Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA CHÍNH TRỊ VÀ NHÂN VĂN


--------------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG


VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC
VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thái Phượng

Mã sinh viên: 2312770054

Số thứ tự: 78

Lớp tín chỉ: TRIH114.5

Giảng viên hướng dẫn: TS. Thân Thị Hạnh

Hà Nội, 10/2023
MỤC LỤC
LỜI NÓI MỞ ĐẦU
Do những sai lầm, hạn chế trong nhân thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội và
đường lối lãnh đạo từ cuối những năm 70 đến đầu những năm 80 của thế kỷ XX, tình
hình kinh tế- xã hội Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng đặt Đảng Cộng sản Việt
Nam trước nhiệm vụ tiến hành công cuộc cải tổ đất nước. Trải qua 35 năm đổi mới, đất
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, diện mạo đất nước đã thay đổi, đời sống
nhân dân ngày được nâng cao cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, cũng như có vị thế ngày
càng gia tăng trên trường quốc tế. Song song với những thành tựu to lớn, thì vẫn còn
tồn tại nhiều hạn chế, cũng như những thách thức trong môi trường cạnh tranh khốc
liệt. Vì vậy, câu hỏi được đặt ra ngay lúc này là làm sao để tận dụng được những tiềm
lực hiện có, và khắc phục các khuyết điểm còn tồn tại. Trong các nhiệm kỳ Đại hội
Đảng vừa qua, công cuộc đổi mới luôn được Đảng ta xác định rõ ngay trong chủ đề của
Đại hội. Đại hội XI của Đảng xác định "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới …". Đại hội XII cũng nhấn mạnh "… đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới ". Chủ đề của Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: "…tiếp tục đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới…"
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trong đó đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động” và trong văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ XIII nêu rõ: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng
giai đoạn”. Bởi vậy ta cần theo sát lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin trong công cuộc
đổi mới để tránh bị ảnh hưởng của thế lực thù địch quấy phá, rút kinh nghiệm từ sự tan
rã của Liên Xô, từ đó hiểu được quy luật, tình hình phát triển, xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ta có thể khẳng định rằng: “Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở
Việt Nam tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học, trong đó hạt nhân là phép biện
chứng duy vật”
Thông qua đó, tôi với tư cách là một người sinh viên cũng là công dân của đất
nước Việt Nam xin chọn viết về đề tài:
“Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và vận
dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay”
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích vận dụng các kiến thức đã học nêu lên mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức từ đó đưa ra những nhận định, lý giải, phân tích về
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Page | 2
NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỂN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC
Trước khi đề cập đến quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức, ta cần làm rõ hai khái niệm vật chất và ý thức:
1.Vật chất
1.1. Định nghĩa
1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác
về vật chất
- Chủ nghĩa duy tâm trước Mác: Thừa nhận sự tồn tại của sự vật, hiện tượng nhưng
phủ định đặc tính tồn tại khách quan của vật chất.
- Chủ nghĩa duy vật trước Mác
+ Chủ nghĩa duy vật cổ đại: Cho rằng vật chất là cơ sở đầu tiên của sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan tuy nhiên lại lấy một vật chất cụ thể để giải thích cho toàn bộ
thế giới vật chất.
+ Chủ nghĩa duy vật cận đại: Đồng nhất vật chất với khối lượng, tách rời vật chất
khỏi vận động, không gian, thời gian.
1.1.2. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất
1.1.2.1. Quan niệm của Ph.Ănghen về vật chất
- Ông cho rằng để có một quan niệm đúng đắn về vật chất cần phân biệt riêng rẽ giữa
vật chất và tính cách là một phạm trù triết học,một công trình trí óc của tư duy trong
quá tình phản ánh hiện thực chứ không phải là sản phẩm chủ quan của tư duy.
- Quan niệm tuy sự vật hiện tượng của thế giới rất phong phú đa dạng song chúng vẫn
có một đặc tính chung, thống nhất là tính vật chất- tính tồn tại độc lập không lệ thuộc
vào ý thức.
1.1.2.2. Quan niệm và định nghĩa của V.I.Lenin về vật chất
- Đứng trước sự phá sản của quan điểm duy vật siêu hình, Lenin đã tổng hợp toàn diện
những thành tựu mới nhất của khoa học và chống lại chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm khi
chỉ rõ cái bị tiêu tan không phải vật chất mà là giới hạn hiểu biết của con người về vật
chất.

Page | 2
- Ông cũng đã tìm một phương pháp định nghĩa mới cho phạm trù vật chất, là thông
qua cái đối lập với nó để định nghĩa về nó, dùng ý thức để định nghĩa vật chất. Cũng từ
đó đưa ra được đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”
- Từ định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin, ta có thể nhận định được các nội dung cơ
bản như sau:
+ Thứ nhất, cần phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học, là kết quả của
sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các
sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất
đi với khái niệm “vật chất” được sử dụng trong khoa học chuyên ngành, là những sự
vật, những hiện tượng là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có quá trình
phát sinh, phát triển, chuyển hóa.
+ Thứ hai, tồn tại khách quan là thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của vật chất
trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập,
không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức được hay
không nhận thức được nó.
+ Thứ ba, vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm
giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người;
vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
1.2. Các phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
1.2.1. Phương thức tồn tại của vật chất
- Vận động:
+Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại
của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Vận động nói chung là vĩnh viễn. Vận
động của vật chất là vận động tự thân. Vận động sinh ra cùng với sự vật và chỉ mất đi
khi sự vật mất đi. Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động
mà biểu hiện sự tồn tại của nó với các hình dạng phong phú, muôn vẻ, vô tận.
+ Dựa vào những thành tựu khoa học đương thời, Ph.Ăngghen đã chia vận động của
vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội.
- Đứng im:

Page | 2
+Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái ổn định về
chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức
biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động
chuyển hoá của vật chất. Đứng im chỉ có tính tạm thời và được bao hàm trong sự
chuyển động không ngừng của vật chất.
Vận động và đứng im tạo nên sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập trong
sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng, nhưng vận động là tuyệt
đối, còn đứng im là tương đối
1.2.2. Hình thức tồn tại của vật chất
- Dựa trên những thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng
khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian và thời gian
là hình thức tồn tại của vật chất. Trong đó:
+ Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại,
trật tự, kết cấu, sự tác động lẫn nhau.
+ Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp
của quá trình.
- V.I.Lênin viết: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất
đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”.
Không gian và thời gian là hai hình thức tồn tại khác nhau của vật chất vận động,
nhưng về thực chất là một thể thống nhất không - thời gian. Tính chất và sự biến đổi
của không gian luôn gắn liền với tính chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại.
1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
+ Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước,
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
+ Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không mất đi.
+ Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện
ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, có nguồn
gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những qui luật khách
quan, phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì khác ngoài
những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên
nhân và kết quả của nhau.

Page | 2
2. Ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
- Nếu như chủ nghĩa duy tâm quan niệm ý thức là bản thể đầu tiên, chi phối toàn bộ
thế giới và chủ nghĩa duy vật siêu hình coi ý thức là một dạng vật chất, do vật chất sản
sinh ra thì đến chủ nghĩa duy vật biện chứng đã nhận định ý thức xuất hiện là kết quả
của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, lịch sử, là kết quả trực tiếp của thực
tiễn xã hội- lịch sử của con người.
- Có hai nguồn gốc của ý thức:
+ Nguồn gốc tự nhiên ( điều kiện cần): là sự xuất hiện con người và hình thành bộ óc
của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan.
+ Nguồn gốc xã hội ( điều kiện đủ): Ph.Ăngghen đã viết: “Sau lao động và đồng thời
với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu cải biên bộ óc của con vượn
thành bộ óc của con người, cải biến tâm lý động vật thành ý thức”. Con người nhờ có
lao động mới làm nảy sinh ra những quan hệ xã hội, mà trước hết là quan hệ trong sản
xuất. Từ những quan hệ này làm nảy sinh ra ngôn ngữ. Ngôn ngữ được xem là vỏ vật
chất của tư duy, hay là công cụ để tư duy, nó được xem là tín hiệu thứ hai mà nhờ có
nó ý thức con người cũng được hình thành và phát triển.
- Nếu thiếu một trong hai nguồn gốc trên thì không có ý thức
2.2. Bản chất của ý thức
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là hình ảnh về hiện thực
khách quan trong óc người. Nội dung phản ánh là khách quan nhưng hình thức phản
ánh là chủ quan.
- Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người một cách chủ
động, sáng tạo. thể hiện ở:
+ Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh.
+Xây dựng các học thuyết, lý thuyết khoa học.
+ Vận dụng để cải tạo hoạt động thực tiễn.
- Ý thức mang bản chất lịch sử xã hội.
2.3. Kết cấu của ý thức
- Gồm bốn yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin và ý chí. Trong đó:
+ Tri thức là sự hiểu biết của con người về các sự vật hiện tượng trong thế giới khách
quan. Tri thức có hai cấp độ: tri thức cảm tính và tri thức lý tính.
Page | 2
+ Tình cảm, niềm tin, ý chí là những trạng thái khác của tâm lý con người.
+ Trong bốn yếu tố trên tri thức là yếu tố quan trọng nhất vì tri thức là phương thức
tồn tại của ý thức.
- Theo chiều sâu của nội tâm: ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,đặc biệt là
của triết học hiện đại”. Tùy vào lập trường thế giới quan khác nhau mà có đường lối
giải quyết riêng, cơ bản kể đến là chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật.
3.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy tâm: ý thức quyết định vật chất. Ý thức là tồn tại duy nhất, có tính
quyết định còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, là tính thứ hai do ý thức sinh ra. Phủ
nhận tính khách quan, hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: tuyệt đối hóa yếu tố vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý
thức. Phủ nhận tính độc lập tương đối và tính năng động, sáng tạo của ý thức trong
hoạt động thực tiễn, rơi vào trạng thái thụ động, ỷ lại, trông chờ không đem lại hiệu
quả thực tiễn.
3.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
3.2.1. Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức:
Vật chất “sinh ra” Ý thức vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người
cách đây ba đến bảy triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển,
tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất.
- Thứ hai, vật chất quyết dịnh nội dung của ý thức:
Dưới bất kì hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà
trong nội dung của nó chẳng qua là khách quan của sự phản ánh hiện thực vào trong bộ
óc con người.
-Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức:
Phản ánh ý thức là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính thực
tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người – là cơ sở để hình
thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh vừa sáng tạo,
phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.

Page | 2
-Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
Mọi sự tồn tại và phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất.
Vật chất thay đổi thì sớm hay muộn ý thức cũng phải thay dổi theo
3.2.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế
giới vật chất vào trong đầu óc con người, do thế giới vật chất sinh ra nhưng lại có “đời
sống” riêng. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, song hành với hiện thực, nhưng nhìn
chung nó thường thay dổi chậm so với sự biến đổi vật chất. Ngoài ra, ý thức còn mang
tính lạc hậu, kế thừa, vượt trước.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện,
hoàn cảnh vật chất phục vụ cho cuộc sống con người. Còn tự bản thân ý thức thì không
thể biến đổi được hiện thực
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người. Ý thức tác động trở lại vật chất theo hai hướng tiêu cực và tích cực. Tích cực
khi con người có tri thức đúng đắn, có nghị lực, ý chí và tình cảm tích cực thì con
người có khả năng hành động hợp quy luật khách quan. Tiêu cực là khi con người
không có tri thức đúng đắn, thiếu tình cảm, ý chí cách mạng sẽ nhận thức sai lầm và
hành động trái quy luật khách quan.
- Thứ tư, vai trò của ý thức chính là vai trò hoạt động tri thức của con người được điều
khiển bởi ý thức. Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó
không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, nên phải dựa
vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu
quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý
chí và tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Dựa trên quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chủ nghĩa
duy vật biện chứng đã phát triển những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, tổng quát
nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc này là: Mọi hoạt
động nhận thức, thực tiễn đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan và phải tôn trọng
tính khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Về nguyên tắc có thể nói
như sau: rằng mọi hoạt động của con người, cả trong nhận thức lẫn thực hành, đều có ý
nghĩa và có tác dụng tối ưu chỉ khi nó xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng tính
khách quan và phát huy động lực chủ quan; tôi có thể. Tôn trọng khách quan có nghĩa
là bắt đầu từ và có thái độ tôn trọng hiện thực khách quan. Về cơ bản, con người phải
Page | 2
tôn trọng và thừa nhận pháp luật, hành động theo pháp luật, tôn trọng vai trò quan
trọng của đời sống vật chất trong đời sống tinh thần của con người và xã hội. Để thực
hiện được, việc này đòi hỏi trong suy nghĩ và hành động, con người phải bắt nguồn từ
hiện thực khách quan để định rõ mục đích, đưa ra đường lối chiến lược, chủ trương,
chính sách, phương pháp một cách đúng đắn; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở;
phải tìm ra tổ chức và xây dựng những nhân tố vật chất thành lực lượng vật chất để
hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan có nghĩa là phát huy vai trò chủ động, năng động,
sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò của yếu tố con người trong việc cụ thể hóa tính
tích cực, năng động, sáng tạo này. Nó đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa
học, nâng cao dân trí, khuyến khích nhân tài, tích cực học tập, nghiên cứu để nắm vững
tri thức khoa học và phổ biến nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn
quần chúng hành động. Đồng thời, chúng ta phải có ý thức trau dồi, rèn luyện bản thân
để hình thành và xây dựng một quan điểm sống phù hợp, kết hợp giữa khoa học nhân
văn và nhân văn. Trong nhận thức và thực tiễn, cần phát huy vai trò của yếu tố con
người, phòng ngừa và khắc phục các bệnh lý tự nguyện chủ quan, chủ nghĩa kinh
nghiệm, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, lý luận. Chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
II. THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Thực trạng đổi mới ở nước ta hiện nay
Công cuộc đổi mới gắn liền với vận mệnh của dân tộc Việt Nam. Trong suốt 35 năm
đổi mới, Đảng và nhà nước không chỉ phục hồi được nền kinh tế đang lâm vào tình
trạng khủng hoảng mà còn đưa đất nước bước vào thời kỳ mới với những thành tựu
đáng tự hào. Tồn tại song hành với các thành tựu to lớn là những hạn chế, nhược điểm
còn tồn đọng. Tất cả đều có thể được đánh giá khái quát như sau:
1.1. Thành tựu
- Trên phương diện kinh tế:
+ Từ một nền kinh tế lạc hậu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường hiện đại định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam vươn lên trở thành điểm sáng tăng trưởng với
nền kinh tế ngày càng tăng trưởng về quy mô lẫn chất lượng tăng trưởng. Cụ
thể: Giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP đạt 7%, tốc độ tăng GDP bình
quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức 6,8%, ngay cả trong thời kỳ chịu ảnh hưởng
của dịch COVID-19 nền kinh tế vẫn tăng trưởng gần 3%. Quy mô nền kinh tế
được mở rộng đáng kể, GDP đạt khoảng 262 tỷ USD vào năm 2019, tăng 18 lần
Page | 2
so với năm đầu đổi mới, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 2.800
USD/người và thuộc các nước có mức thu nhập trung bình trên thế giới.
+ Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu nền công
nghiệp ngày càng tang.
+ Tỷ lệ lạm phát dần được kiểm soát từ mức ba chữ số những năm đầu của thời
kỳ đổi mới xuống mức mục tiêu 4% trong suốt giai đoạn 2016 - 2020.
+ Ngoài khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực doanh nghiệp có vốn nước
ngoài, nhiều động lực tăng trưởng mới đang xuất hiện. Khu vực tư nhân đang
phát triển mạnh mẽ, số lượng công ty thành lập mới tăng nhanh cả về số lượng
và vốn đăng ký, làn sóng khởi nghiệp sáng tạo đang lan rộng rộng rãi với nhiều
mô hình kinh doanh độc đáo, hiệu quả. Môi trường kinh doanh Hoạt động kinh
doanh trong nước được cải thiện và khả năng cạnh tranh quốc gia được tăng
cường. Tự do, bình đẳng trong kinh doanh và khả năng tiếp cận các cơ hội kinh
doanh sẽ được cải thiện.
- Trên phương diện chính trị:
+ Đổi mới trên ba phương diện: Đổi mới tư duy chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam; Đổi mới thể chế chính trị, cụ thể là đổi mới Hiến pháp và pháp luật;
Những biểu hiện dân chủ hóa trong đời sống chính trị thực tế
+ Đảng và Nhà nước ta đã chủ động hướng đến bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc, Mỹ và gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
giúp nước ta thoát khỏi tình cảnh bị bao vây, cô lập. Cho đến hiện tại Việt Nam
là thành viên ưu tú của nhiều tổ chức quốc tế có được sự tín nhiệm của bạn bè
quốc tế, điển hình như khi Việt Nam lần thứ hai trúng cử làm Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang, một mặt, tăng cường xây dựng Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; mặt khác, quyết liệt đấu
tranh với tham nhũng, lãng phí. Tiêu điểm nóng những ngày gần đây về xử phạt
nạn tham ô, nhận hối lộ là vụ chuyến bay “giải cứu” công dân trở về nước.
- Trên phương diện văn hóa- giáo dục:
+ Nhờ tác động của hội nhập toàn cầu, quan điểm hội nhập đầy đủ, toàn diện
của Đảng văn hóa Việt Nam ngày càng được biết đến rộng rãi trên trường quốc
tế. Văn hóa trở thành cầu nối quan trọng của Việt Nam với thế giới. tạo nên một
điểm đến hấp dẫn, thú vị. Qúa trình hội nhập giúp nền văn hóa được tiếp thu
những tinh hoa của thế giới, nhân loại, làm phong phú thêm con người Việt tạo
nên những con người mới với những phẩm chất phù hợp với thời đại.

Page | 2
+ Chất lượng giáo dục đại học từng bước được nâng lên và tiếp cận các chuẩn
mực quốc tế. Năm 2019, giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia
trên thế giới (tăng 12 bậc so với năm 2018). Công tác kiểm định và bảo đảm
chất lượng ngày càng đi vào nề nếp. Thứ hạng của các trường đại học ngày càng
tăng. Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy.
1.2. Hạn chế
- Tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm năng, lực lượng
sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh
quốc tế chưa cao. Chưa sử dụng được tối đa tiềm lực hiện có, phân bổ nguồn tài
nguyên chưa hợp lý, thiếu công bằng, lãng phí
- Hạn chế, bất cập trong nhận thức lý luận về đảng cầm quyền, nội dung, phương thức
cầm quyền của Đảng.Bất cập trong công tác lý luận của Đảng. Công tác lý luận vẫn
còn nhiều hạn chế trong việc đưa ra giải pháp trong thời kỳ đổi mới. Tình trạng tham
nhũng, đút lót vẫn còn tồn tại.
- Nguy cơ bị tụt hậu so với thế giới. Tuy Việt Nam ngày càng phát triển nhanh hơn
song so với sự phát triển của các nước thì vẫn có sự chênh lệch khá lớn về nhiều mặt.
Nguy cơ bị “ hòa tan” trong quá trình hội nhập toàn cầu.
- Nền giáo dục còn nhiều hạn chế, tồn đọng như: cơ sở vật chất hạ tầng không đồng bộ,
nhiều nơi còn rất lạc hậu, vấn đề nặng lý thuyết và nhẹ thực hành. Không chỉ nền giáo
dục còn phải đối mặt với các nguy cơ mới như: bạo lực học đường, chảy máu chất
xám,…
2. Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý
thức vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Hiện nay, đứng trước bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn ra nhiều biến
chuyển phức tạp. Đất nước ta vừa có khả năng nắm bắt các cơ hội, thuận lợi vừa đứng
trước nhiều thách thức và vấn đề nan giải mới được đặt ra. Đối với đất nước ta việc
kiên định với nền tảng chủ nghĩa Mác- Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề sống
còn trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển. Mối quan hệ giữa đổi mới, hội
nhập phản ánh quy luật mang tính biện chứng, là một vấn đề lý luận cốt lõi về đường
lối đổi mới ở ta, phản ánh mục tiêu, điều kiện, phương thức để tiếp tục đưa đất nước
phát triển nhanh, bền vững và bảo vệ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đầu tiên, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa đổi mới, hội nhập và phát triển có nền
tảng từ đổi mới, do những bối cảnh thời đại mới mà những nhiệm vụ, vấn đề cấp bách
cũng thay đổi. Đổi mới là sự tất yếu của phát triển. Đổi mới toàn diện gắn liền với dân
chủ hóa, là tư tưởng giải phóng, để khai thác, phát huy, tận dụng tốt nhất có thể mọi
Page | 2
tiềm năng hướng tới sự phát triển bền vững, thịnh vượng, giúp đất nước ngày càng phát
triển, hiện đại hơn. Đổi mới không chỉ là tiền đề mà còn là điều kiện và động lực của
hội nhập phát triển. Đổi mới là vấn đề đặt biệt cấp thiết trong bối cảnh tình hình thế
giới hiện nay và trong những năm sắp tới khi đứng trước tình hình xung đột chính trị
căng thẳng, ô nhiễm môi trường, nóng lên toàn cầu. Đổi mới toàn diện và đột phá là
đổi mới về tư duy, Đảng và toàn dân quân ta cần có tầm nhìn tư duy chiến lược, ý chí
vươn lên, khát vọng vì một tương lai tươi sáng của toàn dân tộc. Tuy vậy, đổi mới cũng
cần tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, từ những bài học kinh
nghiệm và nghiên cứu lý luận vào hướng giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra
sao cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam và xu thế phát triển của nhân loại. Đây là vấn
đề có tính nguyên tắc cần quán triệt rõ ràng. Đổi mới tư duy dựa trên lý luận, tư tưởng
Hồ Chí Minh là tuyệt đối không phiến diện, chủ quan, duy ý chí phải có cái nhìn khách
quan, đúng đắn về thực tiễn cũng như mối quan hệ giữa đổi mới và kiên định. Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ “cần phải nắm vững và xử lý tốt mối
quan hệ giữa kiên định và đổi mới, vận dụng sáng tạo”. Kiên định không đồng nghĩa
với bảo thủ, cứng ngắc ta cần phân rõ sự khác biệt giữa hai từ để có thể vận dụng đổi
mới, sáng tạo một cách đúng đắn, kiên định là sự vững vàng, giữ vững ý niệm ban đầu
không để bị dao động. Kiên định có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của một đất
nước nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Kiên định với chế độ, tin tưởng vào chủ
nghĩa Mác – Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh ấy chính là con đường cách mạng đúng
đắn cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Tuy vậy, ta cần biết vận dụng sáng tạo các lý luận,
nguyên tắc vào thực tiễn đời sống chứ không thể lệ thuộc hoàn toàn. Đảng ta cần luôn
luôn có sự sáng tạo, đổi mới trong tư duy, đường lối lãnh đạo theo tinh thần biện chứng
của chủ nghĩa Mác- Leenin. Đổi mới, sáng tạo hiện nay chính là một cuộc cách mạng.
Nếu ta không thay đổi để bắt kịp thời đại, bắt kịp sự vận động của thế giới khách quan
thì bị tụt lại trong tiến trình phát triển của loài người. Bài học xương máu đến ngay từ
chính “người anh cả” Liên Xô khi cải cách muộn màng, đổi mới lại không phù hợp với
thực tiễn, cuối cùng mất đi sự kiên định với chế độ và kết cục là sự tan rã của Liên
bang Xô. Xã hội, con người luôn luôn thay đổi bởi vậy phát triển luôn đi đôi với đổi
mới, đổi mới cần nắm vững quy luật phát triển, khách quan, xu thế thời đại. Đi cùng
đổi mới cũng cần có sự kiên định nhằm chống lại, phản bác các luận điệu sai trái, thù
địch của các thế lực phản động. Kiên định phải gắn với sáng tạo, linh hoạt, đổi mới dựa
trên cơ sở kiên định với những vấn đề có tính nguyên tắc phù hợp với thực tiễn Việt
Nam.
Tiếp đến, hội nhập - từ hội nhập kinh tế đến hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng - là
điều kiện, là phương thức tất yếu để đổi mới gắn liền với mở cửa, hướng ra bên ngoài,
tìm kiếm các ngoại lực nhằm tăng cường nội lực cho phát triển bền vững ở nước ta. Ta

Page | 2
nhận định rõ bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến trình
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức. Nước
ta một mặt có cơ hội rút ngắn khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế
của mình. Đồng thời đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ
hội, khắc phục được những yếu kém để vươn lên. Điều này đòi hỏi các nhà doanh
nghiệp phải hết sức nhanh nhạy nắm bắt thông tin, áp dụng những thành tựu của khoa
học công nghệ vào trong kinh doanh, có như thế mới mong có cơ hội phát triển. Đồng
thời đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục
được những yếu kém để vươn lên. Điều này đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải hết sức
nhanh nhạy nắm bắt thông tin, áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ vào
trong kinh doanh, có như thế mới mong có cơ hội phát triển. Tích cực mở rộng quan hệ
quốc tế, làm sâu sắc them mối quan hệ hợp tác giữa các bên, đặc biệt là các đối tác
chiến lược nhằm khẳng định vai trò, vị trí của đất nước trên trường quốc tế “là bạn, đối
tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Thể hiện thái độ yêu
chuộng hòa bình và trung lập khi giao lưu, hợp tác. Tuy vậy, cần khẳng định rõ quyền
tự quyết độc lập của đất nước tránh rơi vào tình trạng lệ thuộc vào các nước khác, đặc
biệt không nhân nhượng đối với các vấn đề liên quan đến lãnh thổ, biên giới.
Cuối cùng, cần đặc biệt chú ý đến mặt trận văn hóa – giáo dục. Cần tuyên truyền,
quảng bá rộng rãi hơn về nền văn hóa, nét đẹp phong tục tập quán của Việt Nam đến
bạn bè quốc tế cũng như người dân trong nước. Lưu giữ, bảo tồn những nét đẹp truyền
thống, những văn hóa dân gian. Giáo dục là nền móng của cả một quốc gia, cần đặc
biệt chú trọng việc giảng dạy những bộ môn đặc thù như lịch sử, triết học Mác- Leenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh để nhân dân có cái nhìn đúng đắn tránh rơi vào những luận điệu
mê hoặc, sai lầm của thế lực thù địch. “Dân ta phải biết sử ta” cần phải biết được tiến
trình lịch sử, phát triển về tư tưởng của toàn thể dân tộc Việt Nam để hiểu được tính
đúng đắn, phù hợp của chế độ xã hội chủ nghĩa đối với vận mệnh đất nước, hiểu được
công lao,biết ơn thế hệ đi trước. Đây là một vấn đề cấp thiết nhất là trong thời kỳ công
nghệ thông tin phát triển kéo theo đó là sự phát triển của truyền thông, mạng xã hội với
những bài đăng không có sự kiểm chứng, sai lệch thông tin làm hoang mang dân
chúng. Có thể xảy ra các tình trạng “xâm lăng văn hóa”, làm xói mòn nền văn hóa, bị
truyền bá những tư tưởng xấu, đó là một điều hết nguy hiểm mà Đàng và nhà nước cần
có biện pháp quyết liệt hơn. Việt Nam cần có cách tiếp cận mới đối với các phương
tiện truyền thông xã hội, không chỉ dừng ở chỗ coi chúng là đối tượng quản lý.

Page | 2
KẾT LUẬN
Qua đề tài trên, chúng ta đã hiểu kĩ hơn về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với
ý thức, đó là mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
khẳng định vật chất có trước, mang tính thứ nhất, tính quyết định, ý thức có sau, mang
tính thứ hai, bị quyết định. Song, ý thức lại có tác động trở lại vô cùng quan trọng đối
với vật chất. Nó có thể làm cho vật chất phát triển, biến đổi theo nhu cầu, ý muốn,
nhưng đồng thời nó cũng có thể làm cho vật chất không phát triển, bị kìm hãm, tụt hậu.
Từ đó, ta có thể rút ra được bài học nhằm đóng góp cho công cuộc đổi mới của đất
nước. Ta phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống hàng
ngày, vì vật chất quyết định ý thức nên con người cần phải ý thức được những vật chất
của cuộc sống còn thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế khách quan. Mọi
đường lối, chính sách, phương hướng mục tiêu đề ra, hoạch định ra phải được xuất phát
từ thực tế điều kiện nước nhà. Chỉ khi thực hiện được các giải pháp một cách hợp lý,
đồng bộ và hiệu quả thì quá trình đổi mới càng được đẩy mạnh phát triển, đóng góp
quan trọng cho việc xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Chúng ta phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động, cần
chú trọng phát triển tri thức của bản thân, phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và
không chủ quan trong mọi tình huống. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn điều
chỉnh, sửa đổi hệ thống pháp luật trong nước, tuy nhiên, phải có lộ trình, bước đi cẩn
trọng, để vừa củng cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập quốc tế thành công; tăng cường hội
nhập, giao lưu văn hóa nhưng cần phải hòa nhập, không phải “hòa tan”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Page | 2
1.

Page | 2

You might also like