TBG ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ.2

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 174

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI


KHOA TỔ CHỨC VÀ XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN

TẬP BÀI GIẢNG


ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI – 2021
2

MỤC LỤC
Bài 1.

NHẬP MÔN ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ ...........................................................1


I. KHÁI NIỆM VÀ CẤU TRÚC HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ ..............................................................1
II. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................5
III. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA CỦA MÔN HỌC .................14
Bài 2 ..................................................................................................................................................17
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO .............................................................................17
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ..................................................17
I. VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ...............17
II. NỘI DUNG LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG ............................................24
III. PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG ..................................25
IV. ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
NƯỚC TA HIỆN NAY.....................................................................................................................37
1. Mục tiêu ....................................................................................................................................38
2. Quan điểm chỉ đạo ....................................................................................................................39
3. Nhiệm vụ và giải pháp ................................................................................................................40
3.1. Đổi mới, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao
chủ trương, đường lối của Đảng ............................................................................................41
3.2. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động ..............................44
3.3. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ .....................45
3.4. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát ...................48
3.5. Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên ............................49
3.6. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp
công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở
.......................................................................................................................................................50
Bài 3 ..................................................................................................................................................59
ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC ...................................................................................................59
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA NHÀ NƯỚC ..........................................59
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC..................69
III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY .......................................................................................................................................79
Bài 4 ..................................................................................................................................................95
ĐẢNG LÃNH ĐẠO MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM .............................................................95
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ....95
3

II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM .......................................................................................................................................99
III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .................................................................................................103
Bài 5 ................................................................................................................................................106
ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH ..................................106
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ
CHÍ MINH ......................................................................................................................................106
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH ..........................................................................................................112
III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN
HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.......................................................................115
Bài 6 ................................................................................................................................................118
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM ..........................................................................118
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM .................118
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG ĐOÀN VIỆT
NAM ...............................................................................................................................................125
III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ...............................................................................................................126
Bài 7 ................................................................................................................................................129
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM .......................................................129
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
.........................................................................................................................................................129
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
VIỆT NAM .....................................................................................................................................133
III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ......................................................................................134
Bài 8 ................................................................................................................................................139
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM .....................................................................139
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM ............139
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI NÔNG DÂN VIỆT
NAM ...............................................................................................................................................144
III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .................................................................................................146
Bài 9 ................................................................................................................................................150
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỘI CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM .........................................................150
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM.150
4

II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI CỰU CHIẾN BINH
VIỆT NAM .....................................................................................................................................155
IV. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI CỰU CHIẾN BINH VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ......................................................................................162
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................166
1

Bài 1
NHẬP MÔN ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

I. KHÁI NIỆM VÀ CẤU TRÚC HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ


1. Khái niệm
Hệ thống chính trị là khái niệm của khoa học chính trị đương đại - là một
trong những khái niệm phản ánh đặc trưng của những quan hệ quyền lực chính
trị; cũng như các bộ phận, các nhân tố tham gia vào các quá trình, quy trình
chính trị trong thể chế chính trị dân chủ hiện đại (dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân
chủ tư bản chủ nghĩa). Liên quan đến vấn đề này có nhiều quan niệm khác nhau:
- Hệ thống chính trị là tổng thể các tổ chức chính trị của xã hội được chính
thức thừa nhận về mặt pháp lý nhằm thực hiện quyền lực chính trị của xã hội đó.
Hệ thống này bao gồm Nhà nước, các Chính đảng, các Nghiệp đoàn và các tổ
chức chính trị khác - trong đó Nhà nước là yếu tố cơ bản, trung tâm.
- Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó giai cấp
thống trị thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội.
- Hệ thống chính trị là một cơ cấu, tổ chức bao gồm đảng phái chính trị,
nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật hiện hành (hệ thống pháp luật đó được chế định theo tư tưởng và lợi
ích giai cấp cầm quyền) nhằm duy trì, bảo vệ, và phát triển xã hội đó…
- Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội
bao gồm nhà nước, các đảng chính trị, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức
chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau nhằm tác động vào mọi mặt
của đời sống xã hội để củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời
phù hợp với lợi ích của chủ thể cầm quyền.
Các khái niệm trên có các diễn đạt khác nhau nhưng đều thống nhất
những điểm căn bản sau :
- Hệ thống chính trị được hình thành bởi 3 thành tố cơ bản : Đảng phái
chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
2

- Các thành tố của hệ thống chính trị quan hệ tác động qua lại với nhau
làm thành một chỉnh thể thống nhất.
- Các thành tố của hệ thống chính trị đều tác động đến quá trình chính
sách, qua đó tác động đến mọi mặt đời sống xã hội.
- Sự tác động qua lại của các thành tố đều trong khuôn khổ thể chế xã
hội (do nhà nước đặt ra) và đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển chế độ xã hội
mà hệ thống chính trị đó đang tồn tại.
Từ những phân tích trên có thể quan niệm: Hệ thống chính trị là một
phạm trù của chính trị học dùng để chỉ một chỉnh thể các thiết chế tổ chức bao
gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp
với những quan hệ tác động qua lại giữa các thiết chế đó trong việc tham gia
vào các quá trình hoạch định và thực thi các quyết sách chính trị nhằm nhằm
thực hiện lợi ích của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, đồng thời đáp ứng nhu
cầu ổn định và phát triển xã hội của một quốc gia.
Như vậy, hệ thống chính trị là một bộ phận kiến trúc thượng tầng xã hội,
bao gồm các thiết chế và thể chế có quan hệ với nhau về mặt mục tiêu, chức
năng trong việc thực hiện quyền lực chính trị.
Nói đến hệ thống chính trị là nói đến một chế độ xã hội của mỗi quốc gia,
hơn nữa, là nói đến một chế độ xã hội của quốc gia đó trong từng giai đoạn cụ
thể gắn với sự tồn tại của nhà nước, chính đảng và tổ chức chính trị xã hội hợp
pháp tồn tại, tác động lên các quá trình kinh tế xã hội của giai đoạn đó.
Hệ thống chính trị xuất hiện khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành: nhà
nước, các chính đảng (hay đảng chính trị), các tổ chức chính trị xã hội. Nó là
thành quả tất yếu của sự phát triển của chính trị, của đấu tranh giai cấp khi cần
đến vai trò của các đảng chính trị và các tổ chức xã hội tác động đến các quá
trình chính sách kinh tế - xã hội mà nhà nước là chủ thể ban hành và tổ chức
thực hiện.
3

Khi nói đến hệ thống chính trị, cần phải lưu ý, tính “hệ thống” không chỉ
phản ánh mối quan hệ hữu cơ giữa ba bộ phận cấu thành theo chiều ngang và
chiều dọc (từng cấp hành chính) mà -nó còn phản ánh mối liên hệ hữu cơ giữa
các thiết chế cấu thành của từng bộ phận.
Sự xuất hiện của hệ thống chính trị liên qua chặt chẽ đến vấn đề giành,
giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Nó xác định những chủ thể nắm giữ, chi
phối hay tác động ảnh hưởng đến các quá trình chính sách kinh tế xã hội của
quốc gia. Bởi vậy, có thể nói hệ thống chính trị là rường cột hay xương sống
của chế độ chính trị của một quốc gia.
2. Cấu trúc
Cấu trúc của hệ thống chính trị được xem xét ở hai phương diện: cấu trúc
thể chế và cấu trúc thành phần.
Cấu trúc thành phần (còn gọi là cấu trúc bộ phận): Là cấu trúc bao gồm
các thiết chế tổ chức hợp thành hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị của một quốc gia ngày nay gồm ba bộ phận: Các đảng
chính trị (hay chính đảng), nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Đảng chính trị: là thiết chế tổ chức xã hội bao gồm những thành viên giác
ngộ nhất của một giai cấp, tầng lớp, có chung quan điểm chính trị, được tổ chức
chặt chẽ nhằm mục tiêu giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước để thực hiện
lợi ích tối đa cho giai cấp, tầng lớp nhất định.
Đảng cầm quyền bao giờ cũng giữ vai trò lãnh đạo, chi phối toàn bộ hệ
thống chính trị, đặc biệt và trực tiếp nhất là nhà nước; bằng nhà nước và thông
qua nhà nước để thực hiện mục tiêu, chiến lược của mình. Giành, giữ và thực
thi quyền lực nhà nước là một hoạt động cơ bản của các đảng chính trị. Tùy
theo điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của từng nước cũng như mục
tiêu theo đuổi mà mỗi đảng cầm quyền có những phương thức tổ chức và hoạt
động khác nhau, song đều nhằm tới một hướng đích là giành, thực thi và chi
4

phối quyền lực nhà nước, từ đó chi phối và thực thi quyền lực của đảng mình
đối với các đảng khác và với toàn xã hội.
Các đảng chính trị khi đã cầm quyền đều tuân theo những nguyên tắc
chung là lãnh đạo, chi phối, sử dụng quyền lực nhà nước, sử dụng sức mạnh, các
phương tiện vật chất đã được thiết chế hóa của nhà nước để thực hiện mục tiêu
của đảng mình, của giai cấp mình. Song, mỗi đảng chính trị khác nhau đều có
những phương thức lãnh đạo và cách thức tổ chức thực hiện khác nhau tùy thuộc
vào quan điểm, tư tưởng, tương quan lực lượng trong hệ thống chính trị, tùy
thuộc vào điều kiện khách quan của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất
nước và cả nhân tố chủ quan của chính đảng cầm quyền. Vì thế, đảng cầm quyền
là vấn đề quan trọng của hệ thống chính trị của tất cả các quốc gia.
- Nhà nước, là một tổ chức xã hội đặc biệt của giai cấp thống trị thành
lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước là bộ máy do lực
lượng nắm quyền thống trị (kinh tế, chính trị, xã hội) thành lập nên, nhằm mục
đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ hoạt động của xã hội trong một quốc gia, trong
đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực lượng thống trị, vì thế nước nhà
mang bản chất giai cấp.
Nhà nước có vai trò:
- Ban hành pháp luật và văn bản dưới luật;
- Ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô, điều tiết, điều phối các chính
sách kinh tế - xã hội;
- Đầu tư, cung cấp sản phẩm, dịch vụ xã hội cơ bản (cấp phép, kiểm
dịch, kiểm định, giám sát, kiểm tra, v.v...);
- Giải quyết các vấn đề xã hội (người già, trẻ em, người tàn tật, v.v...);
- Bảo vệ môi trường, giao thông, phòng chống thiên tai, bão lụt, v.v...
Để thực hiện những vai trò trên nhằm quản lý mọi mặt đời sống xã hội
và bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, Nhà nước tổ chức thành hệ thống các
5

cơ quan với sự phân công chức năng cụ thể (bộ máy nhà nước hiện nay của các
quốc gia được tổ chức thành ba bộ phận: lập pháp, hành pháp và tư pháp).
+ Các tổ chức chính trị - xã hội: Các tổ chức chính tri - xã hội là khái
niệm để chỉ các tổ chức tự nguyện của các tầng lớp nhân dân vừa thực hiện
chức năng chính trị vừa thực hiện chức năng xã hội.
Tổ chức chính tri - xã hội là những tổ chức hoạt động vì lợi ích của các
nhóm, các cộng đồng xã hội cụ thể, thông qua các phương thức gây ảnh hưởng
đến chính quyền và đảng phái mà không đặt ra mục tiêu giành hoặc tham gia
chính quyền.
Các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho lợi ích của cộng đồng xã hội
khác nhau tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa tùy theo tôn chỉ,
mục đích, tính chất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa khác nhau, các tổ chức này
rất phong phú và hoàn toàn không giống nhau; nội dung, hình thức và phương
thức hoạt động cũng rất đa dạng và sinh động. Các tổ chức đó có nhiệm vụ giáo
dục chính trị, tư tưởng, đạo đức... động viên phát huy tích cực xã hội của các
tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, chăm
lo quản lý nhà nước, quản lý xã hội; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật
thiết với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Cấu trúc thể chế là cấu trúc tạo thành bởi các quy phạm về nguyên tắc,
quy định, cơ chế vận hành của từng tổ chức thành viên và của cả hệ thống chính
trị. Thể chế bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các thành viên; cương lĩnh, điều lệ của các chính đảng và các tổ chức chính
trị - xã hội; các quy chế phối hợp hoạt động của các thành viên...
II. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Cấu trúc thành phần của hệ thống chính trị Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm “hệ thống chính trị” lần đầu tiên được Đảng ta
sử dụng trong Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá
VI (tháng 3-1989) thay cho khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”.
6

Hệ thống chính trị Việt Nam ngày nay được ra đời từ ngày 2 tháng 9 năm
1945 (khi Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân) thay thế cho hệ thống chính trị
thực dân nửa phong kiến do thực dân Pháp áp đặt.
Các tổ chức hợp thành hệ thống chính trị hiện nay ở nước ta bao gồm:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Mỗi một tổ chức đều
có vị trí, vai trò và phương thức hoạt động khác nhau với những chức năng,
nhiệm vụ khác nhau dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền, sự
quản lý của Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân vì mục
tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
a) Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật.
Sự lãnh đạo của đảng Cộng sản đối với hệ thống chính trị là điều kiện
cần thiết và tất yếu để bảo đảm cho hệ thống chính trị giữ được bản chất giai
cấp công nhân, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Bài học kinh nghiệm
của cải tổ, cải cách ở Liên Xô (trước đây) và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu cho thấy, khi đảng cộng sản không giữ được vai trò lãnh đạo hệ thống chính
trị, sẽ dẫn đến hậu quả làm rối loạn hệ thống chính trị và xã hội, quyền lực
chính trị sẽ không còn trong tay nhân dân và chế độ chính trị sẽ thay đổi.
b) Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức quyền lực
thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu
7

trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Mặt
khác, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị của giai cấp công nhân, thông qua
đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức
thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm
trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý, điều
hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết
trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan của thị trường. Đảng lãnh đạo Nhà nước
thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Nhà nước
xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ
chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí và vai trò đặc
biệt quan trọng trong hệ thống chính trị. Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước
trong hệ thống chính trị, trong đời sống xã hội được thể hiện bằng mối quan hệ
giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước thể chế
hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật và chính sách
làm công cụ để thực hiện quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chịu trách nhiệm trước
Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội. Chính phủ thống nhất quản lý
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc
8

phòng và đối ngoại của Nhà nước. Cơ quan tư pháp gồm Toà án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân và các cơ quan điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra
để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, bảo đảm việc thực thi
pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng
giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
c) Các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho lợi ích của cộng đồng xã
hội khác nhau tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa tùy theo tôn
chỉ, mục đích, tính chất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa khác nhau, các tổ chức
này rất phong phú và hoàn toàn không giống nhau; nội dung, hình thức và
phương thức hoạt động cũng rất đa dạng và sinh động. Các tổ chức đó có nhiệm
vụ giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức... động viên phát huy tích cực xã hội
của các tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực thực hiện dân chủ và đổi mới xã
hội, chăm lo quản lý nhà nước, quản lý xã hội; giữ vững và tăng cường mối liên
hệ mật thiết với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội có vai trò
rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân,
chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và xây dựng xã
hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo
đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân
dân với Đảng, Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các
cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và
người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các
9

thành viên. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo
Mặt trận.
Các đoàn thể chính trị - xã hội vừa là thành viên của Mặt trận Tổ quốc,
vừa có vai trò, vị trí, chức năng và nhiệm vụ nhất định do Hiến pháp, pháp luật
quy định và được bảo đảm có hiệu lực thực sự trong thực tế. Tùy theo tính chất,
tôn chỉ và mục đích đã được xác định, các đoàn thể nhân dân vận động, giáo dục
đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên
nâng cao trình độ về mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà
nước, quản lý xã hội; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân, góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và thực hiện có
hiệu quả cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Trong điều kiện mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị - xã hội cần tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động,
khắc phục tình trạng hành chính hóa, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của đoàn
viên, hội viên và nhân dân; vận động các tầng lớp nhân dân phát huy sức sáng
tạo và mọi tiềm năng trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, luật
pháp và chính sách của Nhà nước; thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
Đồng thời, Nhà nước có cơ chế phối hợp và bảo đảm các điều kiện cần
thiết để Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội phản ánh trung thực tâm tư
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; tích cực tham gia xây dựng chủ trương,
chính sách, pháp luật; tập hợp, động viên nhân dân đồng tâm hiệp lực thực hiện
thắng lợi những chủ trương, nhiệm vụ của Nhà nước; đồng thời, làm tốt vai trò
giám sát đối với cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, góp
phần xây dựng và bảo vệ chính quyền trong sạch vững mạnh.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức thành một một hệ thống từ
Trung ương đến cơ sở. Cấp cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã,
10

phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: tổ
chức cơ sở đảng, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn và các tổ chức chính trị - xã
hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam xã, phường,
thị trấn… Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức
và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân đưa Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn vào cuộc
sống; huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của
cộng đồng dân cư.
2. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hệ thống chính trị Việt Nam có một chính đảng duy nhất lãnh đạo
và cầm quyền - đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một đảng duy nhất
lãnh đạo và cầm quyền, không có chính đảng đối lập. Trong thời kỳ trước đây,
ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, còn có Đảng Dân chủ (Đảng Dân chủ Việt
Nam là "chính đảng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản, trí thức yêu nước và tiến
bộ hoạt động từ năm 1944) và Đảng Xã hội (Đảng Xã hội Việt Nam được thành
lập ngày 22 tháng 7 năm 1946, nhằm mục đích "tập hợp, đoàn kết mọi trí thức
yêu nước và dân chủ). Tuy nhiên, thực chất, hai đảng này là những đoàn thể
chính trị - xã hội, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được tổ chức
và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam,
thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thể chế nhất nguyên chính trị,
không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
11

+ Nhất nguyên về tổ chức: Hệ thống chính trị ở Việt Nam gắn liền với
vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành
viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng
vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập
hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng
(Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó
Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với xã hội.
+ Nhất nguyên về tư tưởng: Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống
chính trị được thể hiện ở tính nhất nguyên tư tưởng. Toàn bộ hệ thống chính trị
đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, hệ thống chính trị Việt Nam có tính thống nhất cao.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí,
vai trò, chức năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo
thành một thể thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú
về tổ chức, phương thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để
phát huy sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ
hệ thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị ở nước ta được xác định bởi các
yếu tố sau:
+ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
+ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
+ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập
trung dân chủ.
12

+ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa
phương, với các bộ phận hợp thành.
Thứ ba, hệ thống chính trị Việt Nam mang bản chất dân chủ nhân dân,
gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đặc điểm
này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị, quyền
lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức
chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã
hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác). Do vậy, hệ
thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội (như những lực lượng
chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một bộ phận của xã
hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội
chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Tính dân chủ nhân dân và sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với
nhân dân được thể hiện trên các yếu tố:
- Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ đại diện cho lợi ích giai cấp công
nhân mà còn đại diện cho lợi ích của nhân dân và lợi ích dân tộc.
- Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức quần
chúng của các tầng lớp nhân dân đại diện cho lợi ích chính đáng và hợp pháp
của các tầng lớp nhân dân.
- Hệ thống chính trị là công cụ thực hiện dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ
chức trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ đai diện
của nhân dân.
Thứ tư, hệ thống chính trị Việt Nam có sự kết hợp giữa tính giai cấp và
tính dân tộc.
- Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính
trị đại diện cho các giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân
13

được đại diện bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị ở nước ta
mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.
- Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp
gắn liền và bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Các giai cấp, dân tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân
tộc, hợp tác để cùng phát triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với
tư cách là thành viên quan trọng của hệ thống chính trị là yếu tố quan trọng tăng
cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
- Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản
chất của từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên
sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và
giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.
Thứ năm, hệ thống chính trị Việt Nam có tổ chức và hoạt động được đảm
bảo bằng ngân sách nhà nước. Đây là điều tất yếu bởi hệ thống chính trị Việt
Nam của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Hệ thống chính trị là công cụ
thực hiện quyền lực của nhân dân.
Những đặc điểm trên khẳng định tính ưu việt của hệ thống chính trị Việt
Nam như đảm bảo quyền lực thống nhất, dễ đạt sự đồng thuận xã hội trong quá
trình ban hành và thực thi quyết sách. Tuy nhiên, do hệ thống chính trị có mặt
ở tất cả các cấp quản lý hành chính với cơ cấu tổ chức cồng kênh, đội ngũ cán
bộ công chức lớn nên tạo ra áp lực lớn lên ngân sách nhà nước, bộ máy làm
việc nhiều khi kém hiệu quả.
14

III. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA CỦA MÔN
HỌC
1. Đối tượng nghiên cứu của môn học
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị là môn khoa học ra đời và phát triển
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết
hoạt động thực tiễn của Đảng cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng. Khoa học Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị có quan hệ hữu cơ với
các môn lý luận Mác Lênin như triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học, kinh tế
chính trị, và các môn khoa học khác như Chính trị học, Lịch sử Đảng, Lịch sử
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, xã hội học, tâm lý học…Là một bộ
phận cấu thành của khoa học Xây dựng Đảng nhưng Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị có đối tượng nghiên cứu riêng biệt:
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị là khoa học nghiên cứu những vấn đề
có tính quy luật trong hoạt động lãnh đạo hệ thống chính trị của Đảng nhằm
thực hiện đầy đủ và hiệu quả nhất quyền lực chính trị của nhân dân; hiện thực
hóa mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng và văn minh.
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị cần
phải làm rõ một số nội dung sau:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các thành viên
trong hệ thống chính trị dân chủ nhân dân;
- Nguyên tắc, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với từng
tổ chức thành viên hệ thống chính trị;
-Thực trạng hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với từng tổ chức thành
viên hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay;
- Quan điểm chỉ đạo của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đối
với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với từng tổ chức thành viên hệ
15

thống chính trị trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
2. Phương pháp nghiên cứu môn học
Phương pháp hiểu theo nghĩa chung là con đường, cách thức và biện
pháp để đạt tới mục đích.
Cũng như các môn khoa học xã hội và nhân văn, khoa học Đảng lãnh
đạo hệ thống chính trị phải dựa trên thế giới quan, phương pháp luận khoa học
của chủ nghĩa Mác- Lênin. Cụ thể:
- Nghiên cứu trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử để thấy được sự phát triển khách quan trong quá trình nhận thức
cũng như trong quá trình chỉ đạo thực tiễn cách mạng của Đảng.
- Nghiên cứu trên quan điểm lịch sử cụ thể, đặt đối tượng cần nghiên cứu
trong bối cảnh lịch sử đã ra đời để đánh giá nó một cách khách quan. Tránh
việc thoát ly hoàn cảnh, “hiện đại hóa” hoàn cảnh lịch sử để không dẫn tới
những sai lầm trong đánh giá, nhận định.
- Phải thể hiện tính Đảng trong nghiên cứu lịch sử. Tính Đảng là những
quan điểm, nhận thức, đánh giá lịch sử theo quan điểm của một giai cấp nhất
định, thể hiện lợi ích của giai cấp đó. Vì thế, cùng một sự kiện lịch sử nhưng
các giai cấp khác nhau sẽ có cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau. Đây là sự
khác biệt giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
- Phải dựa trên các quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của chủ tịch
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phải vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp lịch sử
và phương pháp lôgic, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp, so sánh,
phương pháp tổng kết thực tiễn…Đối với mỗi nội dung cụ thể cần phải vận
dụng phương pháp nghiên cứu phù hợp.
16

- Phương pháp lịch sử dựa trên việc bám sát các sự kiện lịch sử theo trình
tự thời gian sẽ giúp ta thể hiện được tính cụ thể, sự phong phú, sinh động của
lịch sử.
- Phương pháp lôgic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng trong
hình thức tổng quát nhằm vạch ra bản chất, tính tất yếu, tính quy luật, xu hướng
phát triển giữa những thăng trầm, bề bộn của lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp là phương pháp kết hợp việc nghiên
cứu hệ thống cũng như nghiên cứu cấu trúc, cung cấp cái nhìn sâu sắc và toàn
diện.
- Môn học cần quan tâm đặc biệt tới phương pháp tổng kết thực tiễn,.
Trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là từ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã chỉ rõ phải coi trọng công tác nghiên cứu lý
luận, gắn chặt lý luận với thực tiễn của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc và thực tiễn xây dựng Đảng, nhất là
thực tiễn đổi mới đất nước vừa qua. Vận dụng phương pháp này, cần nghiên
cứu cả những kinh nghiệm thành công và những hạn chế trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị trước đây và hiện nay để rút ra những
bài học kinh nghiệm vận dụng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch
sử và điều kiện thực tiễn hiện nay.
3. Ý nghĩa của môn học
- Trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về hệ thống chính trị, về
vị trí, vai trò, chức năng của các thành viên hệ thống chính trị Việt Nam đặc biệt
là vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam; nắm vững được nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Việc nắm vững những nội
dung đó sẽ nâng cao năng lực tư duy để có thể tự giải đáp, ứng xử và kiên định
trước một số vấn đề thường gặp trong đời sống chính trị phức tạp.
- Bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, củng cố
lập trường chính trị, trung thành với lý tưởng của Đảng, có định hướng phấn
17

đấu theo mục tiêu, lý tưởng và đường lối của Đảng; nâng cao ý thức trách nhiệm
công dân trước những nhiệm vụ trọng đại của đất nước.
- Sinh viên có cơ sở vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích
cực giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội...theo đường lối, của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Bài 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ
Trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai
trò đặc biệt: Đảng Cộng sản vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên trong hệ
thống chính trị.
Lãnh đạo là hoạt động của một chủ thể (cá nhân hay tổ chức) nhằm đề ra
chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên đối tượng thực hiện để đạt mục
tiêu đã định. Phân tích quá trình lãnh đạo, có thể thấy quá trình này bao gồm
các hoạt động sau:
18

- Đề ra mục tiêu mà một cộng đồng người hay một cơ quan, đơn vị, một
tổ chức... cần hướng tới và cách thức để đạt mục tiêu đó (tức đường lối, chủ
trương ..).
- Truyền bá, đào tạo lực lượng nòng cốt, chỉ dẫn, hướng dẫn, nêu gương...
để mọi người hiểu, thực hiện, làm theo.
- Tổ chức thực hiện, phân bổ lực lượng, phân công theo dõi, quản lý.
- Giám sát, kiểm tra, điều chỉnh.
- Sơ kết, tổng kết, đánh giá.
Nội dung lãnh đạo thể hiện ở nội dung của mục tiêu và cách thức để đạt
mục tiêu đó. Nội dung lãnh đạo là các nhiệm vụ chính trị thể hiện qua các chủ
trương, đường lối được đề ra. Phương thức lãnh đạo bao gồm các công cụ, cách
thức mà người lãnh đạo dùng để tác động lên đối tượng lãnh đạo (một cộng
đồng người hay một cơ quan, đơn vị, một tổ chức, v.v.).
Vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện
qua sự khẳng định trong văn kiện chính trị của Đảng và văn bản pháp lý cao
nhất của Nhà nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
(bổ sung và phát triển năm 2011) ghi nhận địa vị chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam được như sau:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc”.
“Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và
xã hội”
“Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy.
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
19

nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân,
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Ðiều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Ðảng Cộng sản Việt Nam
là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng; đoàn kết và lãnh
đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Ðảng lãnh đạo hệ thống chính
trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Ðảng lãnh đạo, tôn trọng và phát
huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị – xã hội”.
Trải qua quá trình đấu tranh đầy khó khăn trong lịch sử dân tộc, Ðảng
Cộng sản Việt Nam không ngừng lớn mạnh, đồng thời, cơ sở pháp lý về vị trí,
vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị cũng đã được khẳng định rõ
nét hơn. Nếu như trong Hiến pháp năm 1946 vị trí, vai trò của Đảng chưa được
ghi nhận, trong Hiến pháp 1959 được đưa vào lời nói đầu, thì đến Hiến pháp
1980 và Hiến pháp 1992, vị trí, vai trò của Đảng đã được ghi nhận bằng một điều
luật (Điều 4). Kế thừa Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp
sửa đổi năm 2013 vừa được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua, tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt
Nam đối với Nhà nước và xã hội: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
Ðiều 4 của Hiến pháp khẳng định cơ sở pháp lý, là sự Hiến định về vai
trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đạo luật
gốc, văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, là chỗ dựa pháp lý cho sự tồn tại, hoạt động, lãnh đạo,
cầm quyền của Ðảng Cộng sản Việt Nam.
20

Trong hệ thống chính trị Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội không phải là một thực tế lịch sử ngẫu
nhiên mà là một thực tế lịch mang tính tất yếu khách quan.
Về lý luận, các nhà cách mạng tiền bối và các nhà lý luận kinh điển từng
xác định: “Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền...
Việc giai cấp vô sản đoạt lấy chính quyền mới chỉ là bước đầu của những cải
biến cách mạng. Công cuộc xây dựng xã hội mới bao trùm suốt cả một thời kỳ
lịch sử những cải biến xã hội một cách triệt để”_. Điều này có nghĩa sau khi
phát động nhân dân lao động vùng lên đánh đổ chính quyền phản động, Đảng
vô sản phải thiết lập chính quyền mới để tiến hành những cải biến cách mạng.
Muốn làm được điều này, Đảng phải một mình cầm quyền đất nước.
Trong thực tiễn chính trị, cần phân biệt hai khái niệm “lãnh đạo” và “cầm
quyền”. Lãnh đạo là đề ra đường lối, chủ trương, mục tiêu chính trị và tổ chức
thực hiện. Còn cầm quyền là nắm giữ, sử dụng chính quyền quản lý toàn xã hội
và thực hiện mục tiêu chính trị. Hiệu quả hoạt động của chính quyền chính là
thước đo hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng.
Hiến pháp của nhiều nước đều quy định về đảng chính trị. Ðảng cầm
quyền đã trở thành một khái niệm chính trị - pháp lý quốc tế. Ðảng cầm quyền
có thể tự minh (khi là đảng duy nhất) hoặc phải liên minh với đảng khác nhưng
phải giữ vai trò chi phối đối với nhà nước. Chế độ đa đảng hay một đảng lãnh
đạo đều có mặt ưu và nhược do điều kiện cụ thể mỗi nước, mỗi giai đoạn lịch
sử quy định. Vấn đề là ở chỗ bản chất của đảng cầm quyền đó như thế nào, nó
phục vụ cho giai cấp, tầng lớp xã hội nào. Thực tế các nước trên thế giới đã cho
thấy không phải cứ một đảng thì đất nước không phát triển được hoặc đa đảng
thì mới phát triển được. Có nước một đảng lãnh đạo (như Trung Quốc) nhưng
phát triển rất nhanh, mạnh trong suốt hơn 30 năm qua, trong khi đó nhiều nước
phương Tây theo chế độ đa đảng lại lâm vào khủng hoảng tài chính - kinh tế,
21

khủng hoảng nợ công kéo dài, kinh tế trì trệ, suy thoái, có nước phải hơn một
năm mới lập được Chính phủ mới.
Ở Việt Nam, sau Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Ðảng Cộng sản Việt Nam trở thành Ðảng cầm
quyền. Lúc đó ngoài Ðảng Cộng sản Việt Nam, còn có hai đảng đối lập là Việt
Nam quốc dân đảng và Tân Việt cách mạng đảng. Vai trò lãnh đạo của Ðảng
đối với Nhà nước được thực hiện thông qua vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và các cán bộ, đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước và chính quyền các
cấp. Ðến cuối năm 1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Trung ương Ðảng và Chính phủ chuyển lên Việt Bắc để lập căn cứ kháng
chiến lãnh đạo nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược. Hai đảng phái chính
trị kia bỏ chạy ra nước ngoài theo gót chân của các quan thầy. Như vậy thời kỳ
đa đảng đối lập ở nước ta chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn. Sau này có một
thời kỳ, ngoài Đảng Cộng sản, trong hệ thống chính trị nước ta còn có Ðảng
Dân chủ và Ðảng Xã hội. Cả hai Ðảng này đều tự nguyện chịu sự lãnh đạo của
Ðảng Cộng sản Việt Nam, đi theo đường lối của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Về
thực chất, hai Đảng này không phải là hai đảng chính trị mà chỉ là hai đoàn thể
nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ðến năm 1988, hai Ðảng
này tuyên bố tự giải tán. Từ đó đến nay trong hệ thống chính trị nước ta, Ðảng
Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất, độc quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội,
là đảng duy nhất cầm quyền, chịu trách nhiệm trước lịch sử và dân tộc. Ðảng
Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội đi vào giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
vững bước trên con đường độc lập dân tộc và CNXH.
Như vậy, chế độ một đảng lãnh đạo, cầm quyền là Ðảng Cộng sản Việt
Nam đã được thực tiễn lịch sử quy định, nhân dân lựa chọn. Ở Việt Nam không
có cơ sở khách quan để hình thành chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập,
22

không một lực lượng nào, đảng phái nào, ngoài Ðảng Cộng sản Việt Nam có
thể lãnh đạo dân tộc trên con đường đổi mới và phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành chính đảng độc tôn vai trò lãnh đạo
đất nước và xã hội bởi vì những lý do mang tính tất yếu khách quan sau đây:
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân – lực lượng xã hội tiên tiến nhất được vũ trang bằng những quan điểm
khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, hệ tư tưởng tiên tiến và cách mạng nhất
của thời đại. Chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam mới nhận thức được sứ mệnh của
mình, tìm ra con đường giải phóng dân tộc và phát triển đất nước phù hợp với
quy luật, có sức thuyết phục, động viên lớn đồng thời có khả năng biến các
chiến lược, các chủ trương, mục tiêu chính trị của mình thành hiện thực. Thực
tiễn lịch sử cho thấy các phong trào yêu nước, các đảng phái chính trị những
năm đầu thế kỷ XX đã không tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn,
phù hợp với yêu cầu lịch sử.
Thứ hai, bằng thực tiễn đấu tranh kiên cường của mình, Đảng cộng sản
Việt Nam chiếm được lòng tin của đại đa số quần chúng nhân dân. Chính lòng
tin này đã làm cho vai trò lãnh đạo của Đảng không mang dấu ấn của sự áp đặt
đối với quần chúng. Sự tồn tại và phát triển của một đảng chính trị, nhất là vị
trí cầm quyền phụ thuộc vào sự tin tưởng, ủng hộ của quần chúng. Hơn 80 năm
giữ vai trò lãnh đạo và gần 70 năm cầm quyền, với bao nhiêu cam go thử thách
– có khi đất nước ở trong tình huống “ngàn cân treo sợi tóc” nhưng Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn luôn kiên định với mục tiêu chính trị của mình, kiên trì với
con đườn cách mạng “độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội”, tuyệt đối
trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích nhân dân, lợi ích dân tộc. Chính bản lĩnh
và thái độ trung thành này đã chiếm được niềm tin tưởng và ủng hội lớn lao của
các tầng lớp nhân dân. Niềm tin tưởng này quyết định sự lựa chọ vị trí độc tôn
lãnh đạo nhà nước và xã hội của Đảng.
23

Thứ ba, là một chính đảng kiên trì đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng,
chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ, thực dân mới, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã tạo được uy tín quốc tế lớn cũng như tình đoàn kết và sự giúp đỡ
từ phía phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Điều này cũng có tác dụng
lớn đối với việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với hệ thống chính trị trong nước. Là một đảng chính trị hình thành trong lòng
chế độ thực dân phong kiến, chỉ sau 15 năm kể từ khi ra đời Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo thành công sự nghiệp đánh đổ thực dân phong kiến, lập
nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Giai đoạn từ tháng 9
năm 1945 đến nay, Đảng lãnh đạo nhân dân lập nên những kỳ tích: lần lượt
đánh đổ cả hai thế lực đế quốc, thực dân đầu sỏ của thời đại, bảo vệ giữ vững
chủ quyền lãnh thổ quốc gia, duy trì được thành quả của cách mạng XHCN và
đạt nhiều thành tựu trong sự nghiệp đổi mới. Những kỳ tích đó cùng với sự
tham gia tích cực vào các hoạt động quốc tế (Liên hiệp quốc, Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á...) đã ngày càng khẳng định vị thế của đất nước, của dân tộc
và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Nghị quyết các Đại hội toàn quốc của Đảng
đã nêu những nguyên tắc cơ bản về vị trí và phương thức lãnh đạo. Một số nội
dung chính là:
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống
ấy. Tổ chức đảng không làm thay các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, tức
là không làm thay Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể nhân dân.
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật tức là hoạt động
trong khuôn khổ Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Trong Nhà nước, mọi quyền lực thuộc nhân dân. Đảng lãnh đạo là
để phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
24

Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao trình độ trí
tuệ, năng lực lãnh đạo, đoàn kết thống nhất, đảm bảo đầy đủ dân chủ và kỷ luật
trong hoạt động của Đảng.
II. NỘI DUNG LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là các vấn đề của
đất nước, trong từng lĩnh vực cụ thể, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội
ở các cấp, các ngành; trong các mối quan hệ với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội ở từng giai đoạn cách mạng. Sự lãnh
đạo của Đảng biểu hiện tập trung nhất là lãnh đạo về chính trị và tư tưởng và
tổ chức, nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn khổ chính trị để Nhà nước Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện đúng nhiệm vụ,
thẩm quyền, chức năng và vai trò của mình theo quy định của pháp luật, theo
điều lệ, mục đích, tôn chỉ của mỗi tổ chức.
Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong nội dung của cương
lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định
hướng chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động
của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội hướng tới mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là toàn diện và
trực tiếp. Có thể khái quát thành hai nội dung cơ bản, trọng yếu sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo chính trị đối với việc xác định chức năng và
nhiệm vụ của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, lãnh đạo các tổ
chức thành viên thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ cách mạng.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo việc xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức bộ máy
của các thành viên trong hệ thống chính trị. Đảng thống nhất lãnh đạo công
tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị.
Nội dung lãnh đạo của Đảng không thể tách rời phương thức lãnh đạo
của Đảng. Nội dung lãnh đạo phải qua những phương thức lãnh đạo thích hợp
mới trở thành hiện thực.
25

III. PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG
Phương thức Đảng lãnh đạo Hệ thống chính trị là phương pháp tác động
và hình thức thể hiện mà Đảng sử dụng để lãnh đạo đối với hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Phương thức lãnh đạo của Đảng ở mỗi thời kỳ cách mạng có sự khác
nhau – vì nó do nội dung lãnh đạo quy định. Sau khi giành được chính quyền,
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền và sử dụng phương thức
lãnh đạo của một đảng cầm quyền. “Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong
khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm
giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi
ích của giai cấp mình. Đối với Đảng ta, khái niệm “Đảng cầm quyền” là để chỉ
vai trò của Đảng khi Đảng đã giành được chính quyền; Đảng lãnh đạo toàn xã
hội bằng chính quyền, thông qua chính quyền và các đoàn thể nhân dân.
Khái niệm “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra. Sau này
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sử dụng các thuật ngữ để nói về vai trò cầm quyền
của Đảng như: Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng
lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền. Trong Di chúc dặn lại, Bác viết: “Đảng
ta là một đảng cầm quyền”. Trong Điều lệ Đảng được Đại hội X của Đảng thông
qua cũng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”.
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính
quyền khác rất nhiều so với khi chưa có chính quyền.
Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là
các tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ
trương đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người
dân; từ đó tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan
hệ của Đảng với nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có
thể dẫn đến tổn thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức
đảng và đảng viên. Trong điều kiện chưa có chính quyền, trong Đảng không có
26

điều kiện để phát sinh, phát triển các tệ nạn như quan liêu, mệnh lệnh, ức hiếp
quần chúng.
Khi đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất
để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài
cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo chính
quyền (Nhà nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch… và tổ chức nhân dân thực hiện. Thực
chất của Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo chính quyền và thông qua chính
quyền để nhân dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội. Trong điều kiện Đảng
đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: sai lầm về đường lối,
quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Ngay sau khi giành được
chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường
lối và suy thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cần phải chiến thắng ba
thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ cả sự
nghiệp của một Đảng cầm quyền.
Trong quá trình cầm quyền của Đảng Cộng sản, việc tồn tại một đảng
hay nhiều đảng ở mỗi nước là do những điều kiện lịch sử - cụ thể quy định,
không có khuôn mẫu chung cho tất cả các nước, cũng như chung cho mọi giai
đoạn, mọi thời kỳ trong phạm vi một nước. Ở Việt Nam từ giữa 1947 đến năm
1988, ngoài Đảng Cộng sản lãnh đạo chính quyền, còn có Đảng Dân chủ Việt
Nam và Đảng Xã hội Việt Nam tham gia chính quyền, nhưng hai Đảng trên đều
thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ tháng 11/1988 đến
nay, Việt Nam chỉ còn lại duy nhất một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở
Cu Ba, Lào cũng chỉ có một đảng cầm quyền. Ở Trung Quốc, ngoài Đảng Cộng
sản cầm quyền, còn 8 đảng phái dân chủ tham chính, nhưng các đảng phái này
thực chất chỉ là những đoàn thể nhân dân (không hướng tới mục tiêu giành
27

quyền lực nhà nước mà vẫn chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung
Quốc).
Hiện nay Đảng sử dụng 6 phương thức để lãnh đạo Hệ thống chính trị.
Cơ sở lý luận trực tiếp để nghiên cứu phương thức Đảng lãnh đạo Hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay là chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng thể
hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011):
Các phương thức Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị gồm:
Một là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng định hướng chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng định hướng chính trị là việc Đảng
đề ra chủ trương, đường lối trên các lĩnh vực của đời sống xã hội để Nhà nước
thể chế hóa thành chính sách, pháp luật, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội cụ thể hóa trong điều lệ và những nội dung hoạt động của mình.
Định hướng chính trị là phương thức lãnh đạo quan trọng nhất và chủ yếu
nhất của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Định hướng chính trị của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đàn thể chính
trị - xã hội chủ yếu bằng cương lĩnh chính trị, bằng các Nghị quyết. Thông qua
Cương lĩnh chính trị và các Nghị quyết mà ý chí, trí tuệ tập thể của cơ quan
lãnh đạo Đảng được thể hiện một cách tập trung, cô đọng, sáng suốt và có giá
trị hiệu lực cao, làm phương tiện truyền tải định hướng chính trị của Đảng, cụ
thể như sau:
- Trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM; tình
hình quốc tế và cơ sở kinh tế - xã hội nước ta trong từng thời kỳ mà Trung ương
Đảng đề ra định hướng chính trị cho cả nước. Còn ở các địa phương, căn cứ vào
nghị quyết của các cấp lãnh đạo Đảng cấp trên, kết hợp với cơ sở kinh tế - xã hội
của địa phương mà đề ra định hướng chính trị cho địa phương mình.
- Đảng căn cứ vào chính tổ chức, hoạt động của chính Nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; căn cứ vào việc đáp ứng yêu cầu thực
28

hiện nhiệm vụ của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội để đề
ra định hướng chính trị cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Đảng định hướng chính trị trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh
tế; chính trị; văn hóa – xã hội; an ninh, quốc phòng cho tổ chức, hoạt động của
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
+ Về kinh tế: Đảng đề ra định hướng phát triển kinh tế cho đất nước,
làm cơ sở lý luận cho việc tổ chức và hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước;
làm cơ sở lý luận để các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội
thực hiện các cuộc vận động thành viên của mình làm kinh tế, nhằm đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ…
+ Về chính trị: Đảng đề ra phương hướng và những nguyên tắc cơ bản
làm cơ sở để Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội xây dựng,
hoàn thiện về tổ chức bộ máy và triển khai hoạt động nhằm thực hiện các nhiệm
vụ chính trị, luôn luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân.
+ Về văn hóa – xã hội: Đảng đề ra những chương trình, những định
hướng để Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện trên
lĩnh vực văn hóa – xã hội như vấn đề bản sắc dân tộc, các vấn đề xã hội như
xóa đói giảm nghèo, cứu trợ xã hội…
+ Về an ninh, quốc phòng: Đảng đề ra những định hướng lãnh đạo trong
việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, trong việc bảo vệ an ninh trật tự, an
toàn xã hội…để Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội triển khai
thực hiện.
Hai là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng công tác tư tưởng.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng công tác tư tưởng là việc Đảng
tuyên truyền, giáo dục nhằm xây dựng hệ tư tưởng mác – xít và chống lại tư
tưởng phi mác – xít đối với đảng viên, quần chúng; đặc biệt là công chức, viên
chức của Nhà nước và cán bộ, hội viên của Mặt trận và các đoàn thể chính trị -
29

xã hội. Nhằm tạo ra sự đồng thuận về tư tưởng và hành động trong hệ thống
chính trị khi thực hiện các nhiệm vụ cách mạng.
- Đảng thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị
tư tưởng đối với đảng viên, quần chúng nhân dân; đặc biệt là đội ngũ công
chức, viên chức của Nhà nước và cán bộ, hội viên của các Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội.
+ Nội dung giáo dục chính trị tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chủ nghĩa
yêu nước, văn hóa Xã hội chủ nghĩa…Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Bởi vì, vai trò của Đảng là lãnh đạo chính trị tư tưởng, định hướng chiến lược.
Hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng sẽ làm cho đội ngũ công chức,
viên chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thông suốt
đường lối của Đảng, tạo ra sự thống nhất về tư tưởng giữa Đảng, Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Khi đã có sự thống nhất về tư tưởng
sẽ là tiền đề cho sự thống nhất về hành động; do vậy, góp phần khắc phục được
tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
+ Hình thức giáo dục chính trị tư tưởng: Đào tạo ở trường lớp, tuyên
truyền, giáo dục qua các phương tiện thông tin đại chúng, nêu gương (khen
ngợi, tôn vinh gương tốt; lên án, phê bình những cá nhân và tổ chức sai phạm).
Việc Đảng sử dụng hình thức nêu gương, thông qua việc nêu gương (động viên
gương tốt, phê bình sai phạm) mà Đảng lãnh đạo đối với hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong phương thức này, đặc
biệt chú ý tới vấn đề phê bình những việc làm sai trái. Vì theo tư tưởng Hồ Chí
Minh thì một đảng chân chính phải biết nhận ra những khuyết điểm của mình
và biết sửa chữa. Một đảng mà không biết nhận ra sai lầm khuyết điểm và sửa
chữa sai lầm khuyết điểm thì là một đảng hỏng.
30

Việc cán bộ, đảng viên và các tổ chức Đảng nghiêm chỉnh chấp hành
cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của Đảng đã làm
cho công chức, viên chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội noi theo. Có thể nói, nêu gương là phương pháp lãnh đạo đặc thù của Đảng
đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, thể hiện rõ nét
bản chất của một đảng mác – xít chân chính và sự trong sạch vững mạnh của
Đảng ta. Vì có sự công khai con người và tổ chức của Đảng trên cả hai mặt:
Tích cực và tiêu cực; nêu những tấm gương tốt và phê bình những tấm gương
xấu. Điều này có tác dụng rất to lớn trong việc nâng cao uy tín lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Nhưng qua
thực tiễn cho thấy phương pháp nêu gương cũng là “con dao hai lưỡi”, đôi khi
nó trở nên phản tác dụng, làm ảnh hưởng tới uy tín của Đảng, gây khó khăn đối
với việc Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Đảng tổ chức và động viên quần chúng nhân dân; đặc biệt là đội ngũ
công chức, viên chức của Nhà nước và cán bộ, hội viên của các Nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện định hướng chính
trị của Đảng…
Trong giai đoạn vừa qua Đảng đã sử dụng tốt phương thức giáo dục
chính trị tư tưởng để lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị -
xã hội. Điều đó đã nâng cao trình độ lý luận chính trị cho hầu hết công chức,
viên chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, tạo nên
sự đồng thuận về tư tưởng và hành động giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội. Việc xác lập và củng cố hệ tư tưởng mác – xít
trong xã hội nước ta của Đảng là một biểu hiện rõ nét về vai trò của một đảng
cầm quyền. Vì sự thống trị của một giai cấp, một đảng chính trị được biểu
hiện không những về mặt kinh tế, chính trị mà còn về mặt tư tưởng. Do vậy,
hệ tư tưởng mác – xít phải là hệ tư tưởng thống trị trong xã hội. Điều này
31

không những là phương thức để Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội mà còn góp phần củng cố và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở
nước ta hiện nay.
Ba là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng công tác tổ chức, cán bộ.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng công tác tổ chức, cán bộ là việc
Đảng đưa đảng viên, tổ chức của Đảng vào trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội để biến quá trình thực hiện nghĩa vụ của công
chức, viên chức Nhà nước và biến quá trình thực hiện kỷ luật của cán bộ, hội
viên Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cũng là thực hiện nhiệm vụ của
Đảng.
Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội qua
công tác tổ chức - cán bộ là thông qua những người của Đảng, tổ chức của Đảng
nằm trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội
mà Đảng thực hiện được sự lãnh đạo đối 2 đối tượng này. Đây là một phương
thức lãnh đạo quan trọng của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội. Vì phương thức này mang tính chất trực tiếp. Đối với lực
lượng vũ trang thì sự lãnh đạo của Đảng là: Trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối.
- Đảng đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình trở thành
những nhà chuyên môn giỏi trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, hoạt động
đoàn thể rồi đưa họ ra ứng cử làm đại biểu và các cương vị lãnh đạo của cơ
quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội được tổ chức theo
chế độ bầu. Đó là việc đưa cán bộ, đảng viên của mình tranh cử đại biểu và các
cương vị lãnh đạo của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; Chính phủ, Uỷ
ban nhân dân các cấp.
- Đảng giới thiệu những cán bộ, đảng viên ưu tú để cơ quan Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội tuyển dụng, bổ nhiệm trở thành công
chức, viên chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội hoặc
32

người giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước (đối với những cơ
quan Nhà nước được tổ chức theo chế độ bổ nhiệm) và các Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đó là việc Đảng đưa cán bộ, đảng viên ra đề
nghị bổ nhiệm làm thẩm phán, kiểm sát viên và các cương vị lãnh đạo của Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp và các chức danh khác của Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Đảng giác ngộ, bồi dưỡng, kết nạp vào đội ngũ của Đảng những nhà
chuyên môn giỏi trong các cơ quan Nhà nước, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội; cán bộ có thành tích xuất sắc trong hoạt động phong trào
của các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Qua việc đưa họ
vào hàng ngũ của Đảng mà Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Đảng xây dựng, củng cố tổ chức các cấp của Đảng. Đặc biệt là xây
dựng và củng cố các tổ chức Đảng trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội, nhằm lãnh đạo đảng viên là công chức, viên chức,
lãnh đạo cơ quan Nhà nước và cán bộ hội viên của các Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Tất cả những việc làm trên đây của Đảng là nhằm mục đích luôn luôn
nắm được bộ máy Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, nhằm
biến quá trình thực hiện nghĩa vụ của công chức, viên chức thành quá trình thực
hiện nhiệm vụ của Đảng.
Bốn là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng công tác kiểm tra, giám
sát.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng công tác kiểm tra là từ việc kiểm
tra của Đảng, phát hiện và giải quyết những ưu điểm và hạn chế của Đảng nhằm
nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng; từ đó củng cố, tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
33

Thông qua hoạt động kiểm tra Đảng đối với cán bộ, đảng viên và tổ chức
Đảng nói chung; đối với cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng ở trong cơ quan
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội nói riêng mà Đảng đã
phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm; đồng thời phát hiện và phát huy
những ưu điểm trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Qua đó, nâng cao năng
lực và sức chiến đấu của Đảng, góp phần to lớn vào công cuộc củng cố và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính
trị - xã hội. Đánh giá về vai trò, ý nghĩa của công tác kiểm tra trong sự lãnh đạo
của đảng mác – xít đối với nhà nước và xã hội, Lênin đã từng khái quát: Lãnh
đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo. Do vậy, công tác kiểm tra
là một phương thức chủ đạo mà Đảng sử dụng để lãnh đạo Nhà nước (nhất là
đối với cơ quan Nhà nước hoạt động theo chế độ thủ trưởng), Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội.
Từ việc kiểm tra của Đảng, đặc biệt là kiểm tra đối với cán bộ, đảng viên
và tổ chức Đảng nằm trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội, phát hiện những cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng có sai phạm
kịp thời sửa sai hơn nữa nhằm phát hiện đảng viên và tổ chức Đảng có những
sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình để tổng kết nhân rộng, từ đó
làm cho Đảng nắm được, lãnh đạo được Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội. Đồng thời, làm cho Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh,
đáp ứng vai trò lãnh đạo đối với HTCT nói riêng và đối với xã hội nói chung.
Qua công tác kiểm tra, giám sát sẽ nâng cao uy tín, năng lực và sức chiến đấu
của Đảng; đúc rút được những bài học kinh nghiệm quý báu về sự lãnh đạo đối
với hoạt động của công chức, viên chức và các cơ quan của Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội. Từ đó, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Nội dung kiểm tra Đảng là kiểm tra người và việc của Đảng. Tức là
kiểm tra cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng trong Nhà nước, Mặt trận và các
34

đoàn thể chính trị - xã hội về thực hiện cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết và
những quy định của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội.
Năm là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng quy chế phối hợp công
tác.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng quy chế phối hợp công tác là việc
cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước và Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội ở những cấp tương đương thống nhất, quy
định bằng văn bản về chế độ làm việc giữa các bên, để Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện tốt đường lối của cơ quan lãnh đạo
Đảng cấp trên và của cấp tương đương.
- Cơ quan lãnh đạo của Đảng và cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước,
cơ quan lãnh đạo của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp họp
và thống nhất về chế độ phối hợp công tác giữa hai bên trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị; trong việc kiểm tra việc thực hiện đường lối của Đảng, trong
vấn đề báo cáo việc thực hiện đường lối của Đảng.
- Cơ sở lý luận của phương thức này là NQTW 3 Khóa 7. ‘‘Cần có quy
chế về phương thức lãnh đạo, quan hệ công tác giữa Đảng và các cơ quan Nhà
nước”. Ở đây chúng ta suy rộng ra Đảng có quy chế phối hợp công tác không
những đối với Nhà nước mà còn cần có quy chế phối hợp công tác đối với Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Sáu là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng phát huy dân chủ trong
Đảng và trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng phát huy dân chủ là việc Đảng
quán triệt, mở rộng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình thực hiện sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội. Đồng thời vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ trong việc tham gia
hoạt động của các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
35

Trong hoạt động nội bộ của Đảng, khi thực hiện vai trò lãnh đạo của
mình đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thì nguyên
tắc tập trung dân chủ được quán triệt và thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc
và triệt để. Tức là khi đứng trước một vấn đề thể hiện sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thì Đảng họp bàn một
cách dân chủ, sau khi tập thể bàn bạc, thảo luận thống nhất và biểu quyết (vấn
đề đã được quyết định theo đa số) thì quyết nghị đó có giá trị bắt buộc thi hành
trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội. Điều này thể hiện sự phát huy dân chủ trong Đảng đối với
việc lãnh đạo HTCT.
Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội có sự tác động biện chứng:
- Đảng lãnh đạo Nhà nước và Nhà nước cũng tác động trở lại đối với
Đảng.
- Đảng lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội và Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội cũng tác động trở lại đối với Đảng.
Như vậy, quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính
trị - xã hội trong Hệ thống chính trị nước ta là mối quan hệ biện chứng. Mối
quan hệ này luôn đảm bảo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào
công việc thuộc nội bộ của mỗi tổ chức, hợp tác để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mỗi tổ chức. Mối quan hệ biện chứng này, tạo thành cơ chế Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Đảng phát huy quyền làm chủ của nhân dân bằng các việc làm cụ thể
như:
- Thường xuyên lấy ý kiến của nhân dân đối với các văn kiện của Đảng,
vận động nhân dân tham gia xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
- Vận động nhân dân tham gia hoạt động quản lý Nhà nước, giám sát
công chức, viên chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước.
36

- Vận động, tập hợp nhân dân tham gia vào các Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
thông qua hoạt động của các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị -
xã hội.
Có thể nói phương thức phát huy dân chủ là một phương thức rất hiệu
quả trong việc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính
trị - xã hội, thể hiện một cách độc đáo nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Qua
phương thức này đã làm cho hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội tăng lên rất nhiều. Vì nó là sự
tác động biện chứng giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao trình
độ trí tuệ; giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tăng cường
dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê
bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng phải phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân
dân, khắc phục tệ quan liêu độc đoán, chuyên quyền, bao biện làm thay; mặt
khác, Đảng không được buông lỏng sự lãnh đạo, mất cảnh giác trước những
luận điệu cơ hội, mị dân đòi Đảng phải trả quyền lực cho Nhà nước và nhân
dân. Thực chất của những đòi hỏi đó chỉ nhằm chia rẽ Đảng với nhân dân, xoá
bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và làm thay đổi chế độ. Ở một vài nước xã hội
chủ nghĩa, trong những điều kiện lịch sử cụ thể, đã hình thành hệ thống chính
trị đa đảng. Đó là các đảng liên minh với đảng cộng sản, thừa nhận sự lãnh đạo
của đảng cộng sản chứ không phải là đảng đối lập. Kinh nghiệm lịch sử cho
thấy, thành lập đảng đối lập là nguy cơ trực tiếp để mất chính quyền vào tay
các lực lượng thù địch với chủ nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch, phản động
37

hiện nay cũng đang lợi dụng chiêu bài đa đảng, đa nguyên chính trị, dân chủ
nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa bằng “diễn biến hoà bình”...
Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời gian
tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã
nhấn mạnh: ngoài việc cần tiếp tục thực hiện tốt tám nhiệm vụ trong công tác
xây dựng Đảng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra,
coi đó là những nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa lâu dài và phải thực hiện thường
xuyên, có hiệu quả, đồng thời tập trung cao độ để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
tốt ba vấn đề cấp bách sau đây:
Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân
đối với Đảng.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp
trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng”.
Trong ba vấn đề nêu trên, vấn đề thứ nhất được Đảng ta xác định là
trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất..
IV. ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ NƯỚC TA HIỆN NAY
Đảng ta là đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền. Điều đó có những ưu thế,
đồng thời cũng đặt ra không ít thách thức, nguy cơ. Ưu điểm, ưu thế của một
đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền là đảng lãnh đạo toàn diện Nhà nước và
xã hội. Các chủ trương, đường lối của Đảng là một trong những căn cứ chủ yếu
để hoạch định chính sách công, xây dựng hệ thống pháp luật (kể cả Hiến pháp).
38

Đảng chịu trách nhiệm trước hết và đóng vai trò quyết định trong thành tựu cũng
như hạn chế của quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Quy trình ra các
quyết định nhanh chóng, không bị cản trở bởi các yếu tố chính trị tiêu cực. Khi
có đường lối, chủ trương đúng thì dễ dàng đạt được sự thống nhất trong động
viên chính trị, đoàn kết và đồng thuận xã hội.
Tuy nhiên, nguy cơ của một đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền là dễ rơi vào
xa dân, đặc quyền, đặc lợi, trách nhiệm giải trình thấp; dễ sai lầm về đường lối,
mắc bệnh chủ quan, duy ý chí; hạn chế về khả năng tiếp nhận sự phản biện, phê
phán từ xã hội; sự trì trệ trong phương thức lãnh đạo của Đảng...
Từ thực tiễn lãnh đạo và cầm quyền, nhất là từ thực tiễn của công cuộc
đổi mới, từ những bài học của Đảng Cộng sản Liên Xô và các nước Đông Âu,
Đảng ta đã nhận thức rõ yêu cầu cấp bách về đổi mới phương thức lãnh đạo và
phương thức cầm quyền của Đảng, coi “đổi mới phương thức lãnh đạo là một
trong những nhiệm vụ và giải pháp hàng đầu để nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền của Đảng”.
Trong những năm qua, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về phương
thức lãnh đạo của Đảng và ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của
hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều đổi mới và đạt
được những kết quả quan trọng, đồng thời, vẫn còn nhiều hạn chế.
Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, Hội
nghị Trung ương 5, khóa X đã thảo luận và ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW
Về Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ
thống chính trị. Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu, quan điểm , nhiệm vụ và giải
pháp đổi mới phương thức lãnh đạo hệ thống chính trị của Đảng.
1. Mục tiêu
- Tạo chuyển biến mạnh mẽ, thực chất trong đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, sát thực
39

tiễn, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện của Đảng trong giai đoạn mới. Giữ
vững nguyên tắc của Đảng, đồng thời phát huy sự chủ động, sáng tạo của các
cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hệ thống chính trị.
- Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
nhất là thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật và các văn bản dưới luật; tạo chuyển
biến thực sự, đạt kết quả cao trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng ở
các cấp. Đề cao trách nhiệm của tập thể, phát huy vai trò tiên phong, gương
mẫu của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong thực hiện chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với kiểm soát quyền lực
chặt chẽ.
- Xây dựng phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cấp ủy, tổ chức
đảng thực sự khoa học, dân chủ, sát với thực tiễn; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng thông suốt từ Trung ương đến cơ sở.
2. Quan điểm chỉ đạo
- Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phải kiên định, vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực
hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên
tắc tập trung dân chủ; làm rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đẩy
mạnh phân cấp, phân quyền, gắn với nêu cao trách nhiệm của tổ chức và cá
nhân, nhất là người đứng đầu; giữ vững sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, kỷ
luật, kỷ cương; bảo đảm nguyên tắc quyền hạn đi đôi với trách nhiệm, mọi cán
bộ, đảng viên phải hoạt động trong khung khổ pháp luật, nguyên tắc và kỷ luật
của Đảng.
- Phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận
trọng, có bước đi vững chắc; vấn đề đã rõ thì kiên quyết đổi mới, vấn đề cần
thiết nhưng chưa rõ, còn ý kiến khác nhau thì phải nghiên cứu, thí điểm, không
nóng vội nhưng cũng không bỏ qua hoặc để chậm, ảnh hưởng đến sự phát triển;
40

kế thừa, phát huy những thành tựu, kết quả, kinh nghiệm tốt trong phương thức
lãnh đạo của Đảng đã được thực tiễn chứng minh là đúng. Ở mỗi cấp, mỗi lĩnh
vực phải vừa quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm,
yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng lĩnh vực và của từng loại hình
cơ quan nhà nước, từng tổ chức chính trị - xã hội.
- Phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn trong tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ, sâu sắc về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện mới, triển khai thực hiện đồng bộ các phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu xây dựng, ban
hành, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng; đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ; đổi mới, nâng cao hiệu quả công
tác tuyên truyền, giáo dục, vận động; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên; đồng thời, đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong
cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo
của Đảng từ Trung ương tới cơ sở.
3. Nhiệm vụ và giải pháp
Đảng ta là đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền. Điều đó có những ưu
thế, đồng thời cũng đặt ra không ít thách thức, nguy cơ. Ưu điểm, ưu thế của một
đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền là đảng lãnh đạo toàn diện Nhà nước và
xã hội. Các chủ trương, đường lối của Đảng là một trong những căn cứ chủ yếu
để hoạch định chính sách công, xây dựng hệ thống pháp luật (kể cả Hiến pháp).
Đảng chịu trách nhiệm trước hết và đóng vai trò quyết định trong thành tựu cũng
như hạn chế của quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Quy trình ra các
quyết định nhanh chóng, không bị cản trở bởi các yếu tố chính trị tiêu cực. Khi
có đường lối, chủ trương đúng thì dễ dàng đạt được sự thống nhất trong động
viên chính trị, đoàn kết và đồng thuận xã hội.
Tuy nhiên, nguy cơ của một đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền là dễ rơi vào
xa dân, đặc quyền, đặc lợi, trách nhiệm giải trình thấp; dễ sai lầm về đường lối,
41

mắc bệnh chủ quan, duy ý chí; hạn chế về khả năng tiếp nhận sự phản biện, phê
phán từ xã hội; sự trì trệ trong phương thức lãnh đạo của Đảng...
Từ thực tiễn lãnh đạo và cầm quyền, nhất là từ thực tiễn của công cuộc
đổi mới, từ những bài học của Đảng Cộng sản Liên Xô và các nước Đông Âu,
Đảng ta đã nhận thức rõ yêu cầu cấp bách về đổi mới phương thức lãnh đạo và
phương thức cầm quyền của Đảng, coi “đổi mới phương thức lãnh đạo là một
trong những nhiệm vụ và giải pháp hàng đầu để nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền của Đảng”.
Trong những năm qua, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về phương
thức lãnh đạo của Đảng và ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của
hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều đổi mới và đạt
được những kết quả quan trọng, đồng thời, vẫn còn nhiều hạn chế.
Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, Hội
nghị Trung ương 6, khóa XIII đã thảo luận và ban hành Nghị quyết số 15-
NQ/TW Về Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
của hệ thống chính trị. Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và
giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo hệ thống chính trị của Đảng.

3.1. Đổi mới, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện
đạt hiệu quả cao chủ trương, đường lối của Đảng
- Đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản của Đảng
theo hướng đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tính dự báo cao,
bám sát thực tiễn. Chỉ ban hành văn bản mới khi thật sự cần thiết. Đối với
những văn bản quan trọng, tác động sâu rộng, trước khi ban hành cần lấy ý
kiến của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính
trị - xã hội, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Tiếp tục hoàn thiện
quy định về ban hành văn bản của Đảng; khắc phục tình trạng ban hành
văn bản không sát với thực tiễn, nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu
42

tính khả thi, không rõ trách nhiệm, thiếu nguồn lực tổ chức thực hiện.
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, bảo đảm đạt hiệu quả cao với các biện pháp chủ yếu như: Tổ
chức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân nghiên cứu, học tập quán triệt chủ
trương, đường lối của Đảng; xây dựng chương trình, kế hoạch để triển khai
thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của cơ quan,
đơn vị, địa phương; tập trung nghiên cứu, thể chế hóa thành luật và các văn
bản dưới luật; xây dựng các quy định, quy chế của Đảng; tăng cường kiểm
tra, giám sát quá trình tổ chức thực hiện; đổi mới cách thức thông tin,
báo cáo kết quả thực hiện của địa phương, đơn vị. Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên
lãnh đạo, định hướng, cho chủ trương đối với những vấn đề lớn, mới, phức
tạp, nhạy cảm trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng hoặc cho chủ trương thí điểm một số nội dung cần thiết.
- Nâng cao chất lượng tham mưu văn bản của các cơ quan tham mưu, giúp
việc của Đảng, nhất là trong tham mưu chiến lược, hoạch định chủ trương,
đường lối; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng.

- Tập trung lãnh đạo các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị thực
hiện tốt các nội dung sau:
Đối với Quốc hội: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Đổi mới tổ chức, nâng cao
chất lượng hoạt động của Quốc hội trong thực hiện chức năng lập pháp, giám
sát tối cao, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Đặc biệt coi trọng
xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai,
minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân,
tổ chức, doanh nghiệp làm trọng tâm; chống tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục
bộ trong xây dựng pháp luật. Phát huy dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên
43

nghiệp, khoa học; nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, nhất là đại biểu hoạt
động chuyên trách, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của
Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.

Đối với Chính phủ: Tập trung lãnh đạo xây dựng nền hành chính nhà
nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong
sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, hiệu quả; tăng cường quản lý vĩ mô,
xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đồng bộ, thống nhất. Tiếp
tục đổi mới tổ chức và hoạt động, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, làm rõ hơn
nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng tổ chức, cá nhân trong bộ máy
hành chính, cải cách hành chính, đi đôi với nâng cao năng lực thực thi và tăng
cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, bảo đảm Chính phủ thực sự
là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ
quan chấp hành của Quốc hội.

Đối với các cơ quan tư pháp: Lãnh đạo tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao
chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tòa án nhân dân, xác định
việc lãnh đạo đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của tòa án
nhân dân các cấp là trọng tâm trong lãnh đạo cải cách tư pháp; viện kiểm
sát nhân dân, các cơ quan điều tra, thi hành án, bổ trợ tư pháp đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp; xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công
bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của tổ chức, cá nhân.

Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội:
Lãnh đạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở,
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng; thực hiện tốt vai trò đại diện cho quyền, lợi ích hợp
44

pháp, chính đáng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên và
Nhân dân; nâng cao chất lượng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận
động, hoạt động giám sát, phản biện xã hội; xây dựng và chỉnh đốn tổ chức,
phát triển đoàn viên, hội viên; làm cầu nối vững chắc giữa Đảng với Nhân dân.

3.2. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền,
vận động
- Đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và Nhân dân thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước bảo đảm thiết thực,
phù hợp với từng đối tượng. Chú trọng tiếp thu ý kiến góp ý, phản biện của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân
trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là những vấn đề mới
phát sinh từ thực tiễn. Phát huy vai trò của cơ quan báo chí, truyền thông,
đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong công tác tuyên truyền, đi đôi
với việc đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin, công nghệ số.
- Nâng cao trách nhiệm, tính tự giác, gương mẫu của các cấp ủy, tổ
chức đảng, cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên trong thực hiện và vận động
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, kịp thời biểu dương, tôn vinh
những tấm gương tiêu biểu, nhân tố mới, điển hình tiên tiến. Chú trọng
định hướng chính trị, tư tưởng; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; tích
cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
- Thực hiện tốt quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về dân chủ ở
cơ sở và Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là công tác
dân vận của các cơ quan nhà nước với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân, lấy quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân làm
45

trung tâm trong thực hiện quy chế và pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Tiếp
tục đổi mới công tác tuyên truyền, vận động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội, tăng cường sự đồng thuận, hưởng ứng tham
gia của Nhân dân, góp phần thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của
Đảng.

3.3. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ
chức, cán bộ

3.3.1. Về tổ chức bộ máy

- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị, vận hành thông suốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Chú trọng lãnh đạo xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn
mới.
- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của
đảng đoàn, ban cán sự đảng từ Trung ương đến địa phương đáp ứng yêu
cầu lãnh đạo của Đảng, phù hợp với thực tiễn. Đẩy mạnh phát triển tổ chức
cơ sở đảng, nhất là trong khu vực ngoài nhà nước và ở xã, phường, thị trấn,
thôn, tổ dân phố; sắp xếp hợp lý tổ chức đảng ở địa phương, tổ chức đảng
theo ngành dọc bảo đảm yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
và xây dựng Đảng. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan
hệ công tác của các loại hình tổ chức đảng. Nghiên cứu mô hình tổ chức
đảng của các cơ quan dân cử và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phù hợp với
tính chất hoạt động.
- Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng trong chấp hành,
thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng liên quan đến tổ chức bộ
máy; tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các
46

quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của
từng cơ quan, tổ chức; khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo, bỏ sót
hoặc không rõ chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý. Phân cấp, phân
quyền hợp lý, rõ ràng giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp
dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Khắc phục tình trạng cấp dưới hỏi
cấp trên việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình hoặc
cấp trên trả lời chung chung không rõ trách nhiệm khi có vướng mắc... Hoàn
thiện cơ chế bảo đảm kiểm soát quyền lực trong hoạt động của các cơ quan,
tổ chức, nhất là trong các cơ quan quản lý nhà nước, những lĩnh vực quan
trọng, nhạy cảm, dễ lạm dụng quyền lực.
- Thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng về công tác quản lý biên chế
của hệ thống chính trị, tinh giản biên chế theo vị trí việc làm, có trọng tâm,
trọng điểm gắn với nâng cao chất lượng, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức. Đến năm 2025, cơ bản hoàn thiện xây dựng vị trí việc làm
trong từng cơ quan, tổ chức, làm cơ sở để xác định tổng biên chế của hệ thống
chính trị giai đoạn 2026 - 2031.

3.3.2. Về công tác cán bộ

- Bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công
tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Đảng trực tiếp
lãnh đạo, chỉ đạo, xem xét, phân công, giới thiệu cán bộ vào các vị trí lãnh
đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức trong
hệ thống chính trị và thông qua đội ngũ cán bộ để lãnh đạo thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng chú trọng lựa chọn, bố
trí cán bộ đủ tiêu chuẩn để bầu vào cấp ủy, chức danh lãnh đạo của các cơ
quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội các
cấp; lãnh đạo việc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm theo quy định của pháp
luật, điều lệ của các tổ chức.
- Hoàn thiện quy định lựa chọn, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán
47

bộ của các cấp ủy, tổ chức đảng theo hướng dân chủ, công khai, minh
bạch, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện quy định. Tổng kết việc thí điểm thi
tuyển một số chức danh lãnh đạo, quản lý. Thực hiện nghiêm quy định của
Đảng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy
quyền. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về cơ chế tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách, trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cán bộ, nhất là trong
đánh giá, giới thiệu, bổ nhiệm cán bộ.
- Tiếp tục cụ thể hóa, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng về xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực,
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng
giữa các thế hệ; các chủ trương, quy định liên quan đến công tác cán bộ như
tiêu chuẩn chức danh, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển,
bổ nhiệm, chế độ, chính sách; tăng cường phân cấp, phân quyền trong quản
lý cán bộ.

- Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng nhân tài vào làm việc
trong hệ thống chính trị; thể chế hóa chủ trương của Đảng về khuyến
khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm vì lợi ích chung; sửa đổi chính sách, pháp luật để liên thông
cán bộ từ cấp xã tới cấp huyện, cấp tỉnh. Khuyến khích cán bộ từ chức
khi có khuyết điểm; kịp thời thay thế cán bộ bị kỷ luật, cán bộ năng lực
hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ
nhiệm; kiên trì thực hiện “có vào, có ra, có lên, có xuống” trong công tác
cán bộ. Tổ chức thực hiện nghiêm kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương
bố trí công tác đối với cán bộ sau khi bị kỷ luật, góp phần bảo đảm kỷ cương,
củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, Nhân dân đối với Đảng và chế độ.
- Khắc phục hạn chế, yếu kém, hình thức trong đánh giá cán bộ. Đánh
giá cán bộ phải toàn diện, chặt chẽ, thực chất, khách quan, nhiều chiều
cùng với phẩm chất, bản lĩnh chính trị, ý thức, trách nhiệm, uy tín trong
48

tập thể và trong Nhân dân, phải đặc biệt chú trọng kỹ năng công tác, chất
lượng, hiệu quả công việc được giao, bằng sản phẩm, kết quả cụ thể; gắn
đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của
cơ quan, đơn vị, địa phương. Thường xuyên cảnh báo, nhắc nhở giúp cán
bộ nhận diện nguy cơ, không mắc sai lầm, kịp thời khắc phục khuyết
điểm. Xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu khi để cấp phó, cán bộ dưới
quyền trực tiếp tiêu cực, tham nhũng.

Thực hiện nghiêm quy định của Đảng về việc lấy phiếu tín nhiệm trong
lãnh đạo cấp ủy, các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, minh bạch.
Kết quả lấy phiếu tín nhiệm là cơ sở quan trọng cho việc đánh giá, bố trí, sử
dụng cán bộ. Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong giám sát việc thực hiện
chức trách, nhiệm vụ và giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống của đội ngũ
cán bộ các cấp.

- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan tham mưu, giúp việc
của Đảng ở các cấp, nhất là cán bộ tham mưu cấp chiến lược có đủ bản
lĩnh, phẩm chất, trình độ, năng lực, kinh nghiệm, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ của Đảng.

3.4. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát

- Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp
việc của Đảng trong kiểm tra, giám sát các hoạt động thuộc lĩnh vực được
giao. Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra của Nhà nước.

- Thực hiện hiệu quả Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
49

đến năm 2030. Chú trọng kiểm tra, giám sát việc cụ thể hóa chủ trương,
đường lối của Đảng; tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp; thực
hiện kết luận kiểm tra của cấp ủy, tổ chức đảng. Thường xuyên kiểm tra, giám
sát cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trong công tác cán bộ và vai
trò nêu gương của cán bộ, đảng viên.

- Đổi mới phương pháp, quy trình, nâng cao kỹ năng kiểm tra, giám sát,
bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng,
chặt chẽ. Thực hiện giám sát mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm; chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên từ sớm, từ xa, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn.
Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt
ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc, dư luận quan tâm, các
lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời tổ
chức đảng, đảng viên sai phạm.

- Nghiên cứu quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát của các
cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp. Xây dựng cơ chế chỉ đạo, điều phối,
khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp, hình thức, kém hiệu quả trong
các hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán. Thực hiện tốt việc
kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm
tra, thanh tra, kiểm toán.

- Tập trung xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra
các cấp theo hướng liêm chính, chuyên nghiệp hơn.

3.5. Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên
- Hoàn thiện quy định và đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu gắn với học tập và làm
50

theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần lan tỏa trong xã
hội những hành động tốt, tấm gương tiêu biểu của cán bộ, đảng viên.
- Các cấp ủy, tổ chức đảng chú trọng nâng cao năng lực, sức chiến đấu của

tổ chức cơ sở đảng, đảng viên; nêu cao tinh thần tự giác, tự kiểm tra, tự phê
bình và phê bình trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng,
tuân thủ pháp luật, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức. Đồng
thời, nêu cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc vận động gia đình,
người thân xây dựng lối sống gương mẫu.
- Mọi đảng viên phải gương mẫu nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm
Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, phục tùng tuyệt đối sự phân
công của Đảng; giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân; học tập, rèn luyện,
nâng cao năng lực, phẩm chất, lối sống; giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong
Đảng.
- Kịp thời khen thưởng tập thể, cá nhân đảng viên tiêu biểu, gương mẫu.
Phát hiện, chấn chỉnh hành vi thiếu gương mẫu của cán bộ, đảng viên; xử lý
nghiêm cán bộ, đảng viên sai phạm.

3.6. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách
lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan
lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở
- Đổi mới phong cách, phương pháp công tác, lề lối làm việc bảo đảm
khoa học, dân chủ, sâu sát, cụ thể. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế
làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền
hạn, mối quan hệ, quy trình công tác, khắc phục tình trạng bao biện, làm thay,
vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, áp đặt hoặc buông lỏng vai trò lãnh
đạo của cấp ủy, tổ chức đảng.
- Hoàn thiện quy định về ban hành văn bản của Đảng bảo đảm khoa học,
thực tiễn, hệ thống, chặt chẽ. Rà soát, phát hiện, khắc phục những nội dung
51

còn chồng chéo, mâu thuẫn trong các văn bản của Đảng đã ban hành, hủy
bỏ những văn bản không còn phù hợp. Hoàn thiện quy định về việc tổ chức
thực hiện và sơ kết, tổng kết chủ trương, đường lối của Đảng. Tiếp tục đổi
mới chương trình, nội dung, cách thức tổ chức hội nghị của cấp ủy, tổ chức
đảng các cấp.
- Đổi mới, nâng cao chất lượng học tập, quán triệt chủ trương, đường lối
của Đảng theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, hình thức linh hoạt, phù
hợp, tăng cường hội nghị chuyên đề trên các lĩnh vực. Sử dụng hài hòa hình
thức trực tuyến với trực tiếp và tuyên truyền miệng; phát huy vai trò của
cấp ủy trong việc tổ chức học tập, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng
tại cấp mình.
- Thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan,
toàn diện, công tâm, công khai, minh bạch, chính xác, chống cục bộ, địa
phương, bè phái.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin,
chuyển đổi số trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị từ Trung
ương đến địa phương; mở rộng hình thức họp trực tiếp kết hợp với trực
tuyến; giảm hội họp không cần thiết. Xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở
đảng, đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở. Xây
dựng và áp dụng tiêu chí, chỉ số đánh giá hiệu quả, chất lượng hoạt động
của các cơ quan, tổ chức như quản trị công, cải cách hành chính, chỉ số hài
lòng của cán bộ, đảng viên, người dân, làm cơ sở để nâng cao chất lượng,
cải tiến phong cách, lề lối làm việc, cải cách hành chính.
- Tiếp tục đổi mới công tác thông tin, báo cáo trong Đảng, bảo đảm nhanh,
chính xác, kịp thời, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.
Ngoài ra, để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cũng cần chú ý đến một số
52

nhiệm vụ và giải pháp cụ thể như sau:


- Đối với hoạt động của Quốc hội và Chủ tịch nước;
Đối với Quốc Hội:
+ Tiếp tục xây dựng Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của
Nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất; phát huy tính dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp,
khoa học, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động,
bảo đảm Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
+ Đề cao vai trò trung tâm của đại biểu Quốc hội; nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động, bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý
số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các
cơ quan hành pháp, tư pháp. Gắn trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với đơn vị
bầu cử và cử tri; đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức tiếp xúc cử tri của đại
biểu Quốc hội; hoàn thiện cơ chế giám sát của cử tri và cơ chế, phương thức,
tiêu chí đánh giá đối với đại biểu Quốc hội; bảo đảm các điều kiện để đại biểu
Quốc hội thực hiện tốt vai trò trung tâm của mình.
+ Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội theo hướng nghiên
cứu tăng hợp lý số kỳ họp của Quốc hội; kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả
hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ do Hiến pháp quy định; đề cao vị trí, vai trò, kiện toàn tổ chức, nâng cao
năng lực hoạt động của Hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội, các cơ quan
thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo hướng rành mạch, chủ động, trách
nhiệm, chuyên sâu, nhạy bén; hoàn thiện thiết chế Tổng Thư ký Quốc hội, Ban
Thư ký Quốc hội; xây dựng Quốc hội điện tử.
+ Tiếp tục đổi mới căn bản, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động lập
pháp, bảo đảm quản trị quốc gia bằng Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế.
53

+ Tiếp tục nghiên cứu để xác định rõ hơn phạm vi, đối tượng, phương
pháp, hình thức giám sát tối cao của Quốc hội phù hợp thực tiễn; nâng cao chất
lượng hoạt động chất vấn, giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, chú
trọng việc theo dõi, xem xét, đôn đốc việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát;
thực hiện nghiêm việc lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội.
+ Đổi mới quy trình quyết định về ngân sách nhà nước bảo đảm thực chất,
đi đôi với giám sát việc thực hiện ngân sách, từng bước thay thế việc ban hành
các nghị quyết bằng các đạo luật về tài chính, ngân sách.
Đối với Chủ tịch nước:
Nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về vị trí, quyền hạn, nhiệm vụ của Chủ
tịch nước với vai trò là nguyên thủ quốc gia. Tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn
nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong vai trò thống lĩnh các lực lượng
vũ trang, Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, trong hoạt động đối nội,
đối ngoại, trong mối quan hệ với Quốc hội, Chính phủ, toà án nhân dân, viện
Kiểm sát nhân dân theo quy định của Hiến pháp.
- Đối với hoạt động của Chính phủ:
+ Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, theo hướng tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tổ chức các bộ, các cơ quan chuyên môn đa
ngành, đa lĩnh vực; giảm hợp lý số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ. Tăng cường
vai trò, nâng cao trách nhiệm của bộ trưởng với tư cách thành viên Chính phủ
trong quản lý vĩ mô và xây dựng chính sách. Thực hiện nguyên tắc một việc
chỉ giao cho một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cơ quan có liên
quan phối hợp thực hiện; từng bước xoá bỏ cơ chế phối hợp liên ngành, gắn với
việc xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu. Phát huy đầy đủ vị trí, vai trò
của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành
pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội; đề cao tính chủ động, sáng tạo, tập
trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, công cụ kiểm tra, giám sát, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, kỷ
54

luật, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia. Đổi mới quản
trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tập trung quản lý phát triển;
bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, nâng cao tính minh bạch, trách
nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân.
+ Xác định rõ và thực hiện đầy đủ vị trí, vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm
của Chính phủ trong xây dựng pháp luật, nâng cao năng lực phản ứng chính
sách; bảo đảm chủ động tham gia, phối hợp chặt chẽ, tăng cường kiểm soát của
Chính phủ đối với nền hành chính quốc gia và việc thực hiện quyền lập pháp.
- Đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp và Kiểm toán Nhà nước;

+ Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng
ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư
pháp; bảo đảm tính độc lập của toà án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

+ Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng
là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền,
hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương
thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp. Đổi mới và nâng
cao hiệu quả cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại toà án. Tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án dân sự trong
trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc trường hợp
liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện.

+ Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp toà án
là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm
phán, hội thẩm khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc
thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng
toà án điện tử. Xác định thẩm quyền của toà án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn
55

quyền tư pháp; mở rộng thẩm quyền của toà án trong xét xử các vi phạm hành
chính, quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công
dân. Nghiên cứu làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên toà,
những trường hợp toà án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử.

+ Hoàn thiện thể chế để viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; hoàn thiện cơ chế tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, tăng cường kiểm soát bên
trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với
nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

+ Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức
bộ máy của cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra theo hướng tinh, gọn, chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu
lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao và góp phần bảo đảm quyền
con người, quyền công dân đối với người bị giữ, bị bắt, tạm giữ, tạm giam theo
quy định của pháp luật. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế cơ quan điều tra kiến
nghị xem xét, giải quyết trường hợp các lệnh, quyết định tố tụng của cơ quan
điều tra bị viện kiểm sát huỷ bỏ hoặc không phê chuẩn không phù hợp với quy
định của pháp luật.

+ Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành
án. Hoàn thiện cơ chế thi hành án hình sự theo hướng nâng cao hơn nữa hiệu
quả công tác quản lý giáo dục, cải tạo phạm nhân, quản lý, giám sát, giáo dục
người chấp hành án hình sự tại cộng đồng; bảo đảm và bảo vệ tốt hơn quyền
con người, quyền công dân đối với người chấp hành án theo quy định của pháp
luật. Hoàn thiện cơ chế nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành án dân sự, hành
chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí. Nâng cao hiệu quả
phối hợp giữa các cơ quan trong thi hành án hình sự, dân sự và hành chính;
thực hiện xã hội hoá một số hoạt động thi hành án dân sự với cơ chế bảo đảm
và lộ trình phù hợp.
56

+ Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư
thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm tự quản của tổ chức xã
hội - nghề nghiệp đối với luật sư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động
hành nghề luật sư. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát
triển đội ngũ luật sư có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong
sáng, am hiểu pháp luật, giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Củng cố hội luật gia các cấp, nâng
cao vai trò, trách nhiệm của thành viên hội luật gia trong thực hiện nhiệm vụ
đúng quy định pháp luật.

+ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực để xã hội hoá và phát
triển các lĩnh vực công chứng, hoà giải, trọng tài, thừa phát lại, giám định tư
pháp; xây dựng đội ngũ hành nghề công chứng, hoà giải, trọng tài, thừa phát
lại, giám định tư pháp đủ về số lượng và bảo đảm chất lượng, hoạt động chuyên
nghiệp, tuân thủ pháp luật và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng tốt nhu
cầu của xã hội.

+ Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý,
nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hoá, tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được
trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước.
+ Phát triển nhân lực tư pháp đủ số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu
hợp lý. Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực tư pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý
các cơ sở đào tạo cử nhân luật. Xác định rõ hệ tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp
vụ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp, kiến thức
pháp luật, kinh tế, xã hội và kinh nghiệm thực tiễn đối với từng chức danh, nhân
lực tư pháp. Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm
các chức danh tư pháp. Đổi mới chính sách, chế độ tiền lương, thời hạn bổ
nhiệm và cơ chế bảo đảm để đội ngũ cán bộ tư pháp yên tâm công tác, liêm
57

chính, công tâm, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới,
nhất là đối với đội ngũ thẩm phán.
- Đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội:
Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, phát huy đầy đủ, hiệu
quả vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn
thể trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong việc phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân, giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực, góp phần tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
- Đối với công tác cán bộ;
- Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc của cơ quan lãnh đạo của
Đảng;
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với hoạt
động của hệ thống chính trị ở địa phương.
+ Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo
toàn diện, thống nhất của Đảng, phát huy trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo
và hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới,
nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết của
Đảng. Tăng cường lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Chú
trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và
cải cách tư pháp. Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua
58

việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy chế, quy định, quy trình cụ thể, công
khai để cán bộ, đảng viên và Nhân dân biết, giám sát việc thực hiện. Tăng cường
kiểm tra, giám sát việc cụ thể hoá, thể chế hoá và tổ chức thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng; khắc phục triệt để tình trạng thực hiện không đầy
đủ, không nghiêm, không hiệu quả.
+ Tiếp tục cụ thể hoá, thể chế hoá, hoàn thiện, thực hiện tốt cơ chế "Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" và phương châm "dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích và hạnh
phúc của Nhân dân; phát huy đầy đủ quyền làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của
Nhân dân. Hoàn thiện cơ chế để phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, các quy định cụ thể
để tăng cường và bảo đảm Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân
dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những
quyết định của mình; bảo đảm các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, thực sự gương mẫu, đi đầu trong việc tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật.
59

Bài 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA NHÀ NƯỚC


Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hệ thống chính trị
Nhà nước là tổ chức quyền lực thể hiện và thực hiện ý chí quyền lực của nhân
dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt
động của đời sống xã hội. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo chính trị của
giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị của giai cấp công nhân, thông
qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức trung tâm thực hiện
quyền lực chính trị, là trụ cột của hệ thống chính trị, là bộ máy tổ chức quản
lý kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Quản lý
xã hội chủ yếu bằng pháp luật, Nhà nước phải có đủ quyền lực, đủ năng lực
định ra pháp luật và năng lực để tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã
hội bằng pháp luật, thực hiện quyền lực nhân dân, phải luôn luôn chăm lo kiện
toàn các cơ quan Nhà nước, với cơ cấu gọn nhẹ hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả, với một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị vững vàng,
năng lực chuyên môn giỏi; thường xuyên giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; có cơ chế và biện pháp ngăn
ngừa tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lộng quyền vô trách nhiệm... của đội ngũ
cán bộ, công chức nghiêm trị những hành động gây rối, thù địch, phát huy vai
trò làm chủ của nhân dân, tổ chức xã hội, xây dựng và tham gia quản lý nhà
nước.
Nhấn mạnh vai trò của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện quản lý xã
hội bằng pháp luật cần thấy: Một là, toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị,
kể cả sự lãnh đạo của Đảng cũng phải trong khuôn khổ pháp luật hiện hành,
chống mọi hành động lộng quyền, coi thường pháp luật. Hai là, có mối liên hệ
60

thường xuyên và chặt chẽ giữa Nhà nước với nhân dân, lắng nghe và tôn trọng
ý kiến của nhân dân, quản lý đất nước vì lợi ích của nhân dân, chứ không phải
vì các cơ quan Nhà nước. Ba là, không có sự đối lập giữa nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng và tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước mà phải bảo đảm sự
thống nhất để làm tăng sức mạnh lẫn nhau. Tính hiệu lực và sức mạnh của Nhà
nước là thể hiện hiệu quả lãnh đạo của Đảng.
Bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa là hệ thống các cơ quan Nhà nước
từ trung ương xuống cơ sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống
nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bộ máy Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam bao gồm: Hệ thống cơ quan quyền lực (Quốc Hội và Hội đồng nhân
dân); hệ thống cơ quan hành chính (Chính phủ và Ủy ban nhân dân); hệ thống
cơ quan xét xử (Tòa án); hệ thống cơ quan kiểm sát(Viện kiểm sát) và Chủ
tịch nước.
* Đặc điểm của bộ máy Nhà nước Việt Nam
Một là, bộ máy quản lý Nhà nước xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh và
không ngừng được củng cố, hoàn thiện. Xuất phát từ cơ sở kinh tế, chính trị,
xã hội trong chủ nghĩa xã hội và từ bản chất của mình, Nhà nước xã hội chủ
nghĩa không thể đứng bên trên hoặc bên lề của các quá trình phát triển kinh tế
xã hội, mà nó phải đứng bên trong các quá trình đó. Nhà nước phải thực hiện
quản lý mọi mặt của đời sống xã hội để bảo đảm sự ổn định về chính trị, củng
cố quyền lực nhân dân, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội; thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế-xã hội. Toàn bộ những hoạt động quản lý rộng lớn
và phức tạp đó đòi hỏi Nhà nước phải có một bộ máy có đủ năng lực và sức
mạnh để thực hiện các chức năng quản lý xã hội. Bộ máy trấn áp của nhà nước
xã hội chủ nghĩa phải duy trì và củng cố.
Hai là, bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc
quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
61

quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bắt nguồn từ nhân dân. Nhân dân
thực hiện quyền lực của mình theo hai hình thức trực tiếp và gián tiếp thông
qua các cơ quan đại diện do mình trực tiếp bầu ra. Nhà nước càng phát triển thì
các hình thức dân chủ trực tiếp càng mở rộng và bộ máy Nhà nước cũng phải
được tổ chức và hoạt động bảo đảm cho nhân dân tham gia ngày càng nhiều
vào việc quản lý và quyết định các vấn đề của Nhà nước. Tuy tổ chức theo
nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng trong bộ máy Nhà nước
xã hội chủ nghĩa phải có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là
sự phân công và phối hợp dựa trên cơ sở tổ chức lao động quyền lực khoa học
tránh sự trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn trong việc thực hiện ba quyền với
những chức năng, nhiệm vụ cụ thể trong từng cơ quan, bảo đảm sự vận hành
nhịp nhàng, đồng bộ của cả bộ máy Nhà nước trong quá trình thực thi quyền
lực mà nhân dân trao cho Nhà nước.
Ba là, bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa có đội ngũ cán bộ, công chức
đáp ứng tiêu chuẩn chung: có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tận tụy
phục vụ nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, có quan hệ mật thiết
với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm, có trình độ lý luận thực tiễn, kiên định
tư tưởng và quan điểm của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có đủ
năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ cụ thể được
giao trong bộ máy nhà nước, không quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Bộ máy
Nhà nước được hợp thành từ nhiều cơ quan và tổ chức từ trung ương đến địa
phương, có cơ cấu phức tạp, phong phú và đa dạng. Mỗi cơ quan tổ chức có vị
trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ riêng, nhưng chúng hợp thành một thể thống
nhất, tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, cùng thực hiện các
chức năng chung và nhằm đạt được những mục tiêu thống nhất đặt ra trước nhà
nước.
62

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức quyền lực thể
hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Mặt khác,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, thực hiện đường lối chính trị của giai cấp công nhân, thông qua đội
tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng
pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng quy
luật khách quan của thị trường. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và bảo đảm
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa
là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản
lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí và vai trò đặc
biệt quan trọng trong hệ thống chính trị. Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước
trong hệ thống chính trị, trong đời sống xã hội được thể hiện bằng mối quan hệ
giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước thể chế
hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật và chính sách
làm công cụ để thực hiện quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Việc xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ
thống chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới hệ thống
chính trị, khắc phục sự chồng chéo, lấn sân giữa các thành tố trong hệ thống
chính trị, nhất là trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
63

nhập quốc tế. Tổ chức nhà nước ở nước ta gồm 3 loại cơ quan: Lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra, là cơ quan duy nhất
có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản
về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, những nguyên tắc
chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về các quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn
bộ hoạt động của Nhà nước. Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan
lập pháp.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chịu trách nhiệm trước
Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội, Với ý nghĩa đó, chính phủ
được gọi là cơ quan hành pháp. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện
các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối
ngoại của Nhà nước.
Cơ quan tư pháp gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các
cơ quan điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra để xử lý những tổ chức và
cá nhân vi phạm pháp luật, bảo đảm việc thực thi pháp luật một cách nghiêm
minh, chính xác.
Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí
của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không
ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật.
Để bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm việc xét
xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống,
64

tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ
quan khác của Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động
điều tra, truy tố...
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng
giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó là tổ chức trung
tâm thực hiện quyền lực chính trị, là trụ cột của hệ thống chính trị, là bộ máy
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội
theo quy định của pháp luật; thay mặt nhân dân thực hiện chức năng đối nội và
đối ngoại. Để Nhà nước hoàn thành nhiệm vụ quản lý xã hội bằng pháp luật, thực
hiện quyền lực nhân dân giao phó, phải thường xuyên chăm lo kiện toàn các cơ
quan nhà nước, với cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất chính trị vững vàng, năng
lực chuyên môn giỏi; thường xuyên giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức sống,
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; có cơ chế và biện pháp ngăn ngừa tệ quan
liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm...; nghiêm trị những hành động
gây rối, thù địch; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, của các tổ chức xã hội,
xây dựng và tham gia quản lý nhà nước...
Nhận thức về vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước xã hội
chủ nghĩa, cần thấy rằng:
Một là, toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị, kể cả sự lãnh đạo
của Đảng cũng phải trong khuôn khổ pháp luật, chống mọi hành động lộng
quyền, lạm quyền, coi thường và vi phạm pháp luật;
Hai là, duy trì mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ giữa Nhà nước và
nhân dân, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của
65

nhân dân, quản lý đất nước vì lợi ích của quảng đại nhân dân, vì lợi ích của
quốc gia, dân tộc chứ không phải vì quyền lợi hoặc lợi ích của thiểu số;
Ba là, không có sự đối lập giữa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng với
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Phải luôn luôn bảo đảm
sự thống nhất để tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Tính hiệu lực và sức
mạnh của Nhà nước chính là thể hiện hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng.
* Vị trí vai trò của Quốc hội

Quốc hội hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong
những cơ quan tối quan trọng của bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa xã hộ Việt Nam, do nhân dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông
đầu phiếu: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi
mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân”1 (Điều 27
Hiến pháp sửa đổi). Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân Việt
Nam, khi nhân dân thực hiện quyền làm chủ nhà nước của mình; đồng thời về
mặt quyền lực nhà nước, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Điều 69 Hiến pháp sửa đổi (2013) qui định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”2

Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, nên Quốc hội là cơ quan Nhà nước duy nhất có chức năng lập
Hiến, lập pháp. Do thực tiễn chính trị Việt Nam qui định, Quốc hội là cơ quan
đại diện cao nhất của nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện chức năng lập
hiến; việc lập Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp chưa thực hiện quyền phúc quyết
trực tiếp của toàn thể nhân dân. Mặt khác, Quốc hội còn có chức năng quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước như: chính sách đối nội, đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; những nguyên tắc

1
Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NxbCTQG, H.2013, tr18
2
Hiến pháp, sdd, tr32,33
66

tổ chức và hoạt động chủ yếu của bộ máy nhà nước; về các quan hệ xã hội xã
hội và hoạt động của công dân; Quốc hội còn là cơ quan Nhà nước có chức
năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước: “Quốc
hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”3 (Điều 69
Hiến pháp sửa đổi 2013).
* Vị trí, vai trò của Chính phủ
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những
cơ quan trọng yếu nhất của bộ máy Nhà nước, thực hiện quyền hành pháp và
được xác định là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, đồng thời là cơ quan
chấp hành của Quốc hội. Điều 94 của Hiến pháp (2013) xác định: “Chính phủ
là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Với vị trí, vai trò nói trên,
Chính phủ có nhiệm vụ soạn thảo các dự án luật, ban hành các văn bản qui
phạm pháp luật; tổ chức quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực đời sống và
xã hội.
* Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao
- Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân tối cao
Trong những năm vừa qua, Đảng ta đã chú trọng lãnh đạo công tác cải
cách tư pháp, phân công hai đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước và
đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ đảm nhiệm vai trò
trưởng ban và phó trưởng ban cải cách tư pháp Trung ương đạt được những tiến
bộ đáng kể, tạo điều kiện để xây dựng và phát triển nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, công bằng, khách quan.

3
Sdd, tr32,33
67

Điều 102, Hiến pháp nước ta qui định: “1. Toà án nhân dân là cơ quan
xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Toà án nhân dân gồm Toà án nhân dân tối cao và các toà án khác do
luật định”.
Toà án thực hiện việc xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và
gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo qui
định của pháp luật. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, Toà án nhân
dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Toà án nhân dân tối cao quản lý các Toà án nhân dân địa phương về tổ
chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương. Toà án nhân
dân tối cao quản lý các Toà án quân sự về tổ chức, có sự phối hợp chặt chẽ với
Bộ Quốc phòng. Qui chế phối hợp giữa Toà an nhân dân tối cao với Hội đồng
nhân địa phương và với Bộ Quốc phòng để quản lý các toà án nhân dân địa
phương và toà án quân sự về tổ chức do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội qui định.
- Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam qui định:
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Viện kiểm sát nhân dan tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp góp phần bảo đảm cho pháp luật được thực thi đúng và thống
nhất. Các viện kiểm sát dịa phương thực hiện quyền công tố và kiểm sát tư pháp
ở địa phương. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và quyền
kiểm sát các hoạt động tư pháp theo qui định của pháp luật. Theo qui định này
của Hiến pháp, Viện kiểm sát nhân dân không phải là cơ quan tư pháp, thực
hiện quyền tư pháp, mà là cơ quan Nhà nước thực hiện quyền công tố và kiểm
sát tư pháp.
68

Viện kiểm sát nhân dân tối cao có vai trò đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
kiểm sát, quản lý đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra viên nhằm thực hiện
trách nhiệm của mình
* Chức năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò lãnh đạo của cấp ủy địa phương
đối với chính quyền cùng cấp
- Vị trí, vai trò lãnh đạo của cấp ủy địa phương đối với chính quyền
cùng cấp
Một là, Ban chấp hành đảng bộ địa phương (cấp uỷ địa phương) là một
bộ phận của hệ thống chính trị địa phương, song là bộ phận giữ vai trò hạt nhân
lãnh đạo toàn bộ hệ thống đó. Hiến pháp nước ta khẳng định, Đảng là lực lượng
chính trị lãnh đạo Nhà nước và xã hôi, vì vậy, cấp uỷ địa phương là cơ quan
lãnh đạo trực tiếp, mọi mặt hoạt động của chính quyền địa phương cùng cấp.
Hai là, Sự lãnh đạo của ban chấp hành đảng bộ địa phương quyết định
sự trong sạch, vững mạnh của chính quyền. Chính quyền địa phương các cấp
vững mạnh là đảng bộ mạnh, cấp uỷ mạnh. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
chính quyền nhà nước vững mạnh là thước đo năng lực cầm quyền của Đảng.
Do vậy, chăm lo xây dựng chính quyền địa phương mạnh chẳng những là
phương hướng, nhiệm vụ xây dựng cấp uỷ địa phương mạnh, mà nó còn là
thước đo năng lực cầm quyền, năng lực lãnh đạo chính quyền của cấp uỷ. Đảng
ta chủ trương: “ Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền địa
phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân
dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định
và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp”
- Chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của cấp ủy địa phương đối với chính
quyền cùng cấp
Một là, Ban chấp hành đảng bộ địa phương có chức năng lãnh đạo chính
trị đối với chính quyền cùng cấp.
69

Để thực hiện chức năng lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, Ban chấp
hành đảng bộ địa phương phải có khả năng định hướng tư tưởng chính trị; tổ
chức xây dựng bộ máy và bố trí, sử dụng cán bộ đúng đắn, hiệu quả.
Hai là, Ban chấp hành đảng bộ địa phương lãnh đạo trực tiếp mọi mặt
hoạt động của Chính quyền địa phương, gồm: xây dựng bộ máy, bố trí sử dụng
cán bộ theo qui định của pháp luật và phân cấp quản lý cán bộ của Đảng; cho
ý kiến chỉ đạo và định hướng hoạt động của các cấp chính quyền tuân theo qui
định của pháp luật và theo yêu cầu nhiệm vụ. Lãnh đạo chính quyền địa phương
thực hiện quan điểm, đường lối, của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nghị quyết của cấp uỷ cấp trên và nghị quyết của cấp mình.
Ba là, phối hợp hoạt động của chính quyền với Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, với các đoàn thể chính trị, xã hội khác
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ
NƯỚC
Đảng lãnh đạo nhà nước là lãnh đạo tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước (ở Trung ương và địa phương). Ở Trung ương, các cơ quan nhà
nước bao gồm Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao và Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao. Ở địa phương, các cơ quan nhà nước gồm có các cơ quan
dân cử (Hội đồng nhân dân), các cơ quan hành chính (Ủy ban nhân dân) và các
cơ quan Tư pháp (Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân).
1. Đảng lãnh đạo Quốc hội
a. Nội dung lãnh đạo
* Lãnh đạo, định hướng hoạt động lập hiến, lập pháp
Đường lối chính sách của Đảng thể hiện trong các nghị quyết, quyết định
của Đảng là nguồn của pháp luật nước ta. Do đó, đường lối chính sách của
Đảng là định hướng nội dung và là cơ sở chính trị của pháp luật. Pháp luật là
sự thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành các quy tắc có tính bắt
buộc chung.
70

Trên cơ sở các nội dung thể hiện đường lối của Đảng trong từng thời kỳ,
Quốc hội với chức năng lập hiến và lập pháp của mình thể chế hóa thành các
văn bản quy phạm pháp luật tương ứng.
Sự lãnh đạo mang tính định hướng của Đảng đối với hoạt động lập pháp
trước hết là sự chỉ đạo trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình lập pháp.
Cùng với điều đó, nghị quyết của Đảng cần định hướng một số nội dung thuộc
về quan điểm như chính sách về đất đai, về kinh tế thị trường nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp xây dựng nhà nước pháp
quyền…
*Lãnh đạo việc xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ cho công tác lập
pháp
Đây là một nội dung lãnh đạo quan trọng để nâng cao chất lượng của
hoạt động lập pháp. Hoạt động lập pháp do nhiều người, nhiều chủ thể khác
nhau tham gia. Sản phẩm của nó là sự kết tinh trí tuệ của nhiều cơ quan, tổ chức
và cá nhân. Vì thế lãnh đạo công tác tổ chức và nhân sự là một nội dung quan
trọng về sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Cần coi trọng nội dung lãnh
đạo này để sớm hình thành tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, chuyên gia giỏi
phục vụ hoạt động lập pháp đáp ứng đòi hỏi tăng nhanh về số lượng, cao về
chất lượng các dự án luật và pháp lệnh phục vụ nhiệm vụ phát triển, hội nhập
và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
*Lãnh đạo việc ban hành các đạo luật và pháp lệnh cụ thể
Đảng thông qua các nghị quyết của mình để lãnh đạo, định hướng hoạt
động lập pháp về nội dung và chương trình kế hoạch. Lãnh đạo bằng cách đó,
mang tính chỉ đạo chung. Cùng với điều đó, Đảng còn lãnh đạo một cách cụ
thể hơn bằng định hướng nội dung đối với từng đạo luật, pháp lệnh cụ thể.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với từng đạo luật, pháp lệnh cụ thể là cần thiết,
tuy nhiên, để đẩy nhanh tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh đồng thời không sa
vào công việc cụ thể của Nhà nước cũng cần phải đổi mới nội dung lãnh đạo
71

của Đảng theo hướng đề cao trách nhiệm của Đảng đoàn Quốc hội và Ban cán
sự Đảng Chính phủ, của cá nhân và cơ quan có thẩm quyền trong các giai đoạn
của quy trình lập pháp.
* Lãnh đạo Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi) và Luật Tổ chức Quốc hội
hiện hành có nhiệm vụ và quyền hạn: quyết định kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, quyết định chính sách dân tộc, tôn
giáo, quyết định tổ chức, nhân sự bộ máy Nhà nước…
Để các quyết định lãnh đạo của mình được thực hiện, phù hợp với ý chí
và nguyện vọng của nhân dân thông qua việc ủy thác cho các Đại biểu Quốc
hội cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng sao cho ý Đảng lòng
dân thống nhất là một theo một quy trình dân chủ, cởi mở, minh bạch, không
gò bó, áp đặt, lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau.
* Lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao toàn bộ hoạt
động của Nhà nước.
Nội dung cơ bản của lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng giám sát đó
là lãnh đạo, chỉ đạo việc khắc phục những thiếu sót của quản lý nhà nước do
giám sát phát hiện ra. Giám sát tối cao của Quốc hội chủ yếu tập trung giám sát
ở tầng cao nhất của bộ máy nhà nước, nhất là giám sát Chính phủ. Vì thế, giám
sát tối cao muốn nâng cao hiệu lực và hiệu quả, thì hậu quả pháp lý của nó phải
là các nghị quyết trong đó xác định trách nhiệm của tổ chức và cá nhân là một
nội dung quan trọng. Những cá nhân thuộc đối tượng giám sát tối cao của Quốc
hội là những người nắm giữ những trọng trách cao nhất trong bộ máy nhà nước.
Vì thế, sự lãnh đạo của Đảng trong việc xác định trách nhiệm cá nhân - hậu quả
pháp lý của giám sát tối cao phải được xem là một nội dung quan trọng trong
sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi) đã mở
rộng thẩm quyền cho Quốc hội trong việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những
72

người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, thì sự lãnh đạo của Đảng cũng phải
được mở rộng để Quốc hội có điều kiện thực hiện thẩm quyền này.
b. Phương thức lãnh đạo
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là cách thức, quy trình,
phương pháp mà Đảng sử dụng để lãnh đạo Quốc hội thực hiện những nội dung
lãnh đạo của mình.
* Đảng lãnh đạo Quốc hội bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết,
các quyết định, chỉ thị, các nguyên tắc về các vấn đề hệ trọng của đất nước.
Cần tiếp tục nâng cao chất lượng của các nghị quyết, quyết định, chỉ thị
của Đảng. Các nghị quyết hay quyết định càng đi sâu vào từng lĩnh vực của đời
sống xã hội, càng ổn định lâu dài, càng rõ ràng, minh bạch thì Quốc hội càng
chuyển tải đầy đủ, chính xác trong quá trình thể chế hoá Hiến pháp, luật và
pháp lệnh.
*Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua Đảng đoàn Quốc hội, các Đảng
viên là Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Đại biểu Quốc hội.
Trong điều kiện đổi mới hiện nay, để ý Đảng và lòng dân là một, việc
tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng của phương thức lãnh đạo này đòi
hỏi các quyết định lãnh đạo của Đảng phải mềm dẻo, linh hoạt; tránh áp đặt
cứng nhắc. Đặc biệt trong việc lãnh đạo về tổ chức nhân sự, Đảng phải cung
cấp đầy đủ thông tin để Quốc hội quyết định một cách thực chất; tránh cung
cấp thông tin một chiều, mang ý nghĩa chính trị chung chung và xem nhẹ các
thông tin về kinh tế, xã hội. Đồng thời không ấn định một chiều chỉ đơn điệu
một phương án, để từ đó thông qua Đảng đoàn Quốc hội thuyết phục đại biểu
thông qua một phương án đó. Làm như thế sẽ dẫn Quốc hội đến hoạt động
hình thức, thụ động, không thể hiện được đầy đủ ý chí và nguyện vọng của
nhân dân.
*Đảng lãnh đạo bằng phương thức kiểm tra, giám sát các hoạt động của
Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.
73

Đây cũng là phương thức lãnh đạo có tính truyền thống nhưng thực ra hiệu lực
và hiệu quả còn hạn chế. Vì thế, cần xây dựng một cơ chế kiểm tra, giám sát
một cách hữu hiệu. Cơ chế đó về phương diện Nhà nước, chưa có cơ quan tổ
chức nào có thẩm quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của Quốc hội và các cơ
quan của Quốc hội.
*Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm đối với
những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn theo quy định mới của Hiến
pháp và Luật Tổ chức Quốc hội.
Đây là phương thức lãnh đạo mới cần được Trung ương và Bộ Chính trị
sử dụng để góp phần nâng cao trách nhiệm và năng lực của những người được
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Bằng phương thức này mà vai trò lãnh đạo của
Đảng ngày càng được nâng cao, nhân dân ngày càng tin tưởng vào các cơ quan
nhà nước. Không nên quá thận trọng hoặc cường điệu việc bỏ phiếu tín nhiệm
đối với các bộ trưởng. Làm tốt phương thức lãnh đạo mới này chẳng những
phát huy được vai trò của dân chủ đại diện mà còn là phương thức để Đảng
xem xét đánh giá, sử dụng đảng viên của mình.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về công tác đối với Quốc hội
cần được xem là các định hướng quan trọng nhất để Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo
việc tổ chức thực hiện và tạo điều kiện để Quốc hội chủ động hơn nữa.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội chủ yếu thông qua nghị quyết,
quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị bằng các nội dung,
định hướng với các căn cứ khoa học và thực tiễn xác thực, thật sự “tâm phục,
khẩu phục” thì ý Đảng, lòng dân mới là một trong việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
2. Đảng lãnh đạo Chính phủ
a. Nội dung lãnh đạo
74

- Đảng lãnh đạo Chính phủ thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định
của Chủ tịch nước;
- Đảng lãnh đạo Chính phủ xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền; trình dự án
luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án
pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;
- Đảng lãnh đạo Chính phủ thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội,
giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại,
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh động viên hoặc
động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác
để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
- Đảng lãnh đạo Chính phủ trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ
bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành
chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập,
chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương;
- Đảng lãnh đạo Chính phủ thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia;
thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan
nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác
của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các
cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn do luật định;
- Đảng lãnh đạo Chính phủ bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã
hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
75

- Đảng lãnh đạo Chính phủ tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân
danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập,
phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ
điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70 của
Hiến pháp 2013; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức
và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
* Đảng lãnh đạo Chính phủ Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
b. Phương thức lãnh đạo
Đảng lãnh đạo Chính phủ bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết,
các quyết định, chỉ thị, các nguyên tắc về quản lý, điều hành của Chính phủ.
Đảng lãnh đạo Chính phủ bằng công tác tổ chức, cán bộ
Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua Ban cán sự đảng của Chính phủ,
các Đảng viên là thành viên Chính phủ; các tổ chức đảng và đảng viên trong
các cơ quan của Chính phủ
Đảng lãnh đạo bằng phương thức kiểm tra, giám sát các hoạt động của
Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ.
3. Đảng lãnh đạo ngành Tư pháp
a. Nội dung lãnh đạo
Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp là nội dung rất quan trọng và cần
thiết trong công cuộc đổi mới hiện nay, nhằm mục đích:
Một là, bảo đảm hoạt động của các cơ quan tư pháp theo đúng đường lối
chính trị, kiên định đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững bản chất tốt
đẹp của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân;
Hai là, bảo đảm phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp
để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ theo luật định, duy trì và bảo vệ nền pháp
76

chế xã hội chủ nghĩa, vì sự công bằng, dân chủ và nghiêm minh trong tổ chức
thi hành pháp luật.
Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp có nội dung toàn diện: lãnh đạo về
chính trị, tư tưởng; về tổ chức, cán bộ; về định hướng công tác. Đảng lãnh đạo
các cơ quan tư pháp thông qua việc định ra các nguyên tắc, quan điểm lớn làm
cơ sở xây dựng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp; vạch ra đường
lối, định hướng trong các lĩnh vực hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Lãnh đạo chính trị, tư tưởng: Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy
thường xuyên lãnh đạo cán bộ, đảng viên của các cơ quan tư pháp ổn định tư
tưởng, tích cực tham gia công tác xây dựng đảng, thực hiện tốt nhiệm vụ
chuyên môn, tăng cường đoàn kết, giữ gìn phẩm chất đạo đức. Công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng của các cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp
giúp cho cán bộ tư pháp có nhận thức đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng
để đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực
thù địch, phản động chống phá Đảng và Nhà nước; đấu tranh có hiệu quả với
các đối tượng phạm tội; khắc phục những lệch lạc, sai lầm về vai trò lãnh đạo
của Đảng.
Lãnh đạo tổ chức, cán bộ, Đảng lãnh đạo công tác xây dựng, củng cố về
tổ chức và đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ cho các cơ quan tư pháp. Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị chỉ đạo việc ban hành các dự án luật, pháp lệnh
về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, về tiêu chuẩn, chế độ của đội ngũ cán bộ có
chức danh tư pháp (thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên,
luật sư...
Cùng với việc xây dựng, kiện toàn về tổ chức của các cơ quan tư pháp,
Đảng ta quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, vững
vàng về chính trị, tinh thông về nghiệp vụ, bảo đảm cho hoạt động của các cơ
quan tư pháp theo đúng pháp luật, giữ vững kỷ cương, ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Trong nhiều nghị quyết, Đảng ta đã đề ra những chủ trương, định
77

hướng, giải pháp cụ thể nhằm đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Đảng
yêu cầu đội ngũ cán bộ tư pháp phải có quan điểm chính trị đúng đắn, trình độ
chuyên môn vững và phẩm chất đạo đức công minh, chính trực, liêm khiết. Dựa
trên những quan điểm đó, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật về cán
bộ của các cơ quan tư pháp, trước hết là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng
bảo đảm về chính trị, phẩm chất đạo đức và chuyên môn.
b. Phương thức lãnh đạo
Đảng lãnh đạo các cơ quan Tư pháp bằng đường lối, quan điểm, các
nghị quyết, các quyết định, chỉ thị, các nguyên tắc hoạt động của ngành tư pháp.
Đảng lãnh đạo ngành tư pháp bằng công tác tổ chức, cán bộ. Đảng lãnh
đạo ngành tư pháp thông qua Ban cán sự đảng, các tổ chức đảng và đảng viên
trong các cơ quan của ngành tư pháp.
Đảng lãnh đạo bằng phương thức kiểm tra, giám sát các hoạt động của
ngành tư pháp và các cơ quan của ngành tư pháp.
4. Đảng lãnh đạo chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương, theo Hiến pháp 2013 gồm có Hội đồng nhân
dân và ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã. Hiến pháp 2013 qquy định rõ vị
trí, chức năng của chính quyền địa phương.
Điều 113
1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên.
2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật
định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Điều 114
1. Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân
78

dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.
2. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các
nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
Căn cứ vào những quy định trên có thể xác định nội dung và phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với chính quyền địa phương như sau:
a. Nội dung lãnh đạo
Chính quyền địa phương do cấp ủy địa phương (cơ quan lãnh đạo của
Đảng bộ địa phương giữa hai kỳ Đại hội) trực tiếp lãnh đạo
Cấp ủy lãnh đạo Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa
phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Cấp ủy lãnh đạo Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân
và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.

b. Phương thức lãnh đạo


Cấp ủy lãnh đạo bằng việc định hướng nhiệm vụ chính trị cho chính
quyền địa phương bằng các Nghị quyết, chỉ thị.
Cấp ủy lãnh đạo chính quyền địa phương thông qua công tác tổ chức cán
bộ.
Cấp ủy lãnh đạo chính quyền địa phương thông qua công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng.
Cấp ủy lãnh đạo chính quyền địa phương thông qua việc lãnh đạo thực
hiện cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng nhân dân
bầu.
79

Cấp ủy lãnh đạo chính quyền địa phương thông qua việc lãnh đạo chính
quyền xây dựng và thực hiện Quy chế phối hợp hoạt động với Mặt trận TQVN
và các đoàn thể nhân dân.
III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm giữ vững bản
chất giai cấp công nhân của nhà nước, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân
dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có hiệu quả và chất lượng cao hơn, đồng
thời phát huy trách nhiệm, tính chủ động và hiệu lực cao trong quản lý, điều
hành của nhà nước, theo các quan điểm, mục tiêu và phương hướng được xác
định tại Nghị quyết Trung ương 5 khoá X.
Phải nắm vững và thực hiện ba nội dung trọng yếu về sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước trong tình hình mới:
- Lãnh đạo các cơ quan nhà nước kịp thời thể chế hoá đường lối, chính
sách của Đảng, nhất là chủ trương về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
về đổi mới thể chế kinh tế, về xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, củng cố, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, phát triển kinh
tế hợp tác.
- Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, thực sự vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân.
- Tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong các doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp khác, các tổ chức sự nghiệp, các cơ quan quản lý nhà
nước, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang đối với việc thực hiện các nghị quyết
của Đảng, các quy định của Nhà nước, nhất là về quản lý kinh tế, tài chính, thu
80

chi ngân sách, việc sử dụng, bảo quản vốn và tài sản của nhà nước, không phân
biệt đại diện chủ sở hữu thuộc ngành hoặc địa phương.
2. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng
trong các cơ quan nhà nước
Đảng đoàn Quốc hội và các đảng đoàn Hội đồng nhân dân phải tiếp tục
kiện toàn về tổ chức, đề cao trách nhiệm trong việc chủ động đề xuất những
vấn đề thuộc lĩnh vực của mình, phản ánh đầy đủ ý kiến của đại biểu với cấp
uỷ. Mặt khác cấp uỷ đảng cần lắng nghe đầy đủ các ý kiến đó để kịp thời xem
xét và điều chỉnh kỷ cương khi thấy có cơ sở xác đáng.
Khi cấp uỷ đã có quyết định thì đảng đoàn phải lãnh đạo quán triệt và
thực hiện nghiêm túc quyết định của Đảng. Mọi đảng viên phải nghiêm chỉnh
chấp hành các quyết định đó.
Có cơ chế gắn hoạt động của trưởng ban và các ban của Đảng với hoạt
động của các Uỷ ban của Quốc hội và các ban của Hội đồng nhân dân. Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng để Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện
tốt vai trò của mình.
Xây dựng quy chế, làm rõ mối quan hệ lãnh đạo của Bộ Chính trị với
các Ban cán sự, giữa Ban cán sự đảng ở các Bộ với Ban cán sự đảng Chính phủ
cho phù hợp với mối quan hệ về mặt nhà nước. Phát huy vai trò của đảng uỷ,
chi bộ trong các cơ quan nhà nước. Sắp xếp lại đầu mối tổ chức đảng trong các
khối cơ quan hành chính, doanh nghiệp theo đúng quy định của điều lệ Đảng.
Kiện toàn ban cán sự đảng ở các cơ quan tư pháp. Nghiên cứu, cụ thể
hoá cơ chế cấp uỷ cho ý kiến về việc xử lý các vụ án quan trọng, phức tạp trên
cơ sở tôn trọng quyền theo luật định của các cơ quan tư pháp và đảm bảo tốt sự
lãnh đạo của Đảng.
Các cấp uỷ đảng phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân; kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động của Mặt trận
81

và các đoàn thể nhằm thu hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào
việc quản lý nhà nước.
* Một số giải pháp cụ thể
* Đối với Quốc hội

- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội

Nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm, làm rõ quan niệm về Đảng lãnh đạo
và Đảng cầm quyền. Nhấn mạnh Đảng lãnh đạo Quốc hội bằng cương lĩnh,
đường lối, quan điểm, nguyên tắc; định hướng giải quyết các vấn đề lớn, có ý
nghĩa chính trị quan trọng về cơ cấu tổ chức, bộ máy các cơ quan Nhà nước;
lãnh đạo bằng công tác tổ chức cán bộ; bằng công tác kiểm tra, giám sát thực
hiện; bằng công tác tư tưởng của Đảng… Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động
sáng tạo của Nhà nước, Đảng kiên quyết không bao biện, làm thay, đồng thời,
thực hiện nghiêm túc nguyên tắc: Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.

- Nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng đoàn Quốc hội trong việc thể
chế hoá quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng.

Năng lực và uy tín lãnh đạo của Đảng trước nhân dân trong điều kiện
Đảng cầm quyền chính là hiệu lực và hiệu quả của bộ máy Nhà nước do Đảng
tổ chức và lãnh đạo. Vai trò cầm quyền của Đảng được phát huy đến mức nào
được thể hiện thông qua phát huy vai trò của Nhà nước là chủ yếu. Vì vây.
Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo các cơ quan Nhà nước thể chế hoá, cụ thể
hoá quan điểm, đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách và tổ chức thực
hiện tốt các luật và chính sách đó trong thực tiễn xã hội.

Đối với Quốc hội, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra các cơ quan và đội
ngũ cán bộ đảng viên của Đảng hoạt động trong các cơ quan Quốc hội và Hội
đồng nhân dân trong việc xây dựng luật, nghị quyết theo đúng trình tự pháp
luật, đúng quan điểm, đường lối của Đảng. Lãnh đạo phát huy vai trò quyết
82

định ban hành luật của Quốc hội, vai trò giám sát thực thi luật pháp của Quốc
hội và hội đồng nhân dân.

- Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách
hoạt động trong Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban
của Quốc hội

Đảng ta đã có chủ trương tiếp tục kiện toàn, tăng thẩm quyền cho Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội. Chuyển
các ban của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thành ban của Quốc hội và lập chức
danh Tổng Thư ký của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định các
dự án luật và ban hành các văn bản pháp luật theo thẩm quyền. Tăng cường đại
biểu chuyên trách, bảo đảm tính đại diện, tính chuyên nghiệp, nâng cao tiêu
chuẩn, chất lượng đại biểu Quốc hội

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với Đảng đoàn
Quốc và đội ngũ đảng viên là công chức hoạt động trong Quốc hội

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với Đảng đoàn
Quốc hội và đội ngũ đảng viên là công chức hoạt động trong Quốc hội có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với Đảng ta, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước. Đây được xem là một trong những phương thức lãnh
đạo hết sức hiệu quả của Đảng đối với Nhà nước.

- Đảng lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng Quốc hội thông qua phát
huy vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội

Xây dựng cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận đối với cơ quan
nhà nước, công chức, viên chức nhà nước; đồng thời tăng cường vai trò giám
sát của các đoàn thể chính trị - xã hội đối với cơ quan Quốc hội với công chức,
viên chức hoạt động trong các cơ quan đó. Nhân dân không chỉ giám sát, phản
83

biện, để qua đó kiểm soát quyền lực nàh nước, mà còn chăm lo bảo vệ và xây
dựng bộ máy nhà nước của nhân dân, dô nhân dân và vì nhân dân.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là một đòi hỏi khách
quan của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để tăng cường và
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và Chính phủ, nhất thiết
phải nắm vững đối tượng, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước. Trên cơ sở đó chủ động đổi mới, tìm kiếm các biện pháp để tăng
cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung, với các cơ
quan nhà nước nói riêng.

* Đối với Chính phủ


- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ

Nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm, làm rõ quan niệm về Đảng lãnh đạo
và Đảng cầm quyền. Nhấn mạnh Đảng lãnh đạo Chính phủ bằng cương lĩnh,
đường lối, quan điểm, nguyên tắc; định hướng giải quyết các vấn đề lớn, có ý
nghĩa chính trị quan trọng về cơ cấu tổ chức, bộ máy các cơ quan Nhà nước;
lãnh đạo bằng công tác tổ chức cán bộ; bằng công tác kiểm tra, giám sát thực
hiện; bằng công tác tư tưởng của Đảng… Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động
sáng tạo của Nhà nước, Đảng kiên quyết không bao biện, làm thay, đồng thời,
thực hiện nghiêm túc nguyên tắc: Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.

- Nâng cao chất lượng lãnh đạo của Ban cán sự đảng Chính phủ, Ban
cán sự đảng các bộ, nghành và cơ quan ngang bộ trong việc thể chế hoá quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng.

Năng lực và uy tín lãnh đạo của Đảng trước nhân dân trong điều kiện
Đảng cầm quyền chính là hiệu lực và hiệu quả của bộ máy Nhà nước do Đảng
tổ chức và lãnh đạo. Vai trò cầm quyền của Đảng được phát huy đến mức nào
được thể hiện thông qua phát huy vai trò của Nhà nước là chủ yếu. Vì vậy,
84

Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo các cơ quan Nhà nước thể chế hoá, cụ thể
hoá quan điểm, đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách và tổ chức thực
hiện tốt các luật và chính sách đó trong thực tiễn xã hội.

Đối với các cơ quan, tổ chức thuộc Chính phủ, Đảng tăng cường lãnh
đạo quá trình soạn thảo các dự án luật, bảo đảm các dự án luật đệ trình Quốc
hội đúng quan điểm, đường lối, đúng trình tự pháp luật, phản ánh đúng những
đòi hỏi của cuộc sống xã hội, có tính ổn định, bền vững. Trước khi ban hành
luật cần được điều tra nghiên cứu rất kỹ, không tiết kiệm thời gian nghiên cứu
khoa học phục vụ các dự án luật. Tuy nhiên, khi đã ban hành luật thì cần rút
ngắn thời gian từ lúc ban hành luật, đến khi luật có hiệu lực thực tế. Hoàn thiện
luật pháp là điều kiện thiết yếu để quản lý xã hội theo luật pháp, tuy nhiên vấn
đề quyết định lại ở chỗ thực thi luật pháp của các cơ quan Nhà nước. Vai trò
quản lý điều hành xã hội, quản lý chính các cơ quan Nhà nước theo luật pháp
lại thuộc về đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng hoạt động trong các cơ quan
Nhà nước.

- Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hoạt động trong
Chính phủ các bộ và cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ

Đảng ta chủ trương tiếp tục đổi mới hoạt động của Chính phủ theo hướng
xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hợp lý và thống
nhất. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, chế độ công vụ, công chức. Đối
với hính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Đảng ta chủ trương: “Phát huy vai trò,
trách nhiệm của tập thể Chính phủ, đồng thời đề cao trách nhiệm của Thủ tướng
Chính phủ và các thành viên Chính phủ”4

4
Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá X, Nxb CTQG, H.2007, tr118
85

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với Ban cán sự
đảng Chính phủ và các Bộ, Ngành và đội ngũ đảng viên là công chức hoạt động
trong Chính phủ

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với Ban cán sự
đảng Chính phủ và các Bộ, Ngành và đội ngũ đảng viên là công chức hoạt động
trong Chính phủ có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Đảng ta, nhằm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đây được xem là một trong
những phương thức lãnh đạo hết sức hiệu quả của Đảng đối với Nhà nước.

- Đảng lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng Chính phủ thông qua phát
huy vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội

Xây dựng cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận đối với cơ quan
nhà nước, công chức, viên chức nhà nước; đồng thời tăng cường vai trò giám
sát của các đoàn thể chính trị - xã hội đối với cơ quan Chính phủ, với công
chức, viên chức hoạt động trong các cơ quan đó. Nhân dân không chỉ giám sát,
phản biện, để qua đó kiểm soát quyền lực nàh nước, mà còn chăm lo bảo vệ và
xây dựng bộ máy nhà nước của nhân dân, dô nhân dân và vì nhân dân.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ là một đòi hỏi khách
quan của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để tăng cường và
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ, nhất thiết phải nắm
vững đối tượng, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Trên cơ sở đó chủ động đổi mới, tìm kiếm các biện pháp để tăng cường hơn
nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung, với các cơ quan nhà
nước nói riêng.
* Đối với Toàn án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Tòa
án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
86

Một là, tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và bộ máy các cơ quan Tòa án
nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao. Tại Hội nghị lần thứ bảy,
Ban Chấp hành trung ương khoá XI, Đảng ta chủ trương “Tiếp tục đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương năm khoá X. Bổ sung hoàn thiện Qui chế làm việc
của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhiê.m vụ quyền
hạn của đảng đoàn, ban cán sự và cấp uỷ các cấp theo hướng tăng thẩm quyền,
trách nhiệm, mở rộng dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương”5. Với tinh thần đó,
sự đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Tòa án nhân dân
tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao, Đảng ta cũng chủ trương: “Tiếp tục
sắp xếp kiện toàn tổ chức của toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra theo Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp; đổi mói và kiện toàn
các tổ chức bổ trợ tư pháp”6. Hai là, đổi mới một số cơ chế hoạt động của Tòa
án nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao. Ba là, tăng cường tổng
kết kinh nghiệm, xây dựng hệ thống lý luận khoa học cho các hoạt động tư pháp
đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới.

- Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối công tác cải cách tư
pháp nói chung, cải cách tư pháp ở Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm
soát nhân dân tối cao nói riêng

Một là, quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo của Đảng đối với cải cách tư
pháp. Đảng ta chủ trương đẩy mạnh chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
tổ chức hệ thống toà an theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách xét xử là
trọng tâm của cải cách tư pháp. Hai là, những nội dung chủ yếu trong lãnh đạo,
chỉ đạo cải cách tư pháp là: mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án đối với các
khiếu kiện hành chính, giải quyết tranh chấp về đất đai; đổi mới cơ chế giám

5
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, BCHTW khoá XI, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2013,
tr114
6
Sdd, tr121
87

đốc thẩm, tái thẩm. Tổ chức hệ thống viện kiểm sát phù hợp với hệ thống toà
án. Bảo đảm đủ điều kiện để viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm
sát tư pháp.

- Nâng cao chất lượng lãnh đạo của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân
tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

Một là, củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy, cơ chế làm việc của Ban cán
sự đảng của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao. Xây
dựng qui chế làm việc và các mối quan hệ công tác giữa Bộ Chính trị, Ban Bí
thư với Ban cán sự đảng của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân
dân tối cao; giữa Ban cán sự đảng của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm
soát nhân dân tối cao với Ban cán sự đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội và
các cấp uỷ địa phương. Hai là, nâng cao năng lực định hướng chính trị của
Đảng trong các hoạt động truy tố, xét xử, điều tra, tránh oan, sai và bỏ sót, lọt
tội phạm.

- Tăng cường công tác giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống, rèn luyện
tác phong liêm chính của đội ngũ cán bộ hoạt động trong ngành tòa án, viện
kiểm sát nhất là các thẩm phán và kiểm sát viên.

Cán bộ hoạt động trên lĩnh vực tư pháp là những người đại diện công lý,
thay mặt nhân dân bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Nhà
nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Bởi thế, trước
hết họ phải là những tấm gương về đạo đức cách mạng, sự công minh, chính
trực của người thay mặt nhân dân cầm cán cân công lý. Trách nhiệm giáo dục
chính trị, đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ hoạt động ở Tòa án nhân dân tối
cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao là các Ban cán sự đảng, đảng uỷ, chi bộ
và lãnh đạo của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao;
đồng thời đề cao vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện của đội ngũ cán bộ Tòa án
nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao.
88

- Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với tổ chức đảng và
đảng viên hoạt động trong Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân
dân tối cao

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
của Ủy ban kiểm tra trung ương đối với các tổ chức đảng và đảng viên diện Bộ
Chính trị, Ban Bí thư quản lý trong các hoạt động tư pháp. Tăng cương công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng nhằm chống tham nhũng, tiêu cực trong đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng làm việc ở các cơ quan, tổ chức của Tòa án
nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao. Những cán bộ, đảng viên
làm việc ở Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao có trách
nhiệm tham gia công tố và xét xử cuối cùng các vụ án phức tạp, quan trọng bị
kháng nghị, kháng cáo từ các toà án cấp dưới chuyển lên, do vậy những tham
nhũng, tiêu cực nếu có thường rất khó phát hiện và xử lý. Công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng có vai trò rất quan trọng đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực trong đội ngũ đảng viên công tác ở Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm
soát nhân dân tối cao.

Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao là những cơ
quan xét xử, công tố và kiểm sát tư pháp cao nhất của đất nước, có vai trò vô
cùng quan trọng trong bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ nền pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố
quyết định bảo đảm cho Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân
tối cao thấm nhuần bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước của nhân dân do nhân dân và vì nhân
dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Tòa án nhân dân tối cao và Viện
kiểm soát nhân dân tối cao là đòi tất yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam
hiện nay.
89

* NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA
CẤP ỦY ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CÙNG CẤP

- Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với chính quyền địa phương

Thứ nhất, phải làm cho toàn Đảng bộ, trước hết là Ban Chấp hành Đảng
bộ, mà đặc biệt là mỗi Uỷ viên Ban Thường vụ, Thường trực cấp uỷ phải hiểu
một cách đầy đủ, thấu đáo về lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trước hết cần phải làm rõ và nâng cao nhân thức của cán bộ, đảng viên, các
cấp uỷ viên và cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nói chung, trong bộ
máy chính quyền Nhà nước nói riêng hiểu về phương thức lãnh đạo của Đảng
như Cương lĩnh của Đảng ta đã chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy và thường
xuyên chịu sự kiểm tra của nhân dân. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra Cương
lĩnh, đường lối, chiến lược và những chủ trương, chính sách lớn, kiểm tra và
giám sát thực hiện. Đảng không bao biện làm thay đổi công việc của các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị. Thông qua các đảng viên và tổ chức đảng
hoạt động trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã
hội, trong Mặt trận Tổ quốc, Đảng thực hiện đường lối chính trị của mình.
Phương pháp lãnh đạo của Đảng là giải thích, thuyết phục, nêu gương.

Thứ hai, Đảng lãnh đạo xây dựng chính quyền Nhà nước, trước hết bằng
những quyết định tập thể. Do vậy, đòi hỏi các cấp uỷ phải có đủ tầm trí tuệ,
kinh nghiệm, năng lực đề ra các chủ trương, nghị quyết lãnh đạo xác đáng; phải
đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên... Muốn đạt được những
yêu cầu trên, thì đòi hỏi không có cách nào khác bản thân các cấp uỷ phải tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, trong đó đặc biệt là vấn đề đổi mới phương thức lãnh
đạo của mình.

Thứ ba, một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng
ta là Đảng lãnh đạo thông qua công tác giáo dục, thuyết phục. Thuyết phục giáo
90

dục cấp dưới, thuyết phục giáo dục lẫn nhau và thuyết phục quần chúng nhân
dân. Đó là hoạt động xuyên suốt quá trình lãnh đạo: từ xây dựng nghị quyết;
quán triệt nghị quyết; tổ chức thực hiện; kiểm tra đánh giá; sơ kết, tổng kết nghị
quyết của cấp uỷ. Đồng thời hiện quả tính thuyết phục, giáo dục còn phụ thuộc
rất nhiều về đạo đức, hành động gương mẫu, sự mô phạm của những người lãnh
đạo cụ thể.

Thứ tư, cần phải phân biệt giữa lãnh đạo của Đảng với sự quản lý, điều
hành của chính quyền. Sự phân biệt đó cơ bản và chủ yếu ở phương pháp, cách
thức tiến hành. Cả lý luận và thực tiễn cho thấy, đặc trưng của lãnh đạo là thuyết
phục, giáo dục, nêu gương; lãnh đạo không bao giờ ra mệnh lệnh. Ngược lại,
hoạt động quản lý và điều hành của chính quyền thì sử dụng tổng hợp các biện
pháp: vừa thuyết phục, giáo dục, động viên, nhắc nhở đối tượng quản lý phải
thực hiện đúng chính sách, pháp luật. Đồng thời người quản lý có thể ra lệnh,
cưỡng bức đối tượng chấp hành, người quản lý có thể dùng biện pháp kinh tế,
hành chính... theo quy định của pháp luật nhằm đạt được mục tiêu quản lý.

- Xây dựng và thực nghiêm quy chế làm việc, nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của cấp uỷ, Ban Thường vụ cấp uỷ và Thường trực cấp uỷ.

Quy chế hoạt động của cấp ủy là văn bản mang tính pháp lý, cụ thể hóa
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa tổ chức với tổ chức
và giữa con người với tổ chức trong hệ thống chính trị.

Với quan niệm đó, quy chế là điệu kiện bảo dảm sự thống nhất trong
hành động giữa các thành viên trong tổ chức vì mục đích chung; nó bảo đảm
hoạt động của mỗi tổ chức và giữa các tổ chức trong một hệ thống được nhịp
nhàng, thông suốt. Với vai trò ấy, quy chế hoạt động là một nhân tố tạo nên sức
mạnh của tổ chức. Thực tế cho thấy, một tổ chức được thành lập, dù đã xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, phạm vi trách nhiệm, nhưng nếu
91

thiếu một cơ chế vận hành khoa học thì sức mạnh của tổ chức không được phát
huy, tổ chức đó không thể thực hiện đúng, đầy đủ chức năng nhiệm vụ và trọng
trách của mình. Tổ chức cũng tương tự như một cỗ máy, một dây chuyền công
nghệ, các bộ phận trong đó phải vận hành theo một chế độ, một trình tự nhất
định trong một quy trình thống nhất mới có thể tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh.
Xây dựng quy chế hoạt động và vận hành theo quy chế vì thế là điều kiện rất
quan trọng bảo đảm cho tổ chức thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, thẩm
quyền trách nhiệm của mình.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, chế độ công vụ, chế độ trách nhiệm
của các cơ quan chính quyền và công chức.

Cải cách hành chính được Đảng và Nhà nước ta xác định là khâu đột phá
trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2001- 2010 và tiếp tục
trong giai đoạn sau. Trên các văn bản của Đảng và Nhà nước thường xuyên đề
cập đến vấn đề xây dựng cơ chế "một cửa" xoá bỏ "xin cho", giảm bớt giấy
phép các loại và các thủ tục phiền hà, gây sách nhiễu cho tổ chức và công dân.
Đối với nước ta, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng khoa học, công nghệ mới,
nhiệm vụ cải cách hành chính là rất nặng nề vì đã trở thành bức xúc đối với tiến
trình phát triển và đổi mới.

Tuy nhiên, đánh giá một cách nghiêm túc, công cuộc cải cách hành chính
vẫn còn nhiều mặt chậm trễ, chưa đáp ứng được yêu cầu. Những ý kiến trên
công luận đã nêu nhiều về tình trạng "một cửa" nhưng "nhiều khoá" đã nói lên
tình trạng một số nơi chưa thực sự làm quyết liệt, một bộ phận cán bộ, công
chức vẫn muốn níu kéo cách làm cũ với những thủ tục phiền hà, nhiêu khê,
không rõ ràng để "hành" dân và doanh nghiệp nhằm trục lợi, đây thực sự là một
rào cản trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới
sự lãnh đạo của Đảng mà chúng ta cần phải xoá bỏ.
92

Bên cạnh việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thì việc xây dựng
chính quyền trong sạch, vững mạnh là cơ sở quan trọng để thực hiện các nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng. Nhưng xây dựng chính quyền, thực
chất lại là xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức và xây dựng các chế
độ hoạt động cho bộ máy chính quyền đó. Cả lý luận và thực tiễn đều chứng
minh nhân tố con người trong tổ chức có vai trò cực kỳ quan trọng đối với tổ
chức ấy. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng lãnh đạo của các cấp uỷ đối với
chính quyền, xây dựng chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân, thì tất
yếu phải nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức,
nhất là những cán bộ chủ chốt trong bộ máy chính quyền.

- Đổi mới các mặt công tác đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của
cấp uỷ đối với chính quyền

Nâng cao chất lượng công tác cán bộ, coi trọng bảo vệ chính trị nội bộ
Có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, phát huy dân chủ, tạo bước chuyển biến cơ
bản trong công tác cán bộ. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chú
trọng đào tạo cán bộ ở các lĩnh vực mũi nhọn, các chuyên gia đầu ngành; có cơ
chế trọng dụng người có đức, có tài, cán bộ trẻ. Làm tốt công tác quy hoạch cán
bộ, tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ xuất thân từ công
nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực, bảo đảm sự chủ động, có tầm nhìn xa, đáp
ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.

Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công
tác thực tế, sự tín nhiệm làm thước đo chủ yếu. Thực hiện luân chuyển cán bộ
lãnh đạo và quản lý theo chiều dọc và chiều ngang ở các cấp, các ngành. Đổi
mới, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính
liên tục, kế thừa và phát triển. Bổ sung hoàn thiện hệ thống quy chế, quy định
về sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức trong hệ
thống chính trị.
93

Nâng cao hiệu quả, tính thiết thực của Cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đưa việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh thành nhiệm vụ thường xuyên của cán bộ, đảng viên, các
chi bộ, tổ chức Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống.
Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân,
từ trong đảng, bộ máy chính quyền đến toàn xã hội.

Tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chấp hành nguyên tắc tập trung dân
chủ, chấp hành quy chế làm việc; thực hành tiết kiệm, phòng chống tham
nhũng, lãng phí trong quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên, công sản, xây dựng
cơ bản; thực hiện chính sách, pháp luật trong bảo vệ môi trường, cải cách thủ
tục hành chính, cải cách tư pháp; kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu
vi phạm. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao.

- Xây dựng cơ chế giám sát, phản biện của mặt trận và các đoàn
thể nhân dân đối với chính quyền huyện.

Tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối
với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Phát huy dân chủ, đề cao trách
nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa
vụ công dân, tham gia quản lý xã hội. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối
cảnh mới. Tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Với quan nhiệm dân chủ là: chế độ chính trị, mà trong đó quyền làm chủ
thuộc về nhân dân”. Như vậy, nói đến dân chủ là nói tới quyền làm chủ của
dân, là sự tôn trọng lợi ích của dân. Vì vậy, phát huy dân chủ là phát huy quyền
94

làm chủ của nhân dân, là tôn trọng, bảo vệ và đem lại lợi ích nhiều hơn nữa,
đầy đủ hơn nữa cho nhân dân. Với quan niệm đó, dân chủ chính là mục tiêu, lý
tưởng phấn đấu của Đảng ta, là lực lượng, sức mạnh to lớn trong nhân dân và
chính đó là nhân tố nội lực của sự phát triển. Vì lẽ đó, mở rộng, phát huy dân
chủ, xét đến cùng là lợi ích của dân, để phát huy sức mạnh của nhân dân tham
gia bàn bạc và thực hiện công cuộc đổi mới hiện nay. Từ những nhận thức trên
về dân chủ, có thể khẳng định, muốn xây dựng chính quyền cách mạng trong
sạch vững mạnh thì tất yếu phải mở rộng dân chủ, phát huy dân chủ, tức là mở
rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, là phát huy sức mạnh của nhân
dân vào việc xây dựng chính quyền thực sự là của dân, do dân, vì dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng dạy “nếu không có nhân dân giúp sức thì Đảng không
làm được gì hết” .

Cấp uỷ và chính quyền địa phương là nơi biến đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước thành hiện thực. Tăng cường sự
lãnh đạo của Cấp uỷ địa phương đối với chính quyền cùng cấp là nhân tố quyết
định xây dựng chính quyền địa phương thực sự trong sạch vững mạnh về mọi
mặt, bảo đảm cho chính quyền là của nhan dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tuy nhiên, những nội dung, phương thức lãnh đạo của cấp uỷ địa phương với
chính quyền cùng cấp không hoàn toàn giống như nội dung, phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Chính quyền Nhà nước ở Trung ương.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Phân tích tính tất yếu về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
2. Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội.
3. Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính
phủ.
4. Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của cấp ủy cơ sở đối với
95

chính quyền cơ sở.

Bài 4
ĐẢNG LÃNH ĐẠO MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh - hình thức tổ chức đầu tiên của
Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam. Từ đó đến nay, trong lịch sử cách mạng
Việt Nam không bao giờ vắng bóng tổ chức Mặt trận. Trải qua các thời kỳ cách
mạng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, Mặt trận Dân tộc thống
nhất Việt Nam đã không ngừng phát triển và trưởng thành, đã có những đóng
góp to lớn vào những thắng lợi vĩ đại của dân tộc, là một trong những nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận Dân tộc
thống nhất trong giai đoạn hiện nay.
Trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng Mặt trận
Dân tộc thống nhất, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy vai trò của Một trận trong sự nghiệp cách mạng. Để thể chế hóa đường lối,
chủ trương của Đảng về công tác Mặt trận trong thời kỳ phát triển mới của đất
nước, tháng 6-1999, Nhà nước ta đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
trong đó quy định vị trí, vai trò, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động,
mối quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các thành viên trong hệ thống
chính trị...
1. Vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
96

Vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được quy định rõ trong Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đã nước trong thời kỳ qúa
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI của
Đảng thông qua cũng ghi rõ: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh
chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân
tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo
Mặt trận…”.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một phần của hệ thống chính trị. Điều này
xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, xuất
phát từ thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân
dân. Đây còn là vấn đề lịch sử, vấn đề tuyền thống từ khi có Đảng là có Mặt
trận. Sau khi giành được chính quyền, Đảng, chính quyền, Mặt trận là những
bộ phận hợp thành hệ thống chính trị. Tuy vai trò, vị trí, chức năng và phương
thức hoạt động có khác nhau nhưng đều là công cụ để thực hiện và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân và cùng có chung một mục đích là phấn đấu xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình độc lập thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, có
vị trí xứng đáng trên trường quốc tế.“Mặt trận Tổ quốc là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân" - điều đó xác định rõ hơn vị trí của Mặt trận Tổ quốc
trong hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là
người lãnh đạo Mặt trận.
2. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp khối đại
đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ nhân dân thực hiện việc hiệp thương
và phối hợp thống nhất hành động giữa các thành viên trong sự nghiệp xây
97

dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng. văn minh.
Vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận khẳng định mà do chính
nhân dân, chính lịch sử thừa nhận. Thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng
Tám 1945 gắn liền với sự nghiệp của Mặt trận Việt Minh do Đảng lãnh đạo.
Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp cách mạng đã
được chuẩn bị từ trước của Hội Phản đế đồng minh (1930-1936) và của Mặt
trân Dân chủ Đông Dương (1936-1939). Tiếp theo Mặt trận Việt Minh là Mặt
trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc tháng chiến chống thực dân Pháp đến
thắng lợi. Kế tục Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời đã đoàn
kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã cùng
với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và liên minh các lực
lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam đoàn kết nhân dân cả nước làm
tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang: giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc, hoàn
thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Từ khi đất nước
thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong việc củng
cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại lâu dài các giai
cấp tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo. Với nền kinh tế nhiều thành phần có
nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của
các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về
kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ
đoàn kết, hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự phát
triển kinh tế - xã hội thúc đẩy sự ra đời của nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
Sự liên kết, hợp tác vì nhu cầu cùng phát triển luôn luôn đặt ra trong bối cảnh
phải tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo vệ độc lập, chủ
98

quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đó là cơ sở kinh tế - xã hội để hình thành mối
quan hệ đoàn kết, hợp tác giữa các giai cấp, tầng lớp, các cộng đồng dân cư.
Đó là lý do khẳng định: trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước với nền dân chủ ngày càng phát triển thì vai trò của Mặt trận và các
đoàn thể ngày càng được mở rộng. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...". Như
vậy, nâng cao vai trò của Mặt trận trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội
là một yêu cầu khách quan để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước.
Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013 quy định rõ hơn vai trò của MTTQ,
đó là: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường
đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
3. Chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
a. Chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức quần chúng của các tầng lớp nhân
dân, do Đảng lãnh đạo. Bởi vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng như một số
tổ chức chính trị - xã hội khác vừa mang tính chất chính trị, vừa mang tính chất
xã hội. Hai tính chất này quy định chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:
Thứ nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức đại diện cho lợi ích hợp
pháp và chính đáng của các tầng lớp nhân dân
Thứ hai, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là công cụ tập hợp, xây dựng, củng
cố khối đại doàn kết toàn dân tộc thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng.
99

Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện chức năng giám sát và
phản biện xã hội đối với chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước
b. Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1. Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2. Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.
3. Thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội.
4. Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
5. Giám sát và phản biện xã hội.
6. Tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến
nghị với Đảng và Nhà nước.
7. Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước.
8. Thực hiện và mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân.
Từ nhiệm vụ chung của Mặt trận Tổ quốc nêu trên, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc từng cấp căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ và
tình hình cu thể của một địa phương để đề ra nhiệm vụ hoạt động cho Mặt trận
cấp mình trong một kỳ đại hội hay chương trình phối hợp thống nhất hành động
từng năm một cách phù hợp và có tính khả thi.
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT
TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức lãnh đạo vừa là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là một nét độc đáo trong lý luận cách mạng
nước ta. Đảng là thành viên của Mặt trận nhưng với tư cách thành viên lãnh
đạo, thông qua Mặt trận để tập hợp các lực lượng quần chúng nhân dân theo
Đảng làm cách mạng. Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải ở trong Mặt trận, là một
thành viên của Mặt trận, Đảng không thể đứng trên hoặc đứng ngoài để lãnh
đạo Mặt trận. Về vấn đề này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đảng không
thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một
100

bộ phận trung thành nhất,... chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần
chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng,
thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo.
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương,
chính sách đúng đắn, xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, đáp
ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân;
Đảng tiến hành công tác tuyên truyền vận động, thuyết phục, tổ chức, giám sát,
kiểm tra và bằng sự gương mẫu của đảng viên. Thực tiễn lịch sử từ ngày thành
lập Mặt trận đến nay đã chứng tỏ các thành viên tham gia Mặt trận đều tự giác
thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời là thành viên, Đảng tham gia
Mặt trận bình đẳng và có nghĩa vụ như mọi thành viên khác. Đại diện cấp uỷ
Đảng trong Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm tham gia sinh
hoạt đầy đủ, chủ động trình bày các chủ trương và kiến nghị của Đảng đối với
Mặt trận, đồng thời lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của các thành viên,
thực hiện hiệp thương dân chủ và phối hợp thống nhất hành động. Đảng lãnh
đạo Mặt trận bằng các chủ trương, chính sách, đường lối đúng đắn, khoa học
và sáng tạo; bằng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục và kiểm tra và
bằng vai trò gương mẫu của các đảng viên. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Mặt trận là một tất yếu khách quan, được lịch sử thừa nhận và là nguyên tắc
đảm bảo cho Mặt trận được không ngừng củng cố và phát triển. Tuy nhiên, là
một bộ phận trong hệ thống chính trị, hoạt động theo quy định của pháp luật và
Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; trong quá trình lãnh đạo Mặt trận, Đảng
phải tôn trọng tính độc lập về tổ chức của Mặt trận; đồng thời, cần có cơ chế để
khuyến khích sự chủ động và tính sáng tạo trong hoạt động của Mặt trận nhằm
thực hiện mục tiêu chung vì lợi ích của dân tộc.

Đảng lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc là tổng thể các hoạt động của Đảng để
đề ra các quyết định đối với Mặt trận Tổ quốc, tổ chức thực hiện các quyết định
101

đã đề ra và tổ chức kiểm tra, giám sát tất cả các hoạt động ấy, nhằm thực hiện
thắng lợi các quyết định của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc.

Như vậy, chủ thể lãnh đạo là Đảng và các tổ chức đảng; đối tượng lãnh
đạo là Mặt trận Tổ quốc các cấp. Ngoài ra, còn có các lực lượng khác, trước hết
là Nhà nước, tham gia vào quá trình lãnh đạo của Đảng. Mục đích của lãnh đạo
là thực hiện thắng lợi các quyết định do Đảng đề ra đối với Mặt trận Tổ quốc

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống
chính trị ở nước ta. Theo quy định của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các
tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,
nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành
động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
1. Nội dung lãnh đạo
Thứ nhất, Đảng định hướng nhiệm vụ chính trị cho Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam các cấp.
- Tập hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong nhân dân.
- Tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện
đường lối chủ trương chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp
và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán
bộ công chức nhà nước.
102

- Tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với
Đảng và Nhà nước.
- Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
- Cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân.
- Tham gia phát triển tình hữu nghị hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với
nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Hướng dẫn và tổ chức tốt các cuộc vận động và các phong trào thi đua
yêu nước của các tầng lớp nhân dân
Hai là, lãnh đạo Mặt trận Mặt trận Tổ quốc xây dựng, củng cố hệ thống
tổ chức, cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị.
- Thường xuyên củng cố kiện toàn cơ quan chuyên trách công tác Mặt
trận các cấp
- Chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Mặt trận các cấp
- Quan tâm đặc biệt đến đội ngũ cán bộ Mặt trận cấp cơ sở, đặc biệt là
vùng khó khăn
2. Phương thức lãnh đạo
- Lãnh đạo bằng các chù trương, quyết định, định hướng chính trị cho
hoạt động của Mặt trận.
- Bằng công tác tổ chức, cán bộ Mặt trận.
- Thông qua đảng đoàn, các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong
Mặt trận.
- Bằng công tác tuyên truyền giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân
tham gia các hoạt động của Mặt trận.
- Bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Mặt trận theo quy định.
- Đảng lãnh đạo Mặt trận thông qua việc lãnh đạo Mặt trận xây dựng và
thực hiện Quy chế phối hợp hoạt động với các cơ quan Nhà nước ở các cấp.
103

III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và phát huy sức
mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững hoà bình, độc lập,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tập trung vào những nội dung sau:

Một là, nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức
đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt
trận Tổ quốc trong điều kiện hiện nay

Trước hết cấp ủy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cần nhận thức sâu
sắc về vị trí, vai trò của Mặt trận trong điều kiện hiện nay; trên cơ sở đó, nâng
cao nhận thức trách nhiện của đội ngũ cán bộ, đảng viên về những vấn đề này.
Sự nhận thức và trách nhiệm ấy, phải được thể hiện bằng những chủ trương,
giải pháp của cấp ủy, chính quyền đối với hoạt động của Mặt trận, thể hiện trên
tất cả các mặt như: chỉ đạo về nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận;
về công tác tổ chức - cán bộ; về tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận hoạt động
có hiệu quả; về lãnh đạo sự phối hợp hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể
trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở.

Hai là, nâng cao chất lượng định hướng chính trị cho hoạt động của
Mặt trận

Việc định hướng chính trị cho hoạt động của Mặt trận được thể hiện trong
các chủ trương, nghị quyết của Đảng, của các cấp ủy về mục tiêu, phương thức
hoạt động trước mắt và lâu dài của Mặt trận; về xây dựng tổ chức bộ máy và
cán bộ của Mặt trận, về cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức này
trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng; về nội dung, phương thức hoạt
động của Mặt trận…
104

Các chủ trương, nghị quyết của Đảng về Mặt trận phải đúng đắn, phù
hợp với đặc điểm của Mặt trận và có tính khả thi. Vì vậy, cần nâng cao tính
đúng đắn của các chủ trương, nghị quyết đó, cần điều tra, nghiên cứu thực tiễn,
trước khi đề ra các chủ trương, nghị quyết về Mặt trận; mở rộng dân chủ, tôn
trọng và lắng nghe ý kiến của Mặt trận và ý kiến của nhân dân. Trong quá trình
lãnh đạo Mặt trận, cấp ủy cần coi trọng sơ kết, tổng kết rút ra từ những kinh
nghiệm bổ ích, và nghiên cứu bổ sung những điểm mới, sửa đổi những điểm
chưa hợp lý, để chủ trương, nghị quyết đúng đắn, hoàn chỉnh hơn.

Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc

Tăng cường và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong việc xây
dựng, ban hành cơ chế, chính sách, tạo điều kiện cho Mặt trận hoạt động đúng
định hướng chính trị, đúng pháp luật và có hiệu quả. Phát huy tinh thần tự chủ,
sáng tạo của Mặt trận trong việc kiện toàn tổ chức và đổi mới hoạt động của
mình. Có cơ chế, chính sách lãnh đạo và quản lý phù hợp với từng cấp, từng
lĩnh vực; tiếp tục cụ thể hoá luật Mặt trận cho phù hợp với điều kiện hiện nay.

Ban Thường vụ cấp ủy cho ý kiến chỉ đạo về những định hướng công tác
lớn cho từng thời kỳ; về chương trình, nội dung hoạt động hàng năm của Mặt
trận Tổ quốc. Chỉ đạo đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc các cấp ở địa phương xây
dựng quy chế hoạt động, quy chế phối hợp giữa các cấp uỷ, cơ quan chính
quyền với Mặt trận, các đoàn thể trong việc tổ chức triển khai các chủ trương
lớn của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; về công tác dân vận ở
địa phương; về công tác giám sát và phản biện xã hội; cho ý kiến về công tác
cán bộ của Mặt trận, chỉ đạo thực hiện công tác cán bộ; chỉ đạo cán bộ, ngành
chức năng bảo đảm các điều kiện cần thiết cho Mặt trận hoạt động; định kỳ
hàng quý giao ban để nghe Mặt trận và các đoàn thể báo cáo kết quả hoạt động
và các kiến nghị đối với Đảng, Nhà nước.
105

Bốn là, xây dựng tổ chức bộ máy, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc có chất lượng
cao

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận đạt kết quả, một
vấn đề rất quan trọng cần quan tâm là phải xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ
cán bộ của Mặt trận đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cần tập trung vào các công
việc như: xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận các cấp. Tiến hành sắp
xếp, kiện toàn tổ chức, bộ máy Mặt trận một cách khoa học, gọn nhẹ, hoạt động
có hiệu quả. Xây dựng quy hoạch cán bộ của Mặt trận, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng và thực hiện các khâu khác của công tác cán bộ, nhằm tạo nên đội ngũ
cán bộ có chất lượng tốt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Mặt trận trong thời kỳ
mới.

Năm là, nâng cao chất lượng các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên hoạt
động trong Mặt trận

Các tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên hoạt động trong Mặt trận là lực
lượng chủ yếu có vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp lãnh đạo Mặt trận thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cần
coi trọng xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh có năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu cao, đội ngũ đảng viên có chất lượng, phát huy tốt vai trò
tiền phong, gương mẫu trong mọi hoạt động của Mặt trận. Cần quán triệt và
thực hiện tốt những quan điểm, và giải pháp của Nghị quyết Trung ương sáu,
khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
106

Bài 5
ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA ĐOÀN THANH NIÊN
CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
1. Vị trí, vai trò
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của
thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn
đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Được xây dựng, rèn luyện và trưởng thành qua các thời kỳ đấu tranh cách
mạng, Đoàn đã tập hợp đông đảo thanh niên phát huy chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước vào thời kỳ mới, Đoàn tiếp tục phát
huy những truyền thống quý báu của dân tộc và bản chất tốt đẹp của mình, xây
dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên
định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức cách mạng, ý
thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh
trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp
trong lao động tập thể, trở thành những công dân tốt của đất nước; xung kích,
sáng tạo làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến, vươn lên ngang tầm thời đại.
107

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; thường xuyên bổ sung
lực lượng trẻ cho Đảng; tổ chức động viên đoàn viên, thanh niên cả nước đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng
Cộng sản Việt Nam, là lực lượng xung kích cách mạng, là trường học xã hội
chủ nghĩa của thanh niên, đại diện chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính
đáng của tuổi trẻ; phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh; là lực
lượng nòng cốt chính trị trong phong trào thanh niên và trong các tổ chức thanh
niên Việt Nam.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống
chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đoàn phối hợp với các cơ quan Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức kinh tế, xã hội, các tập thể
lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi; tổ
chức cho đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia vào việc quản lý nhà nước và
xã hội.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đoàn kết, phát triển quan hệ
hữu nghị, hợp tác bình đẳng với các tổ chức thanh niên tiến bộ, thanh niên và
nhân dân các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì tương lai và hạnh phúc của tuổi trẻ.
Trong hệ thống chính trị, Đảng là người lãnh đạo, Đoàn là một trong các
tổ chức thành viên. Vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thể
hiện qua mối quan hệ giữa tổ chức Đoàn với các tổ chức thành viên khác trong
hệ thống chính trị.
108

- Đối với Đảng: Đoàn là hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng,
là đội dự bị tin cậy của Đảng, nguồn cung cấp cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ
chính trị của Đảng.
- Đối với nhà nước: Đoàn là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đoàn phối
hợp với các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể và tổ chức xã hội chăm lo giáo
dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi.
Ngoài ra, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh còn có vai trò quan trọng trong mối
quan hệ với các tổ chức quần chúng khác:
- Đối với các tổ chức xã hội của thanh niên và phong trào thanh niên:
Đoàn giữ vai trò làm nòng cốt chính trị trong việc xây dựng tổ chức tổ chức và
hoạt động của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam,
Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam và các thành viên khác của Hội.
- Đối với Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh: Đoàn giữ vai trò là
người phụ trách Đội và có trách nhiệm xây dựng tổ chức Đội, lựa chọn, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thiếu nhi, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và
tài chính cho hoạt động của Đội.
2. Chức năng của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh được xác
định
Thứ nhất, Đoàn là Đội dự bị tin cậy của Đảng, thường xuyên bổ sung lực
lượng trẻ cho Đảng, Nhà nước và các ngành. Đoàn luôn luôn xác định nhiệm
vụ của mình là đội quân xung kích cách mạng tích cực tham gia xây dựng Đảng
và là người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của
Bác Hồ.
Thứ hai, Đoàn là Trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, tạo môi
trường đưa thanh niên vào các hoạt động giúp học tập rèn luyện và phát triển
nhân cách, năng lực của người lao động mới phù hợp với yêu cầu của xã hội
hiện nay.
109

Thứ ba, Đoàn đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tuổi
trẻ. Chức năng này khẳng định rõ tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức
của thanh niên, vì thanh niên.
Mọi thắng lợi và kết quả công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu niên
từ trước đến nay đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự
quan tâm ân cần của Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức Đoàn và các
ngành, đoàn thể, gia đình và xã hội. Vì vậy, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh
nào, mọi mặt hoạt động của Đoàn đều phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn
diện của Đảng, tranh thủ sự quan tâm của Nhà nước và sự phối hợp trên quy
mô toàn xã hội. Tổ chức Đoàn phải thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm
của Đảng, đồng thời nắm bắt đầy đủ kịp thời đường lối, chủ trương, chính sách,
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh xã hội, văn hoá của Đảng và
Nhà nước trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, nhằm từ đó đề ra nhiệm
vụ công tác Đoàn đúng đắn, sáng tạo.
3. Nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có các nhiệm vụ cơ bản sau đây:

Một là, đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên, thực hiện tốt
vai trò nòng cốt, định hướng chính trị trong việc xây dựng tổ chức hoạt động
của Hội LHTN, Hội sinh viên Việt Nam… nhằm đưa thanh niên vào trong tổ
chức của Hội và Đoàn cùng phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng nuớc Việt Nam
độc lập dân chủ, giàu mạnh, công bằng, xã hội văn minh theo định hướng
XHCN.

Việc tập hợp lực lượng thanh niên, đưa họ vào trong các tổ chức của Hội,
của Đoàn là bước khởi đầu quan trọng tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần
của Đoàn TNCS, tạo ra mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng thanh niên nói
riêng và với quần chúng nhân dân nói chung. V.I Lênin đã cho chúng ta rằng:
110

“Đừng quên rằng sức mạnh của một tổ chức cách mạng là ở số lượng những
mối liên hệ của nó”.

Hai là, giáo dục lý tưởng XHCN cho đoàn viên, thanh niên thông qua
các phong trào hành động cách mạng. Mảng hoạt động giáo dục là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình hoạt động của Đoàn - đối tượng giáo dục chủ yếu là đoàn
viên, thanh niên - lực lượng to lớn, có vị trí vai trò rất quan trọng trong việc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, suy cho cùng là hình thành bộ mặt nhân cách con
người trong xã hội mới phù hợp với đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Nội dung công tác giáo dục rất phong phú, bao gồm:

- Giáo dục chính trị tư tưởng.

- Giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Giáo dục luật pháp, lối sống, nếp sống.

- Giáo dục khoa học kỹ thuật công nghệ, về dân số - sức khỏe - môi trường.

- Giáo dục về phát huy, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.

- Giáo dục truyền thống Cách mạng.

Tham gia công tác giáo dục thanh niên phải thông qua những phong trào,
những hành động cách mạng cụ thể. Đoàn không thể chỉ nói suông, giáo dục
mang tính kinh viện, giáo điều mà phải tổ chức, đưa thanh niên vào các phong
trào hành động cách mạng, qua các công việc và phong trào thiết thực đáp ứng
nhu cầu, nguyện vọng của tuổi trẻ. Kết hợp chặt chẽ nguyên lý giáo dục: Học
đi đôi với hành, lý luận gắng liền với thực tiễn.

Ba là, tổ chức các phong trào hành động cách mạng trong thanh niên.

Đây là nhiệm vụ quan trọng, có tính đặc thù của Đoàn Thanh niên. Với
vai trò là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, Đoàn phải tuyên truyền,
111

vận động, thu hút, tập hợp và tổ chức các phong trào hoạt động cách mạng
nhằm giáo dục, rèn luyện thanh niên về mọi mặt. Để đáp ứng yêu cầu đó, nội
dung, hình thức hoạt động của Đoàn nói chung, các phong trào hành động nói
riêng phải phong phú, đa dạng. Những phong trào hoạt động của Đoàn phải dựa
trên nhiều yếu tố như: chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đoàn; yêu cầu, nhiệm
vụ chính trị của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị; tâm lý lứa tuổi; nhu cầu,
nguyện vọng, sở thích của thanh thiếu niên…

Bốn là, tham gia xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, coi nhiệm vụ xây dựng
Đảng là một tất yếu trong xây dựng tổ chức đoàn, ngược lại Đoàn TNCS phải
là đội quân trung thành, kế tục sự nghiệp của Đảng, mang ngọn cờ, lý tưởng
của Đảng đến đích cuối cùng, đưa NQ và đường lối của Đảng vào trong cuộc
sống. Đoàn TNCS là nguồn cung cấp bổ sung cho Đảng lực lượng trẻ, có tri
thức, đạo đức, sức khoẻ để gánh vác công việc tạo sinh lực mới cho Đảng. Quán
triệt tinh thần công tác xây dựng, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, lấy
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Đoàn thanh niên phải là lực lượng nồng
cốt trong việc tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, tích cực hưởng ứng cuộc vận
động, xây dựng chỉnh đốn Đảng.

Năm là, phụ trách, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng.

Là tổ chức của những người trẻ tuổi, có sức khỏe, trí tuệ, năng lực, hoài
bão, ước mơ, lại dễ gần gũi, hòa đồng với thiếu niên, nhi đồng, các tổ chức
đoàn còn có trách nhiệm phụ trách, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng
trong cả nước. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định các tổ chức đoàn
trực tiếp phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Điều lệ của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh cũng quy định nội dung này và quy định cụ thể các tổ chức
đoàn hướng dẫn thiếu nhi làm theo 5 điều Bác Hồ dạy và phấn đấu trở thành
đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người công dân tốt của đất
nước. Ban Chấp hành đoàn các cấp quyết định thành lập và lãnh đạo Hội đồng
112

Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, có trách nhiệm xây dựng tổ chức
Đội; lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thiếu nhi, phối hợp với
các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và tổ chức
kinh tế - xã hội chăm lo, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tài chính cho hoạt
động của Đội. Ngoài ra, tùy theo đặc điểm, mô hình tổ chức mà mức độ tham
gia phụ trách, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng của các tổ chức đoàn
khác nhau. Đối với các tổ chức đoàn ở các địa phương, đơn vị hành chính, việc
tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng, chỉ đạo, hướng
dẫn hoạt động, nhất là các dịp hè, ngày quốc tế thiếu nhi… trở thành nhiệm vụ
chính trị quan trọng của mình.

II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI ĐOÀN
THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến việc thành lập, lãnh
đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng.
Án nghị quyết tháng 10 năm 1930 đã khẳng định: “Đảng Cộng sản phải cần kíp
tổ chức ra một đoàn thể của thanh niên, đó là Đoàn TNCS theo đường lối chính
trị của Đảng, làm lực lượng dự trữ cho Đảng”; "Trung ương, các xứ uỷ, các tỉnh,
thành, đặc uỷ phải phái ra một đồng chí trẻ tuổi hơn hết trong uỷ viên hội của
mình, những người này cùng với vài đồng chí thanh niên nữa lập thành những
Uỷ hội tổ chức cộng sản thanh niên Đoàn ở Trung ương, các xứ, tỉnh, thành đặc
biệt bộ... và ở cơ sở thì "hễ kiếm được ba người thanh niên cách mạng như vậy
thì tổ chức ngay một chi bộ của Đoàn". Án nghị quyết còn quy định cụ thể "Mỗi
chi bộ của Đảng phụ trách tổ chức ra chi bộ của Đoàn".
Chương X của Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ XI của
Đảng đã dành ra hai điều quy định về sự lãnh đạo của Đảng đối với Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Điều 44:
113

1. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng,
thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt trong phong
trào thanh niên; là trường học xã hội chủ nghĩa ; đại diện quyền lợi của thanh
niên; phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
2. Cấp ủy đảng lãnh đạo trực tiếp tổ chức đoàn cùng cấp về phương
hướng, nhiệm vụ, tư tưởng, tổ chức, cán bộ.
Điều 45:
- Đảng viên còn trong độ tuổi đoàn phải sinh hoạt và công tác trong tổ
chức Đoàn.
Nghị quyết 04 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII nhấn
mạnh: "Các cấp uỷ từ Trung ương đến cơ sở có chương trình công tác thanh
niên trong nhiệm kỳ, lãnh đạo các cơ quan Nhà nước xây dựng luật pháp, chính
sách, chương trình kế hoạch công tác thanh niên. Các tổ chức Đảng chăm lo
củng cố Đoàn, xây dựng mặt trận thanh niên và đẩy mạnh phong trào hành động
cách mạng trong thanh niên. Đảng viên phải là người lãnh đạo, là tấm gương,
là người bạn của giới trẻ". Như vậy, xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh được coi là trách nhiệm của mọi đảng viên, các cấp uỷ Đảng. Nghị
quyết 25 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X cũng khẳng định quan
điểm: "Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung quan
trọng trong công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước. Đảng
đề ra đường lối, chủ trương định hướng cho thanh niên hành động, xác định các
chuẩn mực cho thanh niên phấn đấu; xây dựng các tấm gương điển hình tiêu
biểu cho thanh niên học tập và noi theo"
1. Nội dung lãnh đạo
114

Thứ nhất, Đảng định hướng nhiệm vụ chính trị cho tổ chức Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở các cấp. Các nhiệm vụ của Đoàn tập trung vào
các trọng tâm sau:
- Tăng cường công tác vận động, tập hợp thanh niên
- Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng, truyền
thống, lịch sử dân tộc, văn hoá, lối sống, ý thức chấp hành pháp luật cho thanh
thiếu nhi.
- Tổ chức tốt các phong trào hành động cách mạng thực hiện nhiệm vụ
chính trị của cả nước và địa phương.
- Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh vững mạnh, trọng tâm là chất lượng cơ sở, chất lượng đội ngũ cán bộ
đoàn và mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên.
- Thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội, tích cực tham
gia xây dựng Đảng và chính quyền.
- Làm tốt công tác phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thường
xuyên củng cố xây dựng tổ chức vững mạnh
- Thường xuyên củng cố, xây dựng tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách
của Đoàn vững mạnh
- Chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp
- Quan tâm đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở, đặc biệt là vùng khó khăn
2. Phương thức lãnh đạo
- Đảng lãnh đạo Đoàn bằng đường lối, mục tiêu chính trị của Đảng định
hướng cho hoạt động của Đoàn
- Bằng hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở và thông qua
các đảng viên làm công tác Đoàn
- Bằng chính sách pháp luật của Nhà nước và hoạt động của các cơ quan
nhà nước, đoàn thể.
115

- Đảng lãnh đạo Đoàn thanh niên thông qua thực hiện Điều lệ Đảng và
các nghị quyết của Đảng; kiểm tra hoạt động của tổ chức đoàn thanh niên.
- Đảng lãnh đạo Đoàn bằng việc phát huy dân chủ, coi trọng tính độc lập,
sáng tạo của tổ chức Đoàn
III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI ĐOÀN THANH
NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
- Nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng và đảng viên đối với công tác
thanh niên
Theo đó, công tác thanh niên là công tác của Đảng, của mỗi đảng viên
và của mỗi một tổ chức đảng. Vì vậy, các cấp ủy đảng và đảng viên cần nhận
thức sâu sắc: Chăm lo công tác thanh niên và xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng
trước một bước, là quá trình xây dựng và chuẩn bị đội dự bị tin cậy bổ sung lực
lượng cho Đảng. Trong chương trình công tác định kỳ của mình (tháng, quý,
năm, nhiệm kỳ), cấp ủy đảng cần có chương trình công tác cụ thể lãnh đạo, chỉ
đạo Đoàn thanh niên; phân công cấp ủy viên phụ trách công tác thanh niên; chỉ
đạo các cấp, các ngành thực hiện nội dung công tác thanh niên; kiểm tra việc
thực hiện các chủ trương về công tác thanh niên, trong đó chú trọng kiểm tra
công tác phát triển đảng từ đoàn viên; thường xuyên gặp gỡ, trao đổi và đối
thoại với thanh nhiên; xây dựng quy chế, lề lối làm việc với cấp bộ Đoàn và
các ngành về công tác thanh niên... Đối với mỗi đảng viên cần thống nhất nhận
thức: Công tác thanh niên trước hết là công tác của Đảng. Tiến hành công tác
thanh vận là trách nhiệm của từng đảng viên, chứ không phải và không chỉ là
nhiệm vụ của riêng cấp ủy viên phụ trách công tác thanh niên hay của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh. Do đó, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của
mình, mỗi đảng viên cần đi vào phong trào của tuổi trẻ, tuyên truyền đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; sống mẫu mực, là tấm gương
cho thanh niên noi theo; đồng thời tham gia bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên ưu
tú cho Đảng xem xét kết nạp.
116

- Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chủ trương, đường lối, sự chỉ
đạo, công tác cán bộ, kiểm tra và nêu gương đảng viên trong công tác thanh
niên.
Tạo lập ý thức cộng đồng trách nhiệm, có sự hiểu đúng và nhận thức đầy
đủ về công tác thanh niên. Công tác thanh niên do Đảng lãnh đạo cần phải được
hiểu đó là công việc, là trách nhiệm của toàn xã hội, không phải và không chỉ
là công việc của Đảng, của Đoàn. Không thể mọi yếu kém của thanh niên và
công tác thanh niên đều “đổ lên đầu” Đoàn thanh niên. Mỗi người, mỗi tổ chức
đều có việc cần làm cho thanh niên và vì thanh niên.
Tăng cường lãnh đạo và phát huy vai trò quản lý nhà nước đối với công
tác thanh niên, đẩy mạnh quá trình hoạch định chính sách, pháp luật liên quan
đến thanh niên và công tác thanh niên. Trước hết, cần nghiên cứu để sớm kiện
toàn ủy ban Quốc gia về Thanh niên Việt Nam đủ mạnh cả về chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức và hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên. Đồng thời, các cơ quan
hành chính nhà nước từ Trung ương tới địa phương cần có bộ phận chuyên
trách thực hiện công tác thanh niên. Chính phủ cần kiên quyết tập trung chỉ đạo
thực hiện tốt các mục tiêu phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010, xây
dựng chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và cụ thể hóa các chủ trương của
Đảng trong giáo dục, bồi dưỡng, phát huy thanh niên. Thực hiện tốt Luật Bảo
vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, tạo điều kiện để trẻ em phát triển toàn diện,
trở thành những thanh niên tốt. Quốc hội cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật
Thanh niên và các luật liên quan (Doanh nghiệp, Giáo dục…) phù hợp với tình
hình mới. Bảo đảm sự tham gia đầy đủ, có trách nhiệm của thanh niên, của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các tổ chức thanh niên trong xây dựng các chính
sách, pháp luật liên quan đến thanh niên cũng như đánh giá sự tác động của nó
đối với thanh niên.
- Lãnh đạo quá trình xã hội hóa công tác thanh niên.
117

Điều này có nghĩa là quan tâm đầu tư cho các chủ thể làm công tác thanh
niên. Trong đó tập trung:
+ Phát huy vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và các tổ chức thanh
niên do Đoàn làm nòng cốt trong việc hoạch định chính sách và tổ chức thực
hiện các chính sách liên quan đến thanh niên và công tác thanh niên.
+ Nâng cao vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát việc thực hiện các chủ
trương, chính sách liên quan đến thanh niên và công tác thanh niên.
+ Phát huy vai trò của các tổ chức kinh tế, xã hội trong công tác thanh
niên và chăm lo đến thanh niên.
+ Đề cao vai trò của gia đình trong giáo dục thanh niên.
+ Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với công tác thanh
niên.

- Cần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa công tác thanh niên của Đảng.
Đó là hiện đại về nội dung, phương pháp tiếp cận, giáo dục, vận động, thuyết
phục thanh niên; là hiện đại về cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động trong công
tác thanh niên; từng bước xây dựng môi trường xã hội văn minh, tiến bộ.
118

Bài 6
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA CÔNG ĐOÀN VIỆT
NAM
Tổ chức Công đoàn sơ khai đầu tiên ở Việt Nam được hình thành vào
những năm 1920-1921 tại Ba Son-Sài Gòn, do đồng chí Tôn Đức Thắng – một
công nhân ưu tú ở xưởng đóng tàu Ba Son sáng lập và lãnh đạo. Nguyễn Ái
Quốc sáng lập Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng và trực tiếp giảng dạy cho
các hội viên về tính chất, nhiệm vụ của Công hội: Tổ chức công hội trước hết
là để công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau,
ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để
bảo vệ quyền lợi cho nhau, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới...
Ngày 28/7/1929 tại số nhà 15 phố Hàng Nón - Hà Nội Ban Chấp hành
Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng quyết định tổ chức Đại hội
đại biểu Công hội Đỏ Bắc kỳ lần thứ nhất và lập ra Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ.
Việc thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ có ý nghĩa hết sức to lớn đối
với phong trào công nhân Việt Nam; vừa là kết quả tất yếu của sự trưởng thành
về chất lượng phong trào công nhân nước ta, vừa là thắng lợi của đường lối
công vận của Nguyễn ái Quốc và Đảng Cộng sản Đông Dương… đánh dấu sự
hoà nhập của phong trào công nhân nước ta với phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế.
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
quyết định lấy ngày 28/7/1929, ngày họp đại hội thành lập Tổng Công hội đỏ
đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam làm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam…
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp
công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm
mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
lớn mạnh về mọi mặt, có tính chất giai cấp của giai cấp công nhân và tính chất
119

quần chúng, có chức năng: Đại diện bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của công nhân, viên chức, người lao động; tham gia quản lý Nhà
nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ
quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục, động viên công nhân viên chức lao
động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, có quan hệ hợp tác với Nhà nước và phối hợp với các tổ
chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội khác, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam luôn trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân
và của dân tộc, đồng thời phát huy truyền thống quốc tế, tăng cường và mở
rộng hợp tác với công đoàn các nước, các tổ chức quốc tế trên nguyên tắc hữu
nghị, đoàn kết, bình đẳng và hợp tác cùng có lợi, phấn đấu cho mục tiêu: Vì lợi
ích người lao động, vì hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc, phát triển và tiến bộ
xã hội.
Điều 1. Luật Công đoàn năm 2012 ghi nhận: “Công đoàn là tổ chức chính
trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành
lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công
chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung
là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động;
tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm
tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp;
tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”.
120

Ðiều 10 của Hiến pháp 2013 quy định: "Công đoàn Việt Nam là tổ chức
chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập
trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến
quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động
học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc".
1. Vị trí của Công đoàn Việt Nam
Công đoàn là thành viên trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam.
- Với Đảng, Công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chỗ dựa vững chắc và là sợi dây chuyền nối liền quần chúng với Đảng.
- Với Nhà nước, Công đoàn là người cộng tác đắc lực, bình đẳng tôn
trọng lẫn nhau, ngược lại Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý và cơ sở vật chất
cho Công đoàn hoạt động.
- Với tổ chức chính trị, xã hội khác, Công đoàn là thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, hạt nhân trong khối liên minh công, nông, trí thức, bình
đẳng, tôn trọng, tạo điều kiện cho nhau hoạt động (thông qua các Nghị quyết
liên tịch…)
2. Vai trò của Công đoàn Việt Nam
Vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam không ngừng phát triển, mở
rộng qua các thời kỳ. Ngày nay trong giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại, vai trò của Công đoàn Việt Nam tác động trên
các lĩnh vực:
* Trong lĩnh vực chính trị: Công đoàn có vai trò to lớn trong việc góp
phần xây dựng và nâng cao hiệu quả của hệ thống chính trị - xã hội xã hội chủ
nghĩa. Tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, bảo đảm và
121

phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực thi pháp luật và để Nhà nước thực sự là
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để đảm bảo sự ổn định về chính trị. Công
đoàn và các tổ chức chính trị xã hội khác là chỗ dựa cho Đảng và cho chính
quyền nhân dân. Công đoàn đoàn kết giai cấp công nhân và người lao động.
Công đoàn có vai trò quan trọng trong việc củng cố khối liên minh công, nông,
trí thức Việt Nam, góp phần làm nền tảng cho việc xây dựng, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Công đoàn cùng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể chính trị - xã hội khác thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã
hội, goáp phần xây dựng Đảng và Nhà nước.
* Trong lĩnh vực kinh tế: Công đoàn tham gia xây dựng hoàn thiện cơ
chế quản lý kinh tế nhằm xoá bỏ quan liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập
trung trên cơ sở mở rộng dân chủ. Góp phần củng cố những thành tựu kinh tế
văn hoá và khoa học kỹ thuật đã đạt được trong những năm thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các
thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, liên kết và
hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có lợi cho quốc kế dân sinh. Đẩy
mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từng bước đưa kinh tế tri thức
vào Việt Nam, góp phần nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Đặc
biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
việc đẩy mạnh hoạt động của các thành phần kinh tế vẫn đảm bảo cho kinh tế
quốc doanh giữ vị trí then chốt, đóng vai trò chủ đạo.
* Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: Trong nền kinh tế nhiều thành phần
Công đoàn phát huy vai trò của mình trong việc giáo dục công nhân, viên chức
và lao động nâng cao lập trường giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động, phát huy
những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu những thành tựu
122

tiên tiến của văn minh nhân loại góp phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
* Trong lĩnh vực xã hội: Công đoàn có vai trò trong tham gia xây dựng
giai cấp công nhân vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, không ngừng nâng
cao trình độ giác ngộ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn hoá, khoa học
kỹ thuật, có nhãn quan chính trị, thực sự là lực lượng nòng cốt của khối liên
minh công - nông - trí thức, làm nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ
sở vững chắc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh của
Nhà nước.
3. Chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn Việt Nam
* Công đoàn Việt Nam có ba chức năng:
1. Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng
của người lao động; có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất,
giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.
2. Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ
quan, đơn vị, tổ chức, quản lý kinh tế xã hội, quản lý Nhà nước trong phạm vị
chức năng của mình, thực hiện quyền kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan
đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật.
3. Công đoàn có trách nhiệm tổ chức, giáo dục động viên người lao động
phát huy vai trò làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và
phát triển bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Chức năng của Công đoàn là một chính thể, một hệ thống đồng bộ, đan
xen tương tác lẫn nhau. Trong đó, chức năng bảo vệ quyền, lợi ích người lao
động mang ý nghĩa trung tâm - mục tiêu hoạt động công đoàn. Từ các chức
năng này sẽ định ra các nhiệm vụ cụ thể của Công đoàn.
* Nhiệm vụ của Công đoàn:
Một là, nắm vững và quán triệt thật sâu sắc những quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, cương lĩnh chính trị và chiến lược
123

phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới; Nghị quyết Hội nghị TƯ 6- khóa
X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân. Nắm bắt tình hình và nguyện vọng
chính đáng của công nhân để tham mưu cho Đảng, Nhà nước có những chính
sách, biện pháp cụ thể, đưa các quan điểm, chủ truơng của Đảng và Nhà nước
vào cuộc sống.
Hai là, Công đoàn cần chăm lo làm tốt hơn nữa nhiệm vụ xây dựng giai
cấp công nhân, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp đổi
mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các cấp công đoàn chú trọng công
tác tuyên truyền giáo dục, giúp công nhân, viên chức, lao động nâng cao nhận
thức về giai cấp, về Đảng, về tổ chức công đoàn. Phát huy lòng yêu nước, yêu
Chủ nghĩa xã hội, lao động cần cù, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đói nghèo,
lạc hậu, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, làm nòng cốt trong khối liên
minh công nhân - nông dân - trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, Công đoàn càng cần phải
làm tốt vai trò là người đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của giai cấp công nhân và người lao động; chủ động tham gia thương lượng với
người sử dụng lao động và tổ chức tốt việc ký kết thực hiện thỏa ước lao động
tập thể, giải quyết tốt các tranh chấp lao động, tham gia xây dựng phương án
sắp xếp lại sản xuất kinh doanh, đổi mới tổ chức và hoạt động của các doanh
nghiệp, trước hết là doanh nghiệp nhà nước theo chủ trương của Đảng và Nhà
nước, tham gia rà soát xây dựng định mức lao động, nhất là những đơn vị cổ
phần hóa, sắp xếp lại hoặc giải thể, chú trọng tham gia xây dựng và tổ chức
thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, đẩy mạnh các hoạt động xã hội, tạo điều
kiện để công nhân lao động thực hiện được quyền làm chủ của mình.
Ba là, chủ động phối hợp với chính quyền phát động sâu rộng và tổ chức
tốt các phong trào hành động cách mạng trong công nhân; động viên đông đảo
công nhân lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, đi đầu trong các phong
trào thi đua phát triển kinh tế xã hội. Phải liên tục đổi mới nội dung và các hình
124

thức thi đua phối hợp với đặc điểm của từng ngành, địa phương và cơ sở; hướng
phong trào thi đua vào mục tiêu “năng suất - chất lượng - hiệu quả”; “việc làm
- đời sống - dân chủ và công bằng xã hội”, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập,
cải thiện đời sống công nhân lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế, hoàn thành
nhiệm vụ chính trị của ngành và địa phương.
Bốn là, đẩy mạnh việc xây dựng tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ và cải
tiến phương thức hoạt động, phù hợp với yêu cầu mới. Chăm lo xây dựng củng
cố tổ chức Công đoàn, làm cho Công đoàn không ngừng lớn mạnh, thật sự là
tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức quần chúng rộng lớn của công nhân lao động,
đại diện cho sức mạnh, tài năng, trí tuệ của công nhân, viên chức, lao động.
Cần phải đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng và tăng cường các hoạt
động xã hội, để tập hợp động viên được đông đảo công nhân lao động trong tất
cả các thành phần kinh tế. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các
cấp Công đoàn, đặc biệt là Công đoàn cơ sở theo hướng “hướng về cơ sở vì
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động vì sự phát
triển bền vững của đất nước”, khắc phục tình trạng xơ cứng, hành chính hóa
trong hoạt động Công đoàn; đẩy mạnh việc thiết lập Công đoàn trong khu vực
kinh tế tư nhân, liên doanh và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Năm là, làm tốt công tác xây dựng Đảng tại các cơ quan, tổ chức của
mình theo tinh thần Đại hội XI của Đảng và các NQ của Trung ương Đảng, đặc
biệt là NQ TW 4 - khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”; đồng thời tích cực tham gia xây dựng Đảng nói chung cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
Tích cực tham gia công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, giữ gìn sự trong sạch, bản chất cách mạng trong sáng của Đảng. Đẩy mạnh
việc bồi dưỡng phát triển Đảng trong công nhân lao động, giới thiệu cho Đảng
xem xét kết nạp đảng viên từ những đoàn viên ưu tú của Công đoàn và bổ sung
cho Đảng những cán bộ xuất sắc trưởng thành từ phong trào công nhân và hoạt
125

động Công đoàn, nhằm góp phần tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
Đảng. Triển khai thực hiện nghiêm túc NQ Hội nghị TƯ 7- khóa XI về “Tăng
cường đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
mới”
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG
ĐOÀN VIỆT NAM
1. Nội dung lãnh đạo
Thứ nhất, Đảng định hướng nhiệm vụ chính trị cho tổ chức Công đoàn ở
các cấp. Các nhiệm vụ của Công đoàn tập trung vào các trọng tâm sau:
- Lãnh đạo Công đoàn quán triệt và thực hiện Nghị quyết Hội nghị TƯ
6- khóa X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân.
- Lãnh đạo các cấp công đoàn chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục,
giúp công nhân, viên chức, lao động nâng cao nhận thức về giai cấp, về Đảng,
về tổ chức công đoàn. Phát huy lòng yêu nước, yêu Chủ nghĩa xã hội, lao động
cần cù, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, đáp ứng yêu cầu
của công cuộc đổi mới, làm nòng cốt trong khối liên minh công nhân - nông
dân - trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Lãnh đạo Công đoàn phát động sâu rộng và tổ chức tốt các phong trào
hành động cách mạng trong công nhân; động viên đông đảo công nhân, lao
đông phát huy quyền làm chủ đất nước, đi đầu trong các phong trào thi đua phát
triển kinh tế xã hội.
- Chăm lo xây dựng củng cố tổ chức Công đoàn, làm cho Công đoàn
không ngừng lớn mạnh, thật sự là tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức quần chúng
rộng lớn của công nhân, lao động, đại diện cho sức mạnh, tài năng, trí tuệ của
công nhân, viên chức, lao động.
- Thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội, tích cực tham
gia xây dựng Đảng và chính quyền.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo tổ chức Công đoàn thường xuyên củng cố xây
dựng tổ chức vững mạnh
126

- Thường xuyên củng cố, xây dựng tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách
của tổ chức Công đoàn vững mạnh
- Chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Công đoàn các cấp
- Quan tâm đội ngũ cán bộ Công đoàn cơ sở, đặc biệt là vùng khó khăn
2. Phương thức lãnh đạo
- Đảng lãnh đạo Công đoàn bằng đường lối, mục tiêu chính trị của Đảng
định hướng cho hoạt động của Công đoàn
- Bằng hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở và thông qua
các đảng viên làm công tác Công đoàn
- Bằng chính sách pháp luật của Nhà nước và hoạt động của các cơ quan
nhà nước, đoàn thể.
- Đảng lãnh đạo Công đoàn thông qua thực hiện Điều lệ Đảng và các
nghị quyết của Đảng; kiểm tra hoạt động của tổ chức Công đoàn.
- Đảng lãnh đạo Công đoàn bằng việc phát huy dân chủ, coi trọng tính
độc lập, sáng tạo của tổ chức Công đoàn
III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG ĐOÀN
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao tính năng động, sáng tạo
của tổ chức công đoàn, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:

- Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng đối với tổ chức
và hoạt động công đoàn, tạo điều kiện để công đoàn thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ; khắc phục tình trạng buông lỏng vai trò lãnh đạo hoặc bao biện,
làm thay, giao nhiệm vụ không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
công đoàn. Các cấp uỷ, tổ chức đảng thường xuyên lãnh đạo, định hướng để
tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ra đời và hoạt động đúng tôn
chỉ, mục đích, tuân thủ pháp luật; phòng ngừa, ngăn chặn việc lợi dụng tổ
chức của người lao động tại doanh nghiệp để xâm phạm quyền, lợi ích của
người lao động và doanh nghiệp, gây mất an ninh, trật tự.
127

- Đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền, phổ biến để các cấp uỷ,
tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, thời cơ,
thách thức và những vấn đề mới đặt ra đối với Công đoàn Việt Nam trong
bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế sâu rộng, ký kết nhiều hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới và phê chuẩn các công ước quốc tế liên quan đến lao
động, công đoàn.

- Quan tâm lãnh đạo công tác phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động
của các tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước;
thành lập tổ chức công đoàn để tạo tiền đề thành lập tổ chức đảng, đoàn thể
khác. Ở những nơi chưa có tổ chức đảng, Đảng lãnh đạo tổ chức công đoàn
thông qua công đoàn cấp trên trực tiếp; cán bộ công đoàn các cấp, trước hết
là cán bộ công đoàn cơ sở có nhiệm vụ tuyên truyền đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đoàn viên, người lao
động. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát triển đảng viên; quan tâm
bồi dưỡng, giới thiệu công nhân, người lao động đủ tiêu chuẩn vào Đảng.

- Các cấp uỷ phối hợp thường xuyên, chặt chẽ với công đoàn cấp trên
trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ chức, cán bộ và hoạt động công đoàn cấp
mình. Định kỳ hằng năm và khi cần thiết, ban thường vụ hoặc ban chấp hành
cấp uỷ (nơi không có ban thường vụ) làm việc với ban chấp hành công đoàn
cùng cấp để nắm tình hình hoạt động, chỉ đạo, định hướng nhiệm vụ thời
gian tiếp theo; lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, chỉ đạo giải quyết kịp thời
các kiến nghị chính đáng của đoàn viên, người lao động.

- Tăng cường kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị
quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về công nhân, công đoàn. Phát huy trách
nhiệm nêu gương của đảng viên là cán bộ công đoàn, nhất là người đứng
đầu. Đảng viên làm việc trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có đủ điều
128

kiện phải tham gia tổ chức công đoàn và gương mẫu, tích cực tham gia các
hoạt động của công đoàn.
129

Bài 7
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ
NỮ VIỆT NAM
1. Vị trí, vai trò
Phụ nữ Việt Nam vốn sinh ra trong một đất nước với nền văn minh nông
nghiệp, dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp nên phụ nữ
Việt Nam đã trở thành lực lượng lao động chính. Bên cạnh đó, nước ta luôn
luôn bị kẻ thù xâm lược, đời sống nghèo khổ. Từ thực tế đó mà người phụ nữ
Việt Nam có bản sắc phong cách riêng: họ là những chiến sĩ chống ngoại xâm
kiên cường dũng cảm; là người lao động cần cù, sáng tạo, thông minh; là người
giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa
văn hoá dân tộc; là những người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã sản sinh
ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.
Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là lớp người bị áp bức, bóc
lột, chịu nhiều bất công nhất nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng
đi theo cách mạng. Từ năm 1927 những tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành
và thu hút đông đảo tầng lớp phụ nữ như: Công hội Đỏ, Nông hội Đỏ, các nhóm
tương tế, tổ học nghề và các tổ chức có tính chất riêng của giới nữ.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập. Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng đã ghi: “Nam nữ bình quyền”. Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ là lực
lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng phụ
nữ, gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ.
Đảng đặt ra: Phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng (công hội, nông hội)
và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia
cách mạng.
Chính vì vậy mà ngày 20/10/1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ chính thức được
thành lập. Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng đối với vai
130

trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối với sự nghiệp giải
phóng phụ nữ.
Qua các thời kỳ cách mạng có các tổ chức phụ nữ: Hội phụ nữ giải phóng
(1930-1931), Hội phụ nữ dân chủ (1936-1939), Hội phụ nữ phản đế (1939-
1941), Đòan phụ nữ cứu quốc (16/6/1941), Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
(20/10/1946), Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (6-1976- khi nước nhà thống
nhất). Dù tên gọi có nhiều thay đổi cho phù hợp với từng giai đọan cách mạng,
nhưng trước sau vẫn là tổ chức kiên trung của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ngày
nay được Điều 9 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Công đoàn Việt Nam, Hội Nông
dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được
thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên
khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam”. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đại diện cho quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển
của phụ nữ và bình đẳng giới.
Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Liên
đoàn phụ nữ Dân chủ quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN.
Từ những tổ chức tiền thân cho đến ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hội đoàn kết, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ
nữ, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang,
góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Chức năng, nhiệm vụ
Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (bổ sung, sửa đổi) được Đại hội
đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI tại Hà Nội, ngày 14 tháng 03 năm 2012
131

thông qua chức năng, nhiệm vụ của Hội như sau:


a. Chức năng
Một là, chức năng đại diện: Tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
thay mặt cho các tầng lớp phụ nữ Việt Nam để thực hiện một hoặc một số hoạt
động theo quy định của pháp luật hoặc Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Hai là, chức năng đoàn kết, vận động: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
tuyên truyền, thuyết phục hội viên, phụ nữ đoàn kết, tham gia thực hiện các
hoạt động hướng đến mục đích chung của tổ chức Hội.
Nội dung các chức năng gồm
Thứ nhất,. tham gia xây dựng chính sách pháp luật
- Trình dự án Luật ra Quốc hội (Luật mới; Luật sửa đổi, bổ sung)
- Tham mưu, đề xuất chính sách với Đảng, Chính phủ
- Tham gia các ban soạn thảo, tổ biên tập, nhóm công tác
- Đóng góp ý kiến vào các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước
- Ký kết liên tịch với các cơ quan Nhà nước
- Thực hiện phản biện xã hội đối với luật pháp, chính sách liên quan.
Thứ hai, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật
- Tham gia đoàn giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước: Quốc hội,
Hội đồng nhân dân
- Thông qua việc tham gia các cơ chế đại diện: Quốc hội, Hội đồng nhân
dân, Ban chỉ đạo, Hội đồng bầu cử, các Hội đồng khác
-Thông qua giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
- Thông qua hoạt động của tổ chức Hội để tập hợp các kiến nghị, đề xuất
của phụ nữ
- Động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát
Thứ ba, thực hiện vai trò nòng cốt trong đoàn kết, vận động phụ nữ tổ
chức các hoạt động phát huy tiềm năng, quyền làm chủ của phụ nữ
132

- Có các hình thức phù hợp, thiết thực để tập hợp các tầng lớp phụ nữ
- Phát động các phong trào, cuộc vận động, phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo, đồng thuận trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
-Tuyên truyền giáo dục tư tưởng chính trị và đạo đức cách mạng, quyền
và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa phụ nữ với Đảng và Nhà
nước.
- Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần; hỗ trợ nâng cao năng lực, trình
độ; đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp phụ nữ
Thứ tư,vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới
- Nâng cao nhận thức của xã hội về bình đẳng giới; vai trò, vị trí của phụ
nữ trong gia đình và xã hội
- Xây dựng đội ngũ chuyên gia, nâng cao năng lực của cán bộ Hội Liên
hiệp Phụ nữ các cấp.
-Thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực hiện
các Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật
của Nhà nước.
- Huy động các nguồn lực; tăng cường vận động hành lang.
- Động viên phụ nữ phát huy tự tin, chủ động tiềm năng, thế mạnh.
b. Nhiệm vụ
1. Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm
chất đạo đức, lối sống; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước;
2. Vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vận động, hỗ
trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh phúc; chăm lo
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ;
133

3. Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát
việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia đình
và trẻ em;
4. Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh;
5. Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ
trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI
LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
1. Nội dung lãnh đạo
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo các cấp bộ Hội chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ
trọng tâm mà Đại hội Hội Phụ nữ đề ra:
- Tuyên truyền, giáo dục, vận động phụ nữ thực hiện chủ trương, luật
pháp, chính sách; rèn luyện phẩm chất đạo đức; nâng cao trình độ, nhận thức
- Lãnh đạo Hội tổ chức, duy trì các phong trào của phụ nữ thực hiện các
chương trình kinh tế - xã hội, các nhiệm vụ của Hội; Phong trào thi đua “Phụ
nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” gắn với
đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đồng thời triển
khai sâu rộng cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” ("5 không"
là không đói nghèo, không vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội, không có bạo lực
gia đình, không sinh con thứ ba trở lên, không có trẻ suy dinh dưỡng và bỏ học.
Nội dung "3 sạch" là sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ) và phấn đấu rèn luyện các
phẩm chất đạo đức “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang”
- Lãnh đạo Hội thực hiện nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội theo quy
định;
- Hướng dẫn Hội tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo công tác xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức
Hội vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới
134

Lãnh đạo xây dựng, củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ
chức của Hội, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, củng cố cơ sở
Hội, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội;
Lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ của Hội, đặc biệt là công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ
2. Phương thức lãnh đạo
- Bằng các chủ trương, quyết định định hướng chính trị cho hoạt động
của Hội;
- Bằng công tác tổ chức cán bộ Hội;
- Thông qua tổ chức đảng và phát huy vai trò của những đảng viên hoạt
động trong các tổ chức Hội;
- Bằng công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân
tạo điều kiện thuận lợi cho Hội hoạt động;
- Bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Hội theo quy định.
III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI LIÊN HIỆP
PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, công tác Phụ nữ và công tổ chức
Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có vai trò quan trọng đặc biệt. Nghị quyết số
11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhấn mạn quan điểm: “Phát huy
vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng
giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những
nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ
mới.Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội
và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm
trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ
nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam”.
135

Những năm qua, việc triển khai thực hiện Nghị quyết sơ 11- NQ/TW
ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị khóa X “ Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã đạt được những thành tựu
nhất định. Nhận thức và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội
về giới, bình đẳng giới, về phụ nữ và công tác phụ nữ được nâng lên rõ rệt, tạo
sự chuyển biến tích cực. Hệ thống pháp luật, chính sách về bình đẳng giới tiếp
tục được hoàn thiện, tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ trên tất cả các
lĩnh vực lao động sản xuất, kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, xã hội. Trình
độ, năng lực, vai trò, vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được
nâng lên. Công tác gia đình ngày càng được quan tâm; điều kiện sống của các
gia đình đã được cải thiện đáng kể. Đội ngũ cán bộ nữ có sự chuyển biến về
chất lượng và số lượng; có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực và tinh
thần trách nhiệm, luôn vượt qua khó khăn, phấn đấu hoàn thành tốt công việc
được giao. Công tác phụ vận tiếp tục đạt nhiều kết quả, hội liên hiệp phụ nữ
các cấp đã tập hợp, vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia phát triển kinh tế -
xã hội, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tổ chức Hội có bước phát triển, tính liên hiệp
và việc thực hiện chức năng đại diện, vai trò cầu nối giữa Đảng với phụ nữ có
chuyển biến tốt, bộ máy tiếp tục được kiện toàn, chất lượng cán bộ được nâng
lên; tỷ lệ phụ nữ tham gia tổ chức Hội, tham gia các hoạt động của Hội ngày
càng tăng.
Tuy nhiên, công tác phụ nữ vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Đời sống
vật chất, tinh thần, điều kiện lao động, học tập, sinh hoạt của nhiều phụ nữ chưa
thực sự được nâng cao. Việc triển khai, thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của
Nghị quyết chưa đồng bộ, chưa gắn với chương trình, kế hoạch hoạt động hàng
năm của các cấp ủy đảng, chính quyền; nguồn lực cho công tác phụ nữ chưa
được ưu tiên, tập trung; nhiều chỉ tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết chưa đạt yêu
136

cầu đề ra; hệ thống pháp luật, chính sách về bình đẳng giới chưa được hoàn
thiện, còn nhiều bất cập.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do nhiều cấp ủy, chính quyền,
đoàn thể, cơ quan tham mưu, giúp việc chưa quyết liệt triển khai thực hiện Nghị
quyết; một số nơi chưa thực sự quan tâm đến công tác phụ nữ, còn biểu hiện
coi công tác phụ nữ là trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ và Ban Vì sự tiến
bộ của phụ nữ. Hệ thống văn bản pháp luật về bình đằng giới, chính sách để tạo
điều kiện cho phụ nữ phát triển còn thiếu đồng bộ, chưa theo đúng tinh thần
của Nghị quyết về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ nữ.
Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp, cán bộ, đảng viên nữ chưa thực sự làm tốt nhiệm
vụ được giao trong Nghị quyết. Công tác phối hợp giữa các cấp ủy đảng với
các ban, ngành, đoàn thể trong thực hiện Nghị quyết chưa chặt chẽ. Công tác
truyền thông và giáo dục về bình đẳng giới, về xây dựng gia đình chưa thường
xuyên. Chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ và
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam về công tác phụ nữ chưa được phân định rõ
ràng. Một bộ phận phụ nữ chưa thực sự phấn đấu vươn lên.
Trong thời gian tới, để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 11-NQ/TW của
Bộ Chính trị khóa X, các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể
cần tiếp tục quán triển và tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp mà
Nghị quyết đã đề ra, trong đó tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Công tác phụ nữ là vấn đề lớn, quan trọng và là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ
Thông tin và Truyền thông, Đảng đoàn Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tăng
cường truyền thông để tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận thức của các cấp ủy đảng,
chính quyền, đoàn thể và của toàn xã hội về tầm quan trọng, vị trí, vai trò của
phụ nữ; về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công
tác phụ nữ, về bình đẳng giới, về hôn nhân và gia đình. Thông qua truyền thông
137

để giáo dục giá trị truyền thống của phụ nữ Việt Nam, nêu gương người tốt, việc
tốt; phê phán những biểu hiện phân biệt đối xử với phụ nữ.
- Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo việc thể chế
hóa các nội dung Nghị quyết; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện để
tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển; đặc biệt quan tâm đến nội dung thực hiện
nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề
bạt, bổ nhiệm, nghỉ hưu.
- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các
chương trình mục tiêu, các chiến lược quốc gia, đặc biệt là Chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới, Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam giai đoạn 2011-
2020 và tầm nhìn 2030; Nghị định 56/NĐ-CP của Chính phủ về quy định trách
nhiệm của Bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm cho các cấp
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước theo quy định của
pháp luật… để tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển; tiếp tục có chính sách phù
hợp để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho phụ nữ nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, phụ nữ dân tộc thiểu số.
- Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn thực hiện công tác cán bộ nữ để
các cấp ủy đảng, ban, ngành, đoàn thể, địa phương xây dựng quy hoạch cán bộ
nữ. Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ
25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến
40%. Các cơ quan, đơn vị có tỉ lệ nữ từ 30%, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ
chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính
phủ có tỉ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới.
- Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp, cán bộ, đảng viên nữ cần tích cực, chủ
động hơn nữa trong việc tham mưu, giới thiệu, tạo nguồn cán bộ nữ và giới
thiệu quần chúng là phụ nữ ưu tú cho Đảng. Phát huy vai trò nòng cốt của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong công tác vận động phụ nữ, xây dựng, củng
cố tổ chức Hội thật sự vững mạnh. Hội cần tích cực, chủ động hơn nữa trong
138

việc phối hợp với các cấp chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, địa phương phát
hiện và giải quyết các nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân,
buôn bán phụ nữ và trẻ em, hôn nhân có yếu tố nước ngoài thiếu lành mạnh,
xâm hại tình dục trẻ em, bất bình đẳng giới.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, căn cứ và chức
năng, nhiệm vụ của mình để tổ chức vận động đoàn viên, hội viên tích cực tham
gia thực hiện Nghị quyết.
Ban Dân vận Trung ương chủ trì, phối hợp với Đảng đoàn Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam; Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các ban đảng
Trung ương theo dõi, kiểm tra việc tổ chức thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW
của Bộ Chính trị và Kết luận này của Ban Bí thư, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị,
Ban Bí thư.
139

Bài 8
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT
NAM
Dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên, cuối năm 1926 đầu năm 1927 một số địa phương hình thành
“Nông hội đỏ" chỉ đạo cuộc nổi dậy của nông dân đấu tranh chống thực dân,
địa chủ phong kiến và tư sản, đòi quyền dân sinh, dân chủ; tiêu biểu là cuộc
đấu tranh của nông dân Cao Lãnh, Sa Đéc, Gia Định, Đức Phổ, Duyên Hà, Tiền
Hải... đi tới đỉnh cao là Xôviết Nghệ - Tĩnh.
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta rất coi trong việc giáo dục, tổ chức động
viên quần chúng đấu tranh chính trị và xây dựng đội quân chính trị quần chúng
cách mạng.
Hội nghị Trung ương Đảng, tháng 10-1930 thông qua Nghị quyết về việc
thành lập Tổng Nông hội Đông Dương (tên gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt
Nam ngày nay). Điều lệ Tổng Nông hội Đông Dương (gồm 8 điều) đã nêu rõ
mục đích nhằm "Thống nhất hết thảy Tổng Nông hội Đông Dương để tranh đấu
bênh vực quyền lợi hằng ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng thổ
địa"1. Nghị quyết đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử giai cấp
nông dân Việt Nam, sự trưởng thành và lớn mạnh về mọi mặt của phong trào
nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù về danh nghĩa Hội Nông dân Việt
Nam vẫn chưa được thành lập, nhưng các tổ chức Nông hội ở các cấp vẫn tiếp
tục hoạt động dưới hình thức tổ chức Nông hội đỏ, tiền thân của Hội Nông dân
Việt Nam ngày nay.
Ngày 1-3-1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 42-
QĐ/TW về việc đổi tên Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội
Nông dân Việt Nam.
140

Tại phiên họp ngày l7-l-1991, Bộ Chính trị đã đồng ý lấy ngày 14 tháng
10 năm 1930 làm ngày kỷ niệm thành lập Hội Nông dân Việt Nam (theo Tờ
trình của Đảng đoàn, Ban Thường vụ Trung ương Hội Nông dân Việt Nam
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Hội Nông dân Việt Nam luôn trung
thành với Đảng và dân tộc. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hội Nông dân Việt Nam là trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân
và công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Hội Nông dân Việt Nam là đoàn thể chính trị - xã hội của giai cấp nông
dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.
Mục đích của Hội là tập hợp đoàn kết nông dân, xây dựng giai cấp nông
dân vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng tin cậy trong khối liên minh
vững chắc công, nông, trí, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Trong công cuộc đổi mới đất nước, tinh thần cách mạng tiến công càng
được nhân lên qua tác phong trào thi đua phát triển kinh tế - xã hội, trọng tâm
là phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói
giảm nghèo, làm giàu chính đáng; nông dân thì đua xây dựng nông thôn mới
thi đua bảo đảm quốc phòng an ninh. Mọi phong trào thi đua đều lấy lợi ích của
người nông dân làm trọng tâm, trong đó lợi ích về kinh tế làm động lực; văn
hoá là nền tảng. Trọng điểm của các phong trào thi đua là vùng kinh tế nông
sản xuất khẩu, vùng miền núi, nơi đặc biệt khó khăn. Thi đua là hướng tới xây
dựng "người nông dân mới": yêu nước, yêu chế độ, không cam chịu đói nghèo,
phấn đấu làm giàu cho gia đình, quê hương và đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Nông dân Việt Nam đã có bước phát
triển mới về mọi mặt trong việc tập hợp, tuyên truyền, vận động hội viên, nông
141

dân thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng chính sách pháp luật của Nhà
nước tổ chức các phong trào nông dân góp phần quan trọng vào thực hiện thắng
lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn
mới.
Trong thời kỳ đổi mới, Hội Nông dân Việt Nam vẫn luôn thể hiện rõ là
tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân, đại diện chân chính cho ý chí,
nguyện vọng của giai cấp mình thống nhất với lợi ích chung của dân tộc, của
cả nước. Hội Nông dân Việt Nam đã liên tục phấn đấu vượt qua khó khăn, đôi
mới nội dung, phương thức hoạt động; tuyên truyền vận động tập hợp ngày
càng đông đảo nông dân vào tổ chức Hội.
Nhiều phong trào do Hội Nông dân phát động, tổ chức đạt hiệu quả thiết
thực tiêu biểu như phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn
kết giúp nhau xoá đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng; phong trào nông dân
thi đua xây dựng gia đình văn hoá, tham gia xây dựng làng xã văn hoá; phong
trào nông dân thi đua tham gia bảo đảm quốc phòng, an ninh. Từ các phong
trào thi đua yêu nước đó đã xuất hiện nhiều gương nông dân điển hình tiên tiến
làm kinh tế giỏi, giúp nhau xoá đói, giảm nghèo khắc phục hậu quả thiên tai;
nhiều nông dân tự nguyện nhường đất để xây dựng trường học, nhà trẻ, làm
đường giao thông tự nguyện góp công góp của làm việc thiện; có người vượt
khó say mê tìm tòi những thành công trong chế tạo máy nông cụ sản xuất,...
Những tấm gương sáng sinh động ở cơ sở đang được nhân lên. Cuộc vận động
lớn "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong nông dân đã
mang lại hiệu quả bước đầu thiết thực. Hiện nay, Hội Nông dân Việt Nam đang
triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị
khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
Trong lịch sử, giai cấp nông dân đã có những đóng góp to lớn sức người,
sức của cho cách mạng giải phóng dân tộc. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo
142

vệ Tổ quốc, giai cấp nông dân tiếp tục có những đóng góp lớn lao từ thực tiễn
làm cơ sở cho sự hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Phát huy tinh thần
yêu nước, đức tính lao động cần cù, sáng tạo; giai cấp nông dân đã đoàn kết
một lòng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên của cách
mạng Việt Nam, phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thách thức; khai thác tiềm
năng về vốn đất đai lao động việc làm; tiếp thu các tiến bộ khoa học - kỹ thuật
và công nghệ; nâng cao hiệu quả đầu tư; chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi
phát triển ngành nghề; phá thế độc canh, tự cấp, tự túc; tiếp cận thị trường... đã
làm thay đổi đáng kể kinh tế nông nghiệp, bộ mặt nông thôn và đời sống nông
dân nước ta. Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân được cải thiện rõ rệt.
Nông dân đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm sản xuất, vươn lên làm giàu chính
đáng. Nhiều hộ nông dân đã hiến đất, đầu tư kinh phí xây dựng các công trình
phúc lợi như trường học, trạm xá, trạm điện, cầu cống đường giao thông nông
thôn. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân nước ta ngày càng được nâng cao,
khẳng định là chủ thể xây dựng một nền nông nghiệp phát triển bền vững, nông
thôn mới văn minh, hiện đại.
Hội Nông dân Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đại hội XI của Đảng khẳng
định: "Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp
tục được mở rộng và tăng cường nên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"3.
1. Vị trí, vai trò của Hội Nông dân Việt Nam
Cùng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội
khác,Hội Nông dân Việt Nam được Điều 9 ghi nhận là thành viên của hệ thống
chính trị: “Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh
143

Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện,
đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên
tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống
nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”.
Hội Nông dân Việt Nam có vai trò là người đại diện và phát huy quyền
làm chủ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân;
phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần cách mạng, lao
động sáng tạo, cần kiệm tự lực, tự cường, đoàn kết của nông dân; tích cực và
chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng văn
hoá, giữ vững quốc phòng, an ninh, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn. Đại hội XI khẳng định:
xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát
triển nông nghiệp, nông thôn”.
2. Chức năng, nhiệm vụ của Hội Nông dân Việt Nam
a. Chức năng của Hội Nông dân Việt Nam
- Tập hợp, vận động, giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm
chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt.
- Đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nông dân;
tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn hỗ trợ nông dân trong sản xuất và đời
sống.
b. Nhiệm vụ của Hội Nông dân Việt Nam
- Tuyền truyền, giáo dục cho cán bộ, hội viên, nông dân hiểu biết đường
lối của Đảng, chính sách, Pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị của Hội,
khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, ý chí cách mạng, tinh tuần tự lực,
tự cường, lao động sáng tạo của nông dân.
144

- Vận động, tập hợp và làm nòng cốt tổ chức các phong trào nông dân
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. Chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần của hội viên, nông dân.
- Các cấp Hội là thành viên tích cực trong hệ thống chính trị thực hiện
các chính sách, pháp luật, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà
nước ở nông thôn. Hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập thể trong
nông nghiệp. Tổ chức các hoạt động dịch vụ tư vấn, hỗ trợ và dạy nghề giúp
nông dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, bảo vệ môi trường.
- Đoàn kết, tập hợp đông đảo nông dân vào tổ chức hội phát triển và nâng
cao chất lượng hội viên. Xây dựng tổ chức hội vững mạnh về mọi mặt; đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ hội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
- Tham gia xây dựng Đảng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Tham
gia giám sát và phản biện xã hội theo quy chế. Kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện
vọng của nông dân với Đảng và Nhà nước; bảo vệ các quyền và lợi ích chính
đáng hợp pháp của hội viên, nông dân. Thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở xã phường, thị trấn, giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nông dân; góp phần xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội; chống quan liêu, tham nhũng lãng phí và các tệ nạn xã hội.
- Mở rộng hoạt động đối ngoại theo quan điểm, đường lối của Đảng, tăng
cường hợp tác, trao đổi, học tập ánh nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, quảng bá hàng hoá nông sản, văn hoá Việt Nam với tổ chức nông dân tổ
chức quốc tế, các tổ chức chính phủ. phi chính phủ trong khu vực và trên thế
giới.
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI
NÔNG DÂN VIỆT NAM
1. Nội dung lãnh đạo của Đảng
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo Hội Nông dân thực hiện nhiệm vụ, chức năng
của Hội trong thời kỳ mới
145

- Đảng lãnh đạo đẩy mạnh công tác tập hợp, đoàn kết, tuyên truyền, vận
động hội viên nông dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
- Đảng lãnh đạo Hội tổ chức thực hiện các phong trào thi đua yêu nước
của nông dân, như phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn
kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững; nông dân thi đua xây dựng
nông thôn mới; nông dân tham gia bảo đảm quốc phòng - an ninh.
- Đảng lãnh đạo Hội tham gia có hiệu lực, hiệu quả trong hướng dẫn nông
dân phát triển sản xuất hàng hóa, tổ chức, hợp tác lao động, xây dựng nông thôn
mới, xây dựng gia đình văn hóa, thôn, ấp, bản, làng văn hóa, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Tích cực thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, xây dựng cơ
chế, chính sách, phản biện xã hội về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; giám
sát việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn nông thôn.
- Tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo công tác xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức
Hội vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới
- Lãnh đạo xây dựng, củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ
chức của Hội, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, củng cố cơ sở
Hội, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội;
- Lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ của Hội, đặc biệt là công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ
2. Phương thức lãnh đạo
- Đảng lãnh đạo bằng các chủ trương, quyết định định hướng chính trị
cho hoạt động của Hội;
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức cán bộ Hội;
146

- Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và phát huy vai trò của những
đảng viên hoạt động trong các tổ chức Hội;
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên
và nhân dân tạo điều kiện thuận lợi cho Hội hoạt động;
- Bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Hội theo quy định.
III. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI NÔNG DÂN
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 24-3-1987 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khoá VI), Hội Nông dân Việt Nam được xây dựng, củng cố tổ chức
từ Trung ương đến cơ sở ngày càng vững mạnh. Trong những năm qua, thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng, công tác Hội và phong trào nông dân đã có
những đóng góp to lớn, có ý nghĩa quan trọng đưa nền nông nghiệp và kinh tế
nông thôn phát triển với tốc độ nhanh, góp phần ổn định chính trị và kinh tế-
xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
trước hết là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, công tác
xây dựng Hội và vận động nông dân còn những mặt hạn chế. Một số cấp uỷ
đảng, chính quyền chưa thật sự quan tâm lãnh đạo và tạo điều kiện củng cố tổ
chức và hoạt động của Hội.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng
chiến lược của giai cấp nông dân, của nông nghiệp và nông thôn. Để tiếp tục
phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của giai cấp nông dân, Hội Nông dân
Việt Nam và vai trò nòng cốt của Hội trong phong trào nông dân góp phần đắc
lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và bảo vệ Tổ quốc,
Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 15/12/2000 về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn’. Chỉ thị yêu cầu các
cấp uỷ đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn tổ chức thực hiện tốt những nhiệm vụ
sau đây:
147

1. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng, củng cố Hội Nông dân
các cấp vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để Hội thật sự là lực lượng
nòng cốt của phong trào nông dân xây dựng nông thôn mới, là thành viên tích
cực trong khối đại đoàn kết toàn dân, là nhân tố quan trọng của khối liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức - nền tảng chính
trị vững chắc của chế độ ta.
Căn cứ vào Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy (khoá
VIII) và chức năng, nhiệm vụ của Hội Nông dân Việt Nam, các cấp uỷ đảng và
các cấp chính quyền bố trí biên chế cán bộ Hội ở các cấp với cơ cấu hợp lý, bảo
đảm chất lượng. Trong quy hoạch cán bộ của Đảng, cần chú trọng quy hoạch
cán bộ Hội Nông dân. Việc bố trí cấp uỷ viên giữ các chức vụ chủ chốt của Hội
Nông dân ở các cấp, ngoài các tiêu chuẩn về năng lực, phẩm chất, uy tín phải
có tác phong gần gũi quần chúng, am hiểu nông dân, nông nghiệp, nông thôn.
Đảng viên ở nông thôn có trách nhiệm tham gia sinh hoạt trong tổ chức Hội
Nông dân, gương mẫu thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cấp uỷ đảng,
chính quyền phải đưa vào Hội Nông dân để giải quyết kịp thời những kiến nghị
của dân, không để khiếu kiện vượt cấp. Hướng dẫn hội viên, nông dân tham gia
ý kiến đóng góp xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
2. Các cấp chính quyền, các ban, ngành cần thực hiện tốt Quyết định
17/1998/QĐ-TTg ngày 24-01-1998, tạo điều kiện để Hội Nông dân hoạt động
có hiệu quả, trở thành chỗ dựa triển khai, thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội của Nhà nước ở nông thôn.
3. Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông
dân Việt Nam, đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà
nước, chăm lo bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nông dân.
Các cấp hội phải tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức và tổ chức hoạt động, đa
dạng hoá các hình thức tập hợp mọi tầng lớp nông dân, đáp ứng yêu cầu sản
xuất, đời sống hội viên, nông dân, xây dựng nông thôn mới. Hội phải nắm chắc
148

tình hình nông nghiệp, nông thôn, tâm tư, nguyện vọng của nông dân; chủ động
và có chính kiến đề xuất với cấp uỷ, chính quyền những chủ trương biện pháp
đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của nông dân. Hội Nông dân phải là thành
viên tích cực của các chương trình về kinh tế - xã Hội Nông thôn, nhất là nông
thôn vùng sâu, vùng xa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tham gia vào việc hoạch
định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã Hội Nông thôn, xây dựng tổ chức kinh
tế hợp tác, hợp tác xã của nông dân; hướng dẫn hội viên, nông dân tổ chức các
hoạt động ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn, tổ chức dạy nghề tại chỗ cho nông
dân thông qua công tác khuyến nông; động viên, khuyến khích, hỗ trợ hội viên
nông dân khôi phục và phát triển làng nghề; phát triển công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ; xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội; đào tạo nguồn nhân
lực, áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ ở nông thôn nhằm chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn, giải quyết việc làm tại chỗ, tăng nhanh thu
nhập, cải thiện đời sống. Đẩy mạnh phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh
doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xoá đói giảm nghèo và làm giàu. Phát triển các
phong trào nông dân hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao; thực hiện
tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”
và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây đựng đời sống văn hoá” ở nông thôn.
Hội phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để mọi cán bộ Hội
thông hiểu chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và phương pháp vận động hội viên, nông dân.
4. Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các cấp chính quyền kiểm điểm
việc thực hiện Quyết định 17/1998/QĐ-TTg và cụ thể hoá các chủ trương của
Bộ Chính trị để tạo điều kiện thuận lợi cho Hội Nông dân hoạt động và phong
trào nông dân phát triển.
Các tỉnh, thành ủy, các đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc
Trung ương có biện pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phối hợp, tạo điều
kiện thuận lợi để Hội Nông dân Việt Nam thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
149

của mình. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phối hợp chặt chẽ với
Hội Nông dân để làm tốt công tác vận động quần chúng của Đảng trong tình
hình mới.
5. Ban Dân vận Trung ương, Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam có
trách nhiệm giúp Bộ Chính trị tổ chức triển khai và theo dõi, kiểm tra, sơ kết,
tổng kết việc thực hiện Chỉ thị này, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị.
150

Bài 9
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỘI CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI CỰU CHIẾN
BINH VIỆT NAM
1. Vị trí, vai trò của Hội cựu chiến binh Việt Nam
Trong thế kỷ XX, đất nước ta đã trải qua thời kỳ đấu tranh cách mạng và
kháng chiến cứu nước lâu dài, gian khổ, ác liệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, cán bộ và chiến sĩ các lực
lượng vũ trang nhân dân ta đã cùng toàn Đảng, toàn dân kiên cường, anh dũng
chiến đấu, chiến thắng, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác.
Trải qua các thời kỳ chiến tranh cứu nước và giữ nước lâu dài, gian khổ,
nhiều chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, nhiều chiến sĩ mang thương tích, bệnh tật
và hàng triệu chiến sĩ sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong hàng ngũ các lực
lượng vũ trang nhân dân đã lần lượt phục viên, xuất ngũ, nghỉ hưu về với cuộc
sống gia đình; một bộ phận chuyển ngành sang công tác ở các cơ quan Đảng,
Nhà nước, các lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hoá, xã hội. Về với
cuộc sống đời thường, trên lĩnh vực công tác mới, anh chị em Cựu Chiến binh
tiếp tục phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, đem ý chí và nhiệt tình cách
mạng cùng những kinh nghiệm, kiến thức đã được tích luỹ từ những năm tháng
sống trong quân ngũ để góp phần xây dựng quê hương đất nước. Sau khi hoàn
thành nhiệm vụ vẻ vang trong các lực lượng cách mạng, anh chị em cựu chiến
binh trở lại hậu phương, về với gia đình, hoặc chuyển sang hoạt động trong các
đơn vị, cơ quan chính quyền hay các ngành kinh tế, văn hoá, khoa học. Dù ở
đâu, giữ bất cứ cương vị nào, làm bất cứ việc gì, tuyệt đại bộ phận cựu chiến
binh vẫn phát huy truyền thống của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng
“Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
151

khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, “từ nhân dân mà ra,
vì nhân dân mà phục vụ”. Đó là tiềm năng, là thế mạnh của cựu chiến binh.
Phát huy tốt những khả năng đó sẽ tạo thành một lực lượng chính trị đáng kể.
Hàng triệu cựu chiến binh Việt Nam đang có mặt trên khắp mọi miền
của đất nước là một lực lượng đông đảo đã được thử thách, tôi luyện trong chiến
tranh cách mạng, trực tiếp chiến đấu quyết liệt với kẻ thù xâm lược, được Đảng
và quân đội giáo dục; có trình độ chính trị nhất định, trung thành với Đảng, với
lý tưởng xã hội chủ nghĩa, giàu lòng yêu nước, thương dân, sống tình nghĩa
thuỷ chung với đồng đội, chân thành, giản dị, lành mạnh, có ý thức tổ chức kỷ
luật, tôn trọng đạo lý, thẳng thắn đấu tranh chống tiêu cực, bất công xã hội,
đoàn kết gắn bó với nhân dân, được dân mến, dân tin.
Cựu chiến binh là lực lượng cách mạng tuyệt đối trung thành với Đảng,
có kinh nghiệm chiến đấu trong cách mạng và xây dựng đất nước, được Đảng,
nhà nước và nhân dân tôn vinh và đánh giá cao sự hy sinh, cống hiến to lớn trong
các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, làm nhiệm vụ quốc
tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn cách mạng mới Cựu chiến binh
giữ vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc tiếp tục phát huy bản chất, truyền thống
“Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo
vệ chế độ XHCN, giúp nhau cải thiện đời sống, góp phần giáo dục truyền thống
và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ.
Trong giai đoạn cách mạng mới, để tập hợp, đoàn kết, phát huy sáng tạo
của Cựu Chiến binh đóng góp thiết thực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước; tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ
XHCN, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
(khoá VI) đã quyết định cho thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam (Nghị
quyết ngày 06/12/1989). Tiếp đó, ngày 02-02-1990, phiên họp Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khoá VI) do đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh chủ trì
đã chỉ định Ban chấp hành lâm thời Hội Cựu chiến binh Việt Nam gồm 31 đồng
152

chí do Thượng tướng Song Hào làm Chủ tịch. Ban Bí thư uỷ quyền cho Ban
chấp hành lâm thời của Hội làm việc với các tỉnh uỷ, thành uỷ triển khai thực
hiện Nghị quyết, hình thành tổ chức Hội ở địa phương. Ngày 24-02-1990, Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cấp giấy phép số 528/NC
thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam (do Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Võ Văn Kiệt ký). Ngày 14-4-1990 Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam ban hành Quyết định số 51/QĐ-MTTQ công nhận Hội Cựu chiến binh
Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (do Chủ tịch Nguyễn
Hữu Thọ ký).
Sự ra đời của Hội Cựu chiến binh Việt Nam đánh dấu mốc lịch sử quan
trọng trong đời sống chính trị, tinh thần của cựu chiến binh Việt Nam, phù hợp
với nguyện vọng thiết tha chính đáng của anh chị em cựu chiến binh. Phát biểu
tại Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành lâm thời Hội cựu chiến binh Việt Nam
đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười khẳng định: “…Đảng và Nhà nước ta quyết định
thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam là một chủ trương đúng đắn, vừa đáp
ứng tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay, vừa đáp ứng
nguyện vọng thiết tha và chính đáng của cựu chiến binh. Với sự ra đời của Hội
Cựu chiến binh Việt Nam, nước ta có thêm một đoàn thể nhân dân, bao gồm
anh chị em cựu chiến binh đã được tôi luyện trong chiến tranh cách mạng,
những chiến sĩ suốt đời gắn bó với Đảng, hết lòng phục vụ nhân dân, đã từng
xả thân cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, làm tròn nghĩa vụ quốc tế”. Trong thư gửi Đại hội
đại biểu cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh lần thứ nhất (29-4-1992), đồng
chí Nguyễn Văn Linh, cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng, viết: “… Trong
tình hình thế giới và trong nước phức tạp hiện nay, trong khi bọn đế quốc và
bọn phản động người Việt ở ngoại quốc hay đang ẩn náu ở trong nước đang
dùng mọi thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt để âm mưu lật đổ chế độ xã hội chủ
153

nghĩa, lật đổ Đảng ta hòng thực hiện âm mưu thâm độc diễn biến hoà bình,
trong tình hình đó vai trò của Hội Cựu chiến binh là rất quan trọng…”.
Nhận thức được vai trò to lớn của đội ngũ Cựu chiến binh và tổ chức Hội
Cựu chiến binh, ngày 7 tháng 10 năm 2005, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh Cựu chiến binh số 27/2005/PL-UBTVQH11. Điều 3 của
Pháp lệnh ghi nhận vị trí, vai trò của Hội Cựu chiến binh Việt Nam “là tổ chức
chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, đại diện ý chí, nguyện vọng của Cựu chiến binh, là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Điều 9
Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam,
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội
cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên
cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt
trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”.
Ngày 8 tháng 1 năm 2004, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 09-
NQ/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cựu chiến binh
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới”.
Công tác cựu chiến binh là một trong những công tác vận động quần
chúng quan trọng của Đảng, là trách nhiệm của hệ thống chính trị, của các cấp,
các ngành, của toàn xã hội, trong đó Hội Cựu chiến binh là nòng cốt, nhằm tập
hợp, đoàn kết, phát huy sức sáng tạo của cựu chiến binh, đóng góp thiết thực
vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. _ Đảng, Nhà
nước, xã hội động viên cựu chiến binh phát huy tinh thần tự lực tự cường, đoàn
kết, tương thân, tương ái để giúp nhau cải thiện và nâng cao đời sống; đồng
thời, quan tâm chăm lo đến đời sống và các quyền lợi hợp pháp của cựu chiến
binh.
154

Hội Cựu chiến binh Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, đại diện
ý chí và quyền lợi của cựu chiến binh, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, là một cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một tổ chức trong hệ
thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và Điều lệ Hội.
2. Chức năng, nhiệm vụ của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
a. Chức năng của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Một là, đại diện ý chí, nguyện vọng và quyền lợi chính đáng, hợp pháp
của Cựu chiến binh.
Hai là, tham mưu giúp cấp uỷ Đảng và làm nòng cốt tập hợp, đoàn kết,
vận động Cựu chiến binh thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của cách
mạng, của Hội
Ba là, tham gia giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân
cử và cán bộ viên chức Nhà nước.
b. Nhiệm vụ
Hội Cựu chiến binh Việt Nam có nhiệm vụ:
1. Tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ
nghĩa; đấu tranh chống mọi âm mưu, hoạt động chống phá hoại của các thế lực
thù địch; chống các quan điểm sai trái với đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở,
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tệ nạn xã hội; giám sát hoạt
động của cơ quan Nhà nước, của cán bộ, công chức theo quy định của pháp
luật.
2. Tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh; kiến
nghị với cơ quan Nhà nước, chính quyền địa phương về xây dựng và tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến Cựu chiến binh, Hội Cựu chiến
binh.
155

3. Tập hợp, đoàn kết, động viên Cựu chiến binh rèn luyện, giữ gìn phẩm
chất, đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ hiểu biết đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kiến thức về kinh tế, văn
hoá, khoa học - kỹ thuật, thực hiện tốt nghĩa vụ côngdân.
Tập hợp quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại ngũ tiếp tục phát
huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tham gia tổ chức Câu lạc bộ, Ban liên lạc
Cựu quân nhân, các phong trào cách mạng ở cơ sở.
4. Tổ chức chăm lo, giúp đỡ Cựu chiến binh nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần, phát triển kinh tế gia đình, xoá đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp;
tổ chức hoạt động tình nghĩa để Cựu chiến binh tương trợ giúp đỡ lẫn nhau
trong cuộc sống.
5. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Cựu chiến binh; tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn, trợ giúp pháp lý cho Cựu chiến binh.
6. Phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan quân sự giáo dục truyền
thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự lực, tự cường cho thế
hệ trẻ.
7. Tiến hành các hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần thực hiện
đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI
CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM
1. Nội dung lãnh đạo
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo các cấp bộ Hội chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ
trọng tâm mà Đại hội Hội Cựu chiến binh đề ra.
- Tăng cường vận động cựu chiến binh đoàn kết, phát huy bản chất
truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ" tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, chính
quyền, chế độ XHCN và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Tổ chức, động viên cựu chiến binh nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phấn
đấu giảm nghèo nhanh và bền vững. Đẩy mạnh hoạt động tình nghĩa, giúp nhau
156

nâng cao đời sống, vươn lên làm giàu hợp pháp, góp phần phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
- Lãnh đạo Hội thực hiện nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội theo quy
định;
- Động viên cựu chiến binh tích cực tham gia các cuộc vận động, chương
trình quốc gia, các phong trào xây dựng đòi sống văn hóa-xã hội
- Phối hợp chặt chẽ với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các
đoàn thể tích cực tham gia giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng
cách mạng cho thế hệ trẻ
Thứ hai, Đảng lãnh đạo công tác xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức Hội
vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới
Lãnh đạo xây dựng, củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ
chức của Hội, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, củng cố cơ sở
Hội, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội;
Lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ của Hội, đặc biệt là công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ
2. Phương thức lãnh đạo
- Đảng lãnh đạo bằng các chủ trương, quyết định định hướng chính trị
cho hoạt động của Hội;
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức cán bộ Hội
- Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và phát huy vai trò của những
đảng viên hoạt động trong các tổ chức Hội;
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên
và nhân dân tạo điều kiện thuận lợi cho Hội hoạt động;
- Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Hội theo
III. Thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với hội Cựu chiến binh
Việt Nam

1. Tình hình hoạt động của Hội Cựu chiến binh các cấp hiện nay
157

1.1. Tình hình cựu chiến binh

Các cựu chiến binh là những người đã trực tiếp chiến đấu, tham gia chiến
đấu và trưởng thành trong các lực lượng vũ trang nhân dân do Đảng thành lập,
tổ chức và lãnh đạo. Họ là những người được rèn luyện, thử thách qua các cuộc
kháng chiến oanh liệt, có những người đóng góp rất to lớn trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;

Nhìn chung, đại bộ phận Cựu chiến binh Việt Nam là những người có bản
lĩnh, lập trường, quan điểm chính trị vững vàng, là lực lượng cách mạng tuyệt
đối trung thành với Đảng, có đạo đức trong sáng, có lối sống giản dị, lành mạnh.

Là những người đã được rèn luyện qua lò lửa chiến tranh cách mạng, sẵn
sàng hy sinh vì nền độc lập, tự do của tổ quốc, vì vậy, đại đa số cựu chiến binh
có tính kiên định về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho độc lập dân tộc, với mục
tiêu lý tưởng của Đảng và của dân tộc, với con đường chủ nghĩa xã hội, sẵn
sàng chiến đấu hy sinh vì mục tiêu cao cả đó. Họ là những người kiên định
trung thành với Đảng và chế độ, luôn giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng và ra sức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng. Thực tế
những năm qua, nhiều cựu chiến binh là những chiến sĩ xung kích trên mặt trận
tư tưởng, kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm, tư tưởng sai trái của
các thế lực thù địch, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Các cựu chiến binh là những người được thế hệ trẻ
tôn trọng, tin cậy. Đại đa số cựu chiến binh luôn giữ được bản chất "Anh bộ đội
Cụ Hồ", giữ được phẩm chất truyền thống của người chiến sĩ quân đội nhân
dân Việt Nam.

- Cựu chiến binh Việt Nam là những người có đạo đức, lối sống trong
sạch, lành mạnh, dản dị, hòa đồng. Được rèn luyện, trưởng thành trong môi
trường quân đội nhân dân Việt Nam - một đội quân chiến đấu, đội quân công
tác, đội quân sản xuất. Quá trình rèn luyện đó đã hun đúc nên những phẩm chất
158

“Bộ đội Cụ Hồ” mà đặc trưng nổi bật là sống có tình có nghĩa, giản dị, hòa
đồng, chất phát, có phẩm chất cách mạng trong sáng, tinh thần trách nhiệm vì
dân. Mặc dù đã rời quân ngũ nhưng những phẩm chất cao quý đó vẫn được duy
trì, phát huy trong môi trường công tác mới. Ở mọi cương vị, mọi lĩnh vực công
tác, hoạt động, các cựu chiến binh Việt Nam vẫn giữ được những phẩm chất tốt
đẹp của quan đội, giữ được hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”

- Cơ cấu của đội ngũ cựu chiến binh rất đa dạng. Một trong những điểm
nổi bật trong đội ngũ các cựu chiến binh là số lượng ngày ít dần. Hiện nay cả
nước có khoảng gần 4 triệu hội viên cựu chiến binh, cựu quân nhân. Thế hệ cựu
chiến binh tham gia cách mạng từ trước và trong Cách mạng Tháng Tám năm
1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, thuộc lớp lão thành quân đội, còn
khoảng 15% tổng số cựu chiến binh. Thế hệ cựu chiến binh nhập ngũ từ sau
cuộc kháng chiến chống Pháp và tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước tuổi đời từ 45 đến 65 chiếm tỷ lệ khoảng 60% tổng số cựu chiến binh. Thế
hệ cựu chiến binh nhập ngũ từ sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, tham gia chiến
đấu bảo vệ biên giới và làm nhiệm vụ quốc tế tuổi đời trên, dưới 40 chiếm tỷ lệ
25% tổng số cựu chiến binh. Số cựu chiến binh trực tiếp tham gia cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp tuổi đã rất cao, không còn nhiều và đang giảm dần.
Số cựu chiến binh trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cũng
đang bị già hóa, lại hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực. Trong số này, một bộ
phận còn trẻ, có sức lao động, đang làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước,
nhiều đồng chí giữ trọng trách trong bộ máy lãnh đạo. Trong khi đó, một số
lượng không nhỏ đã về nghỉ hưu, làm việc, sinh sống tại nông thôn. Lực lượng
cựu chiến binh trẻ tuổi tuy được tăng lên từ các đối tượng mới được kết nạp
vào Hội Cựu chiến binh Việt Nam theo thông báo ý kiến của Bộ Chính trị số
35-TB/TW ngày 25-12-2001 và theo Điều lệ Hội Cựu chiến binh khóa V. Đó
là những sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp chưa qua chiến đấu đã
xuất ngũ, chuyển ngành, nghỉ hưu; những hạ sĩ quan, chiến sĩ người dân tộc
159

thiểu số đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, những quân nhân được Bộ Quốc
phòng đào tạo thành sĩ quan dự bị trước khi ra quân; những quân nhân ưu tú
làm nhiệm vụ ở tuyến đầu biên giới, hải đảo; những quân nhân trong quá trình
tại ngũ có thành tích xuất sắc được quân đội và Nhà nước khen thưởng, nhưng
số lượng không nhiều.

Trong đội ngũ cựu chiến binh, nhiều đồng chí có trình độ cao, được đào
tạo, bồi dưỡng nhưng cũng có một bộ phận do điều kiện chiến tranh đã không
được học tập một cách cơ bản, hệ thống, trình độ nhận thức hạn chế. Vì vậy,
Đảng, Nhà nước, toàn xã hội cần tạo điều kiện, bồi dưỡng và vận động để cựu
chiến binh tiếp tục phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội cụ Hồ”, gương mẫu
đóng góp vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới.

Trong lực lượng cựu chiến binh, có những đồng chí trước đây là cán bộ
lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ với
nhiều ngành nghề khác nhau, đã được đào tạo, bồi dưỡng trong các nhà trường
quân đội ở cả trong nước và ngoài nước; họ có kiến thức và kinh nghiệm thực
tiễn trên nhiều lĩnh vực khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật, y tế… là những hạ sĩ quan, chiến
sĩ đã từng phục vụ trong các quân, binh chủng, các đơn vị kỹ thuật của quân
đội, được đào tạo chuyên môn và có tay nghề cao trong một số ngành, nghề.

Các cựu chiến binh đa phần có ý chí vươn lên trong cuộc sống, lao động,
học tập. Một bộ phận không nhỏ khi rời quân ngũ trở về địa phương, trên mặt
trận mới đã phát huy những kiến thức và kinh nghiệm sẵn có, đồng thời với ý
chí, bản lĩnh và truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” đã không ngừng học hỏi, tham
gia hoạt động thực tiễn lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xoá đói giảm
nghèo; tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, giáo dục truyền thống
160

cách mạng cho thế hệ trẻ… tiếp tục phát huy thêm những kinh nghiệm mới,
đóng góp có hiệu quả trong các phong trào, các cuộc vận động ở địa phương.

- Tuy nhiên, trong đội ngũ hội viên cựu chiến binh, có một bộ phận nhận
thức chưa đầy đủ, sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, chấp
hành đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước chưa nghiêm; có thái độ tiêu
cực, bất mãn, công thần, thiếu ý chí vươn lên...Tâm trạng, lòng tin của một bộ
phận cựu chiến binh đối với Đảng, chế độ đang có những diễn biến phúc tạp;
còn băn khoăn, bức xúc với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng của một bộ
phận cán bộ, đảng viên. Những vấn đề bức xúc của các cựu chiến binh hiện nay
nổi lên là chính sách đối với một bộ phận cựu chiến binh chưa được quan tâm
đúng mức, chưa được giải quyết thoả đáng, công bằng. Hiện nay, một số chính
sách đối với các cựu chiến binh chưa thật kịp thời, phù hợp. Không ít cựu chiến
binh còn rất khó khăn trong cuộc sống gia đình, nhất là các cựu chiến binh ở
nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Họ là những người có nhiều đóng góp cho đất
nước, nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Không ít cựu chiến binh rất thiệt
thòi sau khi chiến tranh kết thúc, nhất là các chính cách đối với những người bị
chất độc da cam và con cái của họ; vấn đề trợ cấp thương tật, mất sức, y tế,
khám chữa bệnh; nhiều cựu chiến binh bất bình với tình trạng mất dân chủ, thủ
tục hành chính rườm rà, hách dịch của một bộ phận công chức. Tâm tư nguyện
vọng của các cựu chiến binh đang có những băn khoăn, lo lắng, nhất là khi xã
hội đang có nhiều hiện tượng tiêu cực, tham nhũng.

1.2. Tình hình hoạt động của Hội Cựu chiến binh các cấp hiện nay

Từ khi được thành lập (tháng 02 năm 1990), tổ chức của Hội cựu chiến
binh các cấp không ngừng được củng cố. Số tổ chức hội và hội viên không
ngừng phát triển. Đến nay, hệ thống tổ chức hội đã ổn định từ trung ương đến
cơ sở. Hội đã thu hút, tập hợp được hơn 2,6 triệu cựu chiến binh và hơn 1,1
triệu cựu quân nhân tham gia Hội.
161

Hội Cựu chiến binh các cấp đã không ngừng đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động, tạo ra nhiều phong trào thi đua, được các cựu chiến binh tích
cực tham gia; Hội đã động viên hội viên tích cực tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền, phối hợp chặt chẽ với chính quyền và Mặt trận, các tổ chức đoàn
thể khác trong phát triển kinh tế xã hội của địa phương và đất nước. Hội ngày
càng củng cố vững chắc vị trí, vai trò nòng cốt của phong trào cựu chiến binh,
là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp, được nhân
dân tin cậy, tín nhiệm.

Đối với Hội cựu chiến binh trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp,
doanh nghiệp, Hội cựu chiến binh là lực lượng nòng cốt, tin cậy của lãnh đạo
các cơ quan, đơn vị. Nhiều hội viên cựu chiến binh là cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt của cơ quan, đơn vị.

Tuy nhiên, hoạt động của Hội Cựu chiến binh còn hạn chế nhiều mặt,
lúng túng về nội dung, phương thức hoạt động, nhất là Hội cựu chiến binh trong
các cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước. Do tuổi hội viên
ngày càng cao, số lượng ngày càng ít, vì vậy, công tác cán bộ của hội và phát
triển hội viên gặp nhiều khó khăn.

2. Thực trạng sự lãnh đạo của Đảng, cấp uỷ đảng đối với Hội Cựu
chiến binh

Từ khi được thành lập, Đảng, Chính phủ rất quan tâm hoạt động của Hội
Cựu chiến binh. Nhà nước đã có Pháp lệnh cựu chiến binh, Ban Bí thư có rất
nhiều chỉ thị, nghị quyết đối với Hội cựu chiến binh. Chính phủ đã có quy định
về quy chế phối hợp hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống
chính trị. Một trong những ưu điểm là các cấp uỷ đảng rất quan tâm hỗ trợ cả
vật chất, tinh thần đối với các cựu chiến binh và hoạt động của Hội, lắng nghe
ý kiến tư vấn, tham mưu của các cấp hội, của các cựu chiến binh.
162

Tuy nhiên, trong thực tế, một số cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương
chưa quan tâm đúng mức đến công tác tổ chức của Hội và phong trào cựu chiến
binh. Một số cơ chế, chính sách đối với cựu chiến binh chưa phù hợp, chưa phát
huy hết vị trí, vai trò của các cựu chiến binh trong lĩnh vực công tác mới. Nhận
thức của không ít cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa đúng với những ý kiến
đóng góp, tư vấn của các cựu chiến binh, còn ngại tiếp xúc, lắng nghe ý kiến
tham mưu, tư vấn của các cựu chiến binh.

Đặc biệt, đối với Hội Cựu chiến binh khối trong các cơ quan hành chính,
sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, cấp ủy, tổ chức đảng chưa thực sự quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động của Hội. Mặc dù có được quan tâm về một
số chế độ, chính sách và điều kiện sinh hoạt nhưng nhìn chung, Hội Cựu chiến
binh trong khối này chưa được coi trọng như các tổ chức chính trị xã hội khác.
Sự chỉ đạo đối với hoạt động của hội chưa kịp thời, cụ thể. Tổ chức bộ máy của
hội đang còn nhiều bất cập, chưa định hình rõ ràng.

IV. TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỘI CỰU CHIẾN
BINH VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Sau khi có Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 08-01-2002 của Bộ Chính trị
(khoá IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cựu chiến binh
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, các cấp uỷ đảng đã có nhiều biện
pháp tích cực lãnh đạo, triển khai thực hiện, sớm đưa Nghị quyết vào cuộc sống,
tạo được sự chuyển biến quan trọng về nhận thức và trách nhiệm của hệ thống
chính trị, của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công tác cựu chiến binh.
Quán triệt các quan điểm của Đảng nêu trong Nghị quyết số 09-NQ/TW
của Bộ Chính trị, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Cựu
chiến binh Việt Nam ngày 18-10-2005; Chính phủ ban hành Nghị định số
150/2006/NĐ-CP, ngày 12-12-2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Pháp lệnh Cựu chiến binh; ban hành chính sách đối với quân nhân tham gia
chống Pháp, chống Mỹ chưa được hưởng chế độ, tạo điều kiện pháp lý cho hoạt
163

động của Hội Cựu chiến binh, kịp thời động viên, phát huy được vai trò của
cựu chiến binh trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã có bước phát triển vững chắc, hoạt động
có hiệu quả, nhất là trong việc thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng và bảo vệ
Đảng, chính quyền, bảo vệ chế độ, góp phần giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở;
hoạt động tình nghĩa, giúp nhau xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống; tham
gia phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực, tội phạm và các tệ nạn xã hội; giáo dục truyền thống
cách mạng cho thế hệ trẻ; vận động, tập hợp, phát huy vai trò tích cực của cựu
quân nhân ở cơ sở; tham gia công tác đối ngoại nhân dân...
Hội Cựu chiến binh Việt Nam tiếp tục khẳng định là một đoàn thể chính
trị - xã hội hoạt động có hiệu quả, được cấp uỷ đảng, chính quyền và nhân dân
tin tưởng, ghi nhận và đánh giá cao; nhất là việc tham gia giải quyết những vấn
đề bức xúc ở cơ sở và hoà giải trong nhân dân.
Tuy nhiên, trong thực hiện Nghị quyết còn bộc lộ một số hạn chế, khuyết
điểm cần khắc phục, đó là:
- Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, một số ít cấp uỷ, ban cán
sự đảng, đảng đoàn chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm của Đảng về
cựu chiến binh và công tác cựu chiến binh, chưa thật sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo và kiểm tra thường xuyên việc triển khai thực hiện Nghị quyết nên kết quả
còn hạn chế.
Sự phối hợp của một số cơ quan chức năng trong hướng dẫn, chỉ đạo
thực hiện một số chế độ, chính sách đối với cựu chiến binh chưa chặt chẽ, đồng
bộ, thống nhất, có mặt chưa phù hợp với thực tiễn; một số nơi triển khai chậm,
chưa thực hiện đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối
với cựu chiến binh và Hội Cựu chiến binh.
- Hội cựu chiến binh một số nơi quán triệt chưa sâu sắc chức năng, nhiệm
vụ của Hội nên thiếu tích cực, chủ động trong việc tham mưu với cấp uỷ đảng,
164

phối hợp với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các ban, ngành, đoàn thể. Tổ
chức và hoạt động của Hội Cựu chiến binh chưa được rộng khắp trong các cơ
quan, doanh nghiệp, chậm đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; còn một
số ít cựu chiến binh thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không giữ vững và phát huy
được bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ" trong tình hình mới.
* Nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị quyết
1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 08-01-
2002 của Bộ Chính trị (khoá IX) và Kết luận này của Ban Bí thư (khoá X), tạo
sự thống nhất về nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hôi các cấp, của cán bộ, đảng viên đối
với công tác cựu chiến binh và hoạt động của Hội Cựu chiến binh Việt Nam;
thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra thực hiện các nhiệm vụ mà
Nghị quyết đã nêu, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới.
2. Cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tạo
điều kiện thuận lợi để phát huy vai trò của cựu chiến binh trong thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở, tham gia giám sát, đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực, hoà giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân...góp phần bảo đảm sự
đồng thuận xã hội; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tích cực
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh.
3. Các cấp uỷ đảng chỉ đạo hội cựu chiến binh cùng cấp chủ động xây
dựng mối quan hệ phối hợp công tác với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các ban, ngành, đoàn thể; đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp,
liên kết, liên tịch phù hợp với chức năng, nhiệm cụ của hội; xác định rõ trách
nhiệm, cơ quan chủ trì; định kỳ sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả.
4. Kết hợp chặt chẽ việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW,
ngày 08-01-2002 của Bộ Chính trị (khoá IX) với cuộc vận động "Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", động viên cựu chiến binh nỗ lực
165

rèn luyện, phấn đấu, giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ"
trong tình hình mới.
5. Chăm lo xây dựng tổ chức hội cựu chiến binh trong sạch, vững mạnh;
đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động, hướng về cơ sở, lấy cơ sở
làm địa bàn hoạt động. Chú trọng tới các cơ sở ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn, các đơn vị sự nghiệp và các loại hình doanh nghiệp đang còn
lúng túng trong tổ chức và hoạt động. Tích cực tham gia giáo dục truyền thống
cách mạng cho thế hệ trẻ và nhân dân.
6. Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại nhân dân của Hội Cựu chiến binh
Việt Nam, góp phần thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta trong thời kỳ mới.
166

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Tài liệu bồi dưỡng chuyên viên cao cấp
năm 2012.
2. GS. Nguyễn Đức Bình, GS, PGS Trần Ngọc Hiên... (đồng chủ biên), Đổi
mới và tăng cường hệ thống chỉnh trị nước ta trong giai đoạn mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội, 2011.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VII) ngày 23/01/1995 về tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1997.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị số 59-CT/TW, ngày 15/12/2000 về “tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân Việt
Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn”.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 08-01-2002 của
Bộ Chính trị (khoá IX).
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 08/01/2002 của
Bộ Chính trị (khóa IX) Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác cựu chiến binh Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
167

12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của
Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 04 NQ/TW khóa X về đổi mới,
kiện toàn bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ
máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 05 NQ/TW khóa X về đẩy mạnh
cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý bộ máy nhà
nước.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương khóa X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ khóa XI về Tăng cường đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
168

với công tác dân vận trong tình hình mới. 24. V.I. Lênin. Toàn tập, tập
42, Bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, M, 1977.
24. V.I. Lê nin. Toàn tập, Tập 6, Bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, M.1975.
25. PGS Vũ Hữu Ngoạn (chủ biên), Đặc điểm, nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng trong hệ thống chính trị. Mối quan hệ giữa Đảng với Nhà
nước và các đoàn thể, tổ chức xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999.
26. Trần Đình Nghiêm (chủ biên), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2002.
27. Phạm Ngọc Quang (chủ biên), Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2005.
28. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp 2013.
29. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Mặt trận tổ quốc
Việt Nam, H, 1999.
30. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức Quốc
hội, H, 2001.
31. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức Chính
Phủ, H, 2001.
32. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Thanh niên, H,
2005.
33. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Công đoàn Việt
Nam, H, 2012.
34. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật bình đẳng giới,
H, 2006.
35. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân, H, 2002.
36. Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân, H, 2002.
169

37. TS. Nguyễn Thị Thanh (chủ biên), Quyền lực chính trị và cầm quyền, H,
2008.
38. PGS, TS. Nguyễn Vũ Tiến (chủ biên), Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội”,
H, 2009.
39. Ủy Ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh Cựu chiến binh Việt Nam ngày 18-
10-2005.
170

You might also like