Ngư I Lái Đò Sông Đà

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

I.Mở Bài:
Ng Tuân, một nhà văn, một ngnghệ sĩ lớn mang tâm hồn yêu cái đẹp, yêu thiên nhiên, Đất Nước và con
người. Với ngòi bút tài ba, ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương vô cùng đồ sộ. Trong đó phải kể
đến tùy bút “NLDSD”. Tác phẩm được đúc kết sau chuyến đi thực tế ở Tây Bắc in trong tập “Sông Đà”. Khắc
họa thành công sự hùng vĩ của TN qua hình tượng con sông đà hung bạo mà cũng rất trữ tình, thơ mộng và hình
tượng con người chế ngự TN qua bức chân dung người lao động giản dị nhưng rất vĩ đại. Trong đó nổi bật nhất
là đoạn trích….
II.Thân Bài:
1.Con sông Đà hung bạo, dữ dội (Đoạn 1 – từ đầu đến … cái gậy đánh phèn.”)
a.Sông Đà hung bạo, dữ dội ở vách đá thành bờ sông
“Hùng vĩ của sông Đà không....tắt phụt đèn điện.”
Bằng ngòi bút liên tưởng đầy độc đáo, nhà văn NgTuân đã khắc họa cái hẹp – sâu – thẳng đứng của
vách đá thành bờ sông qua rất nhiều hình ảnh khơi gợi hình dung nơi bạn đọc “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng
ngọ mới có mặt trời”. Cho thấy chỉ khi mặt trời lên thiên đỉnh mới chiếu thẳng xuống được mặt sông khúc ấy
còn bình thường, thiếu vắng đi sự ấm áp của vầng thái dương, mặt nước hẳn sẽ lạnh lẽo, u tối vô cùng. Nhà văn
sử dụng phép so sánh “…như một cái yết hầu” nhấn mạnh sự nhỏ hẹp của vách đá, kết hợp với động từ “chẹt”
tạo cảm giác bức bối, nghẹt thở cho chính độc giả khi bị đặt trong một không gian quá chật chội, như thể chính
chúng ta bị dồn vào đường cùng bởi sức ép từ vách đá. Chỉ mới qua những nét phác họa đầu tiên, người cầm
bút đã khẳng định hành trình lênh đênh sông nước của người lái đò tuyệt đối không phải một chặng đường dễ
dàng. Ngược lại, nó chứa đầy thử thách, khó khăn, nguy hiểm. Liên tưởng vách đá ấy với một bộ phận trên cơ
thể nam giới, phải chăng cũng là một cách nhìn nhận đầy thú vị của “cây bút duy mỹ” khi khắc họa về sông Đà
hung bạo rằng dòng sông ấy, với vẻ dữ dội này, mang đầy tính nam mạnh mẽ?
Hai bờ gần nhau đến nỗi đứng bên này bờ chỉ cần “nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”. Dường như,
cây bút muốn kéo độc giả vào cùng trực tiếp trải nghiệm với mình thông qua những liên tưởng rất đời thường,
gần gũi. Ta hình dung được rằng, không cần dùng đến lực, chỉ cần nhẹ tay ném thôi, hòn đá cũng sẽ chạm bờ
bên kia. Rõ ràng, khoảng cách giữa hai bờ là rất gần. Nhà văn tiếp tục bổ sung thêm hình ảnh “ con nai con hổ
đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia” để nhấn mạnh miêu tả chi tiết, tỉ mỉ của mình. Những người ngồi trong
khoang đò đi qua quãng ấy đã chứng kiến,trải nghiệm sự lạnh lẽo của thiên nhiên Tây Bắc:“ đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh”. Nhà văn xây dựng một phép tương phản thú vị, không trực diện nhưng khơi gợi trong hình
dung của độc giả. Vốn dĩ, mùa hè gắn liền với cái oi bức, nóng nực thế mà tác giả lại khắc họa mùa hạ ấy bởi từ
“lạnh”. Có lẽ, cái lạnh này không chỉ đến từ thời tiết, không phải do nhiệt độ đột ngột giảm bởi thiếu ánh sáng
mặt trời mà còn là cái lạnh từ sâu bên trong tâm hồn, khi ta có cảm giác sợ hãi phải đối diện với thiên nhiên
hoang vu, bí ẩn.
Người ngồi trên khoang đò còn “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện” Nguyễn Tuân đặt bạn đọc vào cùng tâm
thế trải nghiệm với những người đi qua quãng sông ấy, nhưng với một không gian gần gũi hơn: đó là một cái
ngõ, khi ngẩng lên sẽ thấy những khung cửa sổ của các mái nhà, và chỉ duy nhất một nhà còn sáng đèn. Cũng
như những người trên khoang thuyền, ta đang ngóng vọng lên thứ ánh sáng độc nhất chiếu tỏa cho cả một vùng
không gian tối đen. “Đèn điện” ở đây chính là mặt trời lúc đúng ngọ đang ghé qua nơi này. Thế nhưng, khoảnh
khắc ấy qua đi quá nhanh, đèn điện tắt phụt đột ngột, mặt trời bỏ đi mất, chỉ còn lại sự hoang vu, lạnh lẽo đầy kì
bí của dòng sông Tây Bắc… Cảm giác chênh vênh và hụt hẫng ấy đã được khắc họa thật độc đáo thông qua một
liên tưởng vừa gần gũi, lại vừa sinh động.
b. Ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng
“Lại như quãng mặt .....ngửa bụng thuyền ra.”
Đến quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dường như sự hung bạo của con sông lại tăng thêm một bậc, không
chỉ dừng lại ở việc gieo rắc cảm giác lạnh lẽo, rùng mình cho những người đi qua khúc đó mà còn có thể gây
nên những nguy hiểm trực tiếp tới ai dám cả gan “bén mảng” đến địa phận của sông Đà. Quãng sông này dài tới
hàng cây số. Tác giả không dùng các từ như “mấy cây số”, “vài cây số” mang tính chất ước lượng bởi chúng
không nhấn mạnh được độ dài miên man của quãng sông. Nhà văn cũng không đưa ra một con số cụ thể về đo
lường độ dài địa lý ở đoạn này. Ông dùng từ “hàng” để không chỉ khắc họa quãng sông có độ dài miên man
đáng sợ, mà còn lồng ghép trong đó biểu cảm thái độ của chính người viết. Cũng chính cụm từ “ dài hàng cây
số” dường như đã bắt đầu thắp lên một nỗi lo âu trong lòng người đọc khi hình dung về khu vực, không gian ấy.
Các sự vật thiên nhiên như đang giao tranh trực tiếp trong một cụm từ vừa sử dụng thủ pháp liệt kê, lại
vừa có phép điệp vô cùng ấn tượng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió.” Dường như, đến những con chữ của
Nguyễn Tuân cũng xô đẩy nhau, vẽ nên trước mắt bạn đọc sự gập ghềnh, không bằng phẳng của quãng sông.
Đồng thời đẩy nhịp văn lên cao, khiến ngôn từ cũng như dồn dập, gấp gáp. Qua đó, thái độ hung hãn của nước,
của đá, của sóng, của gió đều đã được thể hiện một cách súc tích mà quá đỗi ấn tượng.
Hệ thống từ láy để khắc họa dòng chảy mạnh mẽ cuộn trào của con sông: cuồn cuộn, gùn ghè. Từ “ cuồn cuộn”
thiên về tượng hình, gợi hình ảnh những đợt sóng – gió – nước – đá cứ liên tiếp nối nhau, gối vào nhau liên tục
không ngừng khẳng định sự mạnh mẽ, dữ dội của thiên nhiên. Từ “gùn ghè” lại như đem đến một thanh âm đầy
giận dữ, như tiếng gầm gừ để đe dọa đối thủ của những loài thú dữ. Dường như, đây không chỉ là trạng thái tự
nhiên của dòng chảy mà còn là tâm lý đầy hung hãn của con sông Tây Bắc không muốn đi theo sự sắp đặt của
tạo hóa ấy. Nó muốn tấn công, đe doa, “gây sự” với con người.
Bằng cách so sánh “như lúc nào cũng đòi nợ xuýt” cho thấy nhà văn không sử dụng các kiến thức địa lý,
tự nhiên để lý giải cho các hiện tượng trên dòng sông mà nhìn tất cả những chuyển động dồn dập ấy với một
lăng kính chủ quan, rằng dòng sông hình như có tư thù với con người thì phải. Phép so sánh ấy càng khắc họa
rõ nét hơn sự hung hăng, hiếu chiến, thậm chí ngang ngược của con sông Tây Bắc. Bởi nó không chỉ đòi những
người nợ mình, mà sẵn sàng “gây sự” với những người không nợ nần, ân oán. Nó cũng không chọn lọc một
người lái đò cụ thể mà sẵn sàng tấn công “bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy”. Động từ “tóm”
càng nhấn mạnh thêm những động tác tấn công dứt khoát, mạnh mẽ, quyết liệt của Đà giang.
Tài năng của Nguyễn Tuân chính là ở đó. Nhìn về một con sông, nhưng con sông ấy đâu chỉ là dòng lưu
chuyển của mạch nước từ thượng nguồn về hạ lưu? Sông Đà và cả những thứ nằm trong lòng sông ấy, hiện lên
như một linh hồn, một thực thể biết sống, một kiểu “hùm thiêng” đầy mãnh lực. Người cầm bút cũng đồng thời
khẳng định rằng khi đi qua quãng sông này, không ai được phép khinh suất, bởi nếu thiếu thận trọng, cái giá
phải trả có thể sẽ rất đắt.
c. Ở quãng Tà Mường Vát
“Lại như quãng Tà Mường Vát...xác ở khuỷnh sông dưới.”
Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt hình ảnh so sánh độc đáo để làm bật lên sự nguy hiểm giăng mắc
khắp dòng sông từ những cái hút nước. “Giống như cái giếng bê tông” cho thấy cái hút nước như một cái giếng
sâu không thể thấy điểm tận cùng, càng khiến ta dễ cảm thấy lo lắng, sợ hãi trước những hiểm nguy không báo
trước. Nó giống như miệng một con thủy quái khổng lồ đang chờ đợi để “nuốt chửng” tất cả những thuyền nào
dám đi qua khúc này.
Thanh âm của “nước giếng” cũng không hề dễ chịu: “thở và kêu như cái cửa cống cái bị sặc”. Diễn tả
tiếng rất to, khó chịu, tạo cảm giác rợn người khi đi qua khúc ấy. Nó giống như một lời cảnh cáo cho những kẻ
ngoan cường và ngoan cố dám chinh phục quãng này. Phép nhân hóa dường như không có mục đích khiến sự
vật trở nên gần gũi, thân thuộc, sinh động như trong các ý văn miêu tả thường thấy mà ngược lại, khiến các hút
nước càng trở nên đáng sợ khi có thể có tâm địa riêng như một con người. Qua đó, khẳng định ngòi bút miêu tả
xuất chúng của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân.
Thái độ của những chiếc thuyền đi qua quãng Tà Mường Vát:
Đối diện với thái độ tiếp đón chẳng chút niềm nở ấy của những cái hút nước, những chiếc thuyền dường
như cũng không dám nghênh ngang, vênh váo khi qua đây… Nhà văn khẳng định “Không thuyền nào dám men
gần những cái hút nước”. Một ý văn rất ngắn gọn, súc tích, rõ ràng, cho ta thấy được những cái hút nước có sức
tấn công khủng khiếp đến ra sao. Tác giả so sánh kết hợp liên hệ kiến thức thú vị về lái xe ô tô: chiếc thuyền
được đối chiếu, ví von với ô tô đang sang số ấn ga cho nhanh để “lướt” qua quãng sông được xem như một bờ
vực đầy nguy hiểm, thử thách. Tạo sự gần gũi, đời thường với người đọc hiện đại và thật thú vị, mới mẻ với bạn
đọc của thời kì đó. Nhà văn vận dụng một cách linh hoạt kiến thức ở nhiều lĩnh vực để mở rộng trải nghiệm của
độc giả đến mức tối đa.
Đi qua khúc sông ấy, vượt qua những hút nước tàn độc đó, đòi hỏi người lái đò phải chèo thật nhanh,
phải vững tay lái và vững lòng để bình tĩnh chiến thắng những thử thách, chinh phục cả cơn thịnh nộ của những
“giếng nước bê tông” đang sôi lên ặc ặc đầy hung hãn. Rõ ràng, đây không chỉ dừng lại là một chuyến đi vãn
cảnh vùng sông nước mà thực sự là một hành trình hệ trọng, liên quan tới sinh mệnh của con người.
Để khắc họa sự khủng khiếp của những cái hút nước, nhà văn còn tạo nên nhiều điểm nhìn độc đáo, vận
dụng kiến thức đa lĩnh vực để khơi dậy những xúc cảm bên trong bạn đọc:
“Tôi sợ hãi mà....lên cái gậy đánh phèn.”
Nhà văn đan xen bày tỏ cảm xúc của chính mình để khắc họa trải nghiệm một cách chân thực, ấn tượng
hơn nữa: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến…”. Nguyễn Tuân đã vận dụng kiến thức quay phim điện ảnh để mở rộng trải
nghiệm của bạn đọc, đặt bạn đọc vào những điểm nhìn cực kì độc đáo để quan sát những cái hút nước. Ở đoạn
trên, ta nhìn cái hút nước từ trên thuyền, thấy nó như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cửa cống cái bị
sặc. Còn giờ đây, ngược lại, nhìn từ dưới lòng sông lên: “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một
áng thuỷ tinh khối đúc dày”. Cho thấy lượng nước “cuốn” vào bên trong xoáy nước lúc này như bị dồn nén lại
thành một khối dày, không biết lúc nào cốc pha lê khổng lồ ấy sẽ vỡ tan và ụp toàn bộ nước vào người trên
thuyền. Cái sắc xanh ấy tuyệt nhiên không đem đến cảm giác bình yên, lãng mạn như trong nhiều tác phẩm
khác mà khiến ta như bị đè nén, ngộp thở, đầy sợ hãi. Đối với những độc giả ưa cảm giác mạnh, hẳn đây cũng
sẽ là một trải nghiệm thích thú.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã thật linh hoạt với “chiếc máy quay” riêng của mình, tạo nên nhiều “góc máy”
ấn tượng, táo bạo, đưa người đọc vào một trải nghiệm độc đáo không thể nào quên. Thông qua một anh bạn
quay phim táo tợn, cây bút đã đưa bạn đọc bước chân lên chiếc thuyền thúng tròn vành, cùng anh quay phim,
cùng máy quay xuống đáy cái hút sông Đà mà chiêm ngưỡng trọn vẹn sự khủng khiếp của nó. Dường như, sự
tưởng tượng thú vị này của tác giả về anh bạn quay phim kia cũng chính là cách Nguyễn Tuân gợi nhắc về hình
ảnh của mình trong sáng tạo nghệ thuật.
Nhà văn còn đưa ra những góc độ, những vị thế cảm nhận khác nhau để nâng cao trải nghiệm của bạn
đọc. Với người quay phim: dũng cảm “dìm” mình xuống cùng máy quay để có được những thước phim độc
nhất, để đời. Đó là cái liều lĩnh của một người yêu cái đẹp, khao khát khám phá để sáng tạo về cái đẹp. Nghệ
thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, không thể nào chỉ dùng những góc máy quen thuộc mà “thu ảnh” một cách
vội vàng. Với người xem phim: ta không chỉ “đọc” văn Nguyễn Tuân, mà còn biến thành những người xem
phim, được thưởng thức các thước phim điện ảnh quay chỉn chu, sáng tạo, độc đáo, chân thực hơn bao giờ hết.
Chính trí tưởng tượng của mỗi độc giả cũng góp phần kiến tạo nên tác phẩm điện ảnh đó.
Trải nghiệm ấy khiến người xem lo lắng đến mức phải “lấy gân ngồi giữ chặt ghế” như một phản xạ tự
nhiên khi chuẩn bị đối diện với điều gì đó khiến mình sợ hãi, choáng ngợp, lo lắng. Thế nhưng, những nỗ lực
ấy hóa ra trong hoàn cảnh đó, trong trải nghiệm tưởng tượng độc đáo đó, chỉ như “ghì lấy mép một chiếc lá
rừng” mỏng manh, dễ bị nhàu nát, càng khiến ta không còn điểm tựa nào, như rơi vào chênh vênh, chuẩn bị đón
nhận cốc nước pha lê khổng lồ vỡ tan. Cốc nước ấy, khi vừa rút lên cái gậy đánh phèn, hẳn lượng nước và sức
nước sẽ càng thêm mạnh mẽ, khiến độc giả như ngộp thở, bí bách trên chiếc thuyền thúng chỉ có mình và “ anh
bạn quay phim táo tợn” kia.
2.Con sông Đà thơ mộng, trữ tình:
“Tôi có bay tạt .....bản đồ lai chữ”
Bằng sự quan sát tài tình và khả năng vận dụng ngôn ngữ độc đáo, nhà văn Nguyễn Tuân đã ngắm nhìn
dòng sông ở nhiều góc độ khác nhau, tạo nên những lăng kính đa chiều thú vị, giúp người đọc có một điểm nhìn
toàn diện về Sông Đà. Từ trên cao nhìn xuống Sông Đà mang một diện mạo hoàn toàn khác với chân dung của
con thủy quái hung tợn: “Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc
độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình.” Khắc họa dòng sông Tây Bắc, nhà văn
Nguyễn Tuân không chỉ miêu tả con sông dựa trên những đặc điểm thực tế, mà đã chọn cách nhân hóa dòng
chảy ấy xuyên suốt toàn bộ tùy bút của mình, trao cho Đà giang một linh hồn, một tính cách, một câu chuyện
riêng tự dòng sông nỗ lực viết nên.
Nhà văn đã mở rộng trải nghiệm cho bạn đọc khi khắc họa một góc nhìn mà không phải ai cũng có cơ
hội được trông thấy: nhìn sông Đà từ trên cao nhìn xuống. “Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai
trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và
đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò
Sông Đà.” Ở góc độ này, dường như cả Nguyễn Tuân và tất cả những người trên tàu bay đều bất ngờ trước diện
mạo của dòng sông Tây Bắc, bởi nó hoàn toàn khác biệt với chân dung con thủy quái dữ dội, hung bạo, sẵn
sàng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào dám bén mảng tới địa phận của mình. Cây bút gọi dòng sông là “cái
dây thừng ngoằn ngoèo” hình ảnh thật bình dị, gần gũi, hiền hòa biết bao.
NTuân nhấn mạnh hai nét tính cách tưởng chừng trái ngược nhưng lại hòa quyện trong cùng một cá thể
mang tên Sông Đà. Con sông ấy vừa có thể “làm mình làm mẩy” với con người Tây Bắc, “giận dỗi vô tội vạ với
người lái đò” nhưng đồng thời, cũng thật dịu dàng, e thẹn, uyển chuyển uốn mình trở thành một mảnh ghép đầy
nên thơ của núi rừng Tây Bắc. Chính việc đồng thời sở hữu cả vẻ hung bạo và cả nét trữ tình đã tạo nên một cá
tính riêng cho dòng sông, càng thêm cuốn hút cây bút ưa xê dịch, thích những điều độc đáo của chúng ta. Đâu
chỉ xuất hiện trong cuộc sống đời thường, dòng sông ấy còn xuất hiện trong truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh,
tượng trưng cho cơn giận dữ của Thủy Tinh năm nào cũng “báo oán”, “đánh ghen”, tấn công con người. Thế
nhưng, hóa ra, bên cạnh sự hung bạo ấy, dòng sông Tây Bắc cũng có thể khoác lên mình một màu sắc thật dịu
ngọt, êm đềm, nhẹ nhàng biết mấy.
Bên cạnh ngòi bút miêu tả tỉ mỉ, có tính tạo hình cao, khơi gợi trí tưởng tượng của độc giả; nhà văn còn
đan xen trong tùy bút của mình những câu văn bộc lộ cảm xúc với dòng sông mà ông đem lòng tương tư. Ông
tin rằng: “Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi trên tàu bay trên chiều cao mà
nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ
bóng mây dưới chân mình.” Câu văn được viết thật mềm mại, như chính tình yêu chân thành, dịu dàng mà
Nguyễn Tuân dành cho Tây Bắc nói riêng và non sông xứ sở nói chung. Tình yêu đã khiến ông thêm nỗ lực
khám phá từng ngóc ngách, từng khía cạnh của dòng sông Tây Bắc để qua đó đem tới cho bạn đọc một bức họa
thật sống động, hoàn chỉnh về Đà giang.
Lúc này đây, dòng sông Tây Bắc hiện lên với vẻ dịu dàng, duyên dáng của một người thiếu nữ… “Con
Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.” Nhà văn sử dụng phép điệp với hai
từ “tuôn dài” được lặp lại liên tiếp như nhấn mạnh sự miên man đến vô tận của dòng chảy giữa núi rừng Tây
Bắc. Kết hợp với so sánh tinh tế và không kém phần độc đáo: “như một áng tóc trữ tình”, người cầm bút dường
như không giấu được sự xuýt xoa, rung động nơi trái tim mình khi được chiêm ngưỡng vẻ diễm lệ, kiêu sa của
con sông ấy.
Nhà văn dùng từ “ẩn hiện” như để khắc họa vẻ đẹp trữ tình mà bí ẩn của dòng sông, vừa thực lại vừa hư
ảo… Nó như giấu mình trong núi rừng Tây Bắc, nhưng đồng thời cũng khe khẽ, e thẹn khoe vẻ đẹp của mình
để làm duyên, tô sắc cho xứ sở mà nó thuộc về. Dòng sông uốn mình dịu dàng trở thành một nét đẹp duyên
dáng rất riêng biệt, khó phai mờ của thiên nhiên vùng rẻo cao – đồng thời cũng là một người bạn đồng hành
trong cuộc sống sinh hoạt thường nhật của người dân nơi này. “Áng tóc trữ tình” ấy như được cài thêm sắc
trắng tinh khôi thuần khiết của hoa ban, lại được điểm xuyết màu đỏ rực rỡ của hoa gạo, quyện hòa trong hương
thơm đậm chất núi rừng: “cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Dường như, SĐ mang trong mình hơi
thở của mùa xuân nơi rừng núi, là một biểu tượng không thể thiếu của bức tranh Tây Bắc mỗi độ xuân về.
Để khắc họa về trải nghiệm và sự quan sát của mình với dòng sông, nhà văn đã kết hợp giữa kể và tả,
lồng ghép cảm xúc của bản thân để khắc họa dòng nước mùa xuân và mùa thu: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây
mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.” Cái nhìn
mà Nguyễn Tuân trao cho Đà giang là ánh mắt say sưa của một “kẻ si tình”, là sự lãng mạn hóa mọi góc nhìn
của mình về dòng chảy mà cây bút đem lòng yêu. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không
xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô.” Màu xanh ngọc bích là sự hòa quyện giữa màu lục và lam,
là sự soi chiếu giữa mặt nước bao la và bầu trời rộng lớn, lại là sắc màu gắn liền với một loại ngọc quý. Đem tới
cảm giác sang trọng, quý phái của dòng sông Tây Bắc.
Tác giả so sánh mặt nước sông với biểu cảm trên khuôn mặt con người, với trạng thái tâm lý của con
người đầy sinh động. Hình ảnh đối chiếu, liên tưởng rất gần gũi, dí dỏm như một cách nhà văn ngầm chia sẻ với
độc giả về sự gắn bó của sông Đà với đời sống người dân nơi ấy. “Khuôn mặt” của dòng sông như cũng mang
cả những đường nét, những biểu cảm của chính con người. Không sử dụng kiến thức địa lý tự nhiên để lý giải
màu sắc dòng nước, cũng không chỉ dừng lại là khắc họa màu đỏ thông thường, mà nhà văn Nguyễn Tuân thực
sự nhìn sông Đà như một sinh thể sống, có cá tính, có câu chuyện, có những xúc cảm riêng… Vì thế, ông lấy
những trải nghiệm và trạng thái tâm lý của con người để lý giải sắc đỏ của dòng nước. Mặt nước ấy như khuôn
mặt của con người, với những biến đổi tâm trạng khác nhau, có khi đỏ bầm lên vì uống rượu, có lúc lại khoác
lên mình diện mạo của một ai đó đang bất mãn điều gì…
Nguyễn Tuân bày tỏ quan điểm đầy mạnh mẽ, dứt khoát: “Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là
đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên láo lếu, rồi cứ thế
mà phiết vào bản đồ lai chữ.” Chính bởi đem lòng yêu dòng sông ấy, si mê sắc nước Đà giang dù là khi xanh
ngọc bích hay lúc lừ lừ chín đỏ, Nguyễn Tuân càng không thể chấp nhận việc quân thù tưới tắm cho “dòng
sông ta” một sắc màu u ám, đặt “một cái tên láo lếu” cho Đà giang, làm mất đi giá trị nguyên bản đích thực của
con sông quê mình. Ông không ngại bày tỏ thẳng thắn sự phê phán của mình với cách mà thực dân Pháp “đè
ngửa” dòng sông để “phiết vào bản đồ lai chữ”. Những dòng văn này không chỉ được viết nên bởi một người
yêu sông Đà, mà chắc chắn còn là kết quả của một trái tim mang đậm tinh thần dân tộc sâu sắc.
Sông Đà gợi cảm như một cố nhân:
“Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người...há Dương Châu”.
Đối với Nguyễn Tuân, cái “gợi” của dòng sông là vẻ đẹp hoài niệm, man mác mà sâu sắc của một “cố
nhân”. Từ “cố nhân” vốn được dùng để cất tiếng gọi thân thương về một người quen cũ đã từng có vị trí quan
trọng trong lòng ta, thậm chí từng là tri âm – tri kỉ đã từng sẻ chia biết bao nỗi niềm. Bên cạnh đó, hai chữ này
cũng khơi gợi cảm giác thiết tha, da diết của một nỗi nhớ đậm sâu nơi tâm hồn người cầm bút. Sông Đà với văn
nhân họ Nguyễn đặc biệt đến như vậy, như một người bạn thân thương, như một mảnh ghép quan trọng, như
một chốn bình yên cất giữ bao kỉ niệm, một góc nhỏ để người nghệ sĩ nhung nhớ mãi không nguôi.
Bên cạnh các yếu tố như miêu tả, biểu cảm; nhà văn Nguyễn Tuân còn lồng ghép cả tính chất tự sự vào
trang viết của mình một cách đầy tự nhiên để giãi bày trải nghiệm với bạn đọc, đưa bạn đọc bước chân vào kỉ
niệm riêng tư của ông với Đà giang. Đó là một cuộc tái ngộ thật bình dị mà đáng nhớ.
Lúc đó, nhà văn quên đi mất là mình sắp gặp lại Sông Đà, vì thế cảm xúc càng thêm ngỡ ngàng, thậm chí vỡ òa
trên trang giấy. “Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc,
quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà.” Nếu như nhà văn nhận ra mình sắp gặp lại dòng sông ấy, có lẽ tâm
trạng đã bình tĩnh hơn để bớt đi phần nào những bỡ ngỡ, ngạc nhiên trong giây phút mà cả hai bên đều ngóng
đợi. Chính vì ông “quên đi mất”, thành ra xúc cảm lại càng chan chứa nhiều hơn. Đó giống như là tâm trạng
của ta khi bất ngờ gặp được một người thương cũ, một cố nhân mà mình vẫn luôn ngóng đợi. Bởi vậy, mà ánh
nắng hắt lên từ dòng sông ấy thôi cũng thật đặc biệt, tinh tế biết bao…
Niềm vui khi gặp lại “cố nhân”:
“Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà,...và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.”
Ở câu văn đầu, nhà văn sử dụng phép liệt kê với hình thức câu đặc biệt, qua đó trải dài trước mắt bạn
đọc những sự vật thiên nhiên phong phú, đa dạng, tràn đầy sức sống quanh dòng sông ấy: đó là bờ, là bãi, là
chuồn chuồn bươm bướm trên sông. Những hình ảnh vô cùng gần gũi, bình dị, đời thường nhưng khắc họa qua
lăng kính của một người tương tư bỗng trở nên đầy rung động, xao xuyến… Nhịp điệu câu văn chậm rãi, điềm
đạm như thể người viết cũng đang từ tốn chiêm ngưỡng từng cảnh vật một, để thu vào trọn vẹn trong đôi mắt
hình bóng của “người thương”.
Để rồi sau đó, dòng chảy cảm xúc miên man tuôn trào nơi đầu ngọn bút, bộc lộ niềm vui vỡ òa của cả
người cầm bút và có lẽ của cả dòng sông ấy trong giây phút tái ngộ tri kỉ của mình: Chao ôi, trông con sông,
vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Thán từ “Chao ôi” bộc lộ
cảm xúc trực tiếp khẳng định nỗi lòng của văn nhân quá da diết, mãnh liệt, chẳng thể kìm nén… Cùng với đó là
2 phép so sánh khắc họa một cách tinh tế nhưng không kém phần độc đáo, duyên dáng cảm xúc của người nghệ
sĩ khi gặp lại con sông của mình. Phải chăng, với Nguyễn Tuân, những ngày xa sông Đà cũng như là những
ngày mưa dai dẳng không thôi? Được gặp lại dòng chảy ấy, với văn nhân, như ánh nắng đã sưởi ấm tâm hồn, đã
hong khô cả những mệt nhoài trước đó…
Nhà văn khắc họa cảm xúc vỡ òa khi gặp lại “cố nhân” bằng hai từ láy toàn phần liên tiếp “đằm đằm ấm
ấm” như nhấn mạnh tình cảm dạt dào, tha thiết mình dành trọn cho Đà giang. Ông nâng niu, trân quý toàn bộ
những điều thuộc về cố nhân, dẫu biết người cố nhân ấy không hoàn hảo, lắm bệnh lắm chứng, nhưng ông vẫn
thương yêu hết mực. Đó quả là một tình yêu đủ đầy, trọn vẹn, một tình yêu bao hàm cả sự bao dung, chấp nhận
và nỗ lực thấu hiểu đối phương.
Khi đi dạo hai bên bờ, nhà văn ngắm nhìn dòng sông:
“Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven...một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.”
Đoạn văn mở đầu bằng một câu văn toàn thanh bằng: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà.” gợi cảm giác nhẹ
nhàng, bình yên, êm ả… Tác giả sử dụng động từ “trôi” như khắc họa hình ảnh con thuyền thả lỏng mình,
buông mình theo làn nước, để nước sông Đà dịu dàng đưa mình tới đâu thì tới… Nếu như ở những quãng trên,
sông Đà đem tới biết bao thanh âm ghê sợ để đe dọa, thậm chí uy hiếp con người; thì tới đây, không gian xung
quanh dòng sông như rơi vào sự tĩnh mịch đến tuyệt đối, mọi điều đều chìm trong lặng yên, hiền hòa. “ Cảnh
ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.” Từ
“lặng tờ” như khắc họa đậm nét sự im ắng của khung cảnh, đồng thời gợi cảm giác trang nghiêm như đang
bước vào miếu, vào đền. Đó không chỉ là sự tĩnh lặng của cảnh vật, mà còn là sự tĩnh tại êm ái bên trong tâm
hồn. Cái “lặng tờ” ấy còn được Nguyễn Tuân nhấn mạnh tới hai lần, trong nỗ lực ngược dòng thời gian để khắc
họa sự tồn tại giàu ý nghĩa của Đà giang qua năm tháng. Từ đời Lí đời Trần đời Lê, dòng sông này đã luôn hiện
hữu hiền hòa đến như vậy. Đó là dòng sông nhuốm màu thời gian, là dòng sông đã đi cùng năm tháng, như một
chứng nhân lịch sử cho bao thăng trầm của quê hương, đất nước. Nhà văn NT như quay trở về với quá khứ của
dân tộc, không chỉ bày tỏ sự say mê dành cho Đà giang mà còn là niềm tự hào, biết ơn vô tận với những điều đã
qua, với những thế hệ đi trước, với những dấu mốc vàng son nơi trang sử hào hùng.
Nhà văn tiếp tục đưa nét cọ của mình để phác họa cảnh vật đôi bờ, tạo nên một bức tranh thơ mộng mà
căng tràn nhựa sống. Dường như, mọi sự vật thiên nhiên qua con mắt của NT đều đang tràn đầy sức sống: cỏ
gianh đang ra nõn búp đầu mùa, nương ngô nhú lên mấy lá ngô non, đàn hươu thì cúi đầu ngốn búp cỏ gianh
đẫm sương đêm… Tất cả đang ở trạng thái trẻ trung nhất, thanh tân nhất. Dẫu cho không gian có “lặng tờ”,
nhưng đó tuyệt đối không phải thanh âm của sự úa tàn, mà ngược lại, là điểm tựa cho sự sống âm thầm nảy
mầm, phát triển mạnh mẽ.
Tác giả sử dụng hai hình ảnh so sánh liên tiếp kết hợp phép điệp để khắc họa rõ nét vẻ đẹp trầm mặc, sử
thi, giàu cảm xúc của dòng sông. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử.” Dường như, sông Đà vẫn giữ được
những nét đẹp nguyên sơ, vẻ đẹp từ thưở hồng hoang khi vùng đất này mới được khai phá. Vẻ đẹp ấy tinh khôi,
trong trẻo vô ngần, như một “bờ tiền sử” lưu giữ lại bao dấu chân của thời gian. “Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.” Một sông Đà nhuốm màu thời gian nhưng không vì thế dòng sông trở nên “già nua”
hay “cũ kĩ”. Nhà văn khẳng định vẻ đẹp của bờ sông vẫn hồn nhiên, ngây thơ, trong trẻo, thuần khiết. Ông ví đó
với “một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cái nỗi niềm cổ tích ấy, gắn với thưở thơ bé dịu ngọt, gắn với giọng kể tha
thiết yêu thương của ông bà, bố mẹ. Phải chăng, sông Đà cũng thân thương và quen thuộc đến thế, như một
miền kí ức trong tâm tưởng của mỗi con người?
Khao khát hướng tới sự đổi mới trong tương lai của quê hương, đất nước khiến ở giữa không gian tĩnh
lặng ấy, Nguyễn Tuân bỗng “thèm được giật mình” vì một thanh âm náo động hơn như mộng mơ hướng
về sự huyên náo của thời đại. Từ giấc mơ về một bờ tiền sử hoang dại, nhà văn đưa người đọc đến giấc
mơ về một tương lai huy hoàng, rực rỡ:
“Chao ôi, thấy thèm được...vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”
Thán từ “Chao ôi” mở đầu câu văn như bộc lộ nỗi lòng dạt dào của người cầm bút, chẳng thể kìm nén
hay giấu diếm. Ở giữa cái tĩnh lặng của quá khứ, nhà văn vẫn hướng ngòi bút mình về sự phát triển của quê
hương trong tương lai, với dấu hiệu là tiếng còi của chuyến xe lửa đầu tiên. Phải chăng đó là những chuyến xe
lên Tây Bắc để xây dựng quê hương, để kiến thiết cuộc sống mới, để đưa đời sống con người lên một nấc thang
cao hơn nữa? Nhà văn thèm được giật mình giữa một không gian đang chìm trong tĩnh mịch, như khao khát về
một cái gõ cửa đầy háo hức, hăng say của tương lai rực rỡ đang tới…
Ở đoạn trên, nhà văn vẽ nên một bực họa tràn đầy sức sống với các sự vật thiên nhiên đang trong độ trẻ
trung nhất. Trong đó có hình ảnh đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Đến đây, cây bút đã tạo
nên một sự kết nối thật tự nhiên giữa một con hươu với “tôi” đang ngồi trên thuyền trôi trên dòng sông ấy.
“Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò.” Mọi
sự vật dường như đều chuyển động thật chậm rãi, nhẹ nhàng. Tác giả như phá vỡ những ranh giới giữa thiên
nhiên và con người, cho ta cảm giác loài vật hiền lành kia cũng đang đồng thuận và thấu hiểu khao khát thầm
kín của nhà văn. Vậy nên, bằng tiếng nói riêng của mình, nó mới có thể cất lên một câu hỏi trong tâm tưởng của
người cầm bút: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông vừa nghe thấy một tiếng còi sương?” Qua trí tưởng
tượng của Nguyễn Tuân, tiếng còi xúp – lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đã trở thành tiếng còi đẫm sương
đêm như búp gianh hai bên bờ dòng sông Tây Bắc. Câu hỏi ngỏ ấy của chú hươu đã hình thành một mối liên
kết, một mối giao cảm mạnh mẽ, tự nhiên giữa thiên nhiên và con người. Có lẽ, trong viễn cảnh tương lai rực rỡ
mà Nguyễn Tuân khao khát ấy, thiên nhiên cũng sẽ hiện diện và đóng góp tạo nên.
Để rồi sau đó, tiếng cá đập nước khiến đàn hươu bỏ chạy, và khiến ông khách Sông Đà cũng như sực tỉnh
mà quay về với thực tại – với dòng nước trôi êm ả, lặng tờ:
“Đàn cá dầm xanh...điển trên dòng trên.”
Nối tiếp những sự vật trong bức tranh thiên nhiên về dòng sông TB, nhà văn khắc họa hình ảnh đàn cá
dầm xanh cũng đang trong trạng thái vận động, với sắc trắng như bạc rơi thoi. Giữa khung cảnh mênh mông,
bao la, tĩnh lặng ấy, đang tuyệt nhiên không có một tiếng động nào, dù chỉ là một thanh âm nhỏ như tiếng cá
đập nước thôi cũng làm lao xao vạn vật…: “Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến.” Nhà văn đã
thật tinh tế dùng động để tả tĩnh, và cũng dùng tĩnh để khắc họa những vận động. Sự tĩnh lặng và những sự vận
động như đan xen vào nhau, khiến cho bức tranh thật nên thơ nhưng cũng thật sôi động và tràn đầy nhựa sống.
Nhà văn đã khắc họa sông Đà như một sinh thể độc lập, có cá tính, có xúc cảm, có linh hồn. Dòng sông
ấy, kể cả khi ở quãng hạ lưu, vẫn nhung nhớ những thác đá xa xôi trên thượng nguồn Tây Bắc. Phải chăng,
cách ví von này cũng là một lời khẳng định của Nguyễn Tuân về sự hòa quyện của hai nét tính cách trái ngược
trong người cố nhân lắm bệnh lắm chứng ấy? Vẻ hung bạo dữ dội ở thượng nguồn, vẻ thơ mộng trữ tình khi
xuôi dòng về quãng hạ lưu. Dòng sông cũng “như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”,
cũng đang nghiêng mình để đón nhận và chắt chiu những thanh âm thường nhật của cuộc sống, của con người.
Phải chăng, đó cũng là một nỗ lực kết nối của dòng chảy ấy đến với người dân Tây Bắc? Bởi lẽ, từ bao giờ,
sông Đà đã thực sự trở thành một phần của núi rừng, của cuộc sống con người nơi đây. Trên dòng chảy ấy đâu
chỉ có chiếc thuyền chứa đầy những đam mê khám phá của “tôi”, mà còn có “những con đò mình nở chạy buồm
vải”. Không gian dường như cũng tấp nập hơn, sôi động hơn với sự tham gia của con người, trở thành một
phần trong bức tranh xây dựng cuộc sống thời kì mới mà sông Đà góp một phần quan trọng.
3.Diện mạo dòng sông trong cuộc đấu tranh khốc liệt với người lái đò:
Một thứ kẻ thù số một:
“Cuộc sống của người lái...thủy chiến ở mặt trận Sông Đà.”
Nhà văn tái hiện một cách khái quát và thật cô đọng về cuộc sống lao động của ông đò Lai Châu qua
cụm từ: “một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên”. Dường như, Nguyễn Tuân đã ngầm tỏ ý ngợi ca,
khâm phục công việc của ông đò khi không nhận định đây chỉ là một công việc bình thường mà trầm trồ rằng
đây “quả là một cuộc chiến đấu”. Hai chữ “chiến đấu” đã bật mí với bạn đọc về những khó khăn, hiểm nguy,
thử thách trong một ngày thường nhật của ông đò. “Đối thủ” của ông lão không phải là một dòng sông êm ả,
hiền hòa, dễ dàng để chinh phục. Đó là sông Đà hung bạo, dữ dội, mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số
một. Cách dùng từ này cho thấy dòng sông quả là một đối thủ “đáng gờm”, đòi hỏi người lái đò phải thật sự
dũng cảm, mưu trí, bình tĩnh để vượt qua từng thử thách đối đầu với Đà giang. Dòng sông không chỉ có “diện
mạo” như mọi dòng sông khác của thiên nhiên, mà Nguyễn Tuân còn nhân hóa nó trở thành một sinh thể độc
lập, có linh hồn, có tính cách, thậm chí có “tâm địa” của riêng mình. Hai chữ “tâm địa” cũng như khẳng định
rằng con sông ấy có những âm mưu khó lường, khao khát tấn công và đe dọa con người.
Trận địa thác đá được dàn bày để uy hiếp con người, bắt đầu với những thanh âm vô cùng khó chịu của
tiếng nước thác:
“…Còn xa lắm mới đến cái ... đàn trâu da cháy bùng bùng.”
Cấu trúc “Còn xa lắm… Nhưng đã thấy tiếng nước…” cho độc giả cảm nhận được rõ nét về âm lượng
khủng khiếp của tiếng nước thác, kể cả khi con người chưa trực tiếp đối diện với thác dưới. Nhà văn sử dụng
động từ “réo” lặp lại hai lần kết hợp với hai chữ “mãi” khắc họa một tiếng kêu to, vang khắp núi rừng, đồng
thời bộc lộ thái độ không hề niềm nở đón chào của con sông Tây Bắc dành cho con người. Một điểm thú vị là
miêu tả về âm thanh nhưng tác giả lại dùng từ “thấy tiếng nước…” chứ không phải động từ “nghe”. Phải chăng,
ông muốn hữu hình hóa thanh âm nước thác, muốn đem lại cho tiếng động vang động núi rừng ấy một hình hài
cụ thể để độc giả cảm nhận rõ hơn sức nặng của nó? Đó cũng là sự tài tình của cây bút dùng hình ảnh để khơi
gợi âm thanh, dùng thị giác để kích thích thính giác của bạn đọc.
Nhà văn sử dụng một loạt so sánh để khắc họa các cung bậc khác nhau của tiếng nước, mỗi thanh âm
dường như đều đem theo thái độ, biểu cảm riêng biệt của dòng sông ấy: “Oán trách” giọng điệu đay nghiến
người mình có thù hận. “Van xin” giọng điệu nài nỉ, tha thiết, như đang cầu khẩn một điều gì đó. “Khiêu khích”
chất giọng gằn mà chế nhạo ấy dường như cũng mang đầy thách thức, có phần vênh váo, huênh hoang, tự mãn
về sức mạnh của bản thân.
NT đưa ra phép so sánh độc đáo, giàu sức liên tưởng: “như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”. Âm thanh của một ngàn con trâu mộng chắc hẳn đã vô cùng kinh hãi, thế
nhưng dường như vậy vẫn chưa đủ, cây bút còn “vặn” âm lượng to hết cỡ với hình ảnh đàn trâu lồng lộn chạy
thoát thân giữa ngọn lửa lớn đang thiêu cháy cả khu rừng. Tiếng rống, tiếng gầm thét của chúng còn mang theo
cả sự sợ hãi, hoang mang, lo lắng khi hiểm nguy đang cận kề, khi chúng cố chạy để thoát khỏi lưỡi hái của Tử
thần. Nhà văn tài tình dùng lửa để tả nước, mở rộng trí tưởng tượng của bạn đọc đến mức tối đa để độc giả thực
sự bước chân vào không gian nghệ thuật mà ông đang khắc họa. Quả thật, không có bất cứ một giới hạn nào
cho ngòi bút của văn nhân họ Nguyễn.
Diện mạo những hòn đá:
“Tới cái thác rồi....bày thạch trận trên sông.”
Nhà văn khắc họa “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá” để khẳng định một bức tranh hùng vĩ và
“đồ sộ” của đá trên dòng chảy Đà giang. Tác giả sử dụng thủ pháp nhân hóa một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt
để biến những hòn đá tưởng chừng vô tri vô giác ấy trở thành những “tay sai” đắc lực, những binh lính tinh
nhuệ của tướng Đà giang. Chúng sẽ viện trợ, tiếp tay kịp thời cho trận chiến giữa thiên nhiên và người lái đò.
“Ngàn năm vẫn mai phục”: những hòn đá dường như luôn trong tư thế chuẩn bị chiến đấu, sẵn sàng tấn công
những kẻ thù cả gan tiến đến lãnh địa của chúng. “Một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền” Tác giả sử
dụng những động từ mạnh để khắc họa sự hung hăng, hiếu chiến và cách chiến đấu có phần bản năng của
những hòn đá ấy.
Ông cũng miêu tả đây là một quãng ầm ầm mà quạnh hiu, “ầm ầm” là bởi thanh âm của tiếng nước thác
liên tục réo, rống suốt cả ngày; còn “quạnh hiu” là bởi chẳng mấy con người dám chinh phục quãng sông này.
Chi tiết này dường như càng khẳng định phải là người dũng cảm, bản lĩnh, không run sợ trước thử thách của
thiên nhiên, ông đò mới sẵn sàng bắt đầu cuộc hành trình mà chẳng mấy người dám thực hiện này. Khuôn mặt
những hòn đá cũng được khắc họa chi tiết và dí dỏm thông qua những từ láy “ ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo
mó”, qua đó khắc họa bản tính cứng đầu, ngông nghênh của đá. Chúng rõ ràng không hề có thái độ nghênh đón
hoan hỉ, niềm nở chào mừng con người mà ngược lại, như luôn sẵn sàng đánh đuổi người lái đò. Mới nhìn,
tưởng là những hòn đá chỉ được sắp xếp một cách ngẫu nhiên bởi bàn tay của tạo hóa, nhưng Nguyễn Tuân lại
tin rằng chính sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, tự mình bày thạch trận trên sông để “giăng bẫy” cho người lái
đò. Phải chăng, “tâm địa” của thứ kẻ thù số một ấy chính là tấn công, thậm chí tiêu diệt con người?
Thạch trận trên sông và âm mưu của “thủy quái” Đà giang:
“Đám tảng đám hòn ... dưới chân thác.”
Mục đích của đám tảng đám hòn: “đòi ăn chết cái thuyền”. Cách sử dụng từ ngữ có phần dân dã, như
bộc lộ tính cách hung hăng của những binh lính mà sông Đà giao phó trách nhiệm tấn công con người. Mục
đích của chúng cũng cho thấy đây rõ ràng là một trận chiến sinh tử đầy khốc liệt, thiên nhiên không hề có ý
định “nương tay” với con người dẫu cho đây không phải một trận chiến cân sức. Đối thủ của ông đò là sông Đà
cùng những “tay sai” của nó, không chỉ có sức mạnh khủng khiếp mà còn có âm mưu, sự tính toán, những
chiến lược trong bày binh bố trận. Chúng giăng mắc những “thành lũy” trong trận địa của riêng mình để con
thuyền đơn độc kia không còn sự lựa chọn nào khác, bắt buộc phải đối đầu với một cuộc giáp lá cà khập khiễng
về thế lực đôi bên.
Từng đá to đá nhỏ đều được đặt vào một vị trí cố định theo tính toán của Đà giang: “Hàng tiền vệ, có
hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào
sâu nữa”. Tưởng là có chỗ sơ hở để người lái đò băng qua, nhưng thực chất lại chỉ là một cái “ bẫy” để “dụ”
người lái đò đi thuyền vào rồi luồng nước sóng sẽ đánh khuýp quật vu hồi lại, như một đòn tấn công bất ngờ mà
nếu người lái đò non tay, chưa vững kinh nghiệm, rất có thể sẽ buông lỏng mái chèo để rồi thuyền ngay lập tức
chao đảo, chênh vênh, ngã nhào ra mặt nước, bại trận ngay từ cửa ải đầu tiên.
Nếu chiếc thuyền đơn độc ấy vượt qua được tuyến hai, tuyến ba của thiên nhiên sẵn sàng vào vị trí:
“nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến
trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở dưới chân thác.” Tác giả sử dụng những động từ mạnh
như “đánh tan”, “tiêu diệt”, khẳng định rõ mục đích của đá và thác nước Đà giang chính là “tất cả thuyền
trưởng thủy thủ” trên chiếc thuyền bé nhỏ ấy để khẳng định mức độ nguy hiểm của trận chiến này. Rõ ràng,
thiên nhiên không chiến đấu một cách ngẫu hứng, mà có kế hoạch giao chiến cụ thể, có “bản đồ chiến sự” cho
từng bước để giành chiến thắng cuối cùng.
4.“Cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình” - trên “quãng thủy chiến ở
mặt trận Sông Đà”: (3 vòng trùng vi thạch trận)
a.Vòng trùng vi thạch trận thứ nhất
“Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái... Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất.”
Bản chất, đây vốn là một trận chiến không cân sức. Một bên là thiên nhiên hung bạo, dữ dội, trường tồn
với thời gian, hung hăng tấn công đòi “ăn chết” cái thuyền, đòi tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ trên
thuyền. Một bên là con người lao động bình thường, bé nhỏ, chỉ có một người một thuyền với vũ khí duy nhất
là mái chèo trên tay.
Ngay từ đầu, sông Đà đã chủ động tấn công và chiếm ưu thế lớn. Ngay khi “cái thuyền vụt tới”, đúng
vào thạch trận vừa được dàn bày xong, nước và đá sông Đà lập tức vào vị trí, viện trợ cho nhau để sẵn sàng
cuộc chiến. “Nước thác reo hò làm thanh viện cho đá” cho thấy nước thác lúc này chưa tấn công con người trực
tiếp, mà gián tiếp uy hiếp tinh thần đối thủ của mình bằng thanh âm. Đó không phải là tiếng nước réo, rống lên
từ xa như ở đoạn trên; mà giờ đây đã là những tiếng động rất gần. Nếu như ở quãng trên, khi con thác còn xa
lắm, người lái đò thực ra vẫn có thể thay đổi tuyến đường của mình, dừng lại chặng hành trình đầy thử thách để
quay về với bến bờ bình yên, an toàn; thì đến đây, có lẽ chẳng còn đường lui nào nữa, ông đò bắt buộc phải đối
diện với con thác dữ và tìm cách vượt qua cơn phẫn nộ từ thiên nhiên Tây Bắc. Phải dũng cảm đến thế nào, ông
đò Lai Châu ấy mới chủ động lựa chọn quãng đường đầy thách thức và hiểm nguy này?
Nhà văn tiếp tục khắc họa về chân dung của các binh lính đá đã được sông Đà giao việc cho từng hòn,
từng tảng: những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Khác hẳn với vẻ ngỗ ngược nhăn nhúm ở đoạn trên, dường
như lúc này, lính của Đà giang mới thực sự bước vào thế lâm trận, vô cùng nghiêm túc để đối đầu với đối thủ
dám cả gan đi vào khúc sông này. Ta không thể nào khinh suất khi chinh phục bè lũ tay sai ấy. Có hòn thì “ hất
hàm” đòi cái thuyền phải xưng tên xưng tuổi. Một thái độ đầy huênh hoang, hống hách, có phần vênh váo và tự
đắc vào khả năng của mình. Có hòn thì cố tình thách thức con thuyền có giỏi thì xông vào, thể hiện rõ sự kiêu
ngạo như của một kẻ bề trên cho rằng mình đã nắm chắc phần thắng. Có lẽ bởi chúng đang được “ chiến đấu”
trên chính lãnh địa “sân nhà” của mình, nên càng coi thường đối thủ là con người nhỏ bé.
Trước đợt tấn công dồn dập phủ đầu từ thiên nhiên, trước “sóng trận địa phóng thẳng vào mình”, ông
đò vẫn bình tĩnh giữ chặt mái chèo. Cũng như câu tục ngữ mà ông cha ta đã răn dạy đời sau: “Chớ thấy sóng cả
mà ngã tay chèo”, đừng vì sóng lớn ùa tới mà vội buông tay lái. Những đợt sóng ấy chính là thử thách của thiên
nhiên, của cuộc đời, và phải đủ bản lĩnh, dũng cảm, ông đò mới giữ vững mái chèo, giữ chặt vũ khí của mình
đến thế. Ta khó lòng có thể dùng sức để đấu với thế lực lớn mạnh của tạo hóa, nhưng ta có thể dùng ý chí – tinh
thần – mưu trí của mình để vượt.
Thiên nhiên tiếp tục tung ra liên tiếp những đợt tấn công vào thẳng người lái đò:
Mặt nước hò la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo, như lăm le cướp lấy võ khí duy nhất của đối thủ. Ở
đây, thay vì sử dụng đại từ “ông” để khắc họa về cuộc giao tranh giữa ông đò với thiên nhiên ở góc nhìn khách
quan ngôi thứ ba, nhà văn đã có sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật với đại từ “mình”: “Mặt nước hò la vang
dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình.” Dường như, Nguyễn Tuân không chỉ
là một người ngoài cuộc ghi chép lại về cuộc vượt thác của ông lão, mà còn tự đặt mình vào vị trí của người lái
đò, khắc họa một cách chân thực và sinh động nhất những trải nghiệm cam go mà ông đò phải vượt qua.
Nhà văn so sánh sóng nước “như thể quân liều mạng”, nghĩa là chúng sẵn sàng chiến đấu bằng cả sinh
mệnh của mình. Chúng lao vào đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền. Những động từ thuộc trường từ vựng
về võ thuật đã cụ thể hóa những đường tấn công của thiên nhiên vào chiến thuyền bé nhỏ, khiến ta như hình
dung được cả sự chao đảo của con thuyền và người trên thuyền lúc ấy. Thậm chí có lúc chúng “đội cả thuyền
lên”, nghĩa là nước như dâng lên cao để đẩy thuyền vào những tình huống thiếu an toàn nhất.
Tác giả cũng ví von trận chiến như là một trận đấu đô vật, nước như đang “túm thắt lưng ông đò đòi lật
ngửa mình ra”. Đây quả là một liên hệ thú vị, khiến cho cuộc chiến đấu giữa thiên nhiên và người lao động
hiện lên trên trang văn như một màn trình diễn đẹp mắt, không chỉ mãn nhãn mà còn có cả những thanh âm náo
nhiệt, sôi động, tưng bừng từ “thanh la não bạt”. Không khí trận chiến như càng thêm sức sống khi có sự góp
mình từ hai nhạc cụ bộ gõ bằng đồng ấy.
Sóng thác tung ra “miếng đòn hiểm độc nhất”, bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò. Nhà văn gọi đó là một
luồng nước “vô sở bất chí” nghĩa là không biết thế nào là cùng, không sợ bất cứ điều gì và cũng chẳng có giới
hạn nào cho những đợt tấn công dồn dập, liên tiếp ấy từ thiên nhiên Tây Bắc. Chính thái độ hung hăng, hiếu
chiến, cố chấp ấy khiến sông Đà càng trở nên nguy hiểm hơn. Cũng trong đợt tấn công này, Đà giang đã thành
công tạo dựng lợi thế, làm đối thủ của mình bị thương.
Kể cả khi đã bị thương, ông đò vẫn không lung lay tinh thần chiến đấu. Ông cố nén vết thương, dù cho
vết thương ấy khiến ông đau đớn đến mức “mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng
ùa xuống”, đau đến mức choáng váng đầu óc, xây xẩm mặt mày, không nhìn rõ mọi thứ, thậm chí có khoảnh
khắc cơn đau như đã chiếm hữu cả thân thể, khiến nhận thức của người lái đò bị mai một đi trong giây lát.
Nhưng ông vẫn bình tĩnh chế ngự nó, không rời tư thế chiến đấu, tiếp tục đối đầu kẻ thù. Dẫu cho khuôn mặt có
méo bệch đi bởi những đòn tấn công dồn dập ấy, ông vẫn không hề có ý định bỏ cuộc. Mặc cho từng luồng
sóng đánh hồi lùng, mặc cho thanh âm hỗn chiến của nước của đá thác, người cầm lái vẫn bình tĩnh vượt qua
từng đòn đánh, “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, tỉnh táo đưa ra chỉ huy ngắn gọn, để từ đó vượt qua được
vòng trùng vi thứ nhất. Bất chấp cơn đau và sự hung hăng từ đối thủ, ông đò vẫn luôn bình tĩnh xử lý mọi tình
huống và điềm đạm giành chiến thắng vòng đầu tiên.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa sông Đà và người lái đò trong mối tương quan chặt chẽ với nhau để
làm bật lên hình ảnh một dòng sông Tây Bắc hung bạo, dữ dội, hiếu chiến và hình tượng một người lái đò bình
tĩnh, quyết đoán, bản lĩnh giữa dòng thác dữ. Nguyễn Tuân đã thực sự tạo nên một thước phim kịch tính, sống
động, để ta hình dung được trận thủy chiến cam go ngay từ vòng trùng vi thứ nhất, để ta run sợ trước sóng nước
Đà giang và qua đó, càng thêm thán phục, ngưỡng mộ trước người anh hùng sông nước.
b. Trùng vi thạch trận vòng 2
“Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt ... trúng vào cửa sinh nó trấn lấy.”
Câu văn mở đầu đã khắc họa cho độc giả áp lực của một trận thực chiến, không có lấy một giây một
phút ngơi nghỉ, cũng chẳng có đủ thời gian để chăm sóc vết thương hay tính toán lại về chiến thuật kĩ càng. Mọi
thứ đều phải “luôn”, nghĩa là ngay lập tức tiếp tục chiến đấu, vô cùng gấp gáp vì thiên nhiên đâu thể chờ đợi
đối thủ của nó. Thế nhưng, với bản lĩnh và kinh nghiệm chiến đấu dày dặn của mình, ông đò đã ngay lập tức
hoạch định một chiến thuật mới để phá vòng trùng vây thứ hai. Sự chủ động ấy đến từ chính việc ông đò thấu
hiểu tường tận con sông Tây Bắc: “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của
lũ đá”. “Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng” có lẽ đây là một trong những lý do lớn khiến ông đò vô cùng
bình tĩnh đối đầu với đối thủ nặng kí là thiên nhiên Tây Bắc. Ông đã phân tích đối thủ kĩ càng, từ đó xây dựng
những chiến thuật hợp lý để giành được chiến thắng cuối cùng, để không
Ở vòng này, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn và bố trí lệch cửa sinh so với vòng đầu để đánh lừa
con thuyền, nhân mức độ nguy hiểm lên gấp bội phần. Vị trí của các cửa được sắp đặt theo chủ đích của thiên
nhiên, như một cách “tung hỏa mù” để làm rối loạn điểm nhìn và khiến sự lựa chọn của ông đò trở nên khó
khăn hơn. Thế nhưng, với kinh nghiệm chiến đấu của mình, ông đò không hề mảy may run sợ. Lời văn ở đây
không chỉ là lời kể kết hợp miêu tả chi tiết, tỉ mỉ của Nguyễn Tuân, mà còn như lời tự sự đầy chiêm nghiệm của
chính ông đò: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Động từ “cưỡi” khắc họa dòng
sông như một con thú hoang dữ tợn, rất khó kiểm soát qua đó làm bật lên tư thế chinh phục thiên nhiên của con
người lao động bé nhỏ. So sánh “như là cưỡi hổ” cũng thể hiện rõ tinh thần ấy của người lao động thời kì mới,
khi có thể kiểm soát và chiến thắng cả một trong những con vật đứng đầu chốn rừng xanh oai nghiêm, hùng vĩ.
Câu văn giống như một lời khuyên nhủ, chia sẻ “kinh nghiệm trận mạc” từ một “vị tướng” đã dày dặn sương
gió nơi chiến trận.
Dòng thác ấy vẫn tiếp tục tấn công con người dồn dập, mạnh mẽ, nó “hồng hộc tế mạnh” nghĩa là phi
nhanh, lao mạnh để tạo nên những đòn đánh hiểm hóc. Từ láy “hồng hộc” như diễn tả tiếng thở gấp của dòng
sông khi nỗ lực lao về phía đối thủ của mình, chứng tỏ nó đã dồn nhiều sức lực vào đòn tấn công ấy. Nhưng
dường như sông Đà càng tấn công dữ dội, người lái đò càng bĩnh tĩnh vượt qua. Nhà văn khắc họa cách người
lái đò “cưỡi hổ”: “Nắm chặt bờm sóng, Ghì cương lái” Tác giả thực sự coi dòng sông ấy như một loài thú dữ,
để rồi khắc họa cách ông đò vượt thác như đang chinh phục con hùm, con beo vậy. Phải thực sự kiểm soát được
con vật hung dữ ấy, người lái đò mới nắm được bờm sóng và có cương lái để điều khiển nó. Rõ ràng, đến đây,
dường như ông đò đã dần giành lại thế chủ động trong trận chiến sinh tử này.
“Bám chắc luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh – lái miết một đường chéo” Những động từ
mạnh như vẽ nên trước mắt độc giả từng cử chỉ, động tác điêu luyện, dứt khoát mà vô cùng uyển chuyển của
“người chỉ huy” trên con thuyền bé nhỏ. Trong giây phút sinh tử, ông đò vẫn không hề nao núng hay lung lay
tinh thần, mà ngược lại, vô cùng bình tĩnh, quyết định chính xác nhất.
Khi lũ thủy quân định lôi tuột con thuyền về tập đoàn cửa tử, ông đò vẫn nhớ mặt từng đứa và nhẹ
nhàng, khéo léo vượt qua từng cửa ải một. Cách gọi “đứa” cũng bộc lộ một góc nhìn thú vị, hóm hỉnh của nhà
văn Nguyễn Tuân. Bởi lẽ bình thường ta chỉ dùng đại từ này cho những người ít tuổi, non nớt hơn mình mà
thôi. Gọi những “tay sai” của Đà giang là “đứa”, chắc hẳn bởi ông đò đã ngoài 70 tuổi ấy chỉ coi đám tảng đám
hòn đó đáng tuổi con cháu mình. Sau khi thất bại trước ông lão, sóng nước chỉ còn biết thất vọng mà chẳng thể
làm gì, chúng đã bại trận một cách tuyệt đối. Ông đò vượt qua vòng trùng vây thứ hai một cách mạnh mẽ mà
thật nhịp nhàng, bỏ lại hết những luồng tử ấy phía sau thuyền.
c. Trùng vi thạch trận vòng 3
“Còn một trùng vây thứ ba nữa.... tự động lái được lượn được. Thế là hết thác.”
Ở vòng trùng vi cuối cùng, thiên nhiên giăng mắc ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Nhà
văn không dùng từ “cửa tử” như vòng trên, mà gọi trực diện bằng hai chữ “luồng chết” như một cách để nhấn
mạnh nguy hiểm đã được tiếp tục nhân lên. Luồng sống ở vòng này lại được đặt ngay giữa bọn đá hậu vệ, được
bảo vệ nghiêm ngặt nhất, ngăn người lái đò vượt qua.
Ông đò đã đưa ra những quyết định và hành động một cách nhanh gọn, dứt khoát, mạnh mẽ. Bởi lẽ,
trong thực chiến, đâu có thời gian cho phân vân, chần chừ, do dự: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa
đó. Từ “cứ” đã cho ta thấy sự quyết đoán của ông đò ở quãng sông này. Kết hợp với các động từ mạnh như
“phóng thẳng”, “chọc thủng”, càng làm cho hình tượng người lao động trở nên mạnh mẽ hơn khi đặt vào giữa
nền cảnh thiên nhiên hùng vĩ.
Sông Đà tạo ra nhiều thử thách chồng chất, hết lớp này đến lớp nọ, hết cửa trong rồi lại cửa ngoài,
nhưng chiếc thuyền đơn độc bé nhỏ của con người vẫn băng qua tất cả. So sánh: “thuyền như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước” như một cách nhà văn nhấn mạnh rằng động tác của người lái đò không chỉ đòi hỏi
tốc độ nhanh, lực khỏe, mà còn cần sự chính xác đến mức tuyệt đối. Luồng sống duy nhất ấy chính là “ hồng
tâm” mà “mũi tên tre” kia cần phải hướng đến. Với sự điều khiển điêu luyện của người lái đò, mũi tên “vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được” để hoàn thành đúng mục tiêu.
Để rồi cuối cùng, câu văn khép lại vòng trùng vi thứ ba vang lên một cách ngắn gọn như tiếng chỉ huy
tỉnh táo, cô đọng của người cầm lái ấy: “Thế là hết thác.” Nó như một tiếng thở phào nhẹ nhõm của ông đò sau
khi chinh phục con thác dữ, vượt qua được từng cửa ải hiểm trở của “kẻ thù số một”. Nó cũng khắc họa sự thư
thái, nhẹ nhõm của người lao động sau khi đã cống hiến hết mình cho công việc mà mình đã lựa chọn.
d. Phản ứng của ông đò sau khi giành chiến thắng trước con thác dữ:
“Dòng sông vặn mình vào một cái bến … Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.”
Thông thường, khi đạt được một thành tựu nào đó trong cuộc sống, khi giành được một chiến thắng
vang dội, khi giữ được sinh mệnh trở về sau một trận chiến sinh tử cam go, ta những tưởng người ta sẽ phải bàn
tán xôn xao về chiến tích ấy, nhưng những người lái đò vùng Tây Bắc lại không làm vậy.
Quay trở về sau trận chiến với con thác dữ, “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ” – dường như những
đợt tấn công dồn dập, hung bạo trước đó chẳng còn trong tâm trí người lái đò, chỉ còn lại một dòng sông thanh
bình, êm ả mà thôi. Sông nước lúc này như rũ bỏ lớp áo của một con thủy quái dữ tợn luôn đòi “ ăn chết” người
lái đò để trở về với dáng vẻ dịu dàng thường nhật. Những câu chuyện của người lao động chốn ấy cũng chỉ còn
xoay quanh cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô,… chứ tuyệt nhiên chẳng ai nhắc
đến việc mình đã chiến thắng sông Đà oanh liệt đến thế nào. Có lẽ bởi, trận chiến ấy với họ đã trở thành một
thói quen hàng ngày, “ngày nào cũng” như vậy, là một phần tất yếu của công việc, là một trải nghiệm không
thể thiếu trong đam mê mà họ đã dành cả nửa cuộc đời mình để theo đuổi, gìn giữ.
III.Kết Bài:

You might also like