Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

CHỨC NĂNG VĂN HỌC (TỔNG KẾT)

I. Chức năng của văn học là gì?

Chức năng của văn học là vai trò vị trí của văn học trong đời sống xã hội, là tác dụng, giá trị xã hội
của văn học đối với đời sống tinh thần của con người. Văn học là hiện tượng đa chức năng, các chức
năng gắn bó hữu cơ không tách rời nhau. Sự gắn bó giữa các chức năng làm cho văn học có sức tác
động sâu xa, bền bỉ, có sức sống mãnh liệt, lâu dài trong đời sống tinh thần của chúng ta.

Nói đến chức năng của văn học là nói đến mục đích sáng tác tác phẩm văn học, đến vấn đề viết để
làm gì. Có rất nhiều tiêu chí phân biệt sự khác nhau giữa văn học và các môn khoa học khác. Nhưng có
lẽ M. Gorki đã từng nói rất đứng đặc thù của bộ môn: “Văn học là nhân học”. Văn học là khoa học,
khám phá thế giới tâm hồn, tính cách con người, văn học có chức năng riêng, biểu hiện trên ba mặt
chính : nhận thức – giáo dục – thấm mỹ.

II. Các chức năng của văn học.


1. Chức năng nhận thức.

Văn học có chức năng khám phá những quy luật khách quan của đời sống xã hội và đời sống tâm
hồn của con người. Nó có khả năng đáp ứng nhu cầu của con người muốn hiểu biết về thế giới xung
quanh và chính bản thân mình. Không phải ngẫu nhiên đã có người cho rằng: “Văn học là cuốn sách
giáo khoa của đời sống”. Chính cuốn sách ấy đã thể hiện một cách tinh tế và sắc sảo từng đổi thay,
từng bước vận động của xã hội. Nó tựa như “chiếc chìa khoá vàng mở ra muôn cánh cửa bí ẩn, đưa con
người tới ngưỡng cửa mới của sự hiểu biết thế giới xung quanh”

1.1. Văn học cung cấp những kiến thức bách khoa về hiện thực đời sống:

Văn học cung cấp tri thức, mang đến sự hiểu biết, giúp con người khám phá thế giới hiện thực.
Khác với khoa học, văn học nhận thức hiện thực không theo kiểu phân môn biệt loại mà phản ánh cuộc
sống trong toàn bộ tính tổng hợp toàn vẹn của nó. Cho nên văn học có khả năng cung cấp những kiến
thức bách khoa về con người. Có thể tìm thấy trong tác phẩm văn học những tri thức về thiên nhiên, vũ
trụ. Có một mức độ nào đấy thần thoại là nhận thức về vũ trụ, con người, thế giới. Những tác phẩm
hiện đại như Sông Đông êm đềm của M. Sholokhov, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, Dế mèn
phiêu lưu kí của Tô Hoài đã mang đến cho người đọc nhiều tri thức bổ ích về phân loại thực vật và tập
tính của rất nhiều giống loài động vật.

Văn học là cái kho chứa khổng lồ những tri thức về đời sống xã hội (vì đời sống xã hội là đối
tượng nhận thức trung tâm ). Văn học cho ta biết được phong tục tập quán của nhiều địa phương, nhiều
dân tộc. Những tiểu thuyết lịch sử như “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung, “Hoàng Lê nhất
thống chí” của Ngô gia văn phái đưa ta về quá khứ xa xăm của các dân tộc. Thơ văn Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu làm sống lại cuộc sống đau thương và hào hùng của dân tộc ta.
Những tác phẩm thuộc trào lưu hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 hướng trọng tâm vào vấn đề con
người trước hoàn cảnh sống đặc biệt là quá trình bần cùng hóa của một bộ phận nông dân.

Văn học chứa đựng những sự kiện lịch sử, lưu giữ lời ăn tiếng nói của người xưa, cung cấp tri
thức có giá trị về lịch sử kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa. Ăng ghen từng nói về bộ Tấn trò đời của
Ban-zac: “Xung quanh bức tranh trung tâm này Ban zắc tập trung toàn bộ lịch sử nước Pháp trong đó
ngay cả vè phương diện các chi tiết kinh tế tôi cũng đã biết nhiều hơn- các sách của tất cả các chuyên
gia, các nhà sử học, kinh tế học, thống kê học thời ấy cộng lại”. Văn học miêu tả các hiện tượng, đối
tượng thuộc thế giới tự nhiên và đời sống xã hội là để khám phá đời sống con người trong những quan
hệ đầy phức tạp (cho nên hình tượng con người luôn là hình tượng trung tâm của tác phẩm văn học).

Qua hình tượng nhân vật đặc biệt là nhân vật điển hình, văn học giúp ta tìm hiểu thân phận con
người, khám phá các tính cách xã hội của một giai đoạn, một xã hội, một tầng lớp hay một giai cấp nào
đó (như tính cách thể hiện đặc điểm dân tộc trong AQ chính truyện của Lỗ Tấn, tính cách như là sản
phẩm của hoàn cảnh xã hội – lịch sử trong các sáng tác của Nam Cao, Ban zắc ).

1.2. Nhận thức cái khái quát qua cái cụ thể, cái mới lạ trong cái quen thuộc, làm con người tự
nhận thức là chức năng đặc thù của văn học.

Mục đích cuối cùng của nhận thức là hướng tới những khái quát lớn, khám phá bản chất, quy
luật của các hiện tượng đối tượng.Tác phẩm văn học chân chính phải đặt ra những vấn đề then chốt của
thời đại, giúp người đọc nhận ra một trạng thái nhân sinh. Do phản ánh được bản chất và quy luật vận
động của đời sống hiện thực các kiệt tác văn học thường chứa đựng những dự báo về tương lai (như
một số truyện kí của Nguyễn Ái Quốc và thơ Tố Hữu trước cách mạng tháng Tám, Người mẹ và Bài ca
chim báo bão của Gorki).

Văn học giúp ta nhận thức cái chung, cái mang tính quy luật qua cái riêng cái độc đáo tưởng
như ngẫu nhiên cá biệt. Ví dụ như tiểu thuyết “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố, “Chí Phèo” của Nam Cao,
“Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan ta thấy chị Dậu, Chí Phèo, anh Pha mỗi người có ngoại
hình riêng, cảnh ngộ riêng, lời ăn tiếng nói cách cảm và nghĩ khác nhau nhưng chúng ta vẫn nhận ra số
phận và tính cách chung của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.

Văn học phát hiện không biết bao điều mới lạ sâu xa, chí lí trong cái bình thường, đơn giản và
gần gũi, thân quen mà ta vẫn tiếp xúc, nhìn thấy hàng ngày. Với người đọc quá trình nhận thức hiện
thức đời sống trong tác phẩm đồng nghĩa với quá trình người đọc nếm trải, sồng lại từ đầu một biến cố,
một tâm trạng, một tình huống hay số phận để ngộ ra, giác ngộ ra điều mà ta đã biết, đã quen nhưng
giờ mới thấy thấm thía. Những ai từng trải sẽ có dịp nghiền ngẫm bình tĩnh và khách quan hơn, còn ai
chưa từng sống qua thì nếm trải nó như chính cuộc đời. Cho nên tác phẩm nghệ thuật mỗi lần, mỗi thế
hệ khác nhau khi xem lại, đọc lại nhiều lần đều thấy thêm nhiều điều mới lạ. Tri thức đó mang lại cho
ta sự nhạy bén, giúp ta biết phân biệt đâu là thật là giả, thiện ác, đẹp xấu. Đó là tri thức dạy khôn cho
con người.
Văn học giúp ta nhận thức các giá trị tinh thần kết tinh trong thế giới đối tượng, khơi gợi khả
năng biến quá trình tự nhận thức thế giới khách quan thành quá trình tự nhận thức về bản thân. Đây là
đặc điểm quan trọng nhất của chức năng nhận thức của văn học. Văn học nhận thức đối tượng mà chủ
yếu là nhận thức các quan hệ xã hội của con người, phát hiện ra giá trị của thế giới đối tượng mà chủ
yếu là các giá trị tinh thần của con người được kết tinh trong đó. Qua đó giúp ta nhận ra giá trị ý nghĩa
của cuộc sống. Với hàng loạt câu hỏi từ ngàn đời đặt ra với con người (Mình là ai? Mình là gì ? Mình
là cái gì? Mình sống để làm gì ? Tại sao mình phải sống trong đau khổ? Làm thế nào để có cuộc sống
sung sướng? Thế nào là đúng, là sai ?)

* Tóm lại: Chức năng nhận thức là khả năng của văn học trong việc cung cấp tri thức bách khoa
về đời sống, mang lại sự hiểu biết, nhất là hiểu biết về các tính cách xã hội, những bí ẩn trong tâm hồn,
giúp dạy khôn cho con người, giúp con người mài sắc cảm giác,biết phân biệt thật giả, biết cảm nhận
tinh tế sự phong phú của thế giới cảm tính, phát hiện cái chung, cái bản chất, cái mới lạ, sâu xa qua cái
ngẫu nhiên cá biệt, cái quen thuộc, cái bình thường. Nội dung quan trọng nhất trong chức năng nhận
thức là giúp con người tự nhận thức bản thân, sống cuộc sống có ý thức mãnh liệt, sâu sắc về giá trị và
năng lực vô tận của mình để phấn đấu, sáng tạo.

2. Chức năng thẩm mĩ.

Chức năng thẩm mĩ của văn học là nó có nhiệm vụ thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ, phát hiện nhu cầu
và thị hiếu thẩm mĩ cho con người. Văn học đem đến cho con người những cảm nhận chân thực, sâu
sắc và tinh tế nhất. Nghệ thuật sáng tạo trên nguyên tắc cái đẹp, vì thế không thể thoát khỏi quy luật
của cái đẹp.

Văn học luôn khai thác cái đẹp ở nhiều góc độ: thiên nhiên, đất nước, con người, con người, dân
tộc. Giá trị thẩm mi của tác phẩm ẩn chứa cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Nó đem đến cho người
đọc cảm nhận, rung cảm về những nét đẹp giản dị, gần gũi ở cả cuộc đời thường lẫn những nét đẹp
tượng trưng, mới lạ. Cách thức xây dựng ngôn từ của mỗi nhà văn, nhà thơ cũng đem lại nét đẹp cho
tác phẩm.

2.1. Văn học làm thỏa mãn nhu cầu thẫm mĩ, giải trí, khơi dậy những khoái cảm nghệ thuật:

Chức năng thẩm mĩ của văn học có nhiều cấp độ, nhiều bình diện. Ở cấp độ thứ nhất, nội dung
cơ bản của nó là thỏa mãn tối đa nhu cầu thẫm mĩ để gợi dậy khoái cảm nghệ thuật.

Văn học thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ chủ yếu bằng cách mang đến cho con người sự hưởng thụ
cái đẹp. Khi chưa có nghệ thuật nhu cầu hưởng thụ cái đẹp đã có, hoạt động thẩm mĩ cũng không có
giới hạn trong phạm vi nghệ thuật. Trong bất kì lĩnh vực nào người ta cũng sáng tạo theo quy luật cái
đẹp ( cái đẹp có ở khắp mọi nơi ). Nhưng sáng tạo cái đẹp không phải là mục đích cứu cánh của hoạt
động thực tiễn và nhiều lĩnh vực hoạt động tinh thần khác. Chỗ khác nhau giữa nghệ thuật với các hoạt
động khác ở chỗ đó “Cái đẹp là điều kiện không thẻ thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì
không và không thể có nghệ thuật. Đó là một định lí”. Sáng tạo cái đẹp là chức năng quan trọng nhất
của văn nghệ. Văn học là lĩnh vực có khả năng thỏa mãn tối đa nhu cầu hưởng thụ cái đẹp. Vậy cho
nên văn học nghệ thuật khơi dậy ở con người khoái cảm lớn, niềm vui lớn.

Văn học đem đến sự hưởng thụ thẩm mĩ bằng nhiều cách, trước hết bằng cách miêu tả phản ánh
cái đẹp vốn có trong đời sống hiện thực. Cho nên đến với tác phẩm được tiếp xúc với cái đẹp của bản
thân đời sống. Có thể tìm thấy trong tác phẩm văn học muôn vàn vẻ đẹp phong phú đa dạng của cỏ cây
hoa lá, sông nước mây trời. Ví dụ Truyện Kiều, thơ HCM thắm chất mộng chất say trong thơ.

Văn học là nhân học, nó tôn vinh vẻ đẹp và cuộc sống con người. Ví dụ thần thoại, sử thi xây
dựng các hình tượng nghệ thuật kì vĩ để ngợi ca những chiến công hiển hách, ngợi ca tài năng và sức
mạnh của con người. Truyện cổ tích đề cao cái thiện và những chuẩn mực đạo đức như là nền tảng của
nhân tính muôn đời, Văn học trung đại biểu dương những tấm gương trung liệt, nghĩa khí, văn học hiện
đại phát hiện vẻ đẹp ở những nơi lấm láp, nhiều tục lụy nhất: lòng yêu cuộc sống, yêu đời, vẻ đẹp tâm
hồn, vẻ đẹp của lòng nhân ái.

Trong tác phẩm văn học hình tượng được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ cho nên tác phẩm
văn học không chỉ đem đến cho con người khoái cảm trước vẻ đẹp của đời sống mà còn khơi dậy
những khoái cảm trước vẻ đẹp của chất liệu, vẻ đẹp của các phương thức, phương tiện nghệ thuật tổ
chức chất liệu ấy. Đó có thể là một từ dùng đắt, một câu văn hay, một đoạn thơ có tiết tấu uyển chuyển
hoặc vần điệu nhịp nhàng; một cốt truyện hấp dẫn hoặc một chi tiết nghệ thuật sinh động lột tả được
cái thần, cái hồn của nhân vật. Trong tác phẩm văn học, nhà văn tìm cách tổ chức chất liệu để khắc
phục lối diễn đạt thông thường nhằm giải phóng hình tượng ra khỏi ngôn từ. Cho nên hình tượng trong
tác phẩm đem lại cho ta khoái cảm về sự thống nhất cao độ giữa nội dung và hình thức nghệ thuật. Và
ở đây khoái cảm trước vẻ đẹp của nghệ thuật hoàn toàn không đồng nhất với khoái cảm trước vẻ đẹp
của đời sống. Ví dụ đọc Truyện Kiều ta không chỉ yêu mến Thúy Kiều mà còn thích Sở Khanh, Tú Bà,
Mã Giám Sinh vì những từ dùng đắt, những chi tiết sống động mà tác giả đã điểm huyệt chúng lôi
chúng ra ánh sáng.

Văn học thực hiện chức năng thẩm mĩ qua hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật đem
lại cho tâm hồn sự hưởng thụ thẩm mĩ cao đẹp, gợi dậy những khoái cảm mãnh liệt mà vô tư trong
sáng, không gắn với những mục đích vụ lợi trực tiếp. (Vì hình tượng văn học là hiện tượng tinh thần
chứ không phải vật chất. Nên trước vẻ đẹp đó ta chỉ có thể chiêm ngưỡng chứ không thể theo đuổi biến
thành của riêng. Vì thế hưởng thụ thẩm mĩ mà văn học đem lại cho ta không gắn với những mục đích
vụ lợi, trực tiếp, nhỏ nhen tầm thường. Mà đó là sự hưởng thụ cao đẹp của tâm hồn. Những giây phút
sống với tác phẩm văn học làm cho tâm hồn ta trong sáng: ta biết vui sướng, biết đau khổ, biết yêu,
biết ghét, biết quên mình vì vận mệnh tổ quốc). Cái đẹp ở trong hiện thực đi vào nghệ thuật được nhân
đôi, nhờ có nghệ thuật mà một phong cảnh, một sự việc, một con người trở thành đẹp hai lần: một lần
trong đời sống và một lần trong tác phẩm.

II.2Văn học hình thành thị hiếu, lí tưởng thẩm mĩ, đánh thức bản chất nghệ sĩ và cảm hứng
sáng tạo của con người.
Thị hiếu là năng lực định giá thẩm mĩ (năng lực nhận biết, đánh giá cái đẹp). Nó giúp con người có
năng tiếp nhận và đánh giá những khách thể khác nhau: biết phân biệt cái đẹp, cái xấu; cái thẩm mĩ với
cái phi thẩm mĩ, nhận ra nét bi và hài trong các đối tượng và hiện tượng. Có nhiều nhân tố góp phần
hình thành thị hiếu thẩm mĩ như giáo dục, thói quen, tính nết, kinh nghiệm sống trong đó văn học giữ
một vai trò đặc biệt quan trọng. Đọc tác phẩm văn học ta tiếp xúc với muôn vàn vẻ đẹp phong phú, đa
dạng của đời sống hiện thực và cảm nhận được cả vẻ đẹp của các phương thức, phương tiện nghệ thuật.
Văn học giúp ta làm giàu kho kinh nghiệm thẩm mĩ, mài sắc các giác quan thẩm mĩ thường xuyên tiếp
xúc với văn học nghệ thuật ta sẽ thành người sành sỏi, tinh tế, nhạy bén có chuẩn mực đánh giá riêng
của mình để phân biệt cái đẹp và không đẹp trong văn học và trong cuộc sống quanh ta. Như vậy văn
học có khả năng hình thành thị hiếu thẩm mĩ là vì thế. Ví dụ bài “Thu Vịnh” của Nguyễn Khuyến gợi
tả cái thanh cao, nhẹ nhàng, trong sáng của một bức tranh thu rất đặc sắc của đồng bằng Bắc Bộ. Còn
vẻ đẹp trong những bức tranh thiên nhiên của Huy Cận in đậm cảm hứng vũ trụ và nỗi buồn nhân thế
của cái tôi mênh mang “thiên cổ sầu”.

Văn học còn hình thành lí tưởng thẩm mĩ cho con người. Bởi vì văn học bao giờ cũng phản ánh
hiện thực đời sống dưới ánh sáng của lí tưởng thẩm mĩ. Lí tưởng thẩm mĩ là hình ảnh các giá trị thẩm
mĩ mong muốn cần phải có, là lí tưởng về đời sống phù hợp quan niệm của chúng ta về cái đẹp. Chẳng
hạn tập thơ Từ ấy là hình ảnh người chiến sĩ sẵn sàng dấn thân trên con đường cách mạng, dẫu phải hi
sinh vẫn quyết tâm để xóa bỏ áp bức bóc lột mang lại tụ do cho nhân dân. Trong bài Tây Tiến của
Quang Dũng là vẻ đẹp hòa hùng, dữ dội của nghệ sĩ.

Trong mọi hoạt động thực tiễn, con người luôn sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Văn học không
chỉ khơi dậy khoái cảm thẫm mĩ, mà còn đánh thức bản chất nghệ sĩ và niềm say mê sáng tạo trong
mỗi cá nhân. Đó là chức nội dung cơ bản của chức năng thẩm mĩ của văn học nghệ thuật.

3. Chức năng giáo dục.

Nghệ thuật là hình thái đặc trưng, hình thành từ những tìm tòi, khám phá của người nghệ sĩ về hiện
thực đời sống. Nghệ thuật mang đến cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về xã hội, thể hiện những quan
điểm của người nghệ sĩ, từ đó tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tình cảm, cảm xúc của người tiếp
nhận. Chính vì vậy, nghệ thuật luôn ẩn chứa sử mệnh cao cả và thiêng liêng, góp phần làm đẹp cho
cuộc đời. Tố Hữu đã từng phát biểu: “Nghệ thuật là câu trả lời đầy thẩm mĩ cho con người; thay đổi,
cải thiện thế giới tinh thần của con người, nâng con người lên”. Còn Nguyên Ngọc thì khẳng định:
“Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”

Chức năng giáo dục thường được xem là giáo dục đạo đức phẩm chất cho con người. Tuy nhiên
văn học không chỉ giáo dục đạo đức mà còn tác động và cải tạo thế giới và các quan điểm chính trị –
xã hội của con người. Chức năng giáo dục chính là chức năng tác động, cải tạo quan điểm, tư tưởng
đạo đức của con người. Ngay từ thời cổ đại Hi Lạp A-rix-tot đưa ra phạm trù thanh lọc khi người ta
xem kịch nếu có khóc thì sẽ làm người ta trong sạch và cao thượng hơn. Nhà mĩ học Lets-xing của Đức
cho rằng sân khấu phải trở thành “một trường học đạo đức”. Ở Việt Nam việc coi văn học có chức
năng giáo dục đã có từ lâu đời trong bài tựa Lĩnh Nam chích quái Vũ Quỳnh và Kiều Phú đã viết “Việc
tuy kì dị mà không quái đản, văn tuy thần bí nhưng không nhảm nhí, tuy nói những chuyện hoang
đường mà tung tích vẫn có bằng cứ, há chẳng phải là chẳng khuyên điều thiện, trừng điếu ác, bỏ giả
theo thật”. Và từ xưa đến nay văn học vẫn được coi như một thứ vũ khí giáo dục, tuyên truyền phục vụ
sự nghiệp đấu tranh giữ nước, dựng nước. Trong Văn học Việt Nam văn học được sử dụng như một
hình thức giáo dục đạo đức, tu dưỡng tính tình được hết sức chú ý. Tiêu biểu là tác phẩm Lục Vân Tiên
của Nguyễn Đình Chiểu.

Với văn học giáo dục được tác động ở sự lay động tình cảm con người, tác động vào tình cảm là
tác động vào khâu then chốt. Người đọc bị xúc động say mê, lôi cuốn bởi những điều viết ra trong tác
phẩm người đọc sẽ dễ nhận ra những lầm lạc hoặc làm theo tiếng gọi của những điều tốt đẹp mà tác giả
gợi ra. Vậy nghệ thuật cải tạo và giáo dục con người bằng tình cảm và thông qua con đường tình cảm.

Trong quá trình tác động và cải biến con người văn học hiện ra không phải như người thầy, người
thuyết giáo mà như người đồng hành, người đối thoại với bạn đọc. Đối thoại giữa mình với mình, giữa
phần thiện và phần ác, lương tri và tội lỗi, giữa lí trí cao cả và dục vọng thấp hèn. Nó là tấm gương để
con người tự soi mình tự đối chiếu để phán xét người khác và bản thân. Như vậy nghẹ thuật đã chuyển
quá trình giáo dục thành tự giáo dục. Giáo dục bằng nghệ thuật không có tính chất cưỡng bức mà là
một hoạt động tự giác. Không ai bắt đọc truyện, đọc sách và cũng không ai bắt làm theo những điều
trong sách, người đọc tự nhận ra những điều hay dở nó thấm dần vào người đọc và đến lúc làm theo lúc
nào không hay. Nghệ thuật để thực hiện tốt chức năng này luôn có khuynh hướng khuếch đại cái tốt,
phóng đại cái xấu để cái tốt trở nên đẹp đẽ, lộng lẫy, hấp dẫn lôi cuốn và cái xấu thật đáng ghê tởm và
tránh xa. Nghệ thuật dễ tác động, cải biến được con người vì nó hấp dẫn và vui tươi; giáo dục – giải trí
– vui chơi đi liền với nhau từ đó chức năng giáo dục thấm dần mỗi ngày một ít. Tác động con người
dần dần, nó gieo vào con người ý thức về tội ác và lỗ lầm. Ý thức ấy sẽ ngăn ngừa hành động xấu, hoặc
giúp họ đấu tranh chống cái ác, cái xấu.

Do những vấn đề trên mà nghệ thuật được sử dụng như một thứ vũ khí đấu tranh giai cấp và tuyên
truyền giác ngộ cách mạng. Cả lực lượng tiến bộ và phản động đều dùng văn học làm công cụ tuyên
truyền, tập hợp quần chúng. Tác phẩm hay làm con người trở nên cao thượng, vị tha; tác phẩm đồi bại,
phản động làm người ta trở nên độc ác và tha hóa. Vậy để văn học tác động tích cực vào quần chúng
nhà văn cần ết sức nâng cao chất lượng tư tưởng, của nghệ thuật. Mọi tác phẩm đơn thuần chỉ là thuyết
lí khô khan và vụng về, minh họa cho một chủ trương chính trị, một nguyên lí đạo đức nào đó không
những làm tăng khả năng giáo dục mà ngược lại làm giảm hiệu quả giáo dục, hạn chế ý nghĩa xã hội
của nó.

III. Mối quan hệ giữa các chức năng văn học.

Bên cạnh việc chuyển tải nội dung thẩm mĩ, tác phẩm nghệ thuật còn tác động đến nhận thức của
con người, đánh thức những tình cảm, cảm xúc, bản năng của con người, khơi dậy sức sống và niềm
tin yêu, hi vọng vào thế giới ấy.
Một tác phẩm dù lớn hay nhỏ đều ẩn chứa những giá trị nhận thức riêng biệt. Một Xuân Diệu nồng
nàn, tươi trẻ với những bước chân vội vàng, cuống quýt, vồ vập trong tình yêu; một Huy Cận mang
mang thiên cổ sầu; một Hàn Mặc Tử yêu đời, yêu cuộc sống đến tha thiết nhưng đành “bó tay nhìn thể
phách và linh hồn tan rã”… Những nhà thơ Mới mỗi người một vẻ, một sắc thái nhưng đã hòa cùng
dòng chảy của văn học, mang đến những cảm nhận mới lạ, tinh tể, tác động mạnh mẽ tới tri giác, đánh
thức những bản năng khát yêu, khát sống trong mỗi con người. Còn dòng văn học hiện thực lại tác
động vào con người theo những hình tượng nhân vật. Một chị Dậu giàu đức hi sinh đã kiên cường đấu
tranh với kẻ thống trị để bảo vệ gia đình; một Chí Phèo bước ra từ những trang văn lạnh lùng nhưng ẩn
chứa nhiều đớn đau của Nam Cao; một Xuân Tóc Đỏ với bộ mặt “chó đểu” của xã hội… Tất cả đã tác
động lên người đọc nhận thức đầy đủ, phong phú về xã hội. Từ đó khơi dậy ý thức đấu tranh giai cấp
để giành lại quyền sống, ý thức cải tạo xã hội và y thức về giá trị con người.

Trên hành trình kiếm tìm, vươn tới nghệ thuật, mỗi người nghệ sĩ lại tìm cho mình một định nghĩa,
một chuẩn mực để đánh giá văn chương, nghệ thuật. Có người cho rằng giá trị cao nhất của văn
chương là vì con người. Có người lại quý văn chương ở sự đồng điệu tri âm: “Thơ ca giúp ta đi từ chân
trời một người đến với chân trời triệu người”. Còn có người lại coi văn chương nghệ thuật là “một thứ
khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác,
vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú thêm” (Thạch Lam). Nguyên Ngọc cũng từng khẳng
định: “nghệ thuật là phương thức tồn tại của con người”…

Tất cả những quan điểm các nhà nghệ sĩ đã giúp cho chúng ta nhận ra văn học là một yêu cầu thiết
yếu, một nhu cầu không thể thiếu của con người. Ta tự hỏi con người sẽ sống như thế nào nếu mai kia
chẳng còn văn chương? Có lẽ tâm hồn con người sẽ khô cằn, chai sạn lắm bởi văn chương cho ta được
là CON NGƯỜI với hai chữ viết hoa, với đầy đủ những ý nghĩa cao đẹp.

“Văn chương giữ cho con người mãi mãi là con người, không sa xuống thành con vật”. Văn chương
nâng con người lớn dậy, thanh lọc tâm hồn con người. Bởi vậy, hành trình đến với văn chương là hành
trình kiếm tìm, vươn tới. “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho
con người”. Xét đến cùng, hành trình của một tác phẩm văn chương là hướng con người đến con
đường CHÂN – THIỆN – MĨ.

Một tác phẩm văn chương đích thực bao giờ cũng là sự hòa quyện của chức năng. Chức năng thẩm
mỹ là đặc trưng của nghệ thuật. Chức năng giáo dục là nhiệm vụ của nghệ thuật. Chức năng nhận thức
là bản chất của văn chương. Ba chức năng của văn chương có quan hệ khăng khít và xuyên thấu vào
nhau để cùng tác động vào con ngươi. Chức năng này đồng thời biểu hiện chức năng kia và ngược lại.

You might also like