Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 8

Văn học kháng chiến đến ngày nay vẫn chiếm một vị trí quan

trọng đối với nền văn học Việt Nam. “Việt Bắc” của Tố Hữu được
đánh giá là tác phẩm đồ sộ, nhiều ý nghĩa sâu sắc, là tiếng nói
của quân dân ta trong kháng chiến trường kỳ. Đặc biệt, chỉ với
tám câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã tái hiện niềm yêu thương, nỗi
nhớ mong bồi hồi lưu luyến của người dân Việt Bắc với cán bộ
Cách mạng.
Tố Hữu là nhà thơ hiện đại lớn, được mệnh danh là ngọn cờ đầu
của phong trào thơ Cách mạng Việt Nam. Cuộc đời nghệ thuật
của ông luôn song hành cùng những chặng đường Cách mạng
của dân tộc, khiến thơ ông mang tính biên niên sử, hào hùng
nhưng vẫn vô cùng sâu sắc. Lời thơ Tố Hữu giản dị, ấm áp
nhưng đậm chất chính trị.
Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sau
chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng,
Thủ đô Hà Nội rợp bóng cờ hoa trong ngày hội non sông, bài thơ
"Việt Bắc" ra đời là tiếng hát nghĩa tình, son sắt, thủy chung của
mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt
Bắc với Cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ của
miền xuôi và miền ngược, là khúc tình ca của một dân tộc anh
hùng.

Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại- đồng bào Việt Bắc, trước
khoảnh khắc chia tay đầy lưu luyến với cán bộ cách mạng, đồng
bào đã không thể kìm nổi lòng mình mà kết thành tiếng bày tỏ
câu hỏi được đặt ra một cách trực tiếp, tình cảm của cán bộ cách
mạng. khi về đến thủ đô Hà Nội rồi liệu có còn nhớ đến chúng tôi
hay không?
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Chữ “về” nghe sao mà tha thiết bâng khuâng đến thế? Có lẽ đây
là nơi thấp nhất khiến người đọc dễ dàng nhìn ra một khoản hụt
hẫng trong tâm hồn, giữa buổi chia tay đầy bịn rịn. Tố Hữu đã
mượn hình thức diễn đạt quen thuộc trong thơ ca dân gian để gửi
gắm những tình cảm lớn lao của thời đại mới. Những câu ca ngọt
ngào của tình yêụ đôi lứ ađã trở thành những câu hỏi xao xuyến
về nghĩa tình cách mạng, thể hiện nỗi nhớ của người ở lại với
người về xuôi. “Mình” và “ta” là những đại từ nhân xưng quen
thuộc trong ca dao xưa, là lối xưng hô bình dị, thương mến vô
cùng của tình yêu đôi lứa. Hai câu hỏi trong đoạn mở đầu đã gợi
nhắc tới những câu ca dao nói về cảnh chia tay bịn rịn, nhớ
nhung của đôi lứa:

“Mình về mình nhớ ta chăng


Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
Hay: “Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm dải áo ta đề câu thơ”

Sáng tạo của Tố hữu khi sử dụng cặp đại từ mình-ta để diễn tả
tình cảm cách mạng cho mối quan hệ càng trở nên gắn bó gần
gũi thân thiết. Cuộc ân tình cách mạng đã hóa thành hàng loạt lời
hỏi tha thiết vừa để dò hỏi khám phá sự nhắn nhủ cán bộ về xuôi
vừa để bày tỏ nỗi nhớ niềm thương đang đong đầy cõi lòng mình.
Đây cũng là thời điểm phù hợp để người ở lại nhắc nhớ về
khoảng thời gian mười lăm năm. Đó là giai đoạn kháng chiến thủa
còn Việt Minh một khoảng thời gian dài gắn bó với biết bao kỉ
niệm sâu nặng nghĩa tình. Tố Hữu đã rất tinh tế khi sử dụng chữ
“ấy” để cá nhân hóa khoảng thời gian này. Đây là khoảng thời
gian đã chứng kiến biết bao kỉ niệm trong chiến đấu trong sinh
hoạt của cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Và đặc biệt
thay đó cũng là mốc thời gian nhắc nhớ về cội nguồn cách mạng.
Cách sử dụng từ ngữ của Tố hữu thật đặc biệt nói về tình cảm
của những người cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc mà lại
sử dụng tính từ “thiết tha ,mặn nồng”. Đây vốn là những từ ngữ
thường sử dụng cho tình cảm của đôi lứa, uyên ương. Vậy mới
thấy được chất trữ tình nồng đượm trong tứ thơ của nhà thơ
cách mạng Tố Hữu. Qua những câu thơ trên, người ở lại đặt bày tỏ tình
cảm lưu luyến bịn rịn không nỡ rời xa.

Chưa dừng lại ở đó người ở lại tiếp tục tỏ bày:


“ Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Điệp từ “nhìn và nhớ” được nhắc lại hai lần, thể hiện một nỗi nhớ bao trùm
không gian và cả thời gian, như tha thiết thường trực trong lòng của người
ở lại. Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhở người đi về tình cảm của người ở lại.
Lời ướm hỏi nhắc người đi về nỗi nhớ thiên nhiên và con người nơi đây.
Về với Hà Nội của đèn đường của phố thị, những cảnh sắc thiên nhiên của
Việt Bắc nơi đây có khiến người quên đi hay không? “Nhìn cây nhớ núi” là
nhớ về thiên nhiên Việt Bắc đẹp tươi, “nhìn sông nhớ nguồn” là nhớ về cội
nguồn của tình nghĩa, cội nguồn cách mạng. Có lẽ giờ đây Việt Bắc đối với
những người cán bộ cách mạng chỉ là một thời đã xa nhưng vẫn hiện hữu
trong ký ức. Nó như một nỗi ám ảnh thường trực như một mạch cảm xúc
nóng đang chảy trong lồng ngực. Ông đã vận dụng rất khéo léo đạo lí "
uống nước nhớ nguồn" của dân tộc để nhắc nhỏ con cháu đời sau không
được quên công ơn của thế hệ cha ông đi trước.
Với những câu hỏi tu từ da diết, những hình thức điệp từ ngữ, điệp cấu
trúc, những cách vận dụng tinh tếvà sáng tạo ca dao, tục ngữ dân gian...,
bốn câu thơ đầu đã thể hiện ân tình sâu nặng của đồng bào Việt Bắc với
cán bộ, bộ đội kháng chiến trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến. Đó cũng
là cảm hứng chủ đạo của cả bài thơ.

Đáp lại tiếng lòng của người đưa tiễn – đồng bào Việt Bắc, người ra điđã
cất lên những lời tha thiết, sâu nặng nghĩa tình:
Tiếng ai tha thiết bên cồn,
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
Áo chàm đưa buổi phân li,
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Mở đầu đoạn thơ là đại từ phiếm chỉ “ai “vang lên một cách đầy tự nhiên.
Đó chính là người ở lại, nhưng đại từ phiếm chỉ gợi cảm giác tiếng của ai
đó chưa rõ mặt chỉ là những âm thanh cách lên vang vọng từ núi rừng Tây
Bắc.Những cặp từ láy “bâng khuâng” “bồn chồn” diễn tả trạng thái tâm lý
nhớ thương luyến tiếc khiến lòng chẳng thể yên. “Bâng khuâng” là từ láy gợi ra
những trạng thái cảm xúc mơ hồ khó tả bởi sự đan xen buồn vui, luyến tiếc nhớ nhung., khiến con
người như ngơ ngẩn. “Bồn chồn” miêu tả tâm trạng thấp thỏm nôn nao khiến con người không yên.
Tuy cũng là từ láy miêu tả trạng thái cảm xúc nhưng “bồn chồn” không dừng lại ở những nỗi niềm
trong tâm tưởng mà còn có thể ngoại hiện trong ánh mắt, dáng vẻ hay hành động. Vì thế câu thơ
không chỉ thể hiện nỗi bịn rịn nhớ nhung trong lòng mà còn gợi tả cả những bước chân ngập ngừng
lưu luyến của người đi.
Tình nghĩa sắt son mặn nồng nhưng cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc
phải chia ly.
“ Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Màu “áo chàm” đặc trưng cho những con người chân chất miền núi Tây
Bắc. Tố Hữu đã khéo léo tận dụng hình ảnh hoán dụ này, càng thể hiện sự
gần gũi giản dị giữa quân và dân miền núi. Họ không cùng một quê hương
nhưng chung một đất nước, có thể lý tưởng sống của mỗi người cũng
khác nhau nhưng một khi đã gặp nhau trong hoàn cảnh đất nước bị xâm
lăng trong lòng họ không ai bảo ai, đều chung một niềm tin chiến đấu chiến
đấu đến cùng đập tan quân giặc. Sắc áo chàm vĩnh viễn in đậm trong nỗi
nhớ thương của những người con về xuôi, màu áo vừa khắc họa tính cách
một mặt vừa thắm lên tấm lòng son sắc thuỷ chung của họ với cách mạng
với kháng chiến. Động từ “cầm tay” thể hiện sự gắn bó khăng khít yêu
thương và đoàn kết đó là hành động thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người
đi. Người ta cầm tay nhau để truyền sức mạnh, truyền tình cảm. Giống
như người lính cụ Hồ trong kháng chiến “nắm tay” nhau để truyền hơi ấm
và gắn kết tình đồng đội:
“ Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” Đồng chí – Chính Hữu
Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào vì thế không nói nên lời.
“Biết nói gì hôm nay” có lẽ không phải không muốn nói gì mà họ có quá
nhiều điều muốn nói nên không biết nói gì vào lúc này, khi mọi lời nói trở
nên bất hữu trước tình cảm trào dâng mãnh liệt, bao nhiêu tình cảm thân
thương trìu mến chất chứa trong sự im lặng đầy xúc động. Dấu ba chấm
xuất hiện như một nốt nhạc ngân dài nối tiếp tình cảm hai bên.
Bốn câu thơ là lời đồng vọng nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại,
vừa tái hiện cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến sâu nặng trong ngày chia tay.
Tất cả đều được tái hiện qua cặp đại từ “mình ta”, thể thơ lục bát truyền
thống với ngôn ngữ giản dị mộc mạc, cùng các biện pháp tu từ: hoán
dụ, từ láy,...

Tám câu thơ chính là khúc dạo đầu củacảm xúc chia tay để từ đó biết bao
điều chưa nói sẽ được thổ lộ, giãi bày. Lờihỏi của người đưa tiễn chỉ là cái
cớ gợi dẫn để mạch cảm xúc nhớ thương tronglòng người lên đường tuôn
trào. Đoạn thơ đã giới thiệu cảm hứng chủ đạo củatoàn bộ bài thơ, thể
hiện tập trung nhất những nét đặc sắc về nghệ thuật của bàithơ và thể hiện
những nét tiêu biểu nhất của phong cách nghệ thuật thơ TốHữu. Đoạn thơ
nói riêng và bài Việt Bắc nói chung không chỉ xứng đáng làđỉnh cao của
thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành công xuất sắc củathơ ca Việt
Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp

Tác giả không chỉ thể hiện nỗi trăn trở, lo lắng, băn khoăn của người ở lại
mà còn khắc họa vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, com người Việt Bắc
mang đậm màu sắc dân tộc.
Tiếp nối 8 câu thơ ở đoạn đầu nói về tâm trọng lưu luyến, bịn rịn trong ngày chia tay
giữa kẻ ở người đi là những dòng thơ với ý nghĩa như lời nhắn nhủ được thể hiện qua
hàng loạt câu hỏi tu từ:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù?
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Lối xưng hô “mình – ta” chúng ta được nghe nhiều trong ca dao, dân ca Việt Nam để
thể hiện sự thắm thiết trong tình cảm của con người. Trong bài thơ, tác giả cũng vận
dụng thành công lối xưng hô ấy, tạo sức gần gũi, ân tình của người đi, kẻ ở. Những
câu hỏi vờ như có sự trách móc nhưng vô cùng ngọt ngào, kèm theo chút lo lắng, phân
vân, không biết mình đi rồi thì có còn nhớ những ngày xưa hay không.
Tác giả sử dụng nhịp thơ 2/4; 2/2/4 nhịp nhàng, đều đặn lại càng thể hiện được sự thiết
tha trong lòng người ở lại. Nỗi nhớ của người cách mạng càng đong đầy thì hình ảnh
năm xưa càng dạt dào, xúc động.
Trong những lời nhắc nhở tha thiết của người ở lại với người ra đi, Việt Bắc đã hiện lên thật sống
động từ những khắc nghiệt của thiên nhiên với “mưa nguồn, suối lũ, lau xám, mây mù.” tới cuộc
sống kháng chiến gian khổ thiếu thốn với “miếng cơm chấm muối”, từ những trang sử hào hùng “khi
kháng Nhật, thuở Việt minh” tới những sự kiện trọng đại của cách mạng và kháng chiến nơi “Tân
Trào, Hồng Thái.”

Những câu hỏi tha thiết của người ở lại đã làm rõ cội nguồn tạo nên sự gắn bó sâu nặng giữa “mình”
và “ta”, giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Họ đã cùng nhau chia sẻ từ những kham khổ
thiếu thốn khi nhương nhau “miếng cơm chấm muối” đến những tâm tư nỗi niềm khi chung nhau
“mối thù nặng vai”; họ đã sát cánh bên nhau cùng vào sinh ra tử trong những năm tháng ác liệt hào
hùng từ thời mặt trận Việt Minh tới thời kháng chiến chống Pháp. Những chia sẻ trong quá khứ tạo
nên sự gắn bó trong hiện tại và nghĩa tình thủy chung trong tương lai. Gian truân vất vả chỉ làm ngời
lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những người dân Việt Bắc nghèo khổ mà sắt son, trung hậu, nghĩa tình,
một lòng với cách mạng và kháng chiến.

Những gắn bó ân tình trong suốt “mười lăm năm ấy” đã làm tăng thêm nỗi nhớ nhung và cảm giác
trống vắng cho núi rừng khi chia biệt:

“Mình về rừng núi nhớ ai


Trám bùi để rụng, măng mai để già”
+ Câu ó vẫn mang hình thức của một câu hỏi nhưng không dùng để hỏi người đi mà chỉ để thể hiện
nỗi lòng người ở lại. “Rừng núi” là hoán dụ cho người dân Việt Bắc ở lại nơi rừng xanh núi đỏ, “ai”
chính là “mình” – người ra đi. Nỗi nhớ và một chút mặc cảm ngậm ngùi được bộc lộ gián tiếp qua
cách nói tránh trong cấu trúc câu nghi vấn lại càng thêm xao xuyến. Tính chất phiếm chỉ của đại từ
“ai” khiến hình ảnh người đi trở nên xa xôi hơn trong ánh mắt nhớ nhung của những người dân Việt
Bắc mộc mạc, chân thành.

+ Câu 8 gồm hai vế đối xứng nhắc đến “trám bùi” và “măng mai” là những sản vật quen thuộc và
quý giá của núi rừng. Phép điệp trong cấu trúc “Trám bùi để rụng, măng mai để già’” gợi nên hình
ảnh cuộc sống như ngưng trệ sau lưng người đi cùng cảm giác buồn bã, trống trải trong lòng người ở
lại. Dường như sau khi người ra đi, trám bùi trên cây không ai hái, rụng xuống đất không ai nhặt,
măng mai để già hoang phí giữa rừng sâu.

Sự gắn bó khiến họ thêm hiểu nhau – đó là sự thẩu hiểu, cảm thông đầy tâm trạng. Câu hỏi:

“Mình đi có nhớ những nhà


Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son’”
là một lời nhắc nhở cảm động với người ra đi: đừng bao giờ quên những con người nghèo khổ mà
son sắt kiên trung, một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến. Phép tương phản trong hai tiểu đối
trong câu 8 đã trở thành những nét phác họa đặc trưng nhất cho cuộc sống và con người Việt Bắc.
“Hắt hiu lau xám ” vừa là hình ảnh thực gợi tả không gian hoang vắng tiêu sơ, buồn bã của núi rừng,
vừa là ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khổ của người dân Việt Bắc. “Nhà” là hoán dụ cho con người,
“đậm đà lòng son” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi những tấm lòng trung hậu, nghĩa tình của người dân
Việt Bắc nghèo khổ. Và có lẽ chính màu lau xám hắt hiu của rừng núi lại càng làm đậm thêm những
tấm lòng son sắt thủy chung

Câu thơ “mình đi mình có nhớ mình” có nhiều cách hiểu căn cứ vào những nét nghĩa khác nhau của
từ “mình” thứ ba ở cuối câu thơ. Có thể hiểu “mình” là “ta” – người ở lại, khi ấy câu hỏi sẽ xao
xuyến một nỗi nhớ nhung, day dứt một niềm trăn trở: mình đi, mình có còn nhớ đến ta không – đây
cũng là nỗi niềm da diết trong suốt bài thơ. Cách hiểu này cho thấy sự hòa nhập, gắn kết thật đằm
thắm giữa “ta” và “mình”, người đi và kẻ ở, tuy hai mà một, không thể chia xa, tách rời. Đồng thời
có thể hiểu “mình” là người ra đi, Và khi ấy, câu hỏi sẽ trở thành lời nhắc nhở tha thiết, sâu xa và
nghiêm nghị: “mình” đi, “mình” có nhớ và giữ được mãi là con người mình của “mười lăm năm ấy”
– con người “ta” yêu mến, trân trọng, nhớ thương; có mãi còn là con người bất khuất, nghĩa tình đã
sát cánh bên “ta” trong kháng chiến, đã cùng “ta” chia ngọt sẻ bùi trong quá khứ? Đây cũng có thể
coi là lời nhắc: đừng đánh mất chính con người mình trong cuộc sống phồn hoa đô hội, đừng bao giờ
quên “mảnh trăng giữa rừng”, đừng bao giờ quên những năm tháng kháng chiến gian khổ hào hùng,
khi trở về với cuộc sống hòa bình! (Liên hệ ánh trăng của Nguyễn Duy)

Câu thơ “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” đã thể hiện được những tầng ý nghĩa sâu sắc. Mái
đình Hồng Thái và Cây đa Tân Trào đã được tách ra trong hai vế của câu thơ: Tân Trào, Hồng Thái
là những địa danh lịch sử, trong đó đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội tháng 8 năm 1945,
thành lập Ủy ban dân tộc giải phòng và phát động lệnh tổng khởi nghĩa; bên gốc cây đa Tân Trào, đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã làm lễ xuất phát chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa; vế thứ hai
của câu thơ là “mái đình, cây đa” – những hình ảnh bình dị, quen thuộc và xưa cũ vô cùng của làng
quê Việt Nam, là nơi tụ họp hẹn hò, là không gian gần gũi thân yêu với cả cộng đồng và đôi lứa. Hai
tiểu đối trong câu thơ đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người dân với cách mạng và kháng chiến:
Khi Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, khi người dân Việt Bắc một lòng đi theo cách mạng
thì những sự kiện lớn lao của cách mạng sẽ trở thành sự quan tâm thiêng liêng, thành những tâm tư
sâu nặng trong lòng người; những địa danh lịch sử cũng trở nên gần gũi như cây đa, bến nước, con
đò. tình cảm của nhân dân với người kháng chiến cũng trở nên thân yêu như tình làng nghĩa xóm hay
tình yêu đôi lứa.

Chỉ với 12 câu thơ trong khổ 3 của bài VB, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài
niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách
Mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tó Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc
sắc hai cụm từ đối lập mình đi mình v ề .Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng
trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì mình đi mình v ề đều chỉ một
hướng là về xuôi,về Hà Nội.Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 – 4/4 đều
đận, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của
võng đong đưa, rất phù hợp vối phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc
của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài VB. Những chi tiết về ánh
sáng và tình người, từ miếng cơm chấm muối, trám bùi,măng mai, mái nhà hắt hiu
lau xám đến mối thù hai vai chung gánh, những tấm lòng son sẽ không bao giờ
phai nhạt,sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân VB,của
những cán bộ về xuôi.

You might also like