởi một đường lối chính trị đúng đắn,
nếu không thì dù quần chúng nhân dân có số đông tới hàng triệu người cũng chỉ
là một số đông không có sức mạnh, rời rạc.

Câu 8: Tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết
dân tộc;

Luận điểm 1: mặt trận dân tộc thống nhất

- là khối đại đoàn kết có lực lượng to lớn, có sức mạnh khi đc tập hợp, tổ chức
lại thành 1 khối vững chắc

- là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước

- tên gọi khác: Hội phản đế đồng minh (năm 1930), Mặt trận Dân chủ Đông
Dương (năm 1936), Mặt trận Tổ quốc VN (các năm 1955, 1976),...

=> bản chất: tổ chức chính trị-xh nhằm tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp,
dt, tôn giáo,... nhằm mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của tổ quốc và tự do,
hạnh phúc của nhân dân.

Luận điểm 2: nguyên tắc xây dựng và hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất

Gồm 4 nguyên tắc:

- phải đc xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức và
đặt dưới sự lãnh đạo của đảng

+ HCM xác định mục đích chung của mặt trận thống nhất là nhằm tập hợp tới
mức cao nhất lực lượng dt vào khối đại đoàn kết dt

+ đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của HCM

+ lấy liên minh công nông làm nền tảng vì họ:

81
● là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xh sống
● họ đông hơn hết, mà cũng bị bóc lột nặng nề hơn hết
● chí khí họ chắc chắn, bền bỉ hơn mọi tầng lớp khác

+ ĐCS vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo

+ Đảng với mặt trận thể hiện khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra quy luật
khách quan của sự vận động của ls để vạch đường lối và pp cm phù hợp và lãnh
đạo mặt trận đấu tranh giải phóng dt và giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dt
vs cnxh.

- phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ:

+ mọi vấn đề của mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên cùng
nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ
hình thức

- phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ
nhau tiến bộ:

+ lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt và đoàn kết là mục đích phải
nhất trí, lập trường cũng phải nhất trí

Câu 10: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, tính chất và chức năng của văn
hóa;

- Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn

1. Vị trí, vai trò của văn hóa

* Văn hóa là mục tiêu của cách mạng:

- mục tiêu của cm VN: độc lập dt và cnxh, độc lập dt gắn vs cnxh => cùng với
chính trị, kte, xh, vh nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình cm

- theo quan điểm HCM văn hóa là mục tiêu - nhìn 1 cách tổng quát là quyền
sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc

* Văn hóa là động lực của cách mạng:

- di sản HCM cho thấy động lực pt đất nước gồm: động lực vật chất và tinh
thần; động lực cộng đồng và cá nhân; nội lực và ngoại lực

- văn hóa chính trị: động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi

82
- văn hóa văn nghệ: góp phần nâng cao lòng yêu nước

- văn hóa giáo dục: diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật
pt của xh

- văn hóa đạo đức, lối sống: nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con
người. Đạo đức là gốc của cm mọi việc thành bại là do các bộ có thấm nhuần
đạo đức cm hay không.

- văn hóa pl: bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước

*Văn hóa là 1 mặt trận (giáo trình)

*Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân (giáo trình)

* QĐ HCM về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác:

+ Về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và ở trong chính trị; chỉ khi chính
trị, xã hội được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng; chính trị mở đường
cho văn hóa phát triển, để văn hóa phát triển tự do, phải làm cách mạng chính trị
trước. “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy... dưới chế độ thực dân và phong kiến,
nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển
được”(3).

+ Văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị tức là tham gia vào các hoạt
động cách mạng, tham gia kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Văn hóa
tham gia kháng chiến tức là văn hóa không đứng ngoài mà ở trong cuộc kháng
chiến thần thánh của dân tộc và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng chiến có
văn hóa.

2. Tính chất của văn hóa

- 1951: xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng

- 1960: xây dựng nền văn hóa có nội dung XHCN và tính chất dân tộc

3. Chức năng của văn hóa

- Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp của con người

- Nâng cao dân trí

- Hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ

83
Câu 9: Vận dụng đại đoàn kết dt và đại đoàn kết quốc tế vào giai đoạn hiện
nay

- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong công cuộc đổi mới hiện nay, đại đoàn kết
phải được củng cố và phát triển nhằm rửa được cái nhục đói nghèo, lạc hậu, cái
nhục tụt hậu xa hơn về kinh tế, khoa học, công nghệ so với các nước trong khu
vực và trên thế giới, để nước ta có thể tự tin sánh vai với các cường quốc năm
châu; khơi dậy tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, quyết tâm chân hưng đất nước,
không bỏ lỡ thời cơ, phát huy tin thần tự lực tự cường, đẩy lùi mọi nguy cơ,
vượt qua mọi thách thức; phát huy được tính năng động của mỗi người, của cả
cộng đồng, khắc phục tác động của nền kinh tế thị trường không làm phương
hại nền văn hóa truyền thống dân tộc.

- Trong điều kiện hiện nay, đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi
phải xây dựng được một Đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững mạnh, cán
bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân
dân; một chế độ do dân là chủ và làm chủ; một Nhà nước của dân, do dân, vì
dân; một hệ thống chính trị có hiệu quả và hiệu lực thực tế.

- Trong khuôn khổ luật pháp, tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp, xã hội, hoàn
thiện chính sác dân tộc, tôn giáo, chính sách đối với tri thức, đối với cộng đồng
người Việt ở nước ngoài tập hợp đến mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực
vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn với phát
triển kinh tế trí thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.

- Đảng và Nhà nước ta phải chủ động xác định rõ các bước hội nhập quốc tế
trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, thực hiện chính sách mở cửa, giao lưu, hợp
tác, đa phương hóa, đa dạng hóa, củng cố khối đoàn kết với mọi lực lượng mục
tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và phát triển.

- Đại đoàn kết dân tộc nhằm tạo lực và thế để vươn ra bên ngoài, ngược lại mở
cửa, hội nhập quốc tế nhằm làm cho lực và thế trong nước ngày càng tăng lên,
tức là hội nhập quốc tế nhưng không hòa tan những giá trị văn hóa truyền thống,
quý báu, tốt đẹp của dân tộc. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn
kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại sẽ là ngọn nguồn
tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

VẤN ĐỀ 9+10:

Câu 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, bản chất của đạo đức:
a, Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
+ Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con

84
người, như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
+ Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là công việc vẻ vang
nhưng cũng rất khó khăn, nặng nề, “sức có mạnh mới gánh được nặng và đi
được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn
thành được nhiệm cụ cách mạng vẻ vang”. Người cách mạng muốn cho dân tin,
dân yêu thì phải có tư cách đạo đức đã.
+ Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người luôn trăn trở với nguy cơ thoái hoá
biến chất của cán bộ, đảng viên. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là
đạo đức, là văn minh”.
+ Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực
tế làm thước đo. Người luôn đặt đức - tài trong mối quan hệ gắn bó mật thiết.
Đức là gốc nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp, năng lực và phẩm
chất phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia.
Người phân tích: Người nào có đức mà không có tài thì cũng chẳng khác gì ông
bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng cũng chẳng có ích gì. Ngược lại,
nếu có tài mà không có đức thì cũng chẳng khác gì một anh làm kinh doanh
giỏi, đem lại nhiều lãi, nhưng lãng phí, tham ô, ăn cắp của công, thì như vậy chỉ
có hại cho dân, cho nước, còn sự nghiệp của bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ.
Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng
cao năng lực, tài năng để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.“Có tài mà không
có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”
“Có trí tuệ mà không có đạo lý, phải coi như con cọp có thêm lưỡi gươm” -
Marden
“Có đạo đức mà không có tài năng như áo giáp không gươm, chỉ có thể bảo vệ
được mình mà không che chở cho bạn bè được”- Colton
b, Đạo đức tạo nên sức hấp dẫn của Chủ nghĩa xã hội

85
+ Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng
cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước
hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản
luôn sống và chiến đấu cho lý tưởng đó của loài người thành hiện thực.
+ Bác nói: “Đối với phương Đông một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100
bài diễn văn tuyên truyền”. Và cuộc đời của Người chính là một tấm gương đạo
đức sáng ngời, chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân Việt
Nam mà còn cả với nhân dân thế giới. Tấm gương của Người trở thành nguồn
cổ vũ, động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ
đoàn kết đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Câu 2: Quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được nêu ra là
phù hợp với từng đối tượng. Hơn nữa, Người nhấn mạnh phẩm chất này hay
phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng
thời kỳ nhất định. Có thể khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất
của con người Việt Nam trong thời đại mới. Nói cách khác, đó là những chuẩn
mực chung nhất của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam mà mọi
người cần được bồi dưỡng, giáo dục.
1. Trung với nước, hiếu với dân
Về quan hệ đạo đức thì đây là mối quan hệ của mỗi người với đất nước mình,
với nhân dân, dân tộc mình, là mối quan hệ lớn nhất, về phẩm chất đạo đức thì
trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung với nước là sự trung thành, yêu quý, báo ân, báo đáp của mỗi một người
đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây được hiểu ở ba cấp độ:
- Là đất và nước, lãnh thổ, tài nguyên, môi trường... giới hạn bởi biên giới
quốc gia.

86
- Là quốc vong, quốc túy, quốc hồn, tựu trung trong quốc thể, hình thành từ
những quan hệ đan xen giữa chính trị, kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ, tâm lý và
truyền thống lịch sử: đó là bản sắc dân tộc Việt Nam, văn hóa Việt Nam.
- Là bộ máy công quyền, hệ thống quyền lực thực thi quyền lực chính trị nhà
nước, thực thi sức mạnh của nhân dân.
Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không những kế thừa
giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua
những hạn chế của truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự
nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ
nhân của đất nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “bao nhiêu quyền hạn đều của
dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân’’ Đảng và Chính phủ là “đầy tớ nhân dân” chứ không phải “quan nhân
dân để đè đầu, cưỡi cổ nhân dân”, thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn
đảo lộn so với trước. Có thể nói rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói về dân như vậy.
Nhưng vấn đề không phải chỉ là nói mà phải làm như thế nào, có làm hay
không, điều này càng làm cho tư tương đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía
trước.
-Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
+Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích
của Đảng, của Tổ Quốc, của CM lên trên hết, trước hết
+Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu các mạng.
+Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
-Nội dung của Hiếu với dân là:
+ Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân
+ Tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức,
vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước
+ Chăm lo cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

87
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của Người vừa là lời
kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt
Nam. không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt mà còn lâu dài
về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, như Hồ Chí Minh đã nói. "điều chủ chốt nhất” của
đạo đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng",
là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là "trung với nước, hiếu với
dân” hơn nữa phải là “tận trung, tận hiếu thì mới xứng đáng vừa là người lãnh
đạo vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất
định sẽ tạo ra sức mạnh to lớn cho cách mạng.
2. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa
Hồ Chí Minh đã xác định yêu thương con người là một trong những đạo đức
cao đẹp nhất. Bản thân Hồ Chí Minh đã dành tình yêu thương trọn vẹn của mình
cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột cho đồng
chí, đồng bào.
Trên phương diện đạo đức, yêu thương con người đòi hỏi mỗi người phải luôn
luôn chặt chẽ, nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác, phải
có thái độ tôn trọng con người, biết cách nâng con người lên chứ không phải hạ
thấp, vùi dập con người
Yêu thương con người, theo Hồ Chí Minh, còn được thể hiện qua việc đối xử,
có thái độ khoan dung, độ lượng với những người có sai lầm, khuyết điểm, kể
cả với những người lầm đường lạc lối. đã hối cải, với cả những kẻ thù đã bị
thương, bị bắt hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình yêu thương đó đã đánh thức
những gì tốt đẹp mà Hồ Chí Minh tin trong mỗi ngưòi đều có, tuy nhiều ít có
khác nhau.
Trong Di chúc Hồ Chí Minh căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau. Đây là tình thương yêu trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách

88
chân thành, nghiêm túc giữa những người cùng lý tưởng, phấn đấu cho một sự
nghiệp chung. Điều này hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hoà vi quý, bao che sai
lầm, khuyết điểm cho nhau, và càng xa lạ với thái độ, yêu nên tốt ghét nên xấu,
bè cánh có thể đưa đến những tổn thất lớn cho cách mạng, cho Đảng.
3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư gắn liền và là một biểu hiện cụ thể của
phẩm chất trung với nước hiếu với dân. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
lấy chính bản thân mỗi người làm đối tượng điều chỉnh, nó diễn ra hằng ngày,
hằng giờ. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm. liêm, chính là bốn đức mà mỗi người
phải có, nếu thiếu một đức thì không thành người, như trời phải có bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông; đất phải có bốn phương đông, tây, nam, bắc. Và Người giải
thích:
Cần là siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả. có hiệu suất
cao với tinh thần tự lực cánh sinh.
Kiệm là tiết kiệm (thời gian, công sức. của cải...) của nước, của dân. "không xa
xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”.
Liêm là trong sạch, luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sạch, không
tham lam" tiền của, địa vị, danh tiếng.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn.
Hồ Chí Minh không chỉ giải thích nội dung của cần, kiệm, liêm, chính, mà
Người còn chỉ rõ mối quan hệ giữa bốn đức đó: “Cần. kiệm, liêm là gốc rễ của
chính... Mọi người phải cần, kiệm, liêm nhưng còn phải chính thì mới hoàn
toàn".
Các đức tính của mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau. Cần mà không
kiệm giống như một chiếc thùng k đáy. Kiệm mà k cần thì lấy gì mà kiệm. Cần,
kiệm, liên là gốc rễ của chính. Nhưng 1 cây cần có gốc rễ, lại cần có cành lá,
hoa, quả mới là hoàn chỉnh.
Cần, kiệm,liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người, lại càng cần thiết với
cán bộ, đảng viên

89
Theo Hồ Chí Minh cần, kiệm, liêm, chính, là thước đo văn minh, tiến bộ của
dân tộc. Người viết: “một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu
về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc vãn minh, tiến bộ". Đồng thời Hồ
Chí Minh cũng coi cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của “đời sống mới”.
-Chí công vô tư:
+ Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì
đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phái kiên quyết quyets sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Một người cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại đã chí
công vô tư thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và còn có
nhiều tính tốt khác.
Bồi dưỡng phẩm chất cần kiệm liêm chính, chí công vô tư sẽ làm cho con người
vững vàng trước mọi thử thách: Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục. Nhưng đây là vấn đề hết sức
phức tạp, nói dễ làm khó, và trong cuộc sống vẫn còn hay vi phạm. Bởi vì nó
đụng chạm đến nhiều mặt lợi ích cá nhân mà tập trung nhất là chức quyền, danh
lợi. Nếu không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân, thì bất cứ ai cũng có thể sa
vào những hành vi vô đạo đức.
4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh
đề “Bốn phương vô sản đều là anh em”. Đó là tinh thần đoàn kết với các dân tộc
bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun
đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân và bằng sự nghiệp cách
mang của cả dân tộc. Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam vỏi tất cả
những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước,
đương nhiên phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong
sáng. Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không

90
trong sáng thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sô vanh, biệt lập, kỳ thị
chủng tộc hoặc chủ nghĩa bành chướng bá quyền. Tất cả những khuynh hướng
ấy có thể phá vỡ một quốc gia dân tộc, hay một liên bang quốc gia đa dân tộc,
phá vỡ tình đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh chung, thậm chí có thể đưa
đến tình trạng đối đầu, đối địch gây chiến tranh sắc tộc, cục bộ.

Câu 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
a) Nói đi đôi với làm, phải nêu gương đạo đức:
Nói đi đôi với làm Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong
xây dựng một nền đạo đức. Điều này được Hồ Chí Minh khẳng định từ giữa
những năm 20 của thế kỷ XX trong tác phẩm Đường Cách Mệnh Bản thân Hồ
Chí Minh là tấm gương trong sáng lời nói đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với
làm là bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh – Đạo đức cách mạng. Nói
đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói
một đàng làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm. Ngay sau khi thắng lợi của
Cách Mạng Tháng Tám. Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói đạo
đức giả ở một số cán bộ, "vác mặt làm quan cách mạng", nói mà không làm.
Sau này, Người đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch căn bệnh quan liêu, coi
thường quần chúng của một số cán bộ, đảng viên "miệng thì nói dân chủ, nhưng
làm việc thì họ theo lối "quan" chủ. Miệng thì nói "phụng sự quần chúng".
nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương
châm và chính sách của Đảng và Chính phủ", làm tổn hại uy tín của Đảng và
Chính phủ trước nhân dân.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông
Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh đã có
lần chỉ rõ: "Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm và đối
với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền". Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng

91
Việt Nam không chỉ bằnng lý luận cách mạng tiền phong, mà còn bằng chính
tấm gương đạo đức cao cả của mình.
Hồ Chí Minh cho rằng, hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng
một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng: "đạo làm
gương". Người nói: "Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn
nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức
cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới". Để làm được như thế
phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt rất gần gũi
trong đời thường, trong các lĩnh vực lao động sản xuất, trong chiến đấu, trong
học tập... bởi theo Người, từng giọt nước chảy về một hướng mới thành suối,
thành sông, thành biển cả. Không nhận thức được điều này là "chỉ thấy ngọn mà
quên mất gốc". Người nói: "Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có
Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”
b) Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi:
- tại sao làm CM là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống?
+ Bên cạnh việc xây dựng những phẩm chất tốt đẹp thì HCM chỉ rõ: “ Mỗi con
người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tố ở
trong mỗi con người này nở hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái
độ của người cách mạng.
+ Mặt khác, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ, cuộc chiến đấu khổng lồ. Trong cuộc chiến đấu đó, có nhiều kẻ địch nguy
hiểm.
=> Vì vậy mà xây phải đi đôi với chống
- Theo HCM, chống và xây có mối quan hệ biện chứng, Chống và xử lý nghiêm
là nhằm xây, đi liền với xây và muốn xây thì phải chống, Mục đích cuối cùng là
xây dựng con người có đạo đức và nền đạo đức mới Việt Nam, vì vậy phải xác
định đây là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài:
- Xây dựng những phầm chất đạo đức mới có nhiều cách làm, cụ thể:

92
giáo dục: nhà trường, gia đình, xã hội, tấm gương; hoạt động thực tiễn: cá nhân,
tập thể, xã hội; khơi dậy sự tự ý thức của mỗi người;
- Chống cái xấu, cái vô đạo đức có nhiều biện pháp”
Bằng tự phê bình và phê bình, giáo dục, thuyết phục, kỷ luật của Đảng hay của
đoàn thể, bằng pháp luật
- Sau khi giành đc chính quyền, HCM chỉ ra những tệ nạn, suy thoái trong cán
bộ, Người cho rằng có 3 loại chính là tham ô, lãng phí, quan liêu và nguồn gốc
là chủ nghĩa cá nhân. Người coi đây là “ những kẻ thù nguy hiểm”; “ giặc trong
lòng”, “ giặc nội xâm”, “đồng minh của thực dân phong kiến”, “là tội ác”. Vì
vậy để xây dựng đạo đức mới, chống đạo đức giả tao cần phải tạo thành phong
trào quần chúng rộng rãi cho toàn dân, toàn ngành..
c) Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời:
- HCM chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như rửa
mặt hàng ngày, phải “chính tâm,tu thân”, phải kiên trì, bền bỉ suốt đời, không
người nào có thể chủ quan, tự mãn.
- Theo người, là người ai cũng có chỗ hay chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng có
thiện ác trong bản thân, vấn đề là dám nhìn thẳng vào bản thân mình, không tự
lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy rõ cái
dỡ, cái xấu, cái ác đề khắc phục( tránh tình trạng không biết mình là ai, ở đâu,
hoặc biết mà không sửa)
- Để việc tu dưỡng đạo đức mới có kết quả trong mọi môi trường, mọi mối quan
hệ, mọi địa bàn, mọi hoàn cảnh thì việc tu dưỡng đạo đức phải gắn liền với hoạt
động thực tieenxm trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm và trách
nhiệm của mỗi người.
=> có rèn luyện như vậy, con người mới có những phầm chất đạo đức cao đẹp
và những phẩm chất ấy càng bồi đắp, nâng cao.

Câu 4: Nội dung sinh viên học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM
1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

93
- Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một
lãnh tụ cách mạng vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một
người chân chính, bình thường, gần gũi, ai cũng có thể học theo, để làm theo, để
trở thành một người cách mạng, người công dân tốt hơn trong xã hội. Điều đó
được thể hiện trong các điểm sau:
+ Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
+ Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực, tinh thần to lớn,
vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích.
+ Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của
nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân
+ Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người nhân ái, vị tha, khoan
dung, nhân hậu, hết mực vì con người.
+ Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, đời
riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.
- Thanh niên, sinh viên là những người chủ tương lai của nước nhà, là cái cầu
nối giữa các thế hệ - “người tiếp sức cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là
người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”. Muốn đảm nhận được tốt
sứ mệnh cao cả là làm sao cho Việt Nam văn minh, hùng mạnh, sánh vai với
các cường quốc trên khắp năm châu, thì phải không ngừng tu đức, luyện tài.
Đạo đức và tài năng phải luôn gắn bó với nhau, trong đó đức là gốc của con
người. Người khẳng định: “Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có
đức, ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì
chẳng những không làm gì có ích cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu
có đức mà không có tài, ví như ông Bụt, không làm hại gì nhưng cũng không lợi
gì cho loài người”.
+ Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân
+ Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh: Yêu Tổ Quốc;
Yêu nhân dân; Yêu CNXH; Yêu lao đông; Yêu khoa học và kỷ luâ ̣ t.̣

94
2. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
- Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiên nay ̣
Trong nền kinh tế thị trường, phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức giữ được
lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh; cần cù , sáng tạo trong học tâp; sống
có bản lĩnh, có chí lập thân, ̣lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với
những khóa khăn, thách thức, dám chịu trách nhiêm, không ỷ lại, chây lười;
luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc, phấn đấu cho sự nghiêp dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. ̣
Bên cạnh đó, đã có môt bô ̣ phâ ̣ n sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất
phương hướng phấn đấu, không có chí lâp thân, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu
trách nhiê ̣ m, thờ ơ với gia đình và xã hôi, sa vào nghiện ngập, hút xách, thiếu
trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, ̣chạy thầy, chạy trường, mua bằng
cấp...
- Học tâp và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ̣
Môt là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiê ̣ p giải
phóng dân tôc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Phải luôn luôn nâng
cao chí khí cách mạng, yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân gắn liền với yêu chủ nghĩa
xã hội. Xây dựng tinh thần đoàn kết, tình nguyện, tương thân tương ái vì cộng
đồng. Chống lối sống bàng quan, vị kỷ cá nhân, thiếu trách nhiệm đối với Tổ
Quốc, với nhân dân, với cộng đồng.
Hai là, học cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp
sống giản ̣ dị và đức khiêm tốn phi thường. Xây dựng ý thức cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, thật thà, ngay thẳng, khiêm tốn, giản dị, trong sạch, chất
phác, tiêu dùng đúng khả năng, thực hiện khẩu hiệu: “cần kiệm là nếp sống đẹp
của tuổi trẻ”. Thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh để giúp nhau
cùng tiến bộ mãi. Chống tham ô, lãng phí, xa hoa, tính phô trương trong sinh
hoạt, lao động, chống chủ nghĩa cá nhân.
Ba là, đức tin tuyêt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết
lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hâu

95
với con người. Xây dựng ý thức công dân, ý thức cộng đồng, thói quen ứng xử
văn hoá, tôn trọng và bảo vệ lẽ phải, trung thực, sáng tạo, tích cực tham gia xây
dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Chống tự do, tuỳ tiện, các biểu hiện coi thường pháp luật cũng như các hành vi
thiếu văn hoá trong đời sống, sự giả dối và nạn giáo điều, thiếu sáng tạo. Chống
tính ích kỷ, vụ lợi, lối sống tạm thời.
Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua
mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuôc sống. Xây dựng tinh thần
hăng hái, kiên quyết, không sợ khó, không sợ khổ, siêng học, siêng làm, quyết
hoàn thành bằng được kế hoạch đã đặt ra theo tinh thần “chủ trương một, biện
pháp mười, quyết tâm hai mươi”. Chống chây lười, thụ động, ỷ lại, thiếu sáng
tạo, vô kỷ luật trong học tập, lao động, ngại khó, ngại khổ, thiếu ý chí tiến thủ;
chống vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động.
Xây dựng thái độ học tập đúng đắn, nâng cao trình độ chính trị, khoa học kỹ
thuật và quân sự, nghiên cứu khoa học thực chất, làm việc gì cũng phải học:
Học mọi lúc, mọi nơi, học suốt đời; học ở trường, học sách vở, học lẫn nhau,
học nhân dân, học từ thực tiễn cuộc sống, trong việc làm hàng ngày; có thái độ
cầu thị. Có ý thức thi đua và thực hành dân chủ trong học tập. Bồi đắp bản lĩnh
chính trị, ý chí tự lực, tự cường, tự tin trong hội nhập kinh tế quốc tế. Chống
tiêu cực, bệnh thành tích trong học tập, bệnh thi đưa hình thức, hư danh, giả dối,
sao chép, học thuộc lòng, sự tụt hậu về trình độ, kiến thức khoa học và nhận
thức xã hội; những biểu hiện tự ti, mặc cảm trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chống kiêu căng, tự mãn trong học tập.
Năm là, học những nguyên tắc tu dưỡng đạo đức mới của Hồ Chí Minh Tu
dưỡng bền bỉ suốt đời, học đi đôi với lao động, lý luận đi đôi với thực hành, cần
cù đi đôi với tiết kiệm. Chống đầu voi đuôi chuột, thiếu thực tế, bệnh anh hùng,
tự cao tự đại, chuộng hình thức, ít xem xét kết quả. Nêu gương đạo đức, nói đi
đôi với làm. Chống nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói một đường
làm một nẻo.

96
Câu 5: Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người:
1. Con người là một chỉnh thể
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác- Lênin,
được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tưởng Hồ Chí Minh là độc lập
dân tộc phải gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. trong đó,
vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu, xuyên suốt toàn bộ nội
dung, tư tưởng của Người. Tư tưởng ấy được dựa trên thế giới quan duy vật triệt
để của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Con người luôn hướng đến cái Chân - Thiện - Mỹ, mặc dù “có thế này, thế
khác”. Người nêu một định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia
đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là
cả loài người”. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con
người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng
như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu
cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho
con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu
như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì
tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được.
Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong
mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn
thế giới. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm
trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến
một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam. Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận,
xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong các mối quan hệ xã
hội; đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng; mấy mươi triệu
người viêt nam có người thế này, thế khác, nhưng đều cùng là nòi giống lạc
hồng. những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống
trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa

97
thực dân; và mở rộng hơn nữa là những "người nô lệ mất nước" và "người cùng
khổ".
Lôgíc phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc
phát triển tư tưởng ấy, khái niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với
khái niệm "giai cấp vô sản cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách
mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân
dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc
rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp
bức.
2. Con người cụ thể, lịch sử
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một vấn đề có tính khái
quát hóa và trừu tượng hóa mà là một vấn đề cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam,
“Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn,
không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên,
quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm
cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng
chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết
chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng
đánh tan quân giặc cướp nước” và cũng có thể suy rộng ra là những “nô lệ mất
nước” và “người cùng khổ”, “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời
xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp, số
phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người
da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ
được bình đẳng với nam giới?"
Niềm tin của Bác hướng vào nhân dân. Cuộc chiến đấu chống áp bức sẽ không
đi đến thắng lợi, nếu không "dựa vào lực lượng của toàn dân". Tấm lòng Hồ Chí
Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con người, tin tưởng con

98
người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình
và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương yêu nhân dân, thương
yêu nhân loại" là "không bao giờ thay đổi". Quan điểm tin vào dân, đồng thời
lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của Hồ Chí Minh có nguồn
gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn đời của
người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái
quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của Người là
tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí,
quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do,
nhân phẩm và giá trị làm người cho con người.
Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ nghĩa quốc
tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của
Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong
mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc
tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ
Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to
lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự
nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ
sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.
Có thể nói Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người luôn gắn liền với lịch sử, ý thức
nhân dân gắn liền với độc lập dân tộc. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người
cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân,
lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Và
đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh,
một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương
Đông.
3. Bản chất xã hội của con người

99
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động, sản
xuất ấy con người dần nhận thức được những hiện tượng, quy luật của tự nhiên,
của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau…, xác lập các mối quan hệ giữa
người với người.
Con người là sản phẩm của xã hội, trong quan niệm của Hồ Chí Minh con người
là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan
hệ: anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào , loài người…
Nói tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất
của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con
người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con
người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ
Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân
dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước,
Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ
chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người
thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở
thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính
sự nghiệp cách mạng ấy.

Câu 6: Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của con người (Con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng):
Con người là mục tiêu của cách mạng
Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khi đất
nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc,
giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn,
mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn. Bởi vì, Người cho

100
rằng, nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
không có nghĩa lý gì; vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn,
làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Trong
Di chúc, Người viết: "Đầu tiên là công việc đối với con người". Xuất phát từ
truyền thống yêu nước, thương dân bị nô lệ, Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu
nước, cứu dân. Suốt cuộc đời của người là vì dân, vì nước. "Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc là nước được độc lập, tự do, nhân dân ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".
Ví dụ: Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ
ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của Nhà
nước là: "1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ
ở. 4. Làm cho dân có học hành". Người còn nói "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu
để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc
lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân
chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ." Do
vậy, khi có chính quyền rồi, Người luôn nhắc nhở phải xây dựng bộ máy trong
sạch, đấu tranh với những biểu hiện của thói quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu
nhân dân; phải dựa vào nhân dân, khơi dậy sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân
để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng đời sống mới trong nhân dân.
Con người là động lực của cách mạng
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước,
toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này
có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người
được thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và
bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và
văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam... Như vậy, con người phải được
đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát

101
triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược
giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp. Người khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội
chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở đây trên con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì "trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa". Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây
dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xã hội chủ
nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội.
Công việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và
thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người. Mỗi
bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa "xây dựng chủ nghĩa xã hội" và
"con người xã hội chủ nghĩa". Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người xã hội
chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt
đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là hình thành
những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức cách
mạng; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng
nhân ái, vị tha, độ lượng.

Câu 7: Quan điểm của Hồ Chí Minh về Xây dựng con người (Quan điểm
của Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người)
a. Ý nghĩa của việc xây dựng con người
- Cấp bách và lâu dài

Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đề cao, nêu bật vai trò của giáo dục, đào tạo, xây
dựng con người mới XÃ HỘI CHỦ NGHĨA và coi đó là một chiến lược lâu dài.
Với câu nói nổi tiếng: “Vì lợi ích mười năm trồng cây Vì lợi ích trăm năm trồng
người”.
Hồ Chí Minh luôn đặt lòng tin vào khả năng của giáo dục. Trong tư tưởng của
Hồ Chí Minh, chiến lược “trồng người” là một vấn đề tối quan trọng, được xếp

102
vào một trong sáu nhiệm vụ cấp bách nhất của đất nước thời bấy giờ. Không chỉ
thế, giáo dục “trồng người” còn là việc thực hiện di chỉ của cha ông ta, các thế
hệ đi trước về “khai trí” được trở thành hiện thực. Chính vì những lẽ đó nên từ
khi có chính quyền, người đã chủ động thực hiện nhiệm vụ khai trí cho dân dù
cho đất nước có đang gặp rất nhiều khó khăn từ những cuộc chiến khốc liệt. Hồ
Chí Minh đã từng nói rằng “giặc dốt” là vô cùng nguy hiểm, được xếp trên cả
giặc ngoại xâm
Vì vậy nên chiến dịch “chống giặc dốt” đã được phát động một cách
mạnh mẽ và được toàn dân hưởng ứng, đó là bước khởi đầu và cũng là nhiệm
vụ thường xuyên của sự nghiệp mở mang dân trí của đảng ta. Người chỉ rõ:
"Dốt nát cũng là kẻ địch... Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến
lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù
quáng... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Từ đó sự nghiệp giáo dục là của
toàn thể dân tộc và đối tượng cũng là toàn thể dân tộc. Người đã cần cù mở từng
lớp nhỏ, chắt chiu rèn luyện từng con người với cả một tấm lòng của sự nhiệt
tình, kiên nhẫn và tràn ngập yêu thương. Ngoài ra người còn luôn luôn lắng
nghe tiếp thu và học hỏi nhiều ý kiến của dân, Người viết “Dân rất thông minh,
quần chúng kinh nghiệm, sáng kiến rất nhiều, chỉ cần mình có biết học hay biết
lợi dụng mà thôi". Người căn dặn: “Phải học, học ở nhà trường, học trong sách
vở, học ở quần chúng nhân dân, không học quần chúng là một sai lầm lớn”. Hồ
Chí Minh luôn đề cao việc giáo dục trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây
dựng CNXH. “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Người luôn đặt niềm tin tuyệt đối vào khả năng giáo dục nước nhà.
Người chỉ rõ Tiền đồ của dân tộc chúng ta sẽ ra sao, một phần quan trọng lŕ do
sự nghiệp giáo dục trực tiếp quyết định: “Ngủ thì ai cũng như lương thiện Tỉnh
dậy phân ra kẻ dữ hiền Hiền, dữ đâu phải là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà
nên". Đặc biệt Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào các thế hệ thanh thiếu niên và
đặt rất nhiều hy vọng vào những người chủ tương lại của đất nước, như người

103
từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được.
“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng.
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn luyện
con người. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản, lâu dài, nhưng
cũng rất cấp bách. Nó liên quan đến nhiệm vụ “trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa” và “trồng người”. Tất cả những điều này phản ánh tư
tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người; tất cả vì
con người, do con người.
Con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục đào tạo theo nghĩa
hẹp. Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, nhằm phát
huy cao nhất mọi tiềm năng của con người. Chiến lược “trồng người” vừa mang
tính thường xuyên, cấp bách, vừa mang tính cơ bản lâu dài, phải làm công phu,
tỉ mỉ như người làm vườn vậy. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa”.
- Muốn xây dựng CNXH phải có con người CNXH

Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra.
Nhưng trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trước hết phải cần những con
người xã hội chủ nghĩa. Điều này có nghĩa ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây
dựng con người mới, con người xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội.
Công việc này là một quá trình lâu dài, không ngừng hoàn thiện, nâng cao và
thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình và bản thân của mỗi người.
Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con
người xã hội chủ nghĩa”. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội

104
chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt
đẹp của con người truyền thống. Hai là, hình thành những phẩm chất mới như:
có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh
để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.
Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, những con người
xã hội chủ nghĩa lại là chủ thể của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Không phải chờ cho kinh tế, văn hoá phát triển cao rồi mới xây dựng con người
- xã hội chủ nghĩa, cũng không phải xây dựng xong con người - xã hội chủ
nghĩa rồi mới xây dựng xã hội - xã hội chủ nghĩa.
Việc xây dựng con người phải đặt ra từ đầu và quan tâm suốt quá trình.
“Trước hết, cần có những con người xã hội chủ nghĩa”, có nghĩa là không phải
tất cả mọi người có thể trở thành người xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ, thật hoàn
chỉnh ngay một lúc, mà trước hết cần có những con người tiên tiến, có được
những nét tiêu biểu để có thể làm gương và lôi cuốn người khác và toàn xã hội,
xây dựng con người mới; đồng thời, họ cũng không ngừng hoàn thiện, nâng
cao. Xây dựng con người mới là đào tạo, xây dựng con người phát triển toàn
diện: Đức, Trí, Thể, Mỹ.
- Lợi ích của giáo dục:

+ Nâng cao dân trí


+ Đào tạo nhân lực
+ Bồi dưỡng nhân tài
b. Nội dung xây dựng con người

Tiêu chuẩn của con người xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh: Có tư tưởng xã
hội chủ nghĩa: có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể, có tư tưởng mình vì mọi
người, mọi người vì mình, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm, quyết chí vươn lên, có tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội.Có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: trung với nước,
hiếu với dân, yêu thương con người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, có

105
tinh thần quốc tế trong sáng, lối sống lành mạnh. Có tác phong xã hội chủ
nghĩa: làm việc có kế hoạch, biện pháp, có quyết tâm, tổ chức, kỷ luật, có năng
suất, chất lượng, hiệu quả cao, lao động hăng say, không sợ khó, sợ khổ, làm
việc vì lợi ích của xã hội, tập thể và của bản thân. Có năng lực làm chủ: làm chủ
bản thân, gia đình và công việc mình đảm nhiệm, đủ sức khoẻ và tư cách tham
gia làm chủ nhà nước và xã hội, thực hiện tốt quyền công dân; không ngừng
nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học công nghệ, chuyên môn nghiệp
vụ để làm chủ. Ngoài những tiêu chuẩn chung trên, Hồ Chí Minh còn nêu
những tiêu chuẩn cụ thể cho từng giới, từng ngành.
Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có
nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng nhất. Bởi vì,
giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên.
Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên. Nội dung và phương
pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và
tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài
thống nhất với nhau, trong đó đức là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển.
Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm... có như vậy
mới có thể “Học để làm người”, “việc học không bao giờ cùng, còn sống còn
phải học”. Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, phát triển quan điểm của Quản
Trọng: “Thập niên chi kế mạc nhi thụ mộc, bách niên chi kế mạc nhi thụ nhân”
mà khẳng định: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm phải
trồng người”.
“Trồng người”, xây dựng con người mới phải được thường xuyên đẩy mạnh
trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được kết quả cụ thể qua
từng chặng đường của thời kỳ quá độ. Bởi vì, nếu sao nhãng việc trồng người,
nhất định sẽ dẫn đến những bất cập, hơn nữa còn là những suy thoái về con
người có thể gây những hậu quả khôn lường. R.Tagore nói: “một ngày mà quên
giáo hoá, ta lùi gần về thú tính hơn”. “Trồng người”, xây dựng con người mới

106
phải được đặt ra trong suốt cuộc đời mỗi người. Đây là quyền lợi, cũng là trách
nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người với sự nghiệp xây dựng đất nước. Đồng thời
nó cũng thể hiện sự trưởng thành, vươn lên của mỗi cá nhân. Những người có
trách nhiệm trồng người cũng phải được vun trồng bởi quần chúng nhân dân,
bởi tập thể những người đi trồng và được trồng, bởi cuộc sống thực tiễn và sự tự
vun trồng trong suốt cuộc đời của chính họ.
c. Phương pháp xây dựng con người: Giáo trình 247

Câu 8: tư tưởng hồ chí minh với chiến lược xây dựng con người của đảng
hiện nay
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh đã xây dựng những thế hệ con
người mới vừa có đức vừa có tài, làm nên những chiến thắng thần kì trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc và con người, cả nước đã bước vào thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và giành được những thắng lợi rực rỡ. Bối cảnh quốc tế hiện
nay trải qua nhiều biến đổi nhanh chóng và sâu sắc, sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học công nghệ, mở ra một thời đại kinh tế tri thức và xã hội thông tin toàn
cầu. Vấn đề con người và xây dựng chiến lược con người, phát triển con người,
phát triển nguồn nhân lực, phát huy nhân tố con người trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội đã trở thành vấn đề bức thiết đối với mỗi quốc gia, dân tộc.
Sự phát triển của con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong
việc xếp hạng các nước trên thế giới. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta đã nhấn mạnh việc chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn
đấu cao nhất của chế độ ta, phấn đấu làm cho nhân dân có cuộc sống no đủ, có
đời sống vật chất tinh thần ngày càng nâng cao, quan hệ xã hội lành mạnh, lối
sống văn minh. Xét đến cùng đó là tư tưởng phấn đấu cho độc lập tự do, hạnh
phúc của con người, của dân tộc, của nhân loại.
Ở nước ta trong cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay, chiến lược con người
được đặt ra như 1 đòi hỏi tất yếu và cấp bách của sự phát triển đất nước và là
nguồn lực quyết định để đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Tư tưởng về chiến lược

107
con người của Đảng ta đặt trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin trong đó
tư tưởng C.Mác luôn luôn là nền tảng. Ở Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Do vậy, sự nghiệp
cách mạng và tiến trình lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta in đậm dấu
ấn tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó có tư tưởng về con người. Thực tiễn của quá
trình cách mạng Việt Nam càng chứng tỏ rằng trong những thời điểm lịch sử
hiểm nghèo, trong những tình thế hết sức khó khăn, con người Việt Nam đều rất
sáng tạo và năng động luôn tìm ra những lối thoát, những đường hướng đi lên
làm kinh ngạc bạn bè quốc tế. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: thời kì nào,
cách mạng nào nếu biết phát huy mạnh mẽ yếu tố con người, tạo điều kiện cho
hoạt động sáng tạo của con người thì con người việt nam luôn biết “chuyển bại
thành thắng”, chuyển từ tình thế khó khăn thành lợi thế phát triển mới trong đó
con người là động lực trung tâm. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tiềm năng
sáng tạo của con người Việt Nam đã và đang được phát huy mạnh mẽ. Tuy
nhiên có thể nhận thấy tiềm năng trí tuệ của con người Việt Nam mà chúng ta
chưa khai thác hết vẫn còn rất lớn. Thực tiễn đổi mới cho thấy, chỉ với một cơ
chế khoán 10 mà giai cấp nông dân việt nam đã phát huy tính năng động sáng
tạo ghê gớm đủ sức làm thay đổi căn bản bộ mặt nền nông nghiệp nước nhà.
Với đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật có trình độ, đội ngũ trí thức khá đông đảo
và giàu tiềm năng như hiện nay rất cần 1 cơ chế “khoán 10” làm bật dậy và
bừng sáng trí tuệ việt nam trong thời đại kinh tế tri thức. Như vậy, vấn đề mấu
chốt là cơ chế, chính sách. Chỉ cần xây dựng hệ thống cơ chế chính sách thích
hợp là sẽ khơi thông được nguồn lực con người cả trong và ngoài nước, cả tài
lực và trí lực dường như vô tận. Điều đó sẽ tạo nên nội lực vô cùng mạnh mẽ
đưa đất nước tiến nhanh và sớm trên con đường cnh, hiện đại hóa theo định
hướng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập rất nhiều vấn đề phải
xây dựng con người mới trong lòng nhân dân. Và trong giai đoạn hội nhập quốc
tế hiện nay, trở về với tư tưởng xây dựng con người mới làm nền tảng, làm bản
lĩnh ta lại thấy sự đúng đắn sâu sắc và tầm thời đại của Người. Chính vì vậy,

108
Đảng ta phải lãnh đạo Nhà nước, các ban ngành trong việc nâng cao giáo dục
dân tộc giữ gìn truyền thống của đất nước để làm tăng khả năng hội nhập giáo
dục con người cũng với sự phát triển giáo dục của thế giới mà không mất đi giá
trị của nền giáo dục truyền thống. Kết hợp giải phóng con người về mặt chính
trị với giải phóng con người về mặt kinh tế, văn hóa. Không ngừng phát triển
sản suất để nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Từ lúc ra đi tìm
đường cứu nước để giải phóng đồng bào, giúp nhân dân có cuộc sống ấm no, tự
do hạnh phúc. Muốn có cuộc sống mới đó trước tiên phải giành lại độc lập cho
dân tộc, kế đó phải xây dựng vững mạnh chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội. Đối
với Hồ Chí Minh, không có gì khác hơn là đáp ứng ngày càng cao lợi ích vật
chất tinh thần của nhân dân. Một xã hội mới là xã hội nhân dân được ấm no
hạnh phúc.
Đối với Người, nhân dân luôn là lực lượng vĩ đại và quyền lợi của nhân dân
luôn là tối thượng. Đó không chỉ là quyền độc lập dân tộc mà còn là những lợi
ích vật chất liên quan cuộc sống thường ngày của mỗi người như ăn, mặc, học
hành. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả con người và chiến lược
“trồng người” những năm tới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với vấn đề phát triển đào tạo con
người mới xã hội chủ nghĩa. Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
“chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”. Phát huy hiệu quả vai trò
của đoàn thanh niên và các đoàn thể xã hội trong việc hình thành nhân cách con
người mới xã hội chủ nghĩa. Kết hợp cơ sở đào tạo, nhà trường với doanh
nghiệp, các ngành, các địa phương trong nền giáo dục đào tạo con người mới.
Xây dựng môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh, cơ sở cơ bản nhất cho lớp
trẻ học tập đấu tranh và tôi luyện thành con người mới xã hội chủ nghĩa.

VẬN DỤNG TẤT CẢ MỌI THỨ TRÊN ĐỜI


Giá trị và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.

109
- Phương hướng vận dụng: nắm vững thực tiễn của đất nước ta, vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin, TTHCM vào giải đáp đúng đắn
những vấn đề thực tiễn của đất nước.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, với đường lối chỉ đạo đúng đắn của
Đảng, công cuộc đổi của nhân dân ta đã đạt được những thành tựu bước đầu vô
cùng to lớn. Tuy nhiên, khi sự nghiệp đổi mới ngày càng mở rộng và phát triển
theo chiều sâu, những biến đổi trên thế giới ngày càng phức tạp, những vấn đề
mới đặt ra càng nhiều, thì việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để tìm ra
những định hướng đúng đắn cho việc giải quyết những vấn đề ấy ngày càng trở
nên vô cùng quan trọng. Dưới đây, chúng tôi xin nêu mấy định hướng nổi bật
mà chúng tôi cho là quan trọng cần được tập trung giải quyết:
- Kiên trì và giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là phương hướng
chiến lược mà Hồ Chí Minh đề ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
(tháng 2/1930). Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa
xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội thực sự đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh
phúc cho toàn thể nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc cho nền độc lập dân
tộc.
Công cuộc đổi mới của đất nước đang đứng trước những thời cơ, song cũng
nhiều nguy cơ thử thách. Hai trong bốn nguy cơ đã được Đảng ta tổng kết đến
nay vẫn không hề thay đổi, đó là: chệch hướng xã hội chủ nghĩa,nguy cơ “diễn
biến hòa bình”. Những nguy cơ này đòi hỏi chúng ta phải không ngừng nâng
cao cảnh giác trong quá trình hội nhập và phát triển. Thực tế công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc đã chứng minh: kiên trì, giữ vững mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội sẽ đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam tiến lên
giành những thắng lợi mới.
-Khai thác và phát huy các nguồn lực của dân tộc và thời đại nhằm phát triển
đất nước:

110
Trước hết, phải thực sự lấy dân làm gốc, coi dân là chủ của chế độ, phải quan
tâm chăm lo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trên cơ sở
đó, động viên nhân dân tham gia nhiệt tình vào sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước với phương châm: Đem của dân, tài dân, sức dân để làm lợi cho dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, khuyến khích, tạo cơ hội để nhân dân tham
gia giám sát, phản biện đường lối, chủ trương, hoạt động của Đảng, Nhà nước,
hệ thống chính trị. Phát huy và thực hành dân chủ được Hồ Chí Minh coi là
“chiếc chìa khóa vạn năng” để tháo gỡ những khó khăn do thực tiễn đặt ra.
Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người, thực sự coi nhân tố con người
là động lực chính, quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới phải có chính
sách “chiêu hiền, đãi sĩ’ tốt hơn nữa để nhân tài được sử dụng và phát huy.
Thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, mềm dẻo và linh hoạt, kết hợp chặt chẽ
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ nắm bắt những cơ hội do quá
trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tạo ra để xây dựng một nền kinh tế vững
mạnh, tạo tiền đề để phát triển khoa học - công nghệ, củng cố an ninh, quốc
phòng, ổn định chính trị, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc.
Xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, ngang
tầm nhiệm vụ:
Đảng phải thực sự coi trọng công tác xây dựng Đảng, thường xuyên củng cố, tự
đổi mới, tự chỉnh đốn để ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng được những yêu cầu
ngày càng cao hơn của công cuộc đổi mới đặt ra.
Trong hoạt động của mình, Đảng, Nhà nước phải thường xuyên bám sát thực
tiễn, tổng kết lý luận để hoạch định đường lối lãnh đạo đúng đắn. Đường lối
đúng chính là sức mạnh của Đảng, là cơ sở chắc chắn nhất để Đảng quy tụ, lãnh
đạo nhân dân tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới.
Đề phòng, khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Đảng, Nhà nước và hệ
thống chính trị. Những tiêu cực như: tham ô, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền,

111
bè phái, cục bộ địa phương... là những thực tế nhức nhối, gây bức xúc, làm suy
giảm lòng tin của nhân dân, đòi hỏi phải được giải quyết dứt điểm.
Để có thể xây dựng một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, đòi hỏi Đảng
phải tập hợp trong Đảng những con người thực sự chân chính, giác ngộ, cách
mạng và tiến bộ nhất; Đảng phải thực sự là đạo đức, là văn minh, là đại biểu cho
trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và của thời đại như lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
- Chấn chỉnh lại đạo đức xã hội, thiết lập và thực hiện nghiêm những chuẩn
mực đạo đức Hồ Chí Minh:
Nền kinh tế thị trường đang tạo ra những lối sống lạnh lùng, cá nhân, nhỏ nhen,
ích kỷ, coi đồng tiền là trên hết, sẵn sàng làm mọi việc để thỏa mãn ham muốn
của mình, coi thường kỷ cương phép nước, chà đạp những chuẩn mực đạo đức
xã hội. Đời sống đạo đức của xã hội đang dần lâm vào khủng hoảng, khoa học
xã hội nhân văn không được coi trọng, việc giáo dục đạo đức ở nhiều gia đình
chưa được chú ý, xã hội “mạnh ai người ấy sống” đang đe dọa sự phát triển bền
vững của chúng ta. Chủ trương phát động phong trào “học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Đảng ta trong những năm qua là đúng đắn,
song chưa đạt được hiệu quả cao. Vì vậy, việc chấn chỉnh lại đạo đức xã hội,
thiết lập và thực hiện nghiêm những chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh là một
nhiệm vụ vô cùng cấp bách.
Trong một thế giới đầy những biến động, giữa một xã hội đang tạo ra cho con
người những mệt mỏi thất vọng thì đạo đức Hồ Chí Minh là “Kim chỉ nam”
định hướng cho chúng ta. Giáo sư Sử học Ấn Độ Xanti Mauroi (Santi Mauroy)
nhận xét có lý rằng: “Ngày nay nhân loại đang ở ngã tư đường một sự xáo động
mãnh liệt khác. Nhân loại đói khát, bị tước đoạt, bị áp bức, đang kinh hoàng
nhìn cuộc diễu hành huênh hoang của phồn vinh và giàu có, bị chà đạp bởi sự
giả nhân, giả nghĩa xã hội ghê gớm, đi liền với cuộc cách mạng kỹ thuật khổng
lồ đã tạo nên cho loài người vô vàn quyền lực, của cải và ảnh hưởng, nhưng lại
không có sự tiến bộ tinh thần tương ứng và các giá trị nhân đạo phổ biến là cái

112
gắn bó loài người thành một khối đoàn kết anh em vững chắc từ buổi bình minh
của văn minh. Nhân loại dần dần đang nhường bước cho sự xuất hiện tàn nhẫn
của ham muốn cá nhân, ích kỷ để thống trị như chưa hề thấy. Chính sự xuyên
tạc các giá trị nhân đạo đã làm này sinh những sự thiên lệch nghiêm trọng khác,
xa rời con đường biến đổi cách mạng về xã hội và văn hóa số phận con người
xung quanh ta. Điều cần đến là một cuộc nổi dậy về đạo đức, một sự phục hưng
mới chống lại quá trình bất ổn định, phi nhân tính này - ít nhiều nổi bật khắp thế
giới. Ở giữa cơn khủng hoảng này, nhân loại đã sản sinh ra những danh nhân lỗi
lạc làm nên thời đại như Lênin, Hồ Chí Minh và Găngđi là những người đã để
lại những dấu ấn không thể sai lầm của mình để được tiếp tục theo đuổi trong
các đảo lộn nhiều biến động”

113

You might also like