PLĐC

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

Họ và tên: Nguyễn Thị Kiều Trinh

Lớp: 23DTT3
MSSV: D23VH082

Tình huống 1: Chị Q là công nhân đang làm việc tại khu chế xuất K. Để có thêm thu nhập, sau
giờ làm việc tại khu chế xuất, chị Q xin làm nhân viên bán hàng tại cửa hàng thời trang MH. Sau
khi phỏng vấn chị Q, bà X - chủ cửa hàng thời trang MH và chị Q đã ký bản Thỏa thuận công
việc với thời hạn 6 tháng, trong đó có các nội dung: Bên giao việc là chủ cửa hàng MH, bên nhận
việc là chị Q; Công việc chị Q phải làm là bán hàng tại cửa hàng; Thời gian làm hàng ngày từ
18h đến 22h; Chị Q được nhận mức tiền công theo tuần; Ngày nghỉ trong tuần; Tiền thưởng, các
trường hợp bị trừ tiền,…
Sau 5 tháng làm việc tại cửa hàng, ngày 25/2/2023, chị Q xin chủ cửa hàng nghỉ 03 ngày để điều
trị bệnh. Ngày 28/2/2023, chị Q quay lại cửa hàng để làm việc thì bà X nói rằng đã thuê người
khác làm thay công việc của Q. Chị Q đề nghị bà X thanh toán tiền công tuần làm việc cuối cùng
cho mình nhưng bà X không trả với lý do Q xin nghỉ việc đột xuất nên cửa hàng phải mất tiền
nhờ trung tâm môi giới tìm lao động thay thế, khoản tiền môi giới trừ vào tiền công của Q vì Q
đã gây thiệt hại cho cửa hàng. Bà X còn cho rằng Bản thỏa thuận công việc mà bà đã ký với chị
Q không phải là hợp đồng lao động nên chị Q không có căn cứ để yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền giải quyết.
Hỏi: Bà X- chủ cửa hàng MH chấm dứt Thỏa thuận công việc với chị Q và cho rằng bản Thỏa
thuận công việc ký với chị Q không phải hợp đồng lao động là đúng hay sai? Giải thích vì sao?
Trả lời:
- Bà X - chủ cửa hàng MH chấm dứt Thỏa thuận công việc với chị Q và cho rằng bản Thỏa
thuận công việc ký với chị Q không phải hợp đồng lao động là sai.
- Giải thích: Mặc dù bà X - chủ cửa hàng MH cho rằng bà đã ký với chị Q là “Bản thỏa
thuận công việc” chứ không phải là hợp đồng. Tuy nhiên, nếu xét trong trường hợp này
“Bản thỏa thuận công việc” giữa bà X và chị Q có thể được coi là một hợp đồng lao động
vì đáp ứng đủ các điều kiện cụ thể bao gồm:
+ Bên giao việc là bà X - chủ cửa hàng MH;
+ Bên nhận việc là chị Q;
+ Việc mô tả rõ ràng về công việc: bán hàng tại cửa hàng thời trang MH;
+ Thời gian làm việc: hằng ngày 18h - 22h;
+ Tiền lương: nhận mức tiền công theo tuần;
+ Quyền lợi và nghĩa vụ của cả hai bên: tiền thưởng, các trường hợp bị trừ tiền,…
→ Các điều khoản này tạo ra một mối quan hệ lao động giữa chị Q và cửa hàng MH và chị Q có
quyền yêu cầu thanh toán tiền công cho thời gian làm việc cuối cùng của mình theo thỏa thuận.
Điều này có thể cần phải được giải quyết thông qua các cơ quan pháp luật hoặc lao động.

Câu 1. Qua kiểm tra hồ sơ di chuyển từ tỉnh HN đến tỉnh ĐB, Bảo hiểm xã hội tỉnh ĐB đã phát
hiện hồ sơ hưởng BHXH giả của bà Hoàng Thị Yến, 48 tuổi, thường trú tại thị xã ML (tỉnh ĐB)
nên đã chuyển sang cơ quan điều tra. Qua xác minh, điều tra được biết, tháng 4/2009, Hoàng Thị
Yến đã chủ động gặp và đưa cho Đinh Văn Tính, 55 tuổi, ở thôn SĐ, huyện PS tỉnh ĐB 50 triệu
đồng, nhờ Tính “lo lót” làm giả hồ sơ, giấy tờ để được hưởng chế độ mất sức lao động. Đinh Văn
Tính đã chuyển cho Phạm Anh Đức – 45 tuổi, phó phòng Bảo hiểm xã hội huyện TN tỉnh ĐB số
tiền 30 triệu đồng nhờ Đức làm giả giấy tờ cho bà Yến, số tiền còn lại Tính chiếm đoạt bỏ túi
riêng. Phạm Anh Đức đã làm một bộ hồ sơ giả mang tên Hoàng Thị Yến được hưởng chế độ
BHXH tại tỉnh HN, rồi chuyển cho Yến làm thủ tục hưởng chế độ BHXH tại tỉnh ĐB. Sau khi
làm xong hồ sơ giả cho bà Yến, Đức đã gọi điện yêu cầu bà Yến đưa thêm cho Đức 20 triệu đồng
nữa. Bà Yến đồng ý và đã giao cho Đức đủ số tiền 20 triệu đồng. Với hồ sơ giả trên, bà Yến đã
chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội với tổng số tiền là 144 triệu đồng. Cũng qua xác minh, cơ quan
điều tra còn phát hiện thêm Phạm Anh Đức đã làm giả ba bộ hồ sơ của 3 cá nhân khác (hồ sơ
khống) và đã chiếm đoạt số tiền bảo hiểm xã hội từ 3 hồ sơ đó là 465 triệu đồng.
Câu hỏi: Trên cơ sở quy định của BLHS, hãy định tội danh đối với Hoàng Thị Yến, Đinh Văn
Tính và Phạm Văn Đức.
Trả lời:
• Hoàng Thị Yến:
Tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 308 BLHS 2018).
Hành vi: Yến đã sử dụng hồ sơ giả để chiếm đoạt tiền bảo hiểm xã hội với tổng số tiền là 144
triệu đồng.
• Đinh Văn Tính:
- Tội "Môi giới hối lộ” (Điều 366 BLHS 2018).
Hành vi: Tính đã nhận 50 triệu đồng từ Yến để môi giới hối lộ Đức làm giả hồ sơ bảo hiểm xã
hội.
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 308 BLHS 2018).
Hành vi: Tính đã chiếm đoạt 20 triệu đồng từ số tiền Yến đưa cho để hối lộ Đức.
• Phạm Văn Đức:
- Tội nhận hối lộ (Điều 364 BLHS 2018).
Hành vi: Đức đã nhận 30 triệu đồng từ Tính và 20 triệu đồng từ Yến để làm giả hồ sơ bảo hiểm
xã hội cho Yến.
- Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 331 BLHS 2018).
Hành vi: Đức đã làm giả hồ sơ bảo hiểm xã hội cho Yến và 3 cá nhân khác.
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 308 BLHS 2018).
Hành vi: Đức đã chiếm đoạt 20 465 triệu đồng từ tiền bảo hiểm xã hội của 3 cá nhân khác.

Câu 2. Anh, chị hãy bình luận quy định của Mục 4 – Minh Bạch tài sản, thu nhập (từ Đ 44 đến Đ
55) của Luật phòng chống tham nhũng.
Trả lời:
Mục 4 – Minh Bạch tài sản, thu nhập (từ Điều 44 đến Điều 55) của Luật phòng chống tham
nhũng (Luật số 36/2018/QH14) có những quy định cụ thể về việc kê khai, công khai, và xác
minh tài sản, thu nhập của các cá nhân có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị
nhà nước. Quy định này vô cùng quan trọng và cần thiết đươc thể hiện qua nhiều mặt:
• Mục tiêu và Ý nghĩa:
Các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập nhằm mục tiêu ngăn ngừa và phát hiện hành vi
tham nhũng. Minh bạch tài sản, thu nhập giúp tăng cường sự công khai, minh bạch trong hoạt
động của các cán bộ, công chức, từ đó tạo niềm tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước.
• Phạm vi và Đối tượng kê khai (Điều 44):
Phạm vi đối tượng phải kê khai được quy định khá rộng, bao gồm từ các cán bộ, công chức cấp
cao đến những người giữ chức vụ từ phó phòng trở lên. Điều này đảm bảo rằng các cán bộ có
chức vụ đều được kiểm soát tài sản, thu nhập, góp phần giảm thiểu các kẽ hở cho hành vi tham
nhũng.
• Nội dung kê khai (Điều 45):
Quy định về nội dung kê khai tài sản, thu nhập chi tiết, bao gồm tài sản, thu nhập của bản thân và
của vợ/chồng, con chưa thành niên. Điều này giúp kiểm soát toàn diện và tránh tình trạng tài sản,
thu nhập được chuyển nhượng qua các thành viên gia đình để trốn tránh trách nhiệm.
• Thời điểm kê khai (Điều 46):
Việc quy định rõ thời điểm kê khai định kỳ hàng năm, khi có biến động về tài sản, thu nhập lớn
và khi bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển công tác. Điều này giúp cập nhật kịp thời và chính xác
thông tin về tài sản, thu nhập của các cán bộ, công chức.
• Công khai bản kê khai (Điều 47):
Quy định về việc công khai bản kê khai tài sản, thu nhập nhằm tạo điều kiện cho nhân dân và các
cơ quan chức năng giám sát, phát hiện kịp thời các dấu hiệu bất minh trong tài sản, thu nhập của
cán bộ, công chức.
• Xác minh tài sản, thu nhập (Điều 48-51):
Các quy định về xác minh tài sản, thu nhập nhằm đảm bảo tính chính xác và trung thực của bản
kê khai. Việc xác minh phải được thực hiện khi có dấu hiệu bất thường hoặc theo yêu cầu của cơ
quan chức năng. Tuy nhiên, quy trình xác minh cần được thực hiện một cách minh bạch, khách
quan, và không gây phiền hà cho người kê khai.
• Xử lý vi phạm (Điều 52-55):
Quy định về xử lý vi phạm đối với hành vi không kê khai, kê khai không trung thực hoặc không
giải trình được nguồn gốc tài sản, thu nhập bất minh. Các biện pháp xử lý nghiêm khắc như kỷ
luật, cách chức, truy cứu trách nhiệm hình sự nhằm tạo sức răn đe đối với các hành vi vi phạm.
Tóm lại, các quy định tại Mục 4 của Luật phòng chống tham nhũng về minh bạch tài sản, thu
nhập là cần thiết và quan trọng trong công cuộc phòng chống tham nhũng tại Việt Nam. Tuy
nhiên, để các quy định này thực sự hiệu quả, cần có sự triển khai đồng bộ, nghiêm túc và sự giám
sát chặt chẽ từ các cơ quan chức năng và toàn xã hội.

Câu 3. Theo anh, chị có nên hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp theo quy định của Công
ước Liên Hợp Quốc về phòng chống tham nhũng?
Trả lời:
Hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp và là một vấn đề phức tạp cần xem xét kỹ lưỡng từ
nhiều khía cạnh. Vì vậy cần ủng hộ việc hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp theo quy
định của Công ước Liên Hợp Pháp về phòng chống tham nhũng với các lí do sau đây:
- Tuân thủ Công ước Liên Hợp Quốc về phòng chống tham nhũng: Công ước Liên Hợp Quốc về
phòng chống tham nhũng (UNCAC) khuyến khích các quốc gia thành viên hình sự hóa hành vi
làm giàu bất hợp pháp. Việc hình sự hóa sẽ giúp Việt Nam tuân thủ các cam kết quốc tế và tăng
cường uy tín trên trường quốc tế.
- Tăng cường hiệu quả phòng chống tham nhũng: Hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp có
thể tạo ra một cơ chế pháp lý mạnh mẽ để truy cứu trách nhiệm các cá nhân có tài sản, thu nhập
không giải trình được nguồn gốc hợp pháp. Điều này sẽ làm tăng tính răn đe và ngăn ngừa hành
vi tham nhũng.
- Nâng cao trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức: Khi hành vi làm giàu bất hợp pháp bị
hình sự hóa, các cán bộ, công chức sẽ có trách nhiệm giải trình rõ ràng và minh bạch về tài sản,
thu nhập của mình. Điều này sẽ góp phần xây dựng một nền công vụ trong sạch và liêm chính.

You might also like