Về Ba Bài Thơ Thu Trong Tâm Hồn Nguyễn Khuyến

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

Về ba bài thơ thu trong tâm hồn Nguyễn Khuyến

Xưa nay, về ba bài thơ viết về mùa thu của Nguy ễn Khuy ến đ ều đ ược các nhà th ơ, nhà
văn, các nhà nghiên cứu văn học, nghiên cứu văn hóa nh ận đ ịnh r ằng: Đó là nh ững b ức
tranh thơ bất hủ, đặc tả cảnh mùa thu làng quê Đồng bằng B ắc B ộ, nh ưng v ẫn còn nhi ều
ý nghĩa, ý tứ, cái hay, cái đẹp tiềm ẩn, khi ến ng ười đ ời sau không ng ừng d ứt m ực bình
luận, phân tích, nghiên cứu và ca ngợi. Trong bài vi ết này, chúng tôi xin có thêm m ột
vài suy nghĩ, góp phần thêm sáng tỏ.

Đọc ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, người đọc thường thấy ngay đ ược ở
đó có ba tầng không gian được miêu tả: Tầng trên cao là b ầu tr ời thu (bài “Thu v ịnh",
tức “Vịnh mùa thu"); Tầng trên mặt đất, mặt ao (bài “Thu ẩm", t ức “U ống r ượu mùa
thu"); và Tầng ở dưới nước/ dưới đáy ao (bài “Thu điếu", tức “Câu cá mùa thu").

Bài “Thu vịnh"

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tầng khói


phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Mấy chùm trước giậu hoa năm


ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước


nào.

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Ở tư thế ngồi hoặc tựa gối, qua song cửa, nhà thơ ng ước nhìn b ầu tr ời thu
cao vời vợi, xanh ngắt mấy tầng mà cảm hứng thơ. Và, r ồi t ừ trên cao xanh ấy, c ứ th ấp
dần, cảnh vật mùa thu hiện lên mỗi lúc một gần: Trời thu xanh ng ắt m ấy t ầng cao - C ần
trúc lơ phơ gió hắt hiu - Nước biếc trông như t ầng khói ph ủ - Song th ưa đ ể m ặc bóng
trăng vào - và, qua song cửa thấy mấy chùm hoa tr ước gi ậu. Duy ch ỉ có m ột âm thanh
trong không trung mung lung vang vọng: “Một tiếng trên không ngỗng nước nào"

Nhiều người cho rằng, đó là tiếng đồng vọng không xác đ ịnh trong không
gian; nhiều người lại cho rằng đó là âm hưởng trong tâm t ưởng tác gi ả (xin phân tích ở
cuối bài viết).

Ở bài thơ này, để biểu thị không gian mùa thu cao l ồng l ộng, v ới n ền c ảnh
bầu trời xanh ngắt, tác giả đã tinh xảo sử dụng lợi thế c ủa âm v ần ti ếng Vi ệt. Âm h ưởng
chủ đạo của bài thơ là vần Ao - một âm vực mở: m ấy t ầng Cao, bóng tr ăng Vào, ng ỗng
nước Nào, với ông Đào.

Bài “Thu ẩm"

Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ trúc đêm sâu đóm lập loè.


Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Rượu tiếng là hay, hay chẳng mấy,

Độ năm ba chén đã say nhè.

Giờ thì không gian mùa thu cứ như dần xuống thấp: từ n ăm gian nhà c ỏ
xuống ngõ trúc đêm sâu, để rồi xuống tiếp nữa, trên m ặt n ước/ m ặt ao, v ới bóng tr ăng
loe lấp lánh. Trong cái say của thi nhân, theo h ướng nhìn ngang l ại nh ư th ấp d ần,
Nguyễn Khuyến thấy cái ảo từ (trong) cái thực, nên nhà tranh hóa ra nhà c ỏ, vì trên
mặt đất còn gì thấp hơn cỏ, và sau đó thấp h ơn n ữa là m ặt n ước/ m ặt ao! Theo l ăng
kính cái nhìn ấy thì ngõ trúc cũng thẳm sâu trong màn đêm sâu. Tác gi ả đã ch ọn âm
hưởng chủ đạo của bài thơ là âm vần Oe, tiếng Việt thường dùng âm vần này để biểu chỉ
một thiết diện (bề mặt): đóm lập Lòe, bóng trăng Loe, mắt đỏ Hoe.

Như vậy, không gian mùa thu ở bài thơ này nh ư c ố đ ược thu l ại, d ồn nén
xuống mặt đất, mặt nước, để cuối cùng in hình xuống đáy nước ao trong bài “Thu điếu".

Bài “Thu điếu"

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối buông cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Ở bài thơ này, tác giả nhìn xuống ao để cảm xúc miêu t ả, nên m ới th ấy: n ước trong
veo, sóng nước gợn tí, chiếc lá vàng theo gió s ẽ đ ưa vèo xu ống ao; và th ấy không gian
mùa thu với tầng mây lơ lửng trên bầu trời xanh ng ắt, v ới ngõ trúc th ực in hình đáy
nước, khi gặp xao động sóng nước mà khúc xạ thành ngõ trúc quanh co. Nói khác đi,
tác giả miêu tả không gian ảo của trời đất, cảnh vật mùa thu d ưới ao thu. Ở đó đ ộ cao
không còn, là âm, hay gọi là độ sâu.

Như vậy, Nguyễn Khuyến đã miêu tả không gian mùa thu t ừ d ương vô cùng (b ầu tr ời
cao xanh ngắt) đến âm vô cùng (bầu trời thăm thẳm in đáy n ước ao thu), nên m ọi c ảnh
vật cứ thấp dần, tưởng như chìm xuống đến độ sâu bất tận. Trong bài này Nguy ễn
Khuyến đã khéo vận dụng ý nghĩa của âm vần tiếng Vi ệt, v ới v ần Eo là âm h ưởng ch ủ
đạo: nước trong Veo, bé Tẻo teo, sẽ đưa Vèo, khách v ắng Teo, d ưới chân Bèo. Đó là
những từ lấy trong thành ngữ “tí tẹo tèo teo", dùng bi ểu ch ỉ m ột v ật th ể nh ỏ bé, ho ặc
những vật thể nhỏ bé đang trong xu hướng nhỏ bé dần, t ưởng nh ư s ắp bi ến m ất: “M ột
chiếc thuyền câu bé tẻo teo"

Chiếc thuyền câu đã bé tẻo teo như vậy, thì ng ười ng ồi trên thuy ền ấy còn ph ải bé đ ến
mức thế nào!; vả lại, chẳng ai đi câu cá trong c ảnh ao thu l ạnh l ẽo, n ước trong veo! Vì
vậy có lẽ, cuộc câu cá này là tác giả tưởng tượng ra; và n ếu nó có th ật thì c ũng không
nhằm mục đích là câu (được) cá.

Rốt cuộc, “Thu điếu" chỉ cốt ý nói về chuy ện câu cá. Chuy ện này ám ảnh Nguy ễn
Khuyến buổi từ quan đến suốt đời.

Lại xin nói về ông Đào ở bài “Thu vịnh". Ông Đào Tiềm s ống th ời nhà T ấn bên Trung
Quốc, là một ông quan sống thanh bạch nhưng tính tình phóng khoáng, hay u ống r ượu,
thưởng hoa và làm thơ văn, nên bọn người xấu ghen tị, xu n ịnh lên vua r ằng ông hay
chểnh mảng việc công, vua nghe theo. Từ quan v ề ở ẩn, ngày ngày ông ch ăm chút m ấy
khóm cúc, hòng quên đi thời cuộc, nhưng không th ể, nên có vi ết truy ện “ Đào Nguyên
ký" (tức bài “Ký Nguồn đào"). Bài ký kể rằng: Có m ột ng ười câu cá trên sông. Sông
chảy đưa thuyền câu của ông ta trôi đi. Theo dòng trôi, sông m ỗi lúc h ẹp d ần l ại r ồi
thành suối, cho đến khi thuyền không trôi đ ược n ữa, m ắc l ại ở khe núi. Ng ười câu cá
rời thuyền và đi vào hang núi, càng vào sâu, hang càng h ẹp l ại. Ông lách ng ười qua,
thì bỗng thấy trước mặt chói loà, một thế giới mở ra: cây trái sum xuê, muông thú vui
vầy; người đi cày, người đi cấy, người dệt vải se t ơ; trai gái v ẻ m ặt h ớn h ở. Có ông lão
râu tóc bạc phơ ra đón, tự nói là ông cha h ọ lánh n ạn nhà T ần ch ạy vào đây, t ừ đ ấy xây
dựng nên một đất nước cực thịnh, mọi người sung sướng, hòa đ ồng, hoan l ạc. Ông lão
hỏi chuyện bên ngoài, người câu cá kể cho biết: Bây gi ờ đã là nhà T ấn, đ ương s ự r ối
ren, xã hội loạn lạc, nhân tình li tao, nhà nhà li tán… T ừ đ ời T ần đ ến T ấn đã 4 đ ến 5
trăm năm rồi… Người câu cá hỏi có muốn về thăm Tấn không, m ọi ng ười đ ều l ắc đ ầu,
bởi không muốn dời một xã hội tốt đẹp đến một xã h ội x ấu xa nh ư v ậy. Nghe v ậy ng ười
câu cá giật mình bừng tỉnh. Thì ra ông ta v ẫn ng ồi trên thuy ền câu, gi ữa dòng sông
nước chảy, vừa qua một giấc mộng.

Đọc truyện trên, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ cảm nghĩ trong bài th ơ “ Độc
Đào Nguyên ký hữu cảnh", tức “Cảm xúc khi đọc Đào Nguyên ký". Bài thơ như sau:

Nguồn Đào suối hết lại non khơi,

Cửa tới cung tiên đã mở rồi,

Chốn ấy, bận nhìn không tính


toán,

Năm trăm xuân hạ bặt tăm hơi.

Trầm ngâm say lả bên đèn tỏ,

Bảng lảng quay về bóng hạc côi.

Đáng giận, Đường - Ngu người


chẳng thấy,

Lại qua chỉ thấy Tấn - Tần thôi.


(Nguyễn Văn Huyền dịch)

Đường - Ngu thuộc đời vua Nghiêu, vua Thuấn, t ương truy ền c ũng th ịnh tr ị,
thái bình, hòa mục như ở chốn Đào Nguyên, là m ột qu ốc gia, xã h ội không có th ật. Qua
đó, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ thái độ bất bình khi nhắc tới các đời nhà Tần, nhà Tấn:

“Khả hận Đường - Ngu nhân bất


kiến

Vãng lai chỉ thị Tấn - Tần gian"

(Đáng giận, Đường - Ngu người


chẳng thấy

Lại qua chỉ thấy Tấn - Tần thôi)

Như vậy, người câu cá trong “Đào Nguyên ký" th ật gi ống ng ười câu cá
trong “Thu điếu". Nguyễn Khuyến đã mượn việc câu cá mùa thu đ ể ng ồi hoài c ảm câu
chuyện đẹp nhưng ảo của quá khứ. Chỉ khi có tiếng cá đ ớp bóng (“Cá đâu đ ớp đ ộng
dưới chân bèo"), ông mới sực tỉnh, về với thực tại, v ới n ỗi s ầu đau th ời th ế bu ổi Nho
tàn, nước nhà bị ngoại bang phương Tây xâm lược. Ông nh ư bóng h ạc g ầy cô đ ơn c ủa
người câu cá kia, bảng lảng quay về hiện thực của một xã hội loạn lạc, tang thương.

Ở bài “Thu vịnh", xưa nay chưa có ai giải thích tho ả đáng nh ững câu: “M ột
tiếng trên không ngỗng nước nào", “Nghĩ ra lại th ẹn v ới ông Đào". Theo chúng tôi, có
thể dựa vào điển tích nhân vật ông Đào Tiềm và điển tích v ăn h ọc “ Đào Nguyên ký" đ ể
giải thích: Ông Đào Tiềm về ở ẩn, vẻ ngoài muốn quên đi th ế s ự, nh ưng trong lòng v ẫn
cảm hoài một xã hội tốt đẹp nhưng ảo tưởng trong quá kh ứ, v ẫn u ống r ượu th ưởng hoa
và làm thơ, chả lẽ mình (Nguyễn Khuyến tự vấn) trước không gian mùa thu tuy ệt đ ẹp l ại
bỏ qua những nhắc nhớ về cái đẹp, muốn quên đi, cất bút không làm th ơ, nh ưng ngh ĩ
tới ông Đào mà thẹn! Theo mạch liên kết các hình t ượng: Ông Đào, truy ện “ Đào
Nguyên ký", câu thơ “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái", có th ể suy ra ngh ĩa c ủa
câu “Một tiếng trên không ngỗng nước nào" - là âm thanh t ừ quá kh ứ v ọng v ề trong
tâm tưởng Nguyễn Khuyến, giữa không gian mùa thu ng ập tràn, ông c ứ ng ỡ nh ư là ở
trên không trung vang vọng.

You might also like