Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 34

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ NĂM 2022

A. TÁC GIẢ
1. Con người
– Giàu lòng yêu nước và tinh thần dân
tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng: Gắn với những giá trị văn hóa
cổ truyền của dân tộc.
– Ý thức cá nhân phát triển rất cao (Ngông- hơn đời hơn người dựa trên
tài và nhân cách) Ông viết văn là để khẳng định cá tính độc đáo của mình, sống
tự do phóng túng, ham thích du lịch để tìm kiếm vẻ đẹp
– Rất mực tài hoa. Ông không chỉ là nhà văn mà còn là người am hiểu
nhiều ngành nghệ thuật khác( hội họa, điêu khắc, sân khấu…)
– Quí trọng nghề văn. Ông cho rằng nghệ thuật là một hình thái lao động
nghiêm túc.
2. Đặc điểm sáng tác
Trước cách mạng tháng Tám Sau cách mạng tháng Tám
- nhà văn lãng mạn: buồn, cô đơn, bế tắc, - nhà văn hăm hở hoạt động văn nghệ để
thiếu quê hương phục vụ cách mạng: tin yêu cuộc đời, ca
ngợi quê hương, đất nước
- Đề tài - Đề tài
+ Vang bóng một thời: tiếc nuối vẻ đẹp + Hướng tới cuộc kháng chiến của dân
của một thời đã qua (quá khứ) tộc
+ chủ nghĩa xê dịch + Công cuộc xây dựng XHCN ở miền
+ Trụy lạc Bắc
 tấm lòng yêu nước thầm kín qua việc + Khai thác vẻ đẹp quê hương, đất nước,
trân trọng những giá trị văn hóa cổ con người lao động mới
truyền Tình yêu nước qua sự ngợi ca, trân
trọng
- Quan niệm về cái đẹp và con người - Quan niệm về cái đẹp và con người
của NT của NT

+ tiếc nuối cái đẹp trong quá khứ + Tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống, lao
+ con người Nguyễn Tuân hướng tới và động, chiến đấu (hiện tại)
ca ngợi là những “con người đặc tuyển, + Nhân dân lao động mang vẻ đẹp đời
những tính cách phi thường”. thường

Thể loại Thể loại


- Truyện ngắn Thể loại tùy bút, bút kí

1
Giống nhau
- NT dành cả cuộc đời viết văn tìm kiếm cái đẹp
- Tài hoa, uyên bác
+ Khám phá phát hiện sự vật ở phương diện văn hoá, thẩm mĩ.
+ Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
+ Tô đậm những nét phi thường, tuyệt vời của cảnh vật, con người
+ Vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau trong
miêu tả
- Ngôn ngữ độc đáo (NT là thầy phù thủy về ngôn ngữ)
+ Từ vựng phong phú
+ Tổ chức câu văn xuôi có giá trị tạo hình cao, có nhạc điệu trầm bổng,
cách phối âm, phối thanh linh hoạt, tài hoa.

B. Tác phẩm
I. Khái quát chung
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Nằm trong tập bút kí Sông Đà (1960)
+ Miền Bắc đang nô nức xây dựng XHCN
+ Miền núi Tây Bắc được coi công trường lớn
+ SĐ mang đến nguồn than trắng góp phần xây dựng đất nước
+ Nhà văn, nhà thơ cũng hăm hở trở về TB để tìm nguồn cảm hứng sáng tác
2. Mục đích sáng tác
- Tìm chất vàng của thiên nhiên TB (ẩn dụ vẻ đẹp đặc trưng, quý giá của sông núi
miền TB)
- Tìm kiếm thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn con người lao động (ẩn dụ vẻ
đẹp trong tâm hồn, phẩm chất của con người lao động đã trải qua gian lao, thử
thách)
3.Hình tượng văn học
- Hình tượng Sông Đà (hung bạo và trữ tình)
- Hình tượng người lái đò
4. Tài liệu tham khảo
4.1. Thơ ca, văn học viết về Tây Bắc, Sông Đà
- Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh
(Ca dao)
- Tôi đi với sông Đà

2
Bao lần rồi vẫn lạ
Tôi thuộc ngầm thuộc đá
Tôi thuộc lũ thuộc dòng
(Với sông Đà- Vũ Quần Phương)
- Bài hát Dòng sông quê anh, dòng sông quê em
- So sánh Sông Đà với sông Hương
4.2. Nhận định về NT và SĐ
II. Tùy bút người lái đò Sông Đà
1. Đề về hình tượng Sông Đà
Kiến thức chung
- Viết hoa tên gọi Hung bạo Trữ tình
SĐ thể hiện trân
trong của nhà văn
- Cảnh đá hai bên bờ sông dựng - Vẻ đẹp dòng chảy của
vách thành SĐ
- Cảnh mặt ghềnh Hát loong - Màu nước SĐ
- Cảnh hút nước - Gợi cảm như cố nhân
- Cảnh thác nước - Bờ sông SĐ khi thuyền
- Cảnh thạch trận trôi trên trên sông
- SĐ đa tính cách, có diện mạo, tâm địa, kẻ thù số 1 của con người Tây Băc
- Mang đến vẻ đẹp văn hóa cho hơn 20 dân tộc anh em
- Tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên (đặc trưng cơ bản tạo nên vẻ đẹp riêng của
sông nước TB)

Đề 1.1. Trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà có đoạn viết:


“ Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng
xô gió/, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ
người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì
cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng
đang lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước
ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga
cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và
tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng
hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
3
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn
quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi
vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống
đáy cái hút Sông Đà – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh
nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ngược contre-plongée lên một cái
mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối
đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả
người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại
cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép
một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy
đánh phèn.

Phân tích đặc điểm hung bạo của Sông Đà qua đoạn trích trên. Từ đó, hãy chỉ ra
những đặc điểm của phong cách nghệ thuật viết tùy bút của Nguyễn Tuân.
A. Tìm hiểu đề
1. Yêu cầu về nội dung
- Phân tích đặc điểm hung bạo của Sông Đà qua đoạn trích trên 2.0
+ Cảnh mặt ghềnh Hát loong
+ Cảnh hút nước trên sông
- đặc điểm của phong cách nghệ thuật viết tùy bút của Nguyễn Tuân. 0.75
2. Phương pháp
- Phân tích
- So sánh với Sông Hương, câu thơ, câu văn viết về SĐ
- Bình luận
B. Lập dàn ý
1. Mở bài
Trực tiếp Gián tiếp
- Tác giả Nguyễn Tuân (vị trí, vai trò, phong cách nghệ * Cảm xúc về dòng
thuật) sông của quê hương
 NT là người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, suốt cuộc đời đất nước
say mê tìm kiếm cái đẹp. * Tác giả, tác phẩm,
 Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong đó thành vấn đề cần nghị luận.
công nhất là thể loại tùy bút
- Giới thiệu về Người lái đò SĐ (hcst; mục đích sáng
tác)
 Người lái đò SĐ là một trong những bài tùy bút xuất
sắc của nhà văn, in trong tập kí SĐ 1960
 Đó là thành quả của chuyến đi hăm hở và say mê
khám phá miền đất TB để nhà văn tìm kiếm chất vàng
của thiên nhiên
4
- Đoạn trích đề bài:
 Nhà văn đã tìm thấy chất vàng đó ở SĐ qua việc làm
nổi bật
+ vẻ đẹp hung bạo của SĐ. Trong đó, đoạn văn miêu tả
cảnh mặt ghềnh Hát Loong và những cái hút nước trên
sông được coi là ấn tượng nhất
+ phong cách nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân.

2. Thân bài
a. Khái quát chung về Sông Đà
- SĐ có nguồn gốc từ vùng núi Vân Nam TQ, chảy về biên giới VN từ huyện Mường
Tè, Lai Châu
- Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có diện mạo, tâm địa và
xuất hiện suốt từ đầu đến cuối thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm
này.
- Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, tác giả đã khám phá: hung
bạo và trữ tình.
- Hướng chảy độc đáo:
Ngay từ lời đề từ của tác phẩm
Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu
(Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông
Duy chỉ có sông Đà là ngược dòng chảy theo hướng Bắc)
Câu thơ chữ Hán của Nguyễn Quang Bích- một vị quan trấn thủ vùng núi Tây Bắc thế
kỉ XIX đã mang đến gợi mở cho NT bước vào hành trình khám phá SĐ
- Nguyễn Tuân đã ghi dấu vào lòng người đọc ấn tượng mạnh về sự ngang ngạnh
bướng bỉnh, lạ thường từ dòng chảy của con sông.
b. Vẻ hung bạo của Sông Đà qua đoạn trích
* Tính chất hung bạo thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông phía thượng nguồn
(dẫn chứng)
+ Câu văn tách thành nhiều vế, ngắt nhịp linh hoạt. Vế đầu là nhịp ngắn, nhanh; vế
sau nhịp dài
+ điệp từ “xô” , điệp cấu trúc và tăng tiến, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp
như sự chuyển động của gió to và sóng lớn trên mặt sông.

5
+ Từ láy “cuồn cuộn”giàu sức gợi hình giúp cho người đọc liên tưởng tới gió lớn hòa
với nước chảy dữ dội

+“gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa “đòi nợ xuýt bất cứ
người lái đò nào tóm được qua đấy”SĐ mang giọng điệu và tâm tính của một kẻ đi
đòi nợ thuê hung hãn, cuồng bạo
 với sự hợp sức của gió, của sóng và của đá. Dường như chúng phối hợp với nhau
một cách chặt chẽ để tăng thêm sức mạnh của dòng chảy, tạo ra mặt ghềnh sục sôi
sóng nước, uy hiếp, đe dọa con người.
- Chính vì thế NT đã cảnh báo: Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa
bụng thuyền ra.
 Con người không được coi thường quãng sông này, bởi dòng nước cuồng loạn có
thể lật tung con thuyền. Đi qua quãng sông này ko được chủ quan, giữ được tay lái
vững vàng.

* Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp:
- Những cái hút nước sông Đà còn đáng sợ hơn và thực sự trở nên hiểm ác trong trang
văn của Nguyễn Tuân.
+ những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm
móng cầu.
 Biện pháp so sánh và am hiểu của nhà văn về ngành xây dựng cầu đường, tác giả
giúp cho người đọc hình dung và liên tưởng độ sâu khôn cùng của những cái hút
nước. Hơn nữa nó còn gợi ra thế giới bí hiểm rình rập nhiều hiểm nguy không thể
lường trước được
+ Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc.
 nhân hóa qua những từ thở và kêu cùng biện pháp so sánh kết hợp nhuần nhuyễn
trong câu văn, NT đánh thức cảm nhận về thính giác của độc giả liên tưởng âm thanh
nước chảy cuồng loạn như một con mãnh thủ ẩn mình ở dưới lòng sông.
 Biện pháp so sánh lại đưa người đọc đến một liên tưởng khác về âm thanh của
tiếng nước. Nó dữ dội và ẩn chứa những hằn học đối với con người mà chỉ đợi con
thuyền đến là nó hiện nguyên hình làm kẻ thù số 1
+ những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.

6
 Từ láy ặc ặc gợi tả âm thanh cùng với biện pháp so sánh cùng kiến thức của ngành
hóa dầu giúp cho người đọc đọc hình dung âm thanh đáng sợ của hút nước. Nó như
một kẻ hủy diệt, ẩn ngầm ở dưới lòng sông khiến cho con người rất khó đoán định

 Chỉ có âm thanh của hút, NT miêu tả rất đa dạng bằng kiến thức của ngành thủy
lợi, hóa dầu. Tất cả đều mang đến cảm nhận về sự man dại, hoang dã nguy hiểm cận
kề của SD dành cho con người

- Bằng kinh nghiệm đi thuyền trên SĐ, con người hiểu sự nguy hiểm khôn cùng của
hút nước cho nên: Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy. Bởi vì hút
nước là nơi tử địa của dòng sông này, ai cũng phải tránh

- Nhưng nếu phải đi qua, thì người lái ứng biến linh hoạt: thuyền nào qua cũng chèo
nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một
quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực.

 Qua sự quan sát và trải nghiệm của nhà văn chúng ta thấy Tốc độ lái thuyền rất
nhanh, làm cho con thuyền lướt rất nhẹ mà bay qua hút nước.
 Cách lái ấy được nhà văn liên tưởng như cách lái ô tô thoát khỏi bờ vực. Thực là
gay cấn khi cảm nhận cảnh con thuyền đi qua hút nước.
- Nhưng có những con thuyền không may mắn:bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
 Câu văn miêu tả tường tận đến từng chi tiết cảnh con thuyền bị hút nước vồ lấy và
tra tấn dã man.
+ Trước tiên, với sức hút của bước nó làm cho thuyền bị hất tung và dựng đứng.
+ Khổ nhục hơn nữa hút nước kéo ngầm con thuyền trong đau đớn, bất lực ở dưới
lòng sông.
+ Đến khi thuyền có cơ hội nổi lên thì chỉ tan xác. Đó thực là cái chết thảm hại của
con thuyền và chứng minh khủng khiếp của những hút nước tử thần

- Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn muốn người đọc nảy ra ý tưởng điện ảnh táo
bạo. Nhà văn nghĩ đến chuyện một anh quay phim ngồi vào thuyền thúng rồi cho cả
mình, cả máy quay đi xuống hút nước để thu ảnh, truyền đến cho người đọc về hình
ảnh về hút nước ở dưới đáy
. Hình ảnh thu được một thành giếng xây toàn bằng nước, khối pha lê xanh như sắp
vỡ tan.
 Liên tưởng của nhà văn mang đến cảm giác vừa chiêm ngưỡng một khung cảnh
tuyệt mĩ của thiên qua góc quay táo bạo của người nghệ sĩ. Đồng thời chúng ta vừa sợ
hãi khi lo lắng cho anh quay phim
7
 Với tham vọng đem đến cho người đọc cảm giác chân thực, sống động nhất về sự
hung dữ của cái hút nước, Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân hùng hậu: ngôn ngữ
văn chương, điện ảnh, xây dựng, thủy lợi,.. Chỉ riêng trong đoạn văn đã có nhiều so
sánh, liên tưởng độc đáo. Người đọc dễ hình dung về cái hút nước khủng khiếp trên
sông Đà.
c. Đánh giá
* Nghệ thuật xây dựng hình tượng
Hình tượng sông Đà được xây dựng dựa trên:
- Các thủ pháp đối lập, nhân hoá, so sánh- Những liên tưởng, tưởng tượng táo bạo, bất
ngờ
– Hệ thống ngôn từ giàu có, phong phú, thể hiện vốn sống, vốn kiến thức uyên bác
của tác giả thuộc nhiều ngành:
* Phong cách nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân
- Tài hoa, uyên bác
- Đặc đặc ngôn ngữ trong bài tùy bút
- Thái độ, tình cảm của NT với SĐ

Đề 1.2.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái
hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng
đang lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước
ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga
cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và
tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng
hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn
quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi
vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống
đáy cái hút Sông Đà – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh
nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ngược contre-plongée lên một cái
mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối
đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả
người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại
cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép
một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy
đánh phèn.

8
Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã nghe thấy tiếng nước réo gần mãi
lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin,
rồi lại như là khiêu khích, giọng gần mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vẩu rừng tre nứa nổ lửa, đang phải
tuông rừng lứa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng...

Phân tích hình tượng Sông Đà qua đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về chất vàng
quý báu của cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc được nhà văn phát hiện qua áng văn xuôi
này

I. Tìm hiểu đề
- Phân tích hình tượng Sông Đà qua đoạn trích: Vẻ đẹp hung bạo của SĐ
+ Cảnh hút nước
+ Cảnh thác nước
- nhận xét về chất vàng quý báu của cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc.
II. Dàn ý

1. Mở bài
- Tác giả Nguyễn Tuân (vị trí, vai trò, phong cách nghệ thuật)
 NT là người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, suốt cuộc đời say mê tìm kiếm cái đẹp.
 Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong đó thành công nhất là thể loại tùy bút
- Giới thiệu về Người lái đò SĐ (hcst; mục đích sáng tác)
 Người lái đò SĐ là một trong những bài tùy bút xuất sắc của nhà văn, in trong tập
kí SĐ 1960
 Đó là thành quả của chuyến đi hăm hở và say mê khám phá miền đất TB để nhà
văn tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên
- Đoạn trích đề bài:
 Nhà văn đã tìm thấy chất vàng đó ở SĐ qua việc làm nổi bật
+ vẻ đẹp hung bạo của SĐ. Trong đó, đoạn văn miêu tả cảnh cái hút nước trên sông
và thác nước được coi là ấn tượng nhất

2. Thân bài
a. Khái quát chung về Sông Đà
- SĐ có nguồn gốc từ vùng núi Vân Nam TQ, chảy về biên giới VN từ huyện Mường
Tè, Lai Châu
- Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có diện mạo, tâm địa và
xuất hiện suốt từ đầu đến cuối thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm
này.
9
- Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, tác giả đã khám phá: hung
bạo và trữ tình.
- Hướng chảy độc đáo:
Ngay từ lời đề từ của tác phẩm
Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu
(Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông
Duy chỉ có sông Đà là ngược dòng chảy theo hướng Bắc)
Câu thơ chữ Hán của Nguyễn Quang Bích- một vị quan trấn thủ vùng núi Tây Bắc thế
kỉ XIX đã mang đến gợi mở cho NT bước vào hành trình khám phá SĐ
- Nguyễn Tuân đã ghi dấu vào lòng người đọc ấn tượng mạnh về sự ngang
ngạnh bướng bỉnh, lạ thường từ dòng chảy con sông trong đó có những cảnh miêu tả
vừa hùng vĩ vừa hoang dại
b. Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp:
- Những cái hút nước sông Đà còn đáng sợ hơn và thực sự trở nên hiểm ác trong trang
văn của Nguyễn Tuân.
+ những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm
móng cầu.
 Biện pháp so sánh và am hiểu của nhà văn về ngành xây dựng cầu đường, tác giả
giúp cho người đọc hình dung và liên tưởng độ sâu khôn cùng của những cái hút
nước. Hơn nữa nó còn gợi ra thế giới bí hiểm rình rập nhiều hiểm nguy không thể
lường trước được
+ Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc.
 nhân hóa qua những từ thở và kêu cùng biện pháp so sánh kết hợp nhuần nhuyễn
trong câu văn, NT đánh thức cảm nhận về thính giác của độc giả liên tưởng âm thanh
nước chảy cuồng loạn như một con mãnh thủ ẩn mình ở dưới lòng sông. Biện pháp so
sánh lại đưa người đọc đến một liên tưởng khác về âm thanh của tiếng nước. Nó dữ
dội và ẩn chứa những hằn học đối với con người mà chỉ đợi con thuyền đến là nó hiện
nguyên hình làm kẻ thù số 1
+ những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
 Từ láy ặc ặc gợi tả âm thanh cùng với biện pháp so sánh giúp cho người đọc đọc
hình dung âm thanh đáng sợ của hút nước. Nó như một kẻ hủy diệt, ẩn ngầm ở dưới
lòng sông khiến cho con người rất khó đoán định

10
- Chỉ có âm thanh của hút, NT miêu tả rất đa dạng bằng kiến thức của ngành thủy
lợi, hóa dầu. Tất cả đều mang đến cảm nhận về sự man dại, hoang dã nguy hiểm cận
kề của SD dành cho con người
- Bằng kinh nghiệm đi thuyền trên SĐ, con người hiểu sự nguy hiểm khôn cùng của
hút nước cho nên: Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy. Bởi vì hút
nước là nơi tử địa của dòng sông này, ai cũng phải tránh
- Nhưng nếu phải đi qua, thì người lái ứng biến linh hoạt: thuyền nào qua cũng chèo
nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một
quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực.
 Qua sự quan sát và trải nghiệm của nhà văn chúng ta thấy Tốc độ lái thuyền rất
nhanh, làm cho con thuyền lướt rất nhẹ mà bay qua hút qua hút nước. Cách lái ấy
được nhà văn liên tưởng như cách lái ô tô thoát khỏi bờ vực. Thực là gay cấn khi cảm
nhận cảnh con thuyền đi qua hút nước.
- Nhưng có những con thuyền không may mắn:bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
 Câu văn miêu tả tường tận đến từng chi tiết cảnh con thuyền bị hút nướcvô lấy và
tra tấn dã man. Trước tiên, với sức hút của bước nó làm cho thuyền bị hất tung và
dựng đứng. Khổ nhục hơn nữa hút nước kéo ngầm con thuyền trong đau đớn, bất lực
ở dưới lòng sông. Đến khi thuyền có cơ hội nổi lên thì chỉ tan xác. Đó thực là cái chết
thảm hại của con thuyền và chứng minh khủng khiếp của những hút nước tử thần
- Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn muốn người đọc nảy ra ý tưởng điện ảnh táo
bạo. Nhà văn nghĩ đến chuyện một anh quay phim ngồi vào thuyền thúng rồi cho cả
mình, cả máy quay đi xuống hút nước để thu ảnh, truyền đến cho người đọc về hình
ảnh về hút nước ở dưới đáy
. Hình ảnh thu được một thành giếng xây toàn bằng nước, khối pha lê xanh như sắp
vỡ tan.
 Liên tưởng của nhà văn mang đến cảm giác vừa chiêm ngưỡng một khung cảnh
tuyệt mĩ của thiên qua góc quay táo bạo của người nghệ sĩ. Đồng thời chúng ta vừa sợ
hãi khi lo lắng cho anh quay phim
 Với tham vọng đem đến cho người đọc cảm giác chân thực, sống động nhất về sự
hung dữ của cái hút nước, Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân hùng hậu: ngôn ngữ
văn chương, điện ảnh, xây dựng, thủy lợi,.. Chỉ riêng trong đoạn văn đã có nhiều so
sánh, liên tưởng độc đáo. Người đọc dễ hình dung về cái hút nước khủng khiếp trên
sông Đà.

c. Cảnh thác nước


- Khi thác nước ở xa
+ NT miêu tả âm thanh của tiếng thác nước bằng cảm nhận phong phú của thính giác
11
+ hệ thống từ ngữ miêu tả tâm trạng, cảm xúc của con người: réo gần, réo to, oán
trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo
+ Biện pháp nhân hóa đã biến thác nước SĐ trở thành đối thủ đang gầm gào, giận dữ,
đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện
+ Bút pháp miêu tả tài hoa của NT còn được thể hiện ở việc nhà văn dùng một hệ
thống từ ngữ tăng dần về cung bậc và sắc thái cảm xúc
 Điều đó cho thấy âm thanh của thác nước càng ngày càng hiện hữu và đến gần hơn
đối với người quan sát.
 Liệt kê tạo Bản hợp tấu âm thanh ấy cũng làm tăng dần cảm giác hãi hùng
cho người đọc khi hình dung ra thác nước SĐ sắp xuất hiện.

+ Độc đáo và tài hoa nhất của NT khi so sánh âm thanh của thác nước trong câu
văn: nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu
rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lứa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng...
++ Nhà văn đã sử dụng những hình ảnh đối lập đặt trong sự so sánh. NT lấy lửa để tả
nước, lấy rừng tả sông
++ Kết hợp với những từ ngữ gợi tả: lồng lộn, nổ lửa, phá tuông, gầm thét, bùng bùng
giúp cho người đọc liên tưởng về tiếng thác nước SĐ man dại, hung dữ như một đàn
thú rừng cuồng loạn tìm đường thoát thân trong khung cảnh kinh hoàng.

Cùng với âm thanh của những cây vầu, cây nứa nổ dữ dội trong biển lửa. Ngọn lửa
bốc cháy bùng bùng càng tô đậm thêm tính chất kinh hoàng của âm thanh thác nước.
 NT không chỉ mang đến cảm nhận về thính giác mà còn đánh thức cảm nhận
về thị giác, xúc giác của người đọc
- Khi thác nước hiện ra trước mắt, nhà văn như reo lên: Tới cái thác rồi!
Dường như gạt đi bao cảm xúc sợ hãi khi nghe tiếng thác nước từ xa, cảm xúc sung
sướng khi nhìn thấy thác nước hùng vĩ hiện ra ngay trước mặt.
+ Thấy sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đá
Trắng xóa tạo ấn tượng về sóng, về gió, bọt nước chảy rất nhanh, mạnh mang
đến hiệu ứng thị giác mê đắm trước thiên nhiên hùng vĩ
c. Nhận xét
* Nghệ thuật
* Chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc qua tùy bút
- chất vàng:

* Cảnh thạch trận


- Dưới thác nước là chân trời đá
+ Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết ở trong lòng sông
12
 nhân hóa cùng từ mai phục là từ ngữ chuyên dùng thuộc lĩnh vực quân sự để
thể hiện khả năng quan sát và miêu tả của nhà văn về trận địa đá SĐ rất bí hiểm, tồn
tại vĩnh hằn
g từ bao đời nay.
+ Dưới góc nhìn của nhà văn, mỗi hòn đá có diện mạo, có tâm tính và vai trò,
nhiệm vụ nhất định
++ Về diện mạo: mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm Dường
như đá cũng dự tợn, nằm ở dưới sông đợi con thuyền rất lâu
++ Nhiệm vụ của đá là ẩn mình ở dưới sóng nước, chờ đợi con thuyền xuất
hiện thì bất ngờ nhổm dậy để vồ lấy thuyền
+ Bằng hệ thống ngôn ngữ của ngành quân sự, thể thao, võ thuật tác giả dùng
loạt động từ miêu tả thạch trận
++ Đám tảng đám hòn bày ba hàng trên sông. Hàng tiền vệ có hai hòn đá tỏ ra
sơ hở nhưng nhiệm vụ của chúng là khiêu khích và dụ con thuyền lọt vào trận địa. Ở
tuyến ba là boong ke chìm và pháo đài nổi làm nhiệm vụ trấn thủ để cho sóng nước
bủa vây và đánh con thuyền
++ Nhân hóa, câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập: rung tít, reo hò, ùa vào, bẻ gãy,
thúc gối, đá trái, đội thuyền, đánh miếng đòn hiểm nhất, bám lấy thuyền….
 Với sự phối hợp của đá và sóng nước SĐ trở thành chiến trường khốc liệt
+ SĐ còn bày binh bố trận để chiến đấu con người
++Vòng đầu mở ra năm tử một sinh, bố trí tả ngạn
++ Tăng nhiều cửa tử, cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn
++ cả bên phải bên trái đều là luồng chết, cửa sinh duy nhất ở ngay bọn đá hậu vệ
giữa con thác
 Qua cách miêu tả sống động NT, người đọc khâm phục vừa sợ hãi trước khung
cảnh khủng khiếp nhất của SĐ được tái hiện trên trang văn. Đá của dòng sông không
phải im lìm ở dưới dòng sông mà nó dữ dội, nham hiểm bộc lộ rõ diện mạo, tâm địa
của kẻ thù số 1 của con người
b. Vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà
Từ trên cao nhìn xuống - Gợi cảm như một cố nhân Bờ sông Đà
- Dòng chảy
- Màu nước

* Sông Đà nhìn từ trên cao (dáng vẻ dòng chảy, màu nước SĐ)
- Từ trên cao nhìn xuống, NT có những cảm nhận tinh tế về dòng chảy của con
sông: Con SĐ tuôn dài tuôn dài….nương xuân”
+ Điệp ngữ tuôn dài tuôn dài gợi ra độ dài miên man của dòng sông, dòng chảy
uốn lượn qua những dãy núi của miền TB
+ Vế đầu của câu văn miêu tả chủ đạo dùng toàn thanh bằng mang đến liên tưởng
về dòng chảy êm ả, bình lặng của SĐ ở quãng hạ nguồn

13
+ So sánh dòng sông như áng tóc trữ tình. NT đã miêu tả vẻ đẹp mềm mại, kiềm
diễm, đằm thắm, duyên dáng đầy nữ tính
++ SĐ còn ẩn hiện giữa núi rừng TB tràn ngập sắc hoa ban hoa gạo làm nên vẻ
đẹp thơ mộng, huyền ảo, tươi tắn, tràn đầy sức sống
++ Nhà văn cảm nhận về dòng sông mang vẻ đẹp ấm áp, gần gũi qua hình ảnh:
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân
 Tg say ngắm SĐ bằng trái tim của người nghệ sĩ yêu cái đẹp, khát khao khám
phá vẻ đẹp của Tổ quốc thân yêu
 So sánh
(1) quan niệm về cái đẹp của nhà văn trước cách mạng
+ Trước CMT 8: tìm kiếm cái đẹp trong quá khứ: thú vui tao nhã, sự vật hoài cổ
+Sau CMT8: SĐ tìm kiếm cái đẹp của quê hương đất nước
(2)Ai đã đặt tên cho dòng sông: khai thác những câu văn miêu tả về dòng chảy
của SH
*Màu nước SĐ
- Vẻ đẹp trữ tình của SĐ còn hiện ra với màu sắc đầy biến ảo qua khả năng quan
sát dòng sông một cách tỉ mỉ và tinh tế của NT.
+ Trước hết, người đọc cùng hòa với niềm yêu của nhà văn nhìn ngắm SĐ : “Tôi
đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên SĐ,tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu
mà nhìn xuống dòng nước SĐ”
 Từ “say sưa” thể hiện cách nhìn, cách ngắm thiên nhiên của nhà văn mà
mang theo bao cảm xúc say mê, đắm đuối với hình ảnh con sông Tây Bắc bay bổng
và lãng mạn.
+ Mùa xuân dòng xanh ngọc bích,chứ nước SĐ không xanh màu xanh cánh hến
của Sông Gâm Sông Lô
Trong cùng một câu văn miêu tả, nhà văn đã dùng màu xanh tô đậm sắc nước
SĐ. Đó không chỉ là sắc xanh bình thường mà là xanh ngọc bích. Cách dùng từ và
liên tưởng độc đáo của NT thật khó có ai nghĩ đến.
 Nếu như trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông, HPNT có viết về màu nước
sông Hương xanh thẳm và có sự phản quang của ánh sáng trong ngày nên “sớm
xanh, trưa vàng, chiều tím” thì xanh ngọc bích của SĐ toát lên màu sắc trong sáng,
tinh khiết và cao quý. Ta sẽ rất khó bắt gặp màu xanh ấy lặp lại ở những dòng sông
khác
 Trước đó trong bài Đây thôn Vĩ Dã ta cũng đã từng thấy thi sĩ Hàn Mặc Tử
miêu tả màu xanh rất ấn tượng:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Với NT, xanh ngọc bích hội tụ sắc xanh trong, xanh biếc, xanh sáng mang đến vẻ
đẹp gợi cảm, trong lành của con sông khi nó hội tụ sắc màu của nước của núi của mây
trời Tây Bắc trong sắc xuân tươi mới.
 Nhà văn còn dùng vế câu so sánh màu nước SĐ không giống như màu xanh
cánh hến của SG, SL. Sự xuất hiện của những dòng sông khác càng làm tôn lên vẻ
14
đẹp ấn tượng của SĐ, càng khẳng định tình yêu say đắm mà nhà văn dành cho con
sông của miền TB này.
+ Mùa thu nước SĐ lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa
Từ láy lừ lừ giàu tính tạo hình gợi ra dòng chảy nặng nề, chầm rãi mang theo
phù sa từ phía thượng nguồn.
 Biện pháp so sánh màu nước SĐ với màu da của một người uống rượu rất
nhiều không chỉ làm hiện lên màu nước rất đặc trưng của SĐ trong mùa thu mà nhà
văn còn ngầm chỉ sức mạnh ẩn tàng của một dòng sông độc dữ, tích tụ trong lòng nó
những mối hiểm họa “năm năm báo oán, đời đời đánh ghen”
=> Với tình yêu của một người nghễ sĩ say mê tìm kiếm cái đẹp. màu nước SĐ
được miêu tả ở nhiều thời điểm, với những sắc thái khác nhau. SĐ luôn biết để nhớ để
thương trong lòng người với những vẻ đẹp không lặp lại mình

* SĐ gợi cảm như một cố nhân


- Quan sát ở điểm gần hơn, SĐ xuất hiện trong niềm yêu nhớ của nhà văn mang
vẻ đẹp gợi cảm như một cố nhân.
+ Đó là dòng sông đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Để thể hiện sự
gợi cảm của con sông gần thương xa nhớ ấy nhà văn đã kể một tình huống trải
nghiệm của bản thân. Đó là tình huống nhà văn đi rừng lâu ngày, trong lòng đã dấy
lên cảm giác thèm không gian thoáng đãng. Và khi bất ngờ nhìn thấy SĐ hiện ra trước
mặt nhà văn vỡ òa cảm xúc như thấy mình gặp lại một cố nhân

 Từ Hán Việt “cố nhân” cùng với biện pháp nhân hóa làm hiện lên vẻ đẹp
dòng sông gần gũi, ấm áp như gặp lại người bạn cũ vừa khoác lên cho dòng sông vẻ
đẹp trang trọng, cổ kính.

Nắng SĐ được miêu tả rất đẹp trong tâm thế của con người háo hức, khát khao vồ
vập khi đi từ phía rừng ra.

+ Khi bắt gặp ánh nắng chiếu vào mắt, trước một không gian rộng lớn hiện ra trước
mặt, nhà văn thấy: cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng Ba Đường thi

Cách dùng từ “miếng sáng” để chỉ mặt sông lấp lánh ánh nắng mang đến cho
SĐ vẻ đẹp rực rỡ mà còn gợi ra vẻ đẹp cổ kính mang phong vị Đường Thi

+ Nhìn nắng trên SĐ đánh thức niềm nhớ của nhà văn về vẻ đẹp của câu thơ tuyệt bút
của Lí Bạch: Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
 Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả vẻ đẹp của một cố
nhân và người nghệ sĩ mong được gặp.
Vị cố nhân ấy đẹp trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên, yên ả gợi bao nhung nhớ vấn
vương trong lòng người
15
+ Sau những câu văn miêu tả nắng trên SĐ, NT viết: Bờ SĐ, bãi SĐ, chuồn
chuồn bươm bướm trên SĐ”
Câu văn chia nhiều vế là sự kết hợp của nhiều chủ ngữ và chữ SĐ lặp lại ở
cuối mỗi vế câu như reo lên niềm say mê, phấn khích của nhà văn khi nhìn ngắm
khắp không gian mênh mông
+ Trong cảm nhận của nhà văn, gặp lại SĐ mang đến bao niềm cảm xúc
Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng.
 Điệp từ vui, so sánh độc đáo, nhằm cụ thể hóa những cảm xúc của con người
khi gặp lại con sông
Nắng giòn tan lầ ẩn dụ gợi cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng, thật nhẹ. Nó
mang vẻ đẹp mong manh nhưng thật quý giá. Nó xua tan cái cảm giác nặng nề, u ám
của những ngày mưa dầm.
Cách so sánh ấy giúp người đọc dễ hình dung vẻ đẹp tươi sáng, ấm áp và cảm
xúc lâng lâng, sảng khoải của nhà văn khi gặp lại con sông
Niềm vui tái ngộ SĐ còn được so sánh như niềm vui nối lại chiêm bao đứt quãng
 Việc nối lại giấc mơ là khát khao hiếm có trong đời. Được gặp lại SĐ đối với
NT đó là điều kì diệu như nối lại giấc mơ đẹp, nhà văn trân trọng cảm xúc vui sướng,
hạnh phúc niềm vui chưa từng có trên đời
+ Nó đằm đằm ấm ấm như một cố nhân
 Với từ đằm đằm ấm ấm SĐ thực sự hiện lên như một người bạn cũ, ấm áp,
thân thiện, người bạn thủy chung, điềm tĩnh đợi người đi xa trở về.
Trong cảm nhận của NT, người cố nhân ấy chốc dịu dàng, chốc lại bẳn tính, gắt
gỏng. Có thể nói ngay cả khi say mê trong niềm vui gặp lại SĐ, mê đắm trước vẻ đẹp
trữ tình của SĐ nhà văn vẫn chưa thể nào quên những trái tính trái nết của dòng sông
này.
Cũng chính vẻ đẹp đa dạng với những trạng thái đối lập của con sông mang đến
sức hút đối với người đã đến SĐ và càng có sức hấp dẫn, lôi cuốn nhà văn luôn khát
khao tìm kiếm cái đẹp

*Vẻ đẹp của bờ sông lặng tờ hoang dại


- Mở đầu đoạn văn: Thuyền tôi trôi trên sông Đà
Câu văn êm ái khi phối hợp toàn thanh bằng gợi sự chuyển động nhẹ nhàng
của con thuyền đưa nhà văn và tâm hồn người đọc đến khung cảnh êm đềm, thơ
mộng.
– Nội dung của đoạn văn nói về vẻ thơ mộng của sông Đà
+ Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm: câu văn mở đầu
đoạn hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; ý lặng tờ nhắc lại
trùng điệp tạo chất thơ.

16
+ Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kì thú: Cỏ gianh đồi núi đang ra
những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương

+ So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa
mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dòng sông.
+ Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng
đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà.
+ Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc động trong thực và mơ.

– Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế: Nhà văn hiến cho độc giả hình
ảnh sống động, ấn tượng sâu sắc:
+ Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
+ Cái tĩnh hàm chứa sự bất ngờ bởi sự biến hóa liên tiếp: thuyền thả trôi, con hươu
thơ ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. + Cảnh
và vật đều ở trạng thái động, không chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động của
cuộc sống nhiều chiều
– Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống
cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước:
+ Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà,lòng ông dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về
tình cảm đối với cố nhân.: nhắc tới đời Lí đời Trần.
+ Trước vẻ đẹp hoang dại nhà văn suy nghĩ về về tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.
+ Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong đắm đuối của tình non sông đất nước: Nhớ
thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói,….

- Đánh giá về nghệ thuật


– Qua đoạn trích thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau chặt chẽ; thấy những
đặc sắc của văn Nguyễn Tuân
– Quý trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có
đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.

Tham khảo đánh giá hình tượng Sông Đà


Đánh giá ý nghĩa, vai trò của hình tượng
– Hình tượng sông Đà biểu trưng cho chất vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc – 1
hiện diện của cái Đẹp mà nhà văn khao khát kiếm tìm và thể hiện trong các sáng tác
sau cách mạng
- Hình tượng sông Đà là phông nền để nhà văn khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp trí dũng tuyệt
vời, chất tài hoa nghệ sĩ của hình tượng ông lái đò
- Từ hình tượng sông Đà, người đọc cảm nhận được lòng yêu nước, tinh thần dân tộc
mang sắc thái riêng của Nguyễn Tuân

17
– Hình tượng sông Đà thể hiện sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn
Tuân sau cách mạng:
+ Sau cách mạng, Nguyễn Tuân vẫn là người say mê khao khát cái Đẹp, nhưng
Nguyễn Tuân đã biết tìm kiếm và khai thác Cái Đẹp trong lòng cuộc sống của cả dân
tộc
+ Nguyễn Tuân vẫn luôn đi tìm vẻ đẹp độc đáo của cuộc sống, vì vậy ông đã bị sông
Đà cuốn hút bởi sự khác thường“Chúng thuỷ giai Đông tẩu / Đà giang độc Bắc lưu”
+ Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hoá, mĩ
thuật. Với cách nhìn này, sông Đà trong mắt ông hiện lên như một kì quan của tạo hoá
+ Nguyễn Tuân còn quan niệm cái đẹp phải gây ấn tượng mạnh. Vì vậy, ông thường
miêu tả những cảnh đẹp tuyệt đích: hoặc phải thơ mộng, trữ tình đến mức tuyệt mĩ,
hoặc hoành tráng đến dữ dội, dữ dằn. Sông Đà hội tụ được cả hai vẻ đẹp ấy.
. Nghệ thuật xây dựng hình tượng
Hình tượng sông Đà được xây dựng dựa trên:
- Các thủ pháp đối lập, nhân hoá, so sánh- Những liên tưởng, tưởng tượng táo bạo, bất
ngờ
– Hệ thống ngôn từ giàu có, phong phú, thể hiện vốn sống, vốn kiến thức uyên bác
của tác giả thuộc nhiều ngành: lịch sử, thơ ca, hội hoạ, quân sự, thể thao

2. Đề về hình tượng người lái đò


2.1.

18
Đề 2.2. Đề thi thử của tỉnh hưng Yên năm 2016
Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất
chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò [...]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như
một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn
cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái
luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi
lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn
nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng
vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng
vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông
thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng
đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ
19
phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền
vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải
cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông
đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc
lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo
về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định
níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh
mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những
luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng
sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở
cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa
sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là
luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con
thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh
mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi
tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là
hết thác....
(Trích Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr 189-190)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó bình luận
ngắn gọn về suy nghĩ, tình cảm của nhà văn Nguyễn Tuân đối với con người lao động
Việt Nam trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Gợi ý
I. Tìm hiểu đề
1. Yêu cầu về nội dung
- nhân vật ông lái đò trong cảnh vượt thác/ nhân vật ông lái đò vượt qua trùng vây
thạch trận
- bình luận ngắn gọn về suy nghĩ, tình cảm của nhà văn Nguyễn Tuân đối với con
người lao động Việt Nam trong tùy bút
2. Phương pháp
- Phân tích
- So sánh: người lái đò với Huấn Cao
- Bình luận:
II. Dàn ý
1. Mở bài. Trực tiếp 1. Mở bài. Gián tiếp
- Nguyễn Tuân (vai trò, đặc điểm sáng * Cảm xúc về SĐ
tác nổi bật) Dòng sông quê anh, dòng sông quê em
+ NT là nhà văn tài hoa, uyên bác, suốt có viết:
một đời đi tìm cái đẹp. Dòng sông Đà quê anh
+ Ông để lại nhiều trang viết có giá trị, Sóng ngân thành điệu nhạc
trong đó thành công nhất với thể loại tùy Nguồn than trắng vô biên
20
bút. Có thể nói dòng SĐ mang đến bao điều
- Tác phẩm Người lái đò SĐ (hcst, mục kì diệu cho sự đổi thay trong cuộc sống
đích sáng tác) của con người TB. Đó là dòng sông đi
- Đoạn trích và hình tượng người lái vào văn chương với những nét đẹp hung
đò + Yêu cầu của đề bạo, trữ tình. Nhớ tới dòng sông ăn đời ở
kiếp xứ TB chúng ta càng thêm khâm
phục những con người lao động bình dị
+ Điều đó được nhà văn tập trung miêu mà phi thường đã chiến đấu từng ngày
tả qua cảnh người lái đò vượt thác với dòng sông độc dữ để xây dựng quê
hương, đất nước.
* Hình tượng người lái đò trong trang
tùy bút.

2. Thân bài
a. Khái quát về hình tượng người lái đò
- Tên gọi: Người lái đò không có tên gọi cụ thể mà được nhà văn gọi là ông đò. Cách
gọi gắn với nghề nghiệp, với độ tuổi nhân vật. Nhà văn xây dựng nhân vật mang tính
khái quát, đại diện cho biết bao con người lao đọng đang cống hiến dựng xây đất
nước.

- Quê: Ông lái đò quê ở Lai Châu- vùng thượng SĐ. Do đó ông hiểu tường tận dòng
chảy, đặc điểm của của con sông này
- Vẻ ngoài: Ông lão trạc ngoài 70, thân hình rắn chắc, cái đầu quắc thước, hai tay
dài lêu nghêu như con sào, đôi chân đứng khuỳnh khuỳnh như kẹp một cuống lái
tưởng tưởng, giọng nói ào ào như thác nước
 Dường như ông sinh ra để gắn với nghề sông nước
- Ông đi đi đò hơn chục năm, trực tiếp đứng lái ngược xuôi hơn 100 lần. Đây là người
lái đò lão luyện trong nghề
Với cách miêu tả độc đáo, mới mẻ, ưa cảm giác mạnh của nhà văn thì NT đặt nhân
vật của mình vào hoàn cảnh đầy thử thách. Đó là trận quyết chiến giữa người lái đò và
SĐ.
b. Hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác
- bước 1. Giới thiệu
- Bước 2: Dẫn chứng bằng câu văn (trực tiếp, gián tiếp)
- Bước 3; ý nghĩa của câu văn trích dẫn
- Bước 4: tiểu kết, mở rộng

Chặng thứ nhất

- Bước vào trận chiến với SĐ, chúng ta thấy rõ mối tương quan không cân sức giữa
người lái đò với thiên nhiên
21
+ SĐ bày binh bố trận qua trùng vi thạch trận, mai phục sẵn ở dưới lòng sông
+ Chúng có thêm đội quân sóng thác hò reo cổ vũ, linh động tấn công.
+ Người lái đò trên con thuyền có 6 bơi chèo. Vũ khí duy nhất là mái chèo trên con
thuyền vượt thác.
 Một cuộc chiến không cân sức giữa người lao động nhỏ bé với kẻ thù số 1 có diện
mạo và tâm địa rất độc ác

- Trận đấu thứ nhất mở ra với hàng tiền vệ do hai hòn đá đứng canh giả vờ như sơ hở.
Một hòn như thách thức còn thuyền, hòn kia dụ con thuyền tiến vào trận địa
Ông đò bình tĩnh đưa con thuyền tiến vào trận địa. ---- Sóng nước chồm lấy người lái
đò muốn ăn chết con thuyền. Chúng liên tiếp tấn công: đá trái, thúc gối vào bụng và
hông thuyền. Chúng túm lấy người lái đò như đô vật. Hiểm độc nhất là sóng nước tung
đòn bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò. Âm mưu của sóng nước đã thành công khi làm ông
đò bị thương

 Không để cho SĐ đắc là “ông đò cố nén vết thương”.


Đó là cả nghị lực và sự chịu đựng của một ông lão lành nghề. Trên cơ thể của ông không
thiếu những vết thương do đá, do sóng nước SĐ gây ra

 Hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. Hành động thể hiên sự kiên trì, ý chí vững vàng,
dù khó khăn, nguy hiểm cũng không bỏ cuộc

 Dù mặt ông lão méo bệch đi cho thấy vết thương làm cho người lái đò rất đau. Nhưng
trên chiếc thuyền có sáu bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người
cầm lái. Như vậy ông đò như vị tướng không hề nao núng, đưa ra chỉ đạo đúng đắn để
vừa giữ vững tinh thần cho những người đi cùng vừa giúp con thuyền vượt qua được cửa
tử
=>Vượt qua vòng vây thứ nhất, con thuyền của người lái đò vào được cửa sinh khẳng
định ý chí, nghị lực phi thường của người lao động đã được tôi luyện bản lĩnh qua
sông nước
Chặng 2,3 phân tích tương tự
c. Nhận xét
* Nghệ thuật
* Tình cảm, thái độ của NT dành cho người lao động

3. Các đề tham khảo


Cảm nhận về vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông lái đò trong đoạn trích Người lái đò
sông Đà củaNguyễn Tuân . Từ đó so sánh với nhân vật Huấn Cao trong Chữ
người tử tù để thấy sự chuyển biến trong cách xây dựng nhân vật của nhà văn.
* Giới thiệu vài nét về tác giả, đoạn trích, vấn đề cần nghị luận

22
- Nguyễn Tuân là nhà văn có vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam hiện đại với
phong cách nghệ thuật độc đáo. Ông được mệnh danh là “một cái định nghĩa về người
nghệ sĩ” (Nguyễn Đăng Mạnh) và là nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp.
- Người lái đò Sông Đà là một trong những thiên tùy bút đẹp nhất của Nguyễn Tuân.
Tác phẩm khắc họa thành công hình tượng người lái đò và thể hiện sự nhất quán của
nhà văn trong quan niệm về con người ở giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng
Tám.
* Cảm nhận về hình tượng nhân vật người lái đò
- Nguyễn Tuân đã gọi người lái đò sông Đà là ông đò. Cách gọi tạo nên sự hòa quyện
giữa người và nghề, một người lao động làm công việc bình dị, đời thường (chèo đò).
- Trong đoạn trích, hình tượng ông đò được tập trung khắc họa qua cuộc vượt thác
trên sông Đà. Nguyễn Tuân đã khắc họa cuộc vượt thác của ông đò như một trận giao
chiến giữa ông với Sông Đà hung bạo. Xét về tương quan lực lượng, ông đò cùng với
năm bơi chèo của mình chỉ có thứ võ khí duy nhất là cán chèo trong tay, trong khi đó
Sông Đà đã dàn thạch trận trên sông và bố trí đâu vào đó các lực lượng ở các vị trí sẵn
sàng nghênh tiếp con thuyền đơn độc.
+ Trùng vi thạch trận thứ nhất:
 Sông Đà mở ra năm cửa trận gồm bốn cửa tử và một cửa sinh (phía tả ngạn) và liên
tiếp ra những đòn tấn công ông đò cùng các bơi chèo: Nước thác reo hò làm thanh
viện cho đá. Những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt, hòn thì xấc xược hất hàm hỏi cái
thuyền phải xưng tên tuổi, hòn thì lùi lại, thách thức con thuyền. Mặt nước hò la vang
dậy ùa vào bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay các bơi chèo. Sóng nước đá trái,
thúc gối vào bụng và hông thuyền, đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật
túm tắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra. Cuối cùng, sóng thác đánh đến đòn hiểm
độc: cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò.
 Ông đò: Giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, trước sự thách thức của đá và
sóng trên sông, ông đò bình tĩnh, tập trung dồn hết tâm lực để giữ mái chèo khỏi bị
hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình, tránh những ngón đòn đá trái, thúc
gối liều mạng của sóng nước. Bị sóng thác đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, ông
đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái không rời. Mặt ông đò méo
bệch, biến dạng, biến sắc đi vì đau đớn nhưng trong cuộc chiến sinh tử với loài thủy
quái khổng lồ, vị chiến tướng nhất định không chịu lùi bước (và cũng không thể lùi
bước). Ông vẫn giữ chắc võ khí - là mái chèo - trong tay mình để chiến đấu như một
chiến sĩ kiên cường, anh dũng, không chịu khuất phục trước kẻ thù. Đối lập với tiếng
hò la vang dậy, tiếng hỗn chiến của nước của thác đá là tiếng chỉ huy rõ ràng ngắn
gọn tỉnh táo của ông đò.
Chi tiết cho thấy thái độ chủ động, bình tĩnh, mưu trí, dũng cảm của vị chiến tướng.
Phải là một người từng trải, giàu kinh nghiệm, quen thuộc trên sóng nước Sông Đà,
ông đò mới có thái độ bình tâm đáng phục như thế.

23
 Kết quả, ở trùng vi thạch trận thứ nhất, mặc dù lực lượng, thanh thế của thác đá
Sông Đà có phần áp đảo nhưng chiến thắng vẫn thuộc về vị chiến tướng tài ba, trí
dũng: ông đò.
+ Trùng vi thạch trận thứ hai:
 Sông Đà: tăng thêm nhiều cửa tử, bố trí lệch cửa sinh qua bờ hữu ngạn. Sông Đà lúc
này như hổ báo, hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Các loài thủy quái chỉ
trực xô ra, níu lấy thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử.
 Ông đò: Không một phút nghỉ ngơi, ông đã phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến
thuật. Trước dòng thác hùm beo, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng
mà phóng nhanh vào cửa sinh, để lại phía sau bọn đá tướng tiu nghỉu cái mặt xanh lè
thất vọng. Ông đò hiện lên như một dũng mãnh như Võ Tòng đả hổ với đường lái
điêu luyện, điệu nghệ.
+ Trùng vi thạch trận thứ ba:
 Sông Đà: Ít cửa hơn vòng đầu nhưng bên trái phải đều là luồng chết.
 Ông đò: Không xuất hiện trực tiếp mà gián tiếp hiện lên thông qua hình ảnh con
thuyền. Con thuyền như một mũi tên tre, vút qua cổng đá cánh mở cánh khép, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, mũi tên tre đó xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Đường đi vun vút của con thuyền - mũi tên tre
tiếp tục cho thấy bản lĩnh kiên gan và sự tài hoa của người lái đò.
 Ông đò vừa trí dũng vừa tài hoa.
- Sau một ngày giao tranh dữ dội với thác đá Sông Đà, ông lái đò cùng các bạn chèo
nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chèo, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc chiến
thắng đã qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Rất ung dung, thanh thản,
ông lái đò nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những
cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy
ruộng. Dường như ngày nào cũng thế, họ phải chiến đấu giành giật sự sống từ thác dữ
nên họ cũng chẳng có gì là hồi hộp, đáng nhớ.
 Vẻ đẹp bình dị, khiêm nhường của những con người bình dị vô danh, những người
không ai nhớ mặt đặt tên nhưng đã làm nên bao điều kì diệu cho Tổ quốc.
* Liên hệ với truyện ngắn Chữ người tử tù và chỉ ra sự nhất quán của Nguyễn
Tuân trong quan niệm của nhà văn về con người
- Nhân vật chính trong Chữ người tử tù (truyện ngắn viết trước CMTT) là Huấn Cao.
Huấn Cao được khắc họa với ba vẻ đẹp nổi bật: tài hoa nghệ sĩ, khí phách hiên ngang
và thiên lương trong sáng.
- Người lái đò Sông Đà là tác phẩm được viết ở giai đoạn sau CMTT. Từ nhân vật
Huấn Cao trong Chữ người tử tù đến nhân vật ông đò trong Người lái đò Sông Đà, có
thể nhận thấy sự nhất quán của Nguyễn Tuân trong quan niệm của nhà văn về con
người:
+ Con người từ cuộc đời thực đi vào sáng tác của Nguyễn Tuân đều là những người
nghệ sĩ tài hoa trong nghề nghiệp của mình

24
+ Con người được tô đậm bởi những phẩm chất siêu phàm, phi thường, xuất chúng
+ Con người luôn được đặt trong những hoàn cảnh khó khăn, những thử thách vô
cùng khắc nghiệt để bộc lộ phẩm chất đáng quí
 Quan niệm đề cao con người, đậm chất nhân văn.
- Sự nhất quán trong quan niệm của nhà văn về con người của Nguyễn Tuân thể hiện
tình yêu, sự trân trọng của tác giả đối với các nhân vật, đồng thời tạo nên dấu ấn riêng
biệt, phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn.
Đề 5b. (5.0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác (Người
lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2016).
Từ đó liên hệ với nhân vật Huấn Cao trong cảnh cho chữ (Chữ người tử tù –
Nguyễn Tuân, Ngữ văn 11, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016) để nhận xét
quan niệm của nhà văn về vẻ đẹp con người”. (Đề thi minh họa của Bộ GD và
ĐT năm 2018)
Gợi ý
I. Mở bài:
giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền
văn học Việt Nam hiện đại, một cây bút tài hoa uyên bác, một bậc thầy trong sáng tạo
và sử dụng tiếng Việt. Có thể nói Nguyễn Tuân là định nghĩa về người nghệ sĩ, đối
với ông văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ
thuật và đã là nghệ thuật phải có phong cách độc đáo. Nét nổi bật trong phong cách
của ông là luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ, nhìn con người ở phẩm
chất nghệ sĩ và tài hoa. Điều này được thể hiện rõ nét qua hình tượng người lái đò
trong cảnh vượt thác ở tùy bút Người lái đò sông Đà trích trong tập Sông Đà (1960).
Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong
chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi để tìm “thứ vàng
mười đã qua thử lửa”.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chân dung, lai lịch
- Không có tên tuổi cụ thể: hình tượng có tính khái quát về người lao động
- Ngoại hình: khỏe mạnh mang dáng dấp của người lao động trên sông nước
Đọc bài kí, ta thấy Nguyễn Tuân không đặt tên cụ thể cho người lái đò, không có tiểu
sử đó là một chân dung vô danh. Điều đó dễ gợi lên tính chất khái quát của hình
tượng người lái đò. Ông lái đò chỉ là một trong vô số những người lao động bình dị
trên sông nước.
Ngoại hình ông lái đò cũng thật đặc biệt: tay dài lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào
cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng, giọng nói ồm ồm như
tiếng nước trên mặt ghềnh… Đúng là con người sinh ra từ dòng nước sông Đà, vóc
dáng, hình hài khỏe mạnh của ông đã in đậm dấu ấn của một người làm nghề sông
nước.
25
2. Vẻ đẹp của người lái đò sông Đà trong quá trình vượt thác
* Vẻ đẹp tài hoa:
- Ông thạo nghề sông nước: thuộc lòng binh pháp của thần sông, thần đá
- Dòng sông nắm ghềnh, nhiều thác vô cùng nguy hiểm nhưng đối với người lái đò lại
là một sở thích
=> Ông là người có tài, có bản lĩnh.
* Vẻ đẹp trí dũng: được thể hiện qua 3 vòng vượt thác
Người xưa quan niệm: Có gió lay mới biết tùng bách cứng/ Có ngọn lửa lừng mới biết
thức vàng cao. Vì vậy để làm nổi bật tài nghệ và trí dũng của ông lái đò Nguyễn Tuân
đã dụng công mô tả thuyền của ông lái vượt qua 3 thạch trận với thác ghềnh dữ dội,
với sóng nước gầm reo như một thứ lửa để thử vàng làm nổi bật tài nghệ ông lái đò.
 Cuộc vượt thác lần 1
- Sông Đà:
+ Bày thạch trận: 5 cửa (4 cửa tử và 1 cửa sinh)
+ Đá tướng, đá quân, đá tiền vệ
+ Nước reo hò làm thanh viện cho đá
+ Sóng nước liều mạng ùa vào sát nách mà đá trái mà thúc gối
- Người lái đò:
+ Thạch trận dàn bày vừa xong thì con thuyền vụt tới => tư thế chủ động
+ Người lái đò bị thương, mặt méo bệch đi
+ Tiếng chỉ huy tỉnh táo đưa con thuyền vượt thác
Ông đò chiến thắng bằng trí tuệ tỉnh táo, sự bình tĩnh, can đảm
( Tham khảo: Lời văn: Nguyễn Tuân đã tạo dựng được những cảnh tượng vượt thác
mang không khí chiến trận thực sự giữa một bên là con thuyền với 6 tay chèo mà nổi
bật nhất là ông lái đò và bên kia là dòng sông Đà hung bạo. Ở vòng giao đấu thứ nhất
sông Đà bày ra 5 cửa gồm 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Chi tiết này cho thấy sông Đà quả là
một đối thủ đáng gờm tinh quái và nham hiểm. Thêm vào vào đó những hòn đá trên
sông với đá tướng, đá quân… dữ tợn, ngỗ ngược. Chúng bày thạch trận có tổ chức, có
quy mô, có dã tâm: có đá tiền vệ để dụ dỗ thuyền vào, có đá đánh tập hậu đằng sau.
Nguyễn Tuân đã sử dụng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để truyền hồn sống cho
những thớ đá, truyền cho đá cái linh động ma quái biến chúng thành một bầy thạch
tinh hung hãn trên sông Đà. Khi cuộc giao đấu bắt đầu sông Đà giống như một con
thủy quái nham hiểm tấn công con thuyền của người lái đò từ nhiều phía: có nước reo
hò làm thanh viện cho đá, sóng nước liều mạng ùa vào sát nách mà đá trái, mà thúc
gối, đội thuyền lên. Trước sức mạnh hung bạo ấy của thác dữ người lái đò đã thể hiện
bản lĩnh dũng cảm như khả năng chống đỡ, chủ động chiến đấu và quyết chiến: “thạch
trận dàn bày vừa xong thì con thuyền vụt tới”. Nhưng trước sự tàn bạo của thác dữ
người lái đò có lúc đã gặp nguy hiểm, ông đò bị thương “mặt méo bệch đi”. Cũng
chính lúc này với trí tuệ tỉnh táo, sự bình tĩnh can đảm ông đò đã chỉ huy tỉnh táo đưa
con thuyền vượt qua 4 cửa tử vào cửa sinh bình yên.)
 Cuộc vượt thác lần 2:
26
- Sông Đà:
+ Tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh bố trí lệch sang phải
+ Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá
+ 4, 5 bọn thủy quân xô ra níu con thuyền vào tập đoàn cửa tử
 Người lái đò:
+ Thay đổi chiến thuật vì ông hiểu quy luật phục kích của lũ đá
+ Nắm chắc bờm sóng, ghì cương lái, lái miết một đường theo luồng nước đúng là
vào cửa sinh
Ông lái đò am hiểu đặc điểm của sóng thác SĐ cuồng loạn,độc dữ vì thế con người
phải kiên trì, chiến đấu đến cùng
Phải biết giữ vững con thuyền để sóng thác ko lật tung nó. Đặc biệt là ko hiếu
thắng, phải làm chủ tốc độ con thuyền.
 Biết tận dụng lực đẩy của sóng nước để phán đoán chính xác và lái thuyền vào cửa
sinh
+ Đối với bọn đá ở dưới lòng sông: Ông nhớ mặt bọn này và chọn cách ứng xử rất
linh hoạt: đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi, mở
ra đường tiến
 Ông đò chiến thắng bằng sự hiểu biết dòng sông qua trí tuệ minh mẫn, bằng
kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, bằng lòng dũng cảm ko ngại gian khó

(Tham khảo: Lời văn: Qua vòng vây thứ nhất ông đò lập tức rơi vào trận địa thứ hai.
Ở cuộc giao tranh lần này sông Đà hiện lên đầy tham vọng với nhiều cửa tử, cửa sinh
duy nhất bố trí ngược lại với cửa sinh ở vòng thứ nhất. Với nghệ thuật so sánh, ẩn dụ
độc đáo: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đá”. Con sông giống
như một con thú hoang dại đầy bản năng nó hiện thân cho sức mạnh thiên nhiên khó
chế ngự. Nhưng cũng như lần trước ông đò không hề nao núng. Ông không phải là
con người có phép màu nhiệm, cũng không có sức mạnh phi thường để đấu lại với vị
thần sông Đà, ông chỉ có vũ khí là mái chèo, là trí tuệ, là khối óc nhanh nhẹn linh
hoạt. Ở vòng vây này ông đò thay đổi chiến thuật: có lúc ông đã nắm chắc bờm sóng,
ghì cương lái, cưỡi lên thác dữ sông Đà như cưỡi hổ, có lúc trước sự liều lĩnh của bọn
thủy quân đá nước xô ra níu con thuyền vào tập đoàn cửa tử thì ông đối xử thật linh
hoạt: ông nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mặt mà rảo bơi chèo lên, đứa thì đè sấn
lên chặt đôi và mở ra đường tiến… Trên chiến trận sông Đà, người lái đò đã thắng để
lại sau lưng mình “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè
thất vọng”.
 Cuộc vượt thác lần 3:
- Sông Đà:
+ Bày ít cửa hơn nhưng cả bên trái, phải đều là luồng chết.
+ Luồng sống duy nhất ở giữa hai cổng đá cánh mở cánh khép don bọn đá hậu vệ
dưới con thác
 Mức độ nguy hiểm độc ác hơn, bủa vây con thuyền đòi tiêu diệt đến cùng
27
- Người lái đò: Ko xuất hiện trực tiếp như hai chặng chiến đấu trước. Tác giả miêu tả
con người gián tiếp qua hình ảnh con thuyền.

+ Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được, lượn được.
+ Âm thanh con thuyền: Vút…vút …vút….
 Bằng hàng loạt động từ, so sánh hình ảnh con thuyền hiện lên rất diệu kì có tốc độ
nhanh, mạnh, lướt trên mặt nước, chuyển động linh hoạt tránh cửa các đá mà về đích
an toàn
 Ông đò “tay lái ra hoa” đạt đến trình độ điêu luyện trong nghề. Chính ông làm cho
nghề lái đò đẹp đến trình độ nghệ thuật.

 Ông đò tài hoa nghệ sĩ trong cuộc chiến với thiên nhiên
(Tham khảo: Lời văn: Sang cuộc giao tranh thứ ba thì thực sự là một cuộc giao tranh
đầy kịch tính. Ở đây ngòi bút của Nguyễn Tuân trở nên bay bổng, linh hoạt bởi những
liên tưởng đầy thú vị khi miêu tả cảnh vượt thác của ông lái đò. Do sông Đà bị thua ở
hai cuộc giao tranh nói trên nên giờ đây nó trở nên nham hiểm và xảo quyệt như hiện
thân của kẻ thù số một của www.iskool.vn con người. Sông Đà bày ra ít cửa hơn
nhưng cả bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống duy nhất ở giữa bọn đá hậu
vệ. Nhưng chính trong giây phút nguy hiểm đó người đọc nhận ra được sự tài hoa phi
thường trong tay lái ông đò: “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,
vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Ông lái đò thực sự là
“tay lái ra hoa” tay lái đã đạt đến trình độ điêu luyện thành cái đẹp, cái sang, đã chinh
phục thần sông thần đá dữ dội sông Đà. Ông xứng đáng là người anh hùng của thời
đại mới trong cuộc chinh phục thiên nhiên hoang dã. Đây là vẻ đẹp của con người
thời đại mới, thời đại làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh, cuộc
sống của mình.

c. Nhận xét
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông lái đò:
- Tài hoa, uyên bác:
+ Nguyễn Tuân đã chú ý tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ ở ông lái đò
+ Kiến thức của nhiều ngành nghệ thuật và đời sống để miêu tả cuộc chiến cuả người
lái đò: quân sự, võ thuật, thể thao, điện ảnh, đấu vật…..
+ Ông đặt nhân vật vào tình huống thử thách: trong cảnh vượt thác để làm sáng vẻ
đẹp của thứ vàng mười đã qua thử lửa.
- Ngôn ngữ: đầy cá tính, giàu chất tạo hình hoàn toàn phù hợp với đối tượng.

Người lái đò sông Đà là những thước phim bằng ngôn từ đắt giá giữa con người lao
động, với thiên nhiên hoang dã, hung bạo. Con người ở thế nhỏ bé nhưng bằng mưu
trí, bằng tài hoa, bằng bản lĩnh kiên cường con người đã chiến thắng.
28
3. Liên hệ với nhân vật Huấn Cao trong cảnh chocho chữ để nhận xét quan niệm
của nhà văn về vẻ đẹp con người.
* Giới thiệu về Huấn Cao:
- Huấn Cao là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân được viết trước Cách mạng tháng Tám.
- Là một người tài hoa, nghệ sĩ: Vẻ đẹp tài năng: viết chữ siêu việt (đẹp lắm, vuông
lắm, được người đời xem như báu vật, tác động sâu sắc đến nhân vật quản ngục)
- Vẻ đẹp khí phách: tiền bạc, quyền lực không khuất phục được ông
- Vẻ đẹp thiên lương trong sáng: toát ra từ chữ của Huấn Cao, bản thân Huấn Cao có
thiên lương, biết trân trọng một tấm lòng
* Hình tượng Huấn Cao trong cảnh cho chữ:
- “Từ trong những dòng chữ mà Huấn Cao để lại cho đời đã là sự kết tinh của cái đẹp,
cái thiên lương trong sáng vời vợi của Huấn Cao”. (Hoài Thanh).
- Cái tài, cái tâm và khí phách của Huấn Cao được thể hiện rõ nhất trong cảnh cho
chữ. Cái tâm hòa quyện cái tài để sáng tạo ra cái đẹp.
- Những dòng chữ ông Huấn hiện lên một cách trực tiếp đó là những nét chữ vuông
vắn, tươi tắn mang những hoài bão tung hoành của đời người cho nên không chỉ là
tấm lụa bach trắng tinh mà chính những dòng chữ trên bức lụa Huấn Cao viết ra đã có
sức tỏa sáng, làm nổi bật những tấm lòng trong thiên hạ.
* Nhận xét về quan niệm của nhà văn về vẻ đẹp con người: Nguyễn Tuân là nhà
văn suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp. Ông luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa,
nghệ sĩ. Trước và sau Cách mạng tháng Tám Nguyễn Tuân có những điểm thống nhất
và thay đổi trong quan niệm về vẻ đẹp của con người.
- Điểm thống nhất (giống nhau):
+ Nhà văn luôn tiếp cận và khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ: Huấn
Cao - tài viết chữ siêu việt; người lái đò – tài vượt thác.
+ Lối văn, ngòi bút uyên bác thể hiện ở lượng kiến thức khổng lồ, sự phối hợp của
nhiều tri thức, nhiều bộ môn văn hóa, nghệ thuật trong tác phẩm.
+ Kho từ ngữ phong phú, sử dụng điêu luyện. Nguyễn Tuân là bậc thầy của ngôn ngữ
sống động.
- Những thay đổi (khác nhau):
+ Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân chỉ khám phá chất tài hoa nghệ sĩ ở những người
trí thức (Huấn Cao) trong những thú chơi tao nhã (thư pháp) thì nay ông đã tìm thấy
vẻ đẹp nghệ sĩ ngay ở con người lao động bình thường nhất (ông lái đò). Theo
Nguyễn Tuân nét tài hoa nghệ sĩ của con người không chỉ thể hiện trong hoạt động
sáng tạo nghệ thuật mà còn trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nữa. Khi con người
đạt tới trình độ điêu luyện trong công việc của mình là khi họ bộc lộ nét tài hoa nghệ
sĩ đáng được đề cao.
+ Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân không còn đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai
nữa, ông tìm thấy vẻ đẹp ở ngay hiện tại và tin tưởng ở tương lai.

29
+ Chất giọng khinh bạc không còn và đến sau Cách mạng, Nguyễn Tuân đã đóng góp
cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo, đầy nghệ thuật, ca ngợi quê hương, ca
ngợi nhân dân trong chiến đấu và trong sản xuất.
III. Kết bài:
khái quát lại vấn đề Nguyễn Tuân với sự tài hoa, uyên bác, với vốn tri thức văn hóa
sâu rộng kết hợp với vốn từ ngữ giàu có đã miêu tả thành công hình tượng người lái
đò trong cảnh vượt thác, một người tài hoa trí dũng, chất vàng mười của con người
Tây Bắc. Đồng thời nó càng khắc họa rõ nét hơn quan niệm của nhà văn về vẻ đẹp
con người trước và sau Cách mạng qua đối sánh nhân vật Huấn Cao và người lái đò
sông Đà. Với Nguyễn Tuân, con người chính là tác phẩm tuyệt vời nhất mà tạo hóa đã
ban tặng.

Đề 3
Tuỳ bút Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch
được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của
Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười
đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động.
Anh (chị) hãy làm rõ “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở nhân vật người lái đò
trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân
Cách chấm
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài
nêu được vấn đề nghị luận, thân bài triển khai được vấn đề gồm nhiều ý/đoạn văn,
phần kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Về "thứ vàng mười đã qua thử lửa" ở nhân
vật người lái đò trong tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập
luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
 Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa, uyên bác bậc nhất của văn học
Việt Nam hiện đại. Ông có phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Nguyễn Tuân có sở
trường về thể loại tùy bút.
 Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc kết tinh được
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, được in trong tập “Sông Đà” (1960). Tác
phẩm này là kết quả của một cuộc hành trình lớn mà Nguyễn Tuân tìm đến Tây Bắc
để tìm kiếm “thứ vàng mười của thiên nhiên và thứ vàng mười của con người lao
động đã qua thử lửa”. Ở tùy bút này, ngoài hình tượng dòng sông Đà, hình tượng
ông lái đò cũng là một hình tượng đặc sắc mang dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân.
* Nêu nội dung ý kiến
30
 “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” – từ dùng của Nguyễn Tuân – để chỉ vẻ đẹp tâm
hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ
mộng.
 Ý kiến khẳng định thành công của Nguyễn Tuân trong việc khám phá và xây dựng
vẻ đẹp hình tượng ông lái đò trong cuộc sống lao động bình dị.
* Phân tích hình tượng nhân vật:
 Những nét khái quát: (không tên, tuổi, quê quán)
-> Ông lái đò được xây như một đại diện, một biểu tượng của nhân dân. Đó là một
người lao động rất đỗi bình thường hoạt động trong một môi trường lao động khắc
nghiệt, dữ dội.
 “thứ vàng 10 đã qua thử lửa” của hình tượng:
Lưu ý: học sinh có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau: có thể kết hợp phân tích
các vẻ đẹp của hình tượng, có thể kết hợp phân tích nội dung và nghệ thuật. Song cần
đảm bảo những ý sau:
oSự từng trải (ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông
ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…)
o Mưu trí và dũng cảm để vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong cuộc sống
lao động hàng ngày (phân tích cuộc chiến của ông lái đò với sông Đà qua 3 trùng
vi thạch trận)
o Nghệ sĩ tài hoa: Nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa (sự điêu luyện trong nghề
khi lái đò vượt qua 3 thạch trận); trí nhớ siêu phàm, nắm chắc các quy luật tất yếu
của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do; phong thái nghệ sĩ sau cuộc
chiến đấu với sông Đà).
 Nhận xét chung: Ông lái đò mang những phẩm chất cao đẹp của người lao động
thời hiện đại mới: giản dị mà không kém phần hùng tráng, khỏe khoắn, cũng đầy
mưu trí. Đó là những con người tự do, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.
 Đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân: đặt nhân vật vào
tình huống đầy cam go, thử thách để nhân vật bộc lộ tình cách phẩm chất; phối hợp
những thủ pháp tiêu biểu của các nghành nghệ thuật khác để miêu tả và kể chuyện,
ngôn ngữ miêu tả tài hoa…
* Bình luận:
 Đánh giá mức độ hợp lí của ý kiến, có thể theo hướng: ý kiến xác đáng vì đã chỉ ra
được nét đặc sắc và đóng góp của Nguyễn Tuân trong việc xây dựng hình tượng con
người tiêu biểu cho cuộc sống lao động mới.

31
 Từ đó thấy được sự thay đổi trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân khi ông
hướng ngòi bút khai thác vẻ đẹp con người trong cuộc sống hiện tại chứ không phải
của thời quá khứ (như giai đoạn sáng tác trước Cách mạng tháng 8.1945)
 Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ
là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan
tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi
và siêu phàm.
d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
e. Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu

32
33
34

You might also like