Professional Documents
Culture Documents
Tài liệu VLĐ
Tài liệu VLĐ
Tài liệu VLĐ
BÀI GIẢNG
VẬT LIỆU ĐIỆN
(LƯU HÀNH NỘI BỘ)
Người ta dựa vào chiều rộng của dải cấm, để phân chia vật liệu.
Điện môi: Là chất có vùng cấm lớn đến mức ở điều kiện bình thường sự dẫn
điện bằng điện tử không xảy ra. Chiều rộng vùng cấm của điện môi trong khoảng từ
1,5 đến vài eV (1 eV = 1,60207.10-19J)
Chất bán dẫn: Là chất có vùng cấm khá nhỏ có thể khắc phục nhờ nguồn
năng lượng bên ngoài.Chiều rộng vùng cấm chất bán dẫn bé: (0,2 ÷1,5) eV
Chất dẫn điện (Vật dẫn): Là chất có vùng đầy điện tử và vùng các mức năng
lượng tự do nằm kề nhau hoặc chồng lên nhau một phần. Vì vậy chỉ cần một tác
động rất nhỏ điện tử dễ dàng chuyển trạng thái.
b. Phân loại theo từ tính: 3 loại.
Nghịch từ: Là chất có độ từ thẩm < 1 và không phụ thuộc vào cường độ từ
trường ngoài. Ví dụ: Cu, Ag, Au, H2, khí hiếm, đa số các hợp chất hữu cơ, …
Thuận từ: Là chất có độ từ thẩm > 1 ( 1) và không phụ thuộc vào cường
độ từ trường ngoài. VD, muối sắt, các muối Côban và Niken,kim loại kiềm
Chất dẫn từ: Là chất có độ từ thẩm >>1 và phụ thuộc vào cường độ từ
trường ngoài. Ví dụ: Fe, Ni, Coban và các hợp kim của chúng.
Chương I
SỰ PHÂN CỰC ĐIỆN MÔI
1.1. SỰ PHÂN CỰC ĐIỆN MÔI VÀ HẰNG SỐ ĐIỆN MÔI
Các phân tử lưỡng cực (nếu có) sẽ định hướng theo hướng điện trường.
Khi điện trường càng tăng mật độ di chuyển càng lớn, sự phân cực càng mạnh.
Khi điện trường giảm sự phân cực giảm dần cho đến khi điện trường ngoài = 0 thì
các điện tích trở về trạng thái ban đầu.
Kết quả của quá trình phân cực: tại bề mặt tiếp giáp của điện môi với các điện
cực xuất hiện các lớp điện tích trái dấu. Trong điện môi xuất hiện điện trường phụ
E’ ngược chiều với điện trường ngoài.
Khi điện môi được đặt giữa 2 điện cực và nối vào mạch điện thì có thể xem
như 1 tụ điện và điện tích Q của tụ được xác định:
Q = C.U với C: Điện dung của tụ
U: Điện áp đặt vào tụ
Điện lượng Q ở giá trị điện áp xác định có 2 thành phần: Q = Q0 + Q’ (1.1)
Q0: Điện tích của tụ có cùng kích thước, nhưng giữa 2 điện cực là chân không.
Q’: Điện tích tạo bởi sự phân cực điện môi.
2. Hằng số điện môi
Để đánh giá mức độ phân cực của điện môi, người ta đưa ra khái niệm hằng
số điện môi tương đối, ký hiệu là , gọi tắt là “Hằng số điện môi”. Nó được dùng để
đặc trưng cho chất lượng điện môi và không phụ thuộc vào việc chọn hệ đơn vị.
Q Q Q0 Q'
1 (1.2)
Q0 Q0 Q0
Hằng số điện môi là tỷ số giữa điện tích của tụ chứa điện môi ấy khi có điện
áp xác định với điện tích của tụ cùng kích thước cùng điện áp nhưng giữa các cực là
chân không.
là tức thời. Sự phân cực điện tử có ở tất cả các loại điện môi và không gây tổn thất
năng lượng.
Hệ số phân cực điện tử phụ thuộc vào bán kính phân tử R0: = 4..0R03 (1.5)
b. Phân cực ion nhanh
Đặc trưng cho vật rắn có cấu tạo ion và được xác định bởi sự chuyển dịch đàn
hồi của các ion liên kết. Khi nhiệt độ tăng phân cực ion tăng. Thời gian xác lập phân
cực này: t 10-13s.
Hệ số phân cực: = 4..0(a/2)3 (1.6)
Với a là khoảng các giữa các ion (+) và (-) khi E 0
c. Phân cực Lưỡng cực chậm
Xảy ra ở các điện môi có cấu tạo phân tử lưỡng cực. Các phân tử lưỡng cực ở
trạng thái chuyển động nhiệt hỗn loạn được định hướng 1 phần dưới tác dụng của
điện trường gây nên sự phân cực. Quá trình định hướng của các phân tử phải thắng
được lực của chuyển động nhiệt và vì vậy có kèm theo tổn hao năng lượng.
m02
Hệ số phân cực phụ thuộc vào mômen lưỡng cực và nhiệt độ: lc (1.7)
3KT
Với: m0 - mômen lưỡng cực trung bình; K =1,38. 10-23J/0K – hằng số
Bônzơmal; T- nhiệt độ tuyệt đối.
d. Phân cực ion chậm
Xảy ra trong các điện môi có cấu tạo ion mà mối liên kết ràng buộc giữa các
ion không chặt chẽ. Các ion liên kết yếu của chất trong khi chuyển động nhiệt hỗn
loạn còn nhận thêm các chuyển dịch thừa theo hướng điện trường.
Thường quan sát thấy ở thuỷ tinh vô cơ và 1 số chất vô cơ mà tinh thể ion
ràng buộc không chặt.
Sau khi loại bỏ điện trường sự định hướng của các ion yếu dần theo quy luật
hàm số mũ.
Sự phân cực ion chậm tăng cùng với sự tăng của nhiệt độ.
e. Phân cực điện tử chậm
Đặc trưng cho các điện môi có hệ số khúc xạ cao, trường bên trong lớn và có
tính dẫn điện - điện tử. Nói cách khác: là các điện môi có các điện tử khuyết tật thừa
hoặc các lỗ hổng được kích thích bằng nhiệt năng.
Hằng số điện môi phụ thuộc vào nhiệt độ và có 1 vài điểm cực đại thậm chí cả
khi nhiệt độ âm.
f. Phân cực cấu kết cấu
Xảy ra trong vật rắn có cấu tạo không đồng nhất và khi có tạp chất. Sự phân
cực này biểu hiện ở tần số thấp kèm theo tổn hao năng lượng đáng kể. Nguyên nhân
của sự phân cực này là do các chất dẫn điện và bán dẫn lẫn trong điện môi kỹ thuật,
sự tồn tại của các lớp có độ dẫn điện khác nhau.
g. Phân cực tự phát
Dạng phân cực này tồn tại ở dạng điện môi đặc biệt Xec-nhit kèm theo khuếch
tán năng lượng đáng kể (có toả nhiệt).
của phân cực tự phát phụ thuộc không đường thẳng vào trị số cường độ điện
trường và đặc trưng bởi điểm cực đại ở 1 nhiệt độ xác định.
*) Sơ đồ đẳng trị (Sơ đồ thay thế) của điện môi mà trong đó xảy ra đầy đủ
các cơ chế phân cực được chỉ ra trên hình vẽ.
1.3. HẰNG SỐ ĐIỆN MÔI CỦA CÁC ĐIỆN MÔI KHÍ – LỎNG – RẮN
1. Hằng số điện môi của điện môi khí
Các chất khí có mật độ phân tử rất nhỏ do đó sự phân cực của chất khí không
đáng kể và hằng số điện môi của chất khí = 2 1.
Bảng 1.1: Hằng số điện môi của 1 số điện môi khí
Tên khí Hêli Hyđro Ô xi Agon Nitơ Cacbonic
Để xác định hằng số điện môi, ta có thể sử dụng phương trình Claudiut-
1 N .
Môxôpchi: (1.8)
2 3. 0
N . P.
Đối với điện môi khí 1, nên (1.8) 1 1 (1.9)
0 K .T . 0
P
Với N là mật độ phân tử,
K .T
P (at), T(0K), là hệ số phân cực.
Hình 1.3. Quan hệ giữa của chất lỏng trung hoà với nhiệt độ và tần số
Về trị số tuyệt đối TK của chất lỏng trung tính gần bằng hệ số giãn nở thể
tích của chất lỏng (nhưng ngược dấu).
1 d 1 2
TK TK v (độ-1) (1.14)
dT 3
1 dV
với TKv = là hệ số nhiệt của thể tích.
V dT
*. Hằng số điện môi của chất lỏng cực tính
Chất lỏng cực tính tồn tại đồng thời phân cực điện tử và phân cực lưỡng cực
chậm (chủ yếu).
Có nhiều thuyết đưa ra để tính của điện môi cực tính, nói chung việc tính
của chất lỏng cực tính rất phức tạp. Mỗi công thức trên đều kèm giả thiết nên đều có
tính chất gần đúng. Thường dùng phương trình Clauđiút-Môxốtchi:
1 N
e
m02
(1.15)
2 3 0 3KT
Quan hệ giữa và nhiệt độ của chất lỏng lưỡng cực phức tạp hơn của chất
lỏng trung hoà. Khi nhiệt độ tăng lúc đầu biến đổi rất ít. Sau đó tăng mạnh theo
đường dốc đứng đạt cực đại rồi giảm dần. Nhiệt độ mà
ở đó tăng nhanh ứng với khi đó chất lỏng có độ nhớt
giảm đột ngột phân tử lưỡng cực có khả năng tự định
hướng tạo nên sự phân cực phụ của điện môi.
Nếu tiếp tục tăng nhiệt độ thì giảm do chuyển
động nhiệt của phân tử tăng lên, cản trở sự định hướng
theo chiều điện trường. Hình 1.4: =f(t0), f1<f2<f3
Bảng 1.2: Hằng số điện môi của 1 số điện môi lỏng
Tªn chÊt Điện môi lỏng trung tính Điện môi lỏng cực tính yếu
láng
Dầu biến áp Ben zen Tuluen Thầu dầu Xôvôn Xôvtôn
0
(20 c , 2,2 2,218 2,294 4,5 5,0 3,2
50hz)
3. Hằng số điện môi của điện môi rắn
Đặc điểm của điện môi rắn là rất đa dạng về cấu trúc và thành phần, do vậy
hằng số điện môi có giá trị lớn và nằm trong một dải rộng.
a. Hằng số điện môi của điện môi rắn trung hoà
Điện môi này cấu tạo từ các phân tử trung hoà và chỉ có phân cực điện tử:
= , là loại có bé nhất. Quan hệ của theo nhiệt độ được xác định bởi sự biến đổi
2
c. Hằng số điện môi của điện môi rắn hữu cơ cực tính
Điện môi này có phân cực lưỡng cực chậm ở trạng thái rắn (Xenlulo, và các
sản phẩm của nó như: Giấy, bông vải, sợi, bìa cattong ....Ngoài ra còn các chất nhựa
hữu cơ được trùng hợp như: phenol focmađêhyt, golovac...) và cả nước đá. Hằng số
điện môi của chúng phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ và tần số của điện áp đặt vào
giống ở các chất lỏng lưỡng cực.
d. Hằng số điện môi của điện môi rắn có cấu tạo không đồng nhất
Điện môi loại này là hỗn hợp của các thành phần có hằng số điện môi khác
nhau. của điện môi phức tạp này có thể tính gần đúng theo công thức tổng quát:
x = 11x + 22x (1.16a)
Trong đó: , 1, 2 là hằng số điện môi của hỗn hợp và của từng thành phần;
1, 2 là nồng độ theo thể tích của các thành phần: 1 + 2 = 1
x là hằng số đặc trưng cho sự phân bố các thành phần, có giá trị từ 1 -1
Khi mắc song song các thành phần (các điện môi đặt song song với phương
của điện trường nghĩa là mắc nối tiếp 2 tụ): x = +1 = 11 + 22 (1.16b)
Khi mắc nối tiếp các thành phần (các điện môi đặt vuông góc với phương của
1 1
điện trường nghĩa là mắc song song 2 tụ): x = -1 2 (1.16c)
1 2
Khi các thành phần phân bố hỗn loạn: ln = 1ln1+ 2ln2 (1.16d)
Trường hợp tổng quát ta có tổ hợp cách điện gồm n chất điện môi khác nhau
thì ta tính cho từng cặp 2 chất một rồi tính tiếp cho đến n chất.
Hệ số nhiệt của của tổ hợp cách điện: TK = TK11 + TK22 (1.17)
e. Hằng số điện môi của điện môi Xenhit:
rất lớn và phụ thuộc rõ rệt vào cường độ điện trường và nhiệt độ.
Đặc điểm nổi bật của điện môi Xenhit là hiện tượng điện trễ (cảm ứng điện
biến đổi chậm sau cường độ điện trường)
Nhiệt độ mà ở đó đạt trị số cực đại gọi là điểm Quyri. Với nhiệt độ lớn hơn
nhiệt độ Quyri thuộc tính Xenhit của vật liệu không còn nữa. không phụ thuộc
cường độ điện trường nữa.
Tên chất ĐM rắn có kết cấu tinh thể Ion Điện môi rắn Xéc - nhét
rắn
Muối mỏ Cương Rutin Muối Barimetatitanat Barimetatitanat
(NaCl) ngọc (TiO ) Xéc -nhét có thêm chất phụ
2
(Al O ).. . gia
2 3
Chương 2
TÍNH DẪN ĐIỆN CỦA ĐIỆN MÔI
Để so sánh, đánh giá các vật liệu khác nhau ta có thể dùng điện trở suất khối
v và điện trở suất mặt s.
Về trị số điện trở suất khối v bằng điện trở của khối lập phương có cạnh
bằng 1 cm khi dòng điện chạy qua 2 mặt đối diện của khối đó. (cm). Với mẫu vật
S
liệu phẳng và điện trường đồng nhất ta có: v R v (cm) (2.4)
h
(với: Rv là điện trở khối của khối mẫu (), S là diện tích điện cực (cm2), h là
chiều dày khối mẫu (cm)). Điện dẫn suất khối v v1 (-1cm-1).
Về trị số điện trở suất mặt s bằng điện trở của 1 hình vuông trên bề mặt của
vật liệu khi dòng điện chạy qua 2 cạnh đối diện của hình vuông đó. (). Có thể tính
d
điện trở suất mặt s theo công thức: s R s () (2.5)
l
(Rs là điện trở bề mặt của mẫu vật liệu giữa các điện cực song song có chiều
rộng d nằm cách nhau 1 khoảng l), s s1 (-1).
thành dòng Plasma nối liền giữa 2 điện cực, chất khí trở nên dẫn điện, dòng tăng lên
theo hàm số mũ.
Bảng 2.2: Ảnh hưởng của độ ẩm không khí (%), và nhiệt độ tới v của điện môi rắn xốp
Điện trở suất khối v (cm)
Tên vật liệu Độ ẩm tương đối %=70%, t=20oC %=0%, t=100oC
%=0%, t=20oC
Đá hoa 1014 1016 108 1010 10121014
Gỗ 1013 1014 108 109 10121013
Phíp 1013 1014 108 109 10101011
2.4.2. Điện dẫn của điện môi rắn có cấu trúc tinh thể ion.
Trong điện môi rắn có cấu trúc tinh thể ion độ dẫn điện được xác định chủ yếu
do sự chuyển dịch các ion đã được giải phóng bởi ảnh hưởng dao động của chuyển
động nhiệt.
Ở nhiệt độ thấp các ion chuyển dịch là các ion liên kết yếu (ion của tạp chất).
Ở nhiệt độ cao cả 1 số ion của mạng tinh thể cũng được giải phóng.
Trên đây ta nghiên cứu độ dẫn điện của vật rắn khi cường độ điện trường
tương đối thấp. Khi cường độ điện trường có trị số lớn cần phải tính đến khả năng
xuất hiện dòng điện từ trong điện môi tinh thể. Dòng này sẽ tăng nhanh khi cường
độ điện trường tăng.
2.4.3. Điện dẫn bề mặt của điện môi rắn
Khi điện môi rắn đăt trong môi trường khí hoặc lỏng, trên bề mặt điện môi rắn
tồn tại các điện tích của bản thân điện môi và do các bụi bẩn hay lớp nước gây nên.
Các điện tích này sẽ tạo nên dòng điện dẫn bề mặt
Điện dẫn này phụ thuộc chủ yếu vào bề dày của lớp ẩm, lượng tạp chất, tình
trạng bề mặt và bản chất của điện môi.
Trị số độ ẩm tương đối của môi trường xung quanh là yếu tố quyết định đối
với điện dẫn suất mặt của điện môi. Khi độ ẩm tương đối > 60 80% thì điện dẫn
suất mặt tăng rõ rệt.
Điện dẫn suất mặt càng thấp khi cực tính của vật liệu càng yếu, bề mặt điện
môi càng sạch và nhẵn.
Theo điện dẫn mặt có thể phân tích vật liệu thành 3 nhóm:
+ Điện môi không hoà tan trong nước: Các điện môi trung hoà và cực tính yếu
không bị nước thấm ướt (parafin, polystirol...). Các điện môi có cực tính bị nước
thấm ướt (1 số loại gốm). Loại này có điện trở suất bề mặt cao, ít phụ thuộc độ ẩm
của môi trường xung quanh (điện môi cực tính chỉ có thể có điện trở suất bề mặt cao
trong môi trường ẩm nếu bề mặt không bẩn).
+ Điện môi hoà tan 1 phần trong nước (thuỷ tinh kỹ thuật): có điện trở suất
mặt thấp hơn và phụ thuộc đáng kể vào độ ẩm.
+ Điện môi có cấu tạo xốp (sợi, chất dẻo, đá hoa ...): Trong môi trường ẩm
loại này có điện dẫn suất mặt lớn.
*) Nhận xét: Muốn nâng cao điện trở suất mặt người ta dùng phương pháp
làm sạch bề mặt: Rửa bằng nước, bằng các chất hoà tan, xấy khô trong chân không
(ở 600 7000C) sau đó ngâm trong sơn tẩm hoặc dầu, sử dụng sơn quét hoặc tráng
men, thường xuyên vệ sinh thiết bị nếu có thể, cũng có thể đun lâu trong nước cất
với những vật liệu không thấm nước.
Chương 3
TỔN THẤT ĐIỆN MÔI
3.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
*) Khái niệm: Tổn thất điện môi là phần năng lượng tản
ra trong điện môi trên 1 đơn vị thời gian làm cho điện môi
nóng lên khi có điện trường tác động.
Đối với điện áp 1 chiều tổn thất điện môi chủ yếu do
dòng điện rò: P = R.I2 (3.1) Hình 3.1
Đối với điện áp xuay chiều tổn thất do cả dòng điện rò và dòng phân cực gây
nên P U .I . cos (3.2a)
Từ hình vẽ 3.1 ta thấy Ptt U .I . cos U .I R U .I C .tg U 2 .C..tg (3.2b)
IR 1
Với tg (3.3a)
I C R.C.
Từ (3.2b), ta nhận thấy công suất tổn thất tỷ lệ thuận với tg, do vậy tg được
gọi là “Hệ số tổn thất công suất”
Khi điện môi có tổn thất điện môi lớn thì nhiệt độ phát nóng trong điện môi
tăng, đến một giá trị nào đó vượt mức cho phép làm cho điện môi bị phân huỷ nhiệt,
và mất tính chất cách điện, người ta gọi đó là hiện tượng phóng điện vì nhiệt
Tổn thất điện môi liên quan chặt chẽ với hằng số điện môi, thông thường nếu
hằng số điện môi lớn thì tổn thất điện môi cũng lớn.
Công thức (2.2b) có thể viết P U 2 . .C0 ..tg (3.2c)
Ngoài ra tổn thất điện môi còn có thể được xác định thông qua “suất tổn hao”,
đó là giá trị công suất tản trong 1 đơn vị thể tích hoặc suất tổn hao.
Tổn thất dạng này tỷ lệ nghịch với tần số của điện trường, hằng số điện môi và
1 1
tăng theo nhiệt độ theo quy luật hàm số mũ: (3.5)
0 .et
Với 0 là điện dẫn suất ở 250C và P= 1 at, - hệ số mũ, t - Nhiệt độ (0C)
3.2.2. Tổn thất điện môi do phân cực.
Thấy rõ ở các chất có phân cực chậm, trong các điện môi có cấu tạo lưỡng cực
và các điện môi có cấu tạo ion ràng buộc không chặt chẽ.
Tổn thất điện môi do phân cực chậm được gây bởi sự phá huỷ chuyển động
nhiệt của các hạt dưới ảnh hưởng của cường độ điện trường. Sự phá huỷ này làm
năng lượng tiêu tán và điện môi bị nóng lên. Tổn thất phân cực chậm tăng theo tần
số của điện áp đặt. (Rõ nhất ở tần số vô tuyến và tần số siêu cao)
Quan hệ của tg=f(t0) của các điện môi cực tính có giá trị cực đại ở nhiệt độ
nào đó, đặc trưng cho mỗi loại.
3. Tổn thất do ion hoá.
Dạng tổn thất thấy rõ trong điện môi khí hoặc trong các điện môi lỏng và rắn
nhưng có tồn tại các bọt khí. Trong quá trình ion hóa, các phân tử khí tiếp thu năng
lượng điện trường và gây tổn thất điện môi. Khi bị ion hoá trong chất khí có thêm
điện tích và điện tử tự do làm cho điện dẫn khí tăng lên, chúng góp phần tạo nên tổn
hao điện môi lớn.
Tổn hao có thể tính theo công thức: Pi = A.f. (U - U0)3 (3.6)
Với UU0, A - Hằng số, f - Tần số điện trường
U, U0: Điện áp đặt vào và điện áp ứng với điểm bắt đầu ion hoá
4. Tổn thất điện môi do tính không đồng nhất của điện môi.
Loại tổn hao này có rất nhiều trong thực tiễn, gây bởi các tạp chất ngẫu nhiên
hoặc các thành phần riêng biệt được chủ định đưa vào điện môi để làm biến đổi theo
yêu cầu định trước các thuộc tính của nó. Do đặc điểm cấu tạo nên không có công
thức chung để tính tổn thất.
VD: Giấy tẩm, chất dẻo có lớp độn, chất cách điện xốp có chứa không khí và
tạp chất ẩm...
Đơn giản nhất có thể hình dung điện môi không đồng nhất dưới dạng 2 lớp nối
tiếp nhau. Sơ đồ thay thế có thể gồm 2 tụ điện mắc nối tiếp nhau. Trị số tg của
C2 tg 1 C1tg 2
điện môi nhiều lớp khi đó có thể tính: tg (3.7)
C1 C2
3.3. SƠ ĐỒ THAY THẾ VÀ TÍNH TOÁN TỔN THẤT ĐIỆN MÔI
3.3.1. Sơ đồ thay thế và đồ thị véc tơ
Bất kỳ một khối điện môi nào đều có thể thay thế bằng một tụ điện mắc nối
tiếp hoặc song song với một điện trở (hình 3.2), sao cho khi thay thế phải không
làm thay đổi bản chất vật lý của các quá trình diễn ra trong điện môi. Nghĩa là công
suất tổn thất phải bằng công suất thực và góc tổn thất không đổi.
3.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TỔN THẤT ĐIỆN MÔI
Trong thực tế có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tổn thất điện môi, trong đó có
bốn yếu tố quan trọng nhất, đó là: Nhiệt độ, tần số điện trường, độ ẩm không khí, và
giá trị điện áp.
1. Ảnh hưởng của nhiệt độ tới tổn thất điện môi.
Nhiệt độ được xem là yếu tố quan trọng nhất, khi nhiệt độ thay đổi sẽ làm cho
các tính chất của điện môi thay đổi.
Đối với điện môi trung tính hoặc cực tính yếu, tổn thất điện môi chủ yếu do
dòng điện rò gây nên, hệ số tổn thất có thể tính theo công thức sau:
.e .t
tg 0 A.e .t (3.11)
0 . . 0 . .
Đối với điện môi cực tính mạnh nhưng có điện dẫn nhỏ, tổn thất điện môi chủ
yếu do dòng phân cực gây nên, tg có thể tính theo
công thức (3.12)
( )..
tg bd (3.12)
bd . 2 . 2
Với bđ – Hằng số điện môi đo ở tần số thấp (một
chiều), - Thời gian tích thoát năng lượng, nó tăng Hình 3.4: tg=f()
tuyến tính với thời gian và ngược lại. Do vậy tg =f(t ), khi là hằng số có dạng
0
trên nó giảm đi, do vậy tổn thất điện môi lại giảm. Mối quan hệ tg=f(U) có dạng
hình 3.6.
3.5. TỔN THẤT ĐIỆN MÔI TRONG CHẤT KHÍ
Các chất khí ở điều kiện bình thường và trong điện trường thấp có tổn hao rất
bé, vì vậy có thể xem chất khí là điện môi ly tưởng. Nguyên nhân gây nên tổn thất
điện môi khí chủ yếu là do dòng điện dò, còn sự định hướng của các phân tử lưỡng
cực ít kèm theo năng lượng. Do vậy tg có thể xác định theo công thức (3.4)
Ở điện áp cao và điện trường không đồng nhất,khi cường độ điện trường vượt
quá trị số tới hạn các phân tử khí sẽ bị ion hóa và có thể tính theo công thức (3.6),
Mối quan hệ tg=f(U) có dạng hình 3.6.
Ở tần số cao hiện tượng ion hoá và tổn thất năng lượng trong chất khí tăng
đến mức làm cho các vật có khí cách điện bị cháy và phá huỷ nếu điện áp vượt trị số
ion hoá.
3.6. TỔN THẤT TRONG ĐIỆN MÔI LỎNG
Trong các chất lỏng trung tính: tổn thất điện môi chỉ do dòng điện rò gây nên
nếu như chất lỏng không chứa tạp chất có các phân tử lưỡng cực. Điện dẫn suất của
điện môi lỏng trung tính tinh khiết vô cùng bé nên tổn thất điện môi cũng bé, tg có
thể tính theo công thức (3.4)
Các điện môi có cực tính tuỳ theo điều kiện (nhiệt độ, tần số) ngoài tổn thất do
điện dẫn còn có tổn thất do sự phân cực lưỡng cực chậm gây nên. Các điện môi
dùng trong kỹ thuật là hỗn hợp của 2 loại trên.
Ở điện môi lỏng lưỡng cực tổn thất điện môi phụ thuộc vào độ nhớt. Tổn hao
trong các chất lỏng nhớt khi điện áp xoay chiều đặc biệt là khi tần số cao lớn hơn
tổn thất do điện dẫn gây nên rất nhiều. Đó là tổn thất phân cực lưỡng cực chậm.
Tổn thất phân cực lưỡng cực chậm trong chất lỏng có độ nhớt bé và tần số
thấp không đáng kể và có thể nhỏ hơn tổn thất do điện dẫn rò. ở tần số cao tổn thất
phân cực lưỡng cực chậm sẽ rất lớn so với tổn thất do điện dẫn ngay cả khi độ nhớt
bé. Vì vậy chất lỏng lưỡng cực không sử dụng trong trường hợp có tần số cao.
Ở 1 vài trị số nhiệt độ tổn thất có giá trị cực đại và cực tiểu, sau điểm cực tiểu
tổn thất tăng lên do sự tăng của tổn thất điện dẫn.
3.7.2. Tổn thất điện môi của chất rắn có cấu tạo ion
Liên quan đến đặc điểm sắp xếp các ion trong mạng.
Các chất cấu tạo tinh thể có các ion ràng buộc chặt chẽ: khi không có tạp chất
thì tổn thất điện môi rất nhỏ. Ở nhiệt độ cao sẽ xuất hiện tổn thất do điện dẫn. Chỉ
cần 1 lượng tạp chất rất nhỏ gây biến dạng mạng lưới tinh thể cũng làm tăng tổn
thất điện môi lên rất nhiều.
Loại này gồm nhiều hợp chất tinh thể có ý nghĩa to lớn trong sản xuất gốm kỹ
thuật hiện nay (bột đá mài nằm trong thành phần của sứ cao tần), hoặc là muối mỏ...
Các chất cấu tạo tinh thể có các ion không ràng buộc chặt chẽ bao gồm 1 loại
chất kết tinh. Chúng được đặc trưng bởi các loại phân cực chậm làm tăng tổn thất
điện môi.
Mulit trong sứ cách điện, khoáng siricon trong gốm chịu lửa...
Tổn thất điện môi trong các chất không kết tinh có cấu tạo ion (thuỷ tinh vô
cơ) liên quan với hiện tượng phân cực và sự tồn tại của điện dẫn.
Yếu tố chủ yếu xác định tổn thất trong thuỷ tinh vô cơ phụ thuộc vào cách kết
hợp của các ôxit chứa trong nó, vì cách kết hợp ảnh hưởng đến cấu tạo của thuỷ
tinh.
3.7.3. Tổn thất trong điện môi xec- nhét
Tổn thất điện môi có giá trị lớn,do đặc điểm của điện môi này là có hiện tượng
phân cực tự phát phụ thuộc rõ rệt vào nhiệt độ và có điểm cực đại ở nhiệt độ nhất
định (điểm Quyri). Sau điểm Quyri phân cực tự phát mất đi, thuộc tính Xenhit cũng
mất.
Tổn thất trong điện môi xenhit ít biến đổi theo nhiệt độ ở vùng phân cực tự
phát và giảm đột ngột sau điểm Quyri.
3.7.4. Tổn thất điện môi trong chất rắn có cấu tạo không đồng nhất
Chất rắn dùng làm điện môi này gồm vật liệu mà trong thành phần của nó
chứa không ít hơn 2 chất gốc bị xáo trộn cơ học với nhau (các chất gốm)
Một vật liệu gốm bất kỳ đều là hệ phức tạp nhiều pha. Trong thành phần của
gốm ta phân biệt pha tinh thể, pha thuỷ tinh, pha thể khí (khí trong các lỗ hổng kín).
Tổn thất điện môi trong gốm phụ thuộc vào tỷ lượng của pha tinh thể và pha
thuỷ tinh. Pha thể khí trong gốm làm tăng tổn thất điện môi khi điện trường có
cường độ cao hơn do sự ion hoá tăng lên.
Tổn thất trong gốm tăng nếu nó chứa các tạp chất lẫn tính bán dẫn với tính
dẫn điện bằng điện tử. Tổn thất cũng tăng do hút ẩm khi có các lỗ xốp hở.
Ngoài ra còn có giấy tẩm, mica ... Hiện nay người ta dùng nhiều điện môi
không đồng nhất gồm chất dẻo với các chất độn khác nhau, chất dẻo nhiều lớp, vật
liệu cao su có chất độn khác nhau ...
CHƯƠNG 4
SỰ PHÓNG ĐIỆN TRONG ĐIỆN MÔI
nên di chuyển chậm với tốc độ chậm hơn (bằng khoảng 1/100 tốc độ của điện tử),
chúng phân bố ở khu vực thân và đuôi thác. Hình 4.1b cho sự phân bố điện tử tự do
(ne) và ion dương (ni). Sự tồn tại các điện tích của thác điện tử sẽ tạo nên điện
trường phụ do các điện tử tự do (Ee) và ion dương (Ei) gây nên (hình 4.1c). Chúng
làm biến dạng điện trường tổng, đường biểu diễn trên hình 4.1d
Xét về sự biến dạng của trường (hình 4.1d) ta thấy phía đầu thác trường được
tăng cường nhiều, nhưng ngay sau đầu thác trường lại giảm đột ngột, cả hai nơi này
đều có khả năng bức xạ phô tôn. Ở đầu thác trường được tăng cường cao hơn điện
trường E bên ngoài, do vậy dẽ dàng gây nên ion hoá phần khí tiếp theo tạo nên các
thác điện tử mới hướng về phía điện cực đối diện. Mặt khác, do trường tăng cao làm
cho các phân tử khí ở gần sẽ bị kích thích, khi chúng trở lại trạng thái ban đầu sẽ trả
lại năng lượng dưới dạng các phô tôn. Còn ở phía sau đầu thác do trường giảm đột
ngột nên xảy ra hiện tượng kết hợp và cũng trả lại năng lượng đươi dạng phô tôn.
Các phô tôn này chuyển động với tốc độ tương đương tốc độ ánh sáng, nên trong
khi thác ban đầu đang phát triển (giả thiết một đoạn là x) thì các phô tôn dã vượt
trước thác, gây ion hóa và hình thành các thác thứ cấp phía trước thác ban đầu hoặc
cũng có khả năng giải thoát các điện tử từ bề mặt điện cực góp phần tăng thêm số
lượng điện tích và để kế tiếp thác điện tử ban đầu kểt trên.
Dưới tác dụng của điện trường, thác điện tích càng được phát triển đồng thời
được kéo dài ra và khi tiếp cận với các điện cực các điện tích của thác điện tử sẽ
trung hoà trên điện cực, kết thúc quá trình hình thành và phát triển thác điện tử.
Quá trình đó chưa thể gọi là phóng điện vì chưa tạo nên dòng điện lưu thông
liên tục giữa hai điẹn cực. Như vậy để có phóng điện cần thiết phải có xuất hiện các
điện tử mới để hình thành các thác mới, trước khi thác thứ nhất kết thúc và hình
thành các thác thứ cấp ngay phía trước thác ban đầu.
Trong giai đoạn tiếp theo, các thác này đuổi kịp nhau và hình thành “dòng”
hướng từ cực âm đến cực dương. Đồng thời hình thành dòng các điện tích dương
hướng ngược lại (gọi là dòng dương). Thực tế cho ta thấy khi thác điện tích có mật
độ điện tích lớn (khoảng 1012 ion/cm3) và gần tiếp cận tới điện cực dương, toàn bộ
điện áp giữa hai điện cực dồn đặt lên một khe khí hẹp ở tại đó cường độ điện trường
rất lớn làm bứt các ion dương từ cực dương chuyển động theo chiều ngược lại của
thác điện tử. Khi chúng hoà nhập làm một sẽ gây nên phóng điện chọc thủng điện
môi khí tạo thành dòng plazma, kết thúc bằng quá trình phóng điện.
Thường phóng điện trong chất khí xảy ra rất nhanh gần như tức thời, nếu khe
hở khí là 1 cm thì thời gian phát triển phóng điện chọc thủng khoảng 10-8÷10-7giây.
4.2.4. Các dạng phóng điện của điện môi khí
Tuỳ thuộc vào công suất nguồn, áp suất khí và dạng của điện trường, quá trình
hình thành dòng Plasma có khác nhau và đưa đến các dạng phóng điện khác nhau:
*) Phóng điện toả sáng
Xảy ra khi áp suất thấp, Plasma không thể có điện dẫn lớn vì số lượng phân tử
khí quá ít. Phóng điện toả sáng thường chiếm toàn bộ khoảng không gian giữa các
điện cực và được ứng dụng trong các ống phát sáng, đèn nêon...
*) Phóng điện tia lửa
Xảy ra khi áp suất lớn, Plasma không chiếm hết toàn bộ khoảng không gian
mà chỉ là tập trung vào một khe khí hẹp nối giữa các điện cực. Mật độ ion trong
dòng Plasma rất lớn nên có thể dẫn được dòng điện lớn nhưng không lớn quá vì bị
giới hạn bởi công suất nguồn, VD: sét
*) Phóng điện hồ quang
Tương tự như phóng điện tia lửa nhưng ở đây công suất nguồn lớn và tác
dụng trong thời gian dài. Dòng điện hồ quang rất lớn, đốt nóng dòng Plasma làm
cho điện dẫn của nó tăng thêm và do đó dòng điện hồ quang càng tăng. Dòng điện
sẽ tăng tới mức ổn định khi có sự cân bằng giữa phát nóng và toả nhiệt của khe hồ
quang. VD: hàn hồ quang, lò hồ quang…
*) Phóng điện vầng quang
Chỉ tồn tại trong điện trường không đồng nhất và xuất hiện trong khu vực
xung quanh điện cực. Dạng phóng điện này không hoàn toàn vì dòng Plasma không
nối liền 2 điện cực và do đó không thể có dòng điện lớn. Phóng điện vầng quang
chưa làm mất hẳn tính chất cách điện của khe hở nhưng cũng không nên để phát
sinh vầng quang vì nó gây nhiều tác hại khác: gây tổn thất năng lượng lớn trên
đường dây truyền tải...
4.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến độ bền điện của điện môi khí
a. Khái quát
Độ bền điện của điện môi khí trước hết phụ thuộc vào dạng điện trường, trong
điện trường đồng nhất độ bền điện cao hơn nhiều đối với trường không đồng nhất
Điện áp đặt vào khoảng khí càng lớn sự đánh thủng càng phát triển nhanh.
Nếu khoảng thời gian tác động của điện áp càng nhỏ thì điện áp đánh thủng sẽ
phải tăng lên.
- Độ ẩm không khí: Khi độ ẩm không khí % 70%, thường ít ảnh hưởng,
nhưng khi độ ẩm tăng cao sẽ làm giảm đáng kể độ bền điện của điện môi khí.
b. Đánh thủng chất khí trong trường đồng nhất
Trị số trường tại mọi điểm đều bằng nhau (E = const)
nên quá trình hình thành và phát triển của phóng điện không
phụ thuộc vào cực tính.
Sự đánh thủng xảy ra tức thời khi điện áp đạt đến 1 trị số
nhất định tuỳ thuộc vào nhiệt độ và áp suất của khí. Nếu nguồn
áp đủ lớn giữa các bản cực xuất hiện tia lửa rồi biến thành hồ
quang.
Khi nhiệt độ và khoảng cách điện cực không đổi thì độ
bền điện phụ thuộc vào áp suất chất khí (hay mật độ phân tử),
Hình 4.2 và 4.3
Bài giảng Vật liệu điện 26
Bộ môn Thiết bị điện, khoa Điện, trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
hình 4.2.
Trong trường có nhiệt độ và áp suất không đổi thì cường độ điện trường đánh
thủng chất khí phụ thuộc vào khoảng cách giữa các điện cực hình 4.3.
c. Trong điện trường không đồng nhất
Sự đánh thủng khí là hiện tượng xuất hiện phóng điện 1 phần dưới dạng
phóng điện vầng quang tại những chỗ mà ở đó cường độ điện trường đạt đến trị số
tới hạn. Hiện tượng vầng quang sẽ chuyển sang phóng điện tia lửa và hồ quang khi
điện áp tăng lên.
Xét dạng điện cực điển hình cho trường không đồng nhất
là đôi cực mũi nhọn (kim) - cực bản (mặt phẳng):
Sự phân bố điện trường được mô tả như hình 4.4. Do sự
tăng cường độ trường ở phía điện cực có bán kính cong bé nên
mọi quá trình ion hoá, quá trình phóng điện cũng đều bắt nguồn
từ đấy dù điện cực là dương hay âm nhưng sự khác nhau về cực Hình 4.4
tính lại ảnh hưởng rất lớn đến các giai đoạn phát triển về sau.
*) Khi mũi nhọn có cực tính dương
Mũi nhọn là khu vực có điện trường mạnh nên trước khi xuất hiện vầng quang
ở đấy đã có quá trình ion hoá và tạo nên thác điện tử. Các thác này sẽ di chuyển về
phía mũi nhọn và khi tới nơi các điện tử của thác sẽ đi vào điện cực để lại các ion
dương tạo nên lớp điện tích không gian ở khu vực mũi nhọn, trường của điện tích
không gian dương E' sẽ làm biến dạng trường tổng (hình 4.5a) và kết quả là ở bên
phải nó trường được tăng cường (E' cùng phương với trường ngoài E) tạo điều kiện
cho quá trình lan truyền của điện tích từ vầng quang đi ra điện cực đối diện, ngược
lại ở phía bên trái tức là ở khu vực điện cực mũi nhọn trường bị giảm (E' ngược
phương với E) do đó hạn chế quá trình ion hoá và gây khó khăn cho sự hình thành
vầng quang. Vì thế quá trình đánh thủng trong trường này rất dễ xảy ra khi điện áp
tăng lên (hình 4.5b).
Hình 4.5: Quá trình phóng điện Hình 4.6:Quá trình phóng điện
vầng quang khi mũi nhọn có cực vầng quang khi mũi nhọn có cực
tính dương tính âm
Bài giảng Vật liệu điện 27
Bộ môn Thiết bị điện, khoa Điện, trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
Hình 4.7: Tác dụng của màn chắn đối với mũi nhọn có các cực tính khác nhau
Bài giảng Vật liệu điện 28
Bộ môn Thiết bị điện, khoa Điện, trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
+ Áp suất: điện môi lỏng bình thường không phụ thuộc áp suất, nếu có chứa
bọt khí thì cường độ cách điện sẽ tăng khi áp suất tăng.
+ Thời gian tác động của điện áp tăng thì độ bền điện sẽ giảm. Chất lỏng chứa
nhiều tạp chất thì càng suy giảm mạnh.
đường dây điện cao áp, các phóng điện này thường không làm hư hỏng cách điện
nhưng có thể dẫn tới ngắn mạch hệ thống, gây tổn hao… Do vậy ta cần hạn chế
không để xảy ra.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến phóng điện bề mặt:
- Tình trạng bề mặt của điện môi rắn.
- Nhiệt độ, áp suất khí (nhiệt độ cao, áp suất giảm thì Upđbm giảm).
- Độ ẩm môi trường (kk tăng thì Upđbm giảm).
- Thời gian tác động của điện áp (thời gian ngắn thì Upđbm tăng). Điều này
không chỉ đúng với bề mặt mà đúng với cả khoảng khí.
- Hình dáng của điện cực và sự phân bố của trường: trong trường đồng nhất
Uđt giảm. Trong trường không đồng nhất Uđt cũng phụ thuộc vào hình dáng điện cực
và sự phân bố của trường.
* Biện pháp để nâng cao trị số điện áp phóng điện:
- Sử dụng sơn quét hoặc tráng men, tạo độ bóng bề mặt và hạn chế ảnh hưởng
của độ ẩm không khí
-Thường xuyên vệ sinh thiết bị.
-Tăng chiều dài phóng điện bề mặt, chiều dài rò điện bằng cách tạo các gờ tán.
-Đối với trường theo phương tiếp tuyến lớn người ta sử dụng cực ngầm. Bằng
cách này làm cho trường sẽ tập trung về phía cực ngầm, làm tăng điện áp phóng
điện mặt ngoài.
- Đối với trường theo phương pháp tuyến lớn người ta sơn 1 lớp sơn bán dẫn ở
khu vực phân bố trường theo phương pháp tuyến lớn làm đẳng thế giữa các lớp sơn
nên làm giảm trường phân bố theo phương pháp tuyến.
Chương 5
TÍNH CHẤT CƠ - LÝ - HOÁ CỦA ĐIỆN MÔI
5.1. TÍNH HÚT ẨM CỦA VẬT LIỆU CÁCH ĐIỆN
5.1.1. Độ ẩm của không khí.
Trong không khí luôn chứa 1 lượng hơi nước nhất định
Độ ẩm tuyệt đối của không khí: Được đánh giá bằng khối lượng (mg) của hơi
m
nước chứa trong 1 đơn vị thể tích không khí (m3). t (mg/m3) (5.1)
V
Ứng với mỗi nhiệt độ xác định, không khí không thể chứa 1 lượng nước lớn
hơn mmax vì nó sẽ rơi xuống dưới dạng sương.
- Độ ẩm tương đối của không khí:
m
kk % 100% (5.2) (2)
m max cb
5.1.2. Độ ẩm của vật liệu (1)
Các vật liệu cách điện với mức độ nhiều hay ít t
đều hút ẩm tức là khi đặt mẫu vật liệu có độ ẩm vl, Hình 5.1
trong môi trường có kk, sau một thời gian vật liệu sẽ đạt độ ẩm cân bằng cb
Trên hình 5.1, nếu vl<kk, vật liệu bị ngấm ẩm (đường 1), nếu vl<kk, vật
liệu bị sấy khô tự nhiên (đường 2),
Việc xác định độ ẩm của vật liệu cách điện rất quan trọng để chọn những điều
kiện thử nghiệm các tính chất điện của vật liệu.
5.1.3. Tính thấm ẩm
Là khả năng cho hơi nước đi xuyên qua bản thân vật liệu. Tất cả những vật
liệu có khảng cách giữa các phân tử lớn hơn kích thước một phân tử nước, đều cho
hơi nước đi xuyên qua. Đặc điểm này rất quan trọng khi đánh giá chất lượng của
các vật liệu dùng để sơn phủ bảo vệ. Phần lớn các vật liệu đều thấm ẩm qua các lỗ
xốp rất nhỏ.
Để làm giảm độ thấm ẩm và hút ẩm của vật liệu cách điện xốp người ta dùng
sơn tẩm hoặc dầu.
Ở các điện môi hữu cơ thường có nấm mốc phát triển và huỷ hoại. Nấm mốc
làm xấu điện trở suất mặt của điện môi, tăng tổn thất và giảm độ bền cơ của chất
cách điện, gây ăn mòn các bộ phận kim loại tiếp xúc với nó.
Để chống nấm mốc người ta thêm vào thành phần của các vật liệu cách điện
hữu cơ chất Fungixit hoặc phủ lên chất cách điện lớp sơn chứa Fungixit.
5.1.4. Sự hấp phụ hơi nước trên bề mặt điện môi.
Đối với vật liệu không thấm ẩm khi đặt trong môi trường ẩm thì trên bề mặt
vật liệu hình thành màng ẩm hay bị ngưng tụ lớp nước. Quá trình ngưng tụ hơi nước
trên bề mặt vật liệu gọi là sự hấp phụ hơi nước trên bề mặt vật liệu.
Lớp hơi nước này phụ thuộc vào độ ẩm, cấu trúc bề mặt và loại vật liệu. Độ
ẩm càng lớn thì bề dày của lớp hấp phụ lớn. Những vật liệu có kết cấu tinh thể ion
hay cực tính mạnh thì có khả năng hấp phụ mạnh, còn các vật liệu trung tính hay
cực tính yếu có sự hấp phụ nhỏ.
Khả năng dính nước (hoặc chất lỏng khác) của điện môi được đặc trưng bởi
“góc nghiêng dính nước” của giọt nước đổ lên mặt phẳng của vật liệu. càng nhỏ
sự dính nước càng mạnh
Độ bền cơ của vật liệu cách điện phụ thuộc vào nhiệt độ và thường giảm khi
nhiệt độ tăng. Độ bền của vật liệu hút ẩm phụ thuộc đáng kể vào độ ẩm.
5.2.2. Tính giòn
Độ giòn của vật liệu, chính là khả năng của vật liệu chống chịu tác dụng của
các lực cơ học đột ngột, bất ngờ.
5.2.3. Độ cứng
Là khả năng lớp bề mặt vật liệu chống lại biến dạng do lực nén truyền từ vật
có kích thước nhỏ vào nó.
Đối với vật liệu vô cơ: Độ cứng được xác định theo thang khoáng vật hay là
thang thập phân quy ước của độ cứng
Đối với vật liệu hữu cơ: Xác định bằng phương pháp Brinel và phương pháp
con lắc của Cuznexôp.
5.2.4. Độ nhớt
Là đặc tính quan trọng của vật liệu cách điện lỏng và nửa lỏng.
Độ nhớt động lực học hay còn gọi là hệ số ma sát bên trong của chất lỏng.
Độ nhớt động học: . (N là mật độ phân tử của chất lỏng) (5.3)
N
Tất cả các chất không bị biến đổi hoá học khi nung nóng có độ nhớt giảm theo
hàm số mũ khi nhiệt độ tăng.
5.3 TÍNH CHẤT NHIỆT CỦA ĐIỆN MÔI
Nhiệt độ là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn tới các tính chất về điện,
cơ của điện môi. Những tính chất nhiệt quan trọng nhất của điện môi là: Độ bền
chịu nóng, độ bền chịu lạnh, độ dẫn nhiệt và giãn nở dài.
5.3.1. Tính chịu nóng của vật liệu cách điện.
Khả năng chịu nóng là khả năng của vật liệu và các chi tiết chịu đựng không bị
hư hỏng trong thời gian ngắn cũng như lâu dài dưới tác động của nhiệt độ cao hoặc
sự thay đổi đột ngột của nhiệt độ.
Đối với điện môi vô cơ: Khả năng chịu nóng được xác định bởi nhiệt độ (đo
bằng oC) mà ở đó điện môi bắt đầu có sự thay đổi mạnh về tính chất điện (tg tăng
hay điện trở suất giảm).
Đối với điện môi hữu cơ: Khả năng chịu nóng được xác định bởi nhiệt độ (đo
bằng oC) mà ở đó điện môi bắt đầu có sự thay đổi mạnh về các tính chất cơ học:
Khả năng chịu kéo giảm mạnh, độ cứng giảm hay khả năng chịu uốn giảm mạnh…
Đối với điện môi lỏng cần phân biệt nhiệt độ cháy và nhiệt độ chớp cháy.
Nhiệt độ chớp nháy: Là nhiệt độ mà khi nung nóng chất lỏng đến nhiệt độ đó
hỗn hợp hơi của nó với không khí sẽ bốc cháy khi đưa tia lửa vào gần.
Nhiệt độ cháy: Là nhiệt độ cao hơn mà khi đưa ngọn lửa lại gần bản thân chất
lỏng thử nghiệm bắt đầu cháy.
*)Độ bền chịu nóng hay nhiệt độ làm việc cao nhất cho phép, là nhiệt độ mà
khi sử dụng vật liệu ở nhiệt độ ấy trong các thiết bị thì thời gian phục vụ định trước
theo các yêu cầu kinh tế và kĩ thuật của thiết bị được đảm bảo.
Độ bền chịu nóng có thể được giải quyết trên cơ sở độ bền chịu nóng của vật
liệu có chú ý đến hệ số dự trữ. Hệ số này phụ thuộc vào điều kiện làm việc, mức độ
an toàn cần thiết và tuổi thọ chất cách điện.
*) Tiêu chuẩn của Uỷ ban Kỹ thuật điện Quốc tế đã xem xét và phân loại vật
liệu cách điện theo độ bền chịu nóng (nhiệt độ làm việc lớn nhất cho phép), như sau
Cấp cách điện Y A E B F H C
Nhiệt độ cho phép ( C)
o
90 105 120 130 155 180 >180
Cấp Y: bao gổm các vật liệu sợi gốc xenlulô và tơ(vải, sợi, giấy, gỗ...)chưa
được ngâm tẩm trong vật liệu cách điện lỏng.
Cấp A: Là các vật liệu cấp Y đã được ngâm tẩm (giấy tẩm, vải tẩm, nhựa
pôlyamit...).
Cấp E: gồm các chất dẻo có chất độn hữu cơ và lớp nhựa liên kết chịu nhiệt
loại Fenol focmalđêhit và các loại khác (Hêtinắc,Téctôlit...)
Cấp B: mica vụn, sợi Amian, vải sơn thuỷ tinh, téctôlit thuỷ tinh...
Cấp F: Micanit, Êpoxi poliête chịu nhiệt, silic hữu cơ...
Cấp H: tương tự như cấp F, nhưng chất liên kết là loại nhựa silic hữu cơ có
độ bền nhiệt đặc biệt cao.
Cấp C: Gồm các vật liệu vô cơ thuần túy, hoàn toàn không có thành phần kết
dính hay tẩm.
Các loại Y, A, E gồm chủ yếu là vật liệu thuần tuý hữu cơ, Các loại có độ bền
chịu nóng cao hơn chứa thành phần vô cơ nhiều hơn.
Việc phân loại các vật liệu cách điện hoặc hỗn hợp của chúng theo độ bền chịu
nóng đồi hỏi phải làm thử nghiệm rất công phu và lâu dài đối với mẫu vật liệu về sự
hoá già do nhiệt trong những điều kiện gần nhất với các điều kiện làm việc bình
thường của vật liệu đó (như: cường độ trường, độ ẩm không khí …)
Với các vật liệu cách điện đặc biệt giòn, dễ vỡ (thuỷ tinh, vật liệu gốm...) cần
phải thử nghiệm độ bền xung nhiệt.
Thông thường nhiệt độ làm việc của các thiết bị điện bị giới hạn bởi nhiệt độ
làm việc của vât liệu cách điện. Vì vậy, khả năng nâng cao nhiệt độ làm việc của
chất cách điện rất quan trọng. Trong máy điện và thiết bị điện, việc nâng cao nhiệt
độ cho phép nhận được công suất cao hơn khi kích thước không đổi, hoặc nếu giữ
nguyên công suất thì có thể giảm kích thước, trọng lượng và giá thành của thiết bị.
Nâng cao nhiệt độ làm việc đặc biệt quan trọng đối với các động cơ kéo và cầu
trục, với các thiết bị điện trên máy bay... mà nhiệm vụ giảm kích thước và trọng
lượng đặt lên hàng đầu. Ngoài ra còn liên quan đến các biện pháp phòng cháy và
phòng nổ.
Sự giảm xấu chất lượng cách điện chỉ có thể phát hiện được khi nhiệt độ tác
động lâu dài do các quá trình hoá học diễn ra một cách chậm chạp gọi là sự hoá già
nhiệt chất cách điện. VD: ở màng sơn và xen lu lô: tăng độ rắn và giòn, tạo thành
vết nứt...Ngoài ra, tốc độ hoá già còn chịu ảnh hưởng của áp suất không khí, nồng
độ ôxy, các chất phản ứng hoá học làm nhanh hoặc chậm quá trình hoá già.
5.3.2. Tính chịu băng giá: (Hay độ bền chịu lạnh)
Là khả năng chất cách điện làm việc không bị giảm độ tin cậy khi vận hành ở
nhiệt độ thấp (-70 -60oC)
Thường ở nhiệt độ thấp tính chất điện của vật liệu cách điện tốt hơn nhưng
cũng có nhiều vật liệu dẻo và đàn hồi sẽ trở nên giòn và cứng ở nhiệt độ thấp, gây
khó khăn cho sự làm việc của chất cách điện.
Các chất lỏng cách điện ở nhiệt độ thấp có thể đông cứng làm cho các thiết bị
có cách điện là chất lỏng khó có thể thao tác được, ví dụ: máy cắt dầu..
5.3.3. Độ dẫn nhiệt.
Độ dẫn nhiệt của vật liệu cách điện có ý nghĩa quan trọng vì trong quá trình
làm việc, nhiệt toả ra do tổn thất công suất trong dây dẫn bọc cách điện, trong lõi
thép của máy điện, tổn thất điện môi trong chất cách điện, được truyền qua môi
trường xung quanh qua nhiều lớp vật liệu khác nhau. Sự truyền nhiệt kém sẽ gây ra
phát nóng cục bộ ảnh hưởng đến độ bền nhiệt của vật liệu.
5.3.4. Sự giãn nở nhiệt của điện môi:
1 dl
Đánh giá bằng sự giãn nở dài theo nhiệt độ: l [độ-1] (5.4)
l dt
Những vật liệu có hệ số giãn nở dài theo nhiệt độ nhỏ thường có độ bền chịu
nóng cao và ngược lại.
5.4. TÍNH CHẤT HOÁ HỌC CỦA ĐIỆN MÔI
5.4.1- Tính chất hoá học
Phải nghiên cứu tính chất hoá học của điện môi vì hai nguyên nhân:
Độ tin cậy của vật liệu phải được đảm bảo khi làm việc lâu dài ,không bị phân
huỷ để giải thoát ra những sản phẩm phụ, không ăn mòn các kim loại tiếp xúc với
nó. Không phản ứng với các chất khác.
Khi sản xuất các chi tiết có thể gia công vật liệu bằng các phương pháp hoá
công khác nhau: dính được, hoà tan được trong dung dịch thành sơn.
5.4.2 Tính chịu tác động của bức xạ năng lượng cao
Độ bền bức xạ là mức độ bền vững của vật liệu đối với tác động bức xạ, mức
độ duy trì tính chất điện và cơ của chúng.
Bức xạ năng lượng cao có thể sử dụng trong quá trình công nghệ để tạo ra vật
liệu mới có những tính chất quý giá đối với thực tế,
VD: nâng cao độ chịu nóng hoặc đối với việc tổng hợp các vật liệu mới...
Sự hấp thụ phóng xạ trong vật liệu phụ thuộc vào bản chất vật liệu và chất
lượng của chính sự phóng xạ. Khi gặp bề mặt vật liệu năng lượng phóng xạ giảm
theo mức độ thấm vào chiều sâu vật liệu.
Tác động của bức xạ có thể dẫn đến hàng loạt các biến đổi phân tử và phản
ứng hoá học. Khi bức xạ lâu dài hoặc với cường độ rất mạnh các chất bị bức xạ đều
bị phân huỷ.
Chương 6
VẬT LIỆU CÁCH ĐIỆN
6.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẬT LIỆU CÁCH ĐIỆN - PHÂN LOẠI
* Tầm quan trọng của vật liệu cách điện:
Vật liệu cách điện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với kỹ thuật điện. Chúng
được dùng để ngăn cách giữa phần mang điện và phần không mạng điện hoặc giữa
những phần mang điện với nhau.Nếu không có vật liệu cách điện thì sẽ không thể
chế tạo được bất kỳ một loại thiết bị nào, cho dù là đơn giản nhất.
* Phân loại:
- Phân theo trạng thái: Khí, lỏng, rắn. Ngoài ra còn có vật liệu hoá rắn.
- Phân theo bản chất hoá học: Vật liệu cách điện vô cơ và hữu cơ.
+ Cách điện hữu cơ có tính cơ học đáng quý là tính dẻo, đàn hồi tuy nhiên
chúng có độ bền nhiệt thấp.
+ Cách điện vô cơ thường giòn, không có tính dẻo và đàn hồi. Chế tạo phức
tạp nhưng có độ bền nhiệt cao.
+ Ngoài ra còn có những vật liệu có tính trung gian giữa vô cơ và hữu cơ: đó
là những vật liệu hữu cơ nhưng trong phân tử của chúng có chứa cả những nguyên
tố đặc trưng cho vật liệu vô cơ: Si, Al, P...
- Phân theo khả năng chịu nhiệt: vật liệu được phân thành các cấp Y, A, E, B,
F, H, C. Việc phân cấp theo nhiệt độ làm việc lớn nhất cho phép có ý nghĩa thực
tiễn quan trọng.
6.2. VẬT LIỆU CÁCH ĐIỆN THỂ KHÍ
Trước tiên ta cần phải nhắc đến không khí. Nó thường tham gia vào các thiết
bị điện và giữ vai trò như vật liệu cách điện hỗ trợ thêm cho các vật liệu cách điện
rắn hoặc lỏng. Hay là tạo nên 1 lớp cách điện duy nhất giữa các dây dẫn trần của
đường dây tải điện trên không.
1) Hiđro: H2 là 1 chất khí nhẹ. Dùng làm mát thay không khí trong các máy
điện sẽ giảm được tổn thất công suất do ma sát của rôto với chất khí và do quạt gió
gây ra. Do không có tác dụng ôxy hoá (vì không có ôxy) nên dùng H 2 làm chậm sự
hoá già chất cách điện hữu cơ trong dây quấn máy điện và loại trừ khả năng hoả
hoạn trong trường hợp bị ngắn mạch bên trong máy điện.
2) Nitơ: N2 đôi khi được dùng thay cho không khí để lấp đầy tụ điện khí vì
có đặc tính điện gần giống không khí.
3) Khí Elêga: Khí điện (êlêga-SF6) có độ bền điện lớn hơn không khí 2,5
lần. Nó không độc, chịu được tác dụng hoá học, không phân huỷ khi đốt nóng tới
800oC. Đặc biệt ở áp suất cao êlêga có những ưu điểm rất lớn. Chỉ 1 lượng nhỏ
êlêga lẫn vào không khí cũng làm tăng độ bền điện của nó lên rất nhiều, điều đó
được ứng dụng vào 1 số thiết bị điện cao áp.
6.3. VẬT LIỆU CÁCH ĐIỆN THỂ LỎNG
1- Dầu mỏ cách điện:
a. Dầu biến áp: Được dùng nhiều trong kỹ thuật điện. Nó có công dụng chính:
+ Lấp đầy các lỗ xốp trong vật liệu cách điện gốc sợi và khoảng trống giữa
các dây dẫn của cuộn dây và giữa cuộn dây với vỏ máy biến áp, làm tăng độ bền
điện của lớp cách điện lên rất nhiều.
+ Tăng cường sự thoát nhiệt do tổn hao công suất trong dây quấn và lõi thép
MBA sinh ra.
+ Ngoài ra còn dùng trong các máy cắt dầu cao áp.
- Dầu biến áp được chế tạo từ dầu mỏ bằng phương pháp chưng cất. Nó phải
có nhiệt độ chớp cháy cao và độ nhớt thấp.
- Độ bền điện của dầu giảm nhiều nếu có lẫn nước và tạp chất. Khi sấy khô
đúng mức thì độ bền điện được phục hồi.
Sau một thời gian làm việc dầu bị hóa già và người ta phải lọc và tái chế lại,
tốc độ hoá già dầu tăng lên trong các trường hợp sau:
+ Khi có ôxy lọt vào. Đặc biệt nó tiến triển mạnh khi tiếp xúc với ôzon
+ Khi nhiệt độ tăng.
+ Khi có sự tiếp xúc của dầu với 1 số kim loại (đồng, sắt, chì...)
+ Khi có tác dụng của ánh sáng.
+ Khi có tác dụng của điện trường cường độ cao.
b. Dầu tụ điện: Để tẩm các tụ điện giấy, đặc biệt là các tụ động lực dùng để bù
trong các thiết bị điện. Khi được tẩm dầu điện trở cách điện cũng như độ bền điện
tăng lên, làm giảm kích thước, trọng lượng và giá thành của tụ điện.
c. Dầu cáp: Dùng để tẩm lớp giấy cách điện của cáp làm tăng độ bền điện
dùng cho cáp điện lực. Có nhiều loại dầu cáp khác nhau.
2. Điện môi lỏng tổng hợp:
a. Xôvôn: Là chất lỏng không mầu và trong suốt, nặng hơn dầu mỏ. Độ nhớt
cao hơn đầu biến áp nhiều. Ở nhiệt độ bình thường và ở tần số thấp 5. (nó phụ
thuộc vào nhiệt độ và tần số theo tính quy luật đặc trưng cho các điện môi cực tính).
Xôvôn và xôvtôn không dùng được trong các máy cắt chứa chất lỏng vì khi
dập hồ quang thì trong xôvôn có bồ hóng thoát ra cùng với hơi có tính độc và tính
ăn mòn. Khi làm việc cần chú ý không để dính vào da và đảm bảo thông gió tốt.
b. Chất lỏng Silic hữu cơ: Có nhỏ, độ hút ẩm nhỏ, độ bền nhiệt cao. Có thể
dùng tẩm tụ điện nhưng đắt tiền và độ bền cơ thấp.
c. Chất lỏng Flo hữu cơ: Có tổn hao điện môi rất nhỏ, độ hút ẩm nhỏ không
đáng kể và độ bền nhiệt cao. Độ nhớt nhỏ, tương đối dễ bay hơi, khả năng đảm bảo
thoát nhiệt ra khỏi dây quấn và lõi từ của chất lỏng Flo hữu cơ mạnh hơn nhiều so
với dầu mỏ.
Ưu điểm: Không cháy được, có độ bền chịu hồ quang cao nhưng đắt tiền.
3. Dầu thực vật:Là những chất lỏng nhớt thu được từ hạt của những loại thực
vật khác nhau. Cần đặc biệt chú ý tới dầu khô. Nó thường dùng chế tạo sơn dầu
cách điện, vải sơn, tẩm gỗ...
Có 2 loại dầu khô phổ biến là dầu gai và dầu trẩu. (Thu được từ hạt gai và
hạt trẩu). Dầu trẩu chóng khô hơn dầu gai.
- Loại nhiệt cứng: khi bị nung nóng thì biến đổi tính chất không phục hồi
được như trở nên rắn lại, không hoá dẻo và không hoà tan. Vật liệu nhiệt cứng
thường là các pôlime không gian hoặc polime chuyển sang cấu trúc không gian khi
bị đốt nóng.
* Theo tính hút ẩm và các tính chất điện:
- Loại có phân tử trung hoà: ít hút ẩm, tg bé, độ bền cơ học không cao.
- Loại có phân tử cực tính: tính hút ẩm nhiều hơn, tính chất điện kém hơn
nhưng độ bền cơ cao hơn.
6.5. NHỰA CÁCH ĐIỆN
1. Khái niệm:
Là tên gọi của một nhóm rất rộng các vật liệu có nguồn gốc và bản tính rất
khác nhau nhưng có 1số đặc điểm rất giống nhau về bản chất hoá học cũng như 1 số
tính chất vật lý chung. Ở nhiệt độ thấp thì nó cứng và giòn nhưng khi nhiệt độ tăng
lên thì nó trở nên dẻo, đàn hồi. Nhựa không hòa tan trong nước, nhưng lại hòa tan
trong một số dung môi.
1. Nhựa thiên nhiên:
Là những chất do một số động vật (cánh kiến) hoặc những loại cây có nhựa
(nhựa thông) tiết ra. Người ta khai thác chúng ở dạng sẵn có trong tự nhiên và chỉ
cần tẩy sạch, nấu chảy...
* Cánh kiến:
Do 1 số côn trùng tiết ra trên các cành cây ở xứ nóng. Người ta thu nhặt theo
kiểu thủ công, lọc sạch bẩn và nấu chảy.
Đặc tính cách điện: =3,5; =1015 1016.cm; tg = 0,01;Eđt= 2030 KV/mm
* Nhựa thông (Colofan):
Là loại nhựa giòn mầu vàng hoặc nâu, dùng nhựa thông hoà tan trong dầu mỏ
vào việc sản xuất các hợp chất để tẩm và ngâm cáp.
Đặc tính cách điện: =1014 1015.cm; Eđt= 1015 KV/mm; và tg phụ
thuộc nhiệt độ đặc trưng cho điện môi cực tính. Nhiệt độ hoá dẻo: 50700C
* Nhựa khoáng sản (điển hình là Copan):
Là loại nhựa khó nóng chảy. Nó bóng, cứng, khó hoà tan. Nhựa này 1 phần
khai thác trong khoáng sản do các loại cây có nhựa đã sinh trưởng trước đây tách ra.
1 phần thu được từ nhựa của các loại cây đang mọc hiện nay.
Chúng dùng làm chất phụ gia cho sơn dầu nhằm tăng độ cứng của màng sơn.
Hổ phách thuộc loại Côpan có: = 2,8; =1017 1019.cm và tg = 0,001 có
thể dùng làm đầu vào của các thiết bị cần có điện trở cách điện rất cao.
2. Nhựa nhân tạo:
Gồm ete xenlulo (Điển hình) và este xenlulo. Chúng được tạo ra từ việc xử lý
hoá học các xenlulo tự nhiên. Chúng thuộc loại nhiệt dẻo, kém chịu nóng. được
dùng chế tạo vật liệu dệt, màng mỏng, sơn, chất dẻo.
3. Nhựa tổng hợp:
Bài giảng Vật liệu điện 39
Bộ môn Thiết bị điện, khoa Điện, trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
Nhựa tổng hợp có vai trò quan trọng trong kỹ thuật cách điện. Theo bản chất
người ta lại chia nhựa tổng hợp ra thành nhựa trùng hợp và nhựa ngưng tụ.
a. Nhựa trung hoà: Êtylen, Polyêtylen (PE), Polypropylen (PP) hay Polystyrol (PS)
b. Nhựa cực tính: Rượu Polyvinyl, nhựa Polimetylmetacrilat (thuỷ tinh hữu cơ),
nhựa Flo hữu cơ, nhựa tổng hợp nhiệt dẻo, nhựa Phenolfomandehit.
+ Đặc tính cơ: Độ bền nén lớn hơn bền kéo rất nhiều. Trong điều kiện bình
thường thuỷ tinh rất giòn.
+ Đặc tính nhiệt: Không có nhiệt độ nóng chảy nhất định. Nhiệt độ hoá dẻo
của các loại thuỷ tinh từ 400 16000C. Khi thêm chất phụ vào thì nhiệt độ hoá dẻo
của thuỷ tinh giảm dần.
+ Đặc tính quang học: Phần lớn các thuỷ tinh kỹ thuật đều hấp thụ mạnh tia
tử ngoại.
+ Đặc tính điện: Phụ thuộc vào thành phần cấu tạo của nó.
2. Phân loại và 1 vài ứng dụng của thuỷ tinh:
* Phân loại theo công dụng:
- Thuỷ tinh tụ điện: Dùng làm điện môi cho tụ dùng trong bộ lọc cao thế, trong
máy tạo xung, trong mạch dao động của các thiết bị cao tần.
- Thuỷ tinh định vị: Chế tạo các chi tiết định vị, sứ cách điện...
- Thuỷ tinh bóng đèn:Làm bóng đèn thắp sáng và nhiều loại ống điện tử khác.
- Men thuỷ tinh:Là 1 loại thuỷ tinh đục và dễ nóng chảy dùng để phủ lên mặt
ngoài của nhiều loại sản phẩm.
- Thuỷ tinh có chất độn: Thuỷ tinh mica. Là những chất dẻo được ép nóng
bằng thuỷ tinh và bột mica.
- Xơ thuỷ tinh:Là thuỷ tinh kéo ra thành sợi nhỏ (đường kính 4-7 micron), dài,
mềm dùng để sản xuất ra vật liệu dệt.
- Sợi quang học: được làm bằng thuỷ tinh gồm 2 lớp có chiết suất khác nhau,
hệ số chiết suất của lớp lõi cao hơn lớp vỏ. Đường kính mỗi sợi khoảng 0,125mm
(đường kính trong của sợi quang khoảng 4m).
* Phân loại theo thành phần hoá học:
- Thuỷ tinh kiềm không chứa ôxit nặng: làm cửa kính, chai lọ.
- Thuỷ tinh kiềm có chứa ôxit nặng (BaO...): Làm kính quang học và thuỷ tinh
cách điện. Các loại thuỷ tinh này có độ dẫn điện không đáng kể và tg nhỏ.
- Thuỷ tinh vô kiềm: (thuỷ tinh thạch anh thuần khiết và kể cả các loại có hàm
lượng ôxit kiềm rất nhỏ) dùng vào mục đích quang học và cách điện...
6.9. VẬT LIỆU CÁCH ĐIỆN BẰNG GỐM
Vật liệu gốm là những vật liệu vô cơ có thể dùng để sản xuất những sản phẩm
bất kỳ sau đó đem nung ở nhiệt độ cao.
Nếu ta chọn thành phần cấu tạo và quá trình công nghệ chế tạo thích hợp thì
gồm có độ bền cơ học cao, góc tổn thất điện môi nhỏ, hằng số điện môi rất cao, chịu
nóng tốt. Gốm có độ bền hoá già vì điện và vì nhiệt cao hơn vật liệu cách điện hữu
cơ. Nó không bị biến dạng khi chịu tải trọng cơ trong 1 thời gian dài.
1. Sứ cách điện: Sứ được dùng rộng rãi vào mục đích cách điện. Sứ được chế
tạo từ những loại đất sét đặc biệt cùng với khoáng thạch anh SiO2 và fenspat.
Công nghệ chế tạo sứ:
+ Lọc sạch tạp chất khỏi các chất thành phần và nhào kỹ với nước.
+ Gia công tạo hình đem sấy khô để loại lượng nước thừa.
+ Tráng men (ngăn không cho hơi ẩm thấm vào trong làm tăng độ bền cơ
cho sứ, giảm độ rò điện theo bề mặt, loại bỏ các vết nứt nhỏ trên bề mặt).
+ Nung: Là nguyên công cơ bản làm cho sứ có độ bền cơ học cao, chịu được
nước và có đặc tính cách điện tốt.
Đặc tính điện quan trọng nhất của sứ cách điện điện áp cao là trị số điện áp
phóng điện bề mặt. Có 2 loại điện áp phóng điện: Điện áp phóng điện khô và điện
áp phóng điện ướt.
Điện áp đánh thủng: Là điện áp gây ra sự đánh thủng qua chiều dày của sứ
nằm giữa các điện cực. Trị số này lớn hơn điện áp phóng điện khô.
* Những yêu cầu của cách điện bằng sứ:
- Bề dày của lớp sứ không quá dày (trường hợp cần lớp sứ dày người ta gắn
các lớp sứ mỏng lại bằng men sứ hoặc chất kết dính khác).
- Tránh sự thay đổi đột ngột của bề dày lớp sứ, các góc cạnh của sứ cần nhẵn
và tròn.
- Nên để cho sứ chịu nén trong quá trình làm việc.
- Cần đảm bảo điện áp phóng điện bề mặt sứ (kể cả phóng điện khô và ướt).
- Điện áp đánh thủng qua bề dày lớp sứ phải nằm trong phạm vi cho phép.
2. Các loại sứ cách điện:
a. Sứ cách điện đường dây:
Sứ đứng: Đảm bảo siết cứng dây dẫn vào những vị trí nhất định của cột, dùng
ở U < 35 KV.
Sứ treo: Dùng cho U 35 KV. Ta nối sứ treo riêng biệt thành chuỗi và treo
dây dẫn vào đấy. Số lượng bát sứ được xác định theo điện áp làm việc của đường
dây. Cũng có thể sử dụng ở dạng thanh.
b. Sứ dùng trong trạm:
Sứ đỡ: Siết cứng thanh dẫn của thiết bị phân phối điện và các chi tiết khác
nhau của thiết bị điện.
Sứ xuyên: Luồn dây dẫn có điện áp cao đi xuyên qua tường hoặc vách ngăn.
c. Sứ dùng trong điện báo điện thoại: Kích thước nhỏ hơn và yêu cầu kém chặt chẽ
hơn sứ đứng.
d. Sứ đặt trên các thiết bị: Có hình dáng và kích thước khác nhau. Quan trọng nhất
là sứ đầu vào (đưa dây dẫn vào trong vỏ hoặc thùng chứa thiết bị bằng kim loại của
MBA, của máy cắt dầu...).
e. Sứ định vị: Gồm các puly sứ, các chi tiết của ổ cắm và phích cắm...
6.10. MIKA
1. Đặc tính của Mika:
Là loại vật liệu quan trọng nhất trong các vật liệu cách điện bằng chất
khoáng thiên nhiên. Theo thành phần hoá học thì mika là những loại nhôm silicat
Bài giảng Vật liệu điện 43
Bộ môn Thiết bị điện, khoa Điện, trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
ngậm nước. Vì có độ bền cơ và điện cao, tính chịu nhiệt và chịu ẩm tốt, khá dẻo nên
Mika được dùng làm cách điện ở những chỗ quan trọng và làm điện môi cho 1 số tụ
điện.
Điểm đặc biệt của Mika là có thể tách ra thành từng bản mỏng dễ dàng theo
chiều song song giữa các bề mặt.
Phần lớn Mika vẫn giữ được đặc tính điện và cơ khá tốt khi đốt nóng lên vài
trăm độ. (Nhiệt độ nóng chảy của mika: 1250 13000C). Khi tới 1 nhiệt độ khá
cao nào đó nước trong cấu tạo mika bắt đầu thoát ra, các đặc tính cơ và điện kém đi.
Mika bị trương phồng lên. Mika xếp vào cách điện cấp C.
*)Mikanít: Được sản xuất thành tấm hoặc cuộn do những cánh mica rời dán lại với
nhau, có thể dùng thêm nền bằng xơ giấy hoặc xơ bông. Nó có độ bền nhiệt cao.
6.11. AMIAN
Là nhóm khoáng vật có cấu trúc xơ, xơ càng dài chất lượng càng tốt và càng
đắt tiền. Nó chịu được nhiệt độ cao, nhưng tính cách điện không cao không
dùng làm cách điện cao áp, cao tần.
Xi măng Amian: Là chất dẻo được ép nguội. Thành phần của nó là những
chất vô cơ, chất độn là amian, kết dính là xi măng. Sản xuất thành tấm, ống. Có đặc
tính cơ không tồi và chịu được nhiệt độ cao, chống được tác dụng của tia lửa và hồ
quang => dùng làm bảng phân phối và tấm chắn ngăn cách các buồng dập hồ
quang. Vì đặc tính cách điện không cao nên khi dùng làm cách điện phải tẩm.
CHƯƠNG VII
CÁCH ĐIỆN TRONG HỆ THỐNG ĐIỆN
7.1. ĐẶC TÍNH ĐIỆN VÀ CƠ CỦA CÁCH ĐIỆN
7.1.1. Đặc tính điện
Cách điện dùng trong hệ thống điện thường gặp là các loại điện môi thể khí
(không khí), thể rắn (sứ, thuỷ tinh...) và thể lỏng (dầu cách điện...). Với cách điện
rắn đặc tính cách điện của nó có thể bị phá huỷ theo 1 trong 2 khả năng sau:
Chọc thủng nghĩa là khi phóng điện xảy ra trong nội bộ thể tích của điện
môi. Trường hợp này coi như bị hỏng hoàn toàn vì tính cách điện không thể phục
hồi được kèm theo các phá hoại về cơ khí.
Phóng điện theo bề mặt cách điện. Khi xảy ra chỉ cần chú ý đến tình trạng
bề mặt bị đốt cháy dưới tác dụng của tia lửa điện. Nếu phóng điện được loại trừ
nhanh chóng (VD:Khi có rơle bảo vệ cắt mạch điện áp..) cách điện vẫn có thể tiếp
tục làm việc. Do đó trong chế tạo cách điện thể rắn đã chọn sao cho điện áp phóng
điện mặt ngoài bé hơn điện áp đánh thủng một cách đáng kể đảm bảo chỉ để xảy ra
phóng điện theo bề mặt...
Đặc tính điện của cách điện được đặc trưng bởi:
+ Điện áp phóng điện tần số công nghiệp khi bề mặt cách điện khô và ướt.
Trị số này dùng để tính toán chọn cách điện theo yêu cầu của điện áp nội bộ.
+ Đặc tính Vôn-giây dùng để chọn cách điện theo yêu cầu của quá điện áp
khí quyển.
a. Điện áp phóng điện tần số công nghiệp
Đối với cách điện làm việc trong nhà dùng điện áp phóng điện khô còn với
cách điện ngoài trời dùng điện áp phóng điện ướt. Điện áp phóng điện khô được xác
định khi mặt ngoài cách điện sạch sẽ, khô ráo và có hiệu chỉnh về điều kiện khí hậu
và độ ẩm tuyệt đối tiêu chuẩn của môi trường không khí.
Trị số điện áp phóng điện ướt ứng với điều kiện mặt ngoài cách điện bị mưa
ướt, trị số này phụ thuộc rất nhiều vào tình hình mưa (cường độ mưa, điện dẫn của
mưa...) cho nên để có thể so sánh cần phải tiêu chuẩn hoá mưa.
Ở LX: mưa nhân tạo có cường độ 3mm/phút; điện trở suất nước mưa khoảng
104cm (ở nhiệt độ 200C); mưa xiên góc 450 so với trục của cách điện...
Điện áp phóng điện ướt cũng phải hiệu chỉnh về điều kiện khí hậu tiêu chuẩn
nhưng chỉ cần hiệu chỉnh theo áp suất còn nhiệt độ thì không có ảnh hưởng đáng kể.
Để đơn giản, thường giả thiết là khe hở khí chiếm 1 nửa đường phóng điện, như vậy
P
việc hiệu chỉnh theo áp suất sẽ tính theo công thức: U U - 0,5 1
760
Trong đó: Uư - Trị số điện áp phóng điện ướt ở điều kiện áp suất tiêu chuẩn.
U - Điện áp phóng điện ướt khi áp suất khác tiêu chuẩn.
P - áp suất của không khí, mmHg
b. Đặc tính vôn - giây
Biểu thị mức cách điện xung kích của cách điện. Nó được xác định với dạng
sóng tiêu chuẩn 1,5/40s ở cả 2 cực tính dương và âm. Xây dựng đặc tính vôn -
giây khi mặt ngoài cách điện khô và sạch, cách điện bị ướt có làm giảm điện áp
phóng điện nhưng không đáng kể (khoảng 2 - 3%).
Trường hợp không xây dựng được hoặc không có đường đặc tính vôn - giây
có thể dùng trị số điện áp phóng điện bé nhất U50% để biểu thị mức cách điện xung
kích của cách điện.
Ngoài ra, điện áp thí nghiệm tần số công nghiệp là điện áp mà cách điện phải
chịu được trong thời gian 1 phút khi mặt ngoài của nó khô và sạch. Điện áp thí
nghiệm xung kích tiến hành với dạng sóng tiêu chuẩn khi toàn sóng và sóng cắt ở
2s (cắt bằng khe hở của 2 quả cầu). Cách điện phải chịu đựng được 3 lần tác dụng
của điện áp thí nghiệm xung kích toàn sóng và sau đó chịu tác dụng của 3 lần điện
áp thí nghiệm xung kích sóng cắt.
7.1.2. Đặc tính cơ và độ bền điện cơ
Ở tình trạng làm việc bình thường cũng như khi có sự cố cách điện đều phải
chịu tác dụng của những lực cơ học rất lớn, VD: cách điện treo trên đường dây
chịu lực kéo, loại cách điện đỡ chịu lực uốn...
Bài giảng Vật liệu điện 45
Bộ môn Thiết bị điện, khoa Điện, trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
Đặc tính cơ chủ yếu của cách điện là "độ bền cơ giới đảm bảo", đó là tải trọng
nhỏ nhất có thể phá hoại cách điện với điều kiện là tải trọng đó tăng dần đều. Nó
không đánh giá toàn diện về chất lượng cách điện vì ngay cả tải trọng cơ nhỏ hơn
cũng có thể có những vết nứt nhỏ gây ảnh hưởng xấu đến đặc tính điện. Do đó đối
với cách điện phải tiến hành thí nghiệm phối hợp cả 2 loại phụ tải cơ - điện: đồng
thời với việc tăng dần tải trọng cơ còn cho tác dụng điện áp bằng 75 - 80% trị số Upđ
khô. Các hư hỏng nhỏ sẽ được phát hiện do cách điện bị chọc thủng và trị số tải cơ
học lúc này được gọi là độ bền cơ điện.
Trong vận hành còn có "tải trọng thí nghiệm 1 giờ": Cách điện phải chịu được
tải trọng có trị số bằng khoảng 75% độ bền cơ điện trong 1 giờ mà không bị hỏng
(vẫn cho tác dụng điện áp bằng 75- 80% trị số điện áp phóng điện khô).
Trị số "tải trọng cực đại cho phép" của loại cách điện treo được lấy bằng 1 nửa
tải trọng thí nghiệm 1 giờ.
1 - 1,15 15 10 3,25 10 - 10
3 - 3,45 22 16 10 16 - 16
6 - 6,9 40 33 20 33 - 33
10 - 11,5 53 42 32,5 42 - 42
20 - 23 86 64 50 64 - 64
30 - 34,5 119 86 67,5 86 67,5 86
35 - 40 13,6 97 76 97 76 97
60 - 69 218 152 120 152 120 152
- 66 76 218 152 120 152 120 152
- 120 132 380 250 195 250 195 250
- 220 242 580 400 340 400 340 400
Trong đó:
T0 là thời gian tính từ thời điểm sóng đạt 30% trị số đỉnh (điểm A) cho đến
thời điểm đạt 90% trị số đỉnh (điểm B).
Thời gian sườn trước T1 = 1,67T0. Tiêu chuẩn quy định T1 = 1,2 s.
Thời gian sườn sau T2 được tính từ thời điểm 01 đến thời điểm mà trị số điện áp trên
sườn sau giảm đến 50% của trị số đỉnh. T2 được quy định bằng 50 s.
T' = 0,3T1 0,5T0
thế xâm nhập vào thiết bị và tác dụng lên cách điện của nó bằng các dây dẫn bảo vệ
và thiết bị bảo vệ khác. Trường hợp có quá điện thế lớn xâm nhập vào thiết bị, có
thể xảy ra đánh thủng nơi nào yếu nhất trong hệ thống cách điện.
Trong hệ thống cách điện bao gồm sứ đỡ, sứ xuyên, và cách điện cuộn dây
máy biến áp hoặc máy phát, thì nên để cho đánh thủng xảy ra ở sứ đỡ hoặc sứ xuyên
hơn là trong các cuộn dây. Vì vậy chúng ta cố gắng bảo vệ cách điện bên trong của
thiết bị bằng cách tạo ra những chỗ yếu cách điện hơn trong hệ thống cách điện. Ta
thiết kế cách điện của các bộ phận của thiết bị với độ bền cách điện từ nhỏ đến lớn,
sắp xếp theo bậc thang và phối hợp các mức cách điện với nhau.
a. Mức dưới:
Trong hệ thống cách điện là điện áp kích thích và điện áp dư của thiết bị bảo
vệ quá điện thế.
Điện áp kích thích là trị số lớn nhất của điện áp làm việc làm tác động thiết bị bảo
vệ quá điện thế.
Điện áp dư là điện áp lớn nhất
Mức trên
trên cực của thiết bị bảo vệ trong quá
trình dẫn điện. Điện áp dư tối đa Mức giữa
bằng điện áp kích thích. Mức dưới
b. Mức giữa:
Là điện áp làm phóng điện khoảng cách phóng điện (trên sứ đỡ, sứ xuyên)
hoặc điện áp làm phóng điện bộ phóng điện.
c.Mức trên:
Là điện áp đánh thủng cách điện của thiết bị điện (máy biến thế, máy biến
thế đo lường, máy phát, động cơ, khí cụ điện, dây cáp..) ở mức này cũng cần
tính đến cách điện giữa 2 cực của cầu dao đang mở, cách điện giữa các pha, cách
điện giữa các dây dẫn thuộc các hệ thống khác nhau...
Các mức cách điện được quy định của uỷ ban kỹ thuật điện quốc tế IEC.71 (1972)
Bảng 7.2: Điện áp làm việc dưới 110KV:
Điện áp làm việc lớn Điện áp thử xung Điện áp thử tần số
nhất, < 100KV kích, KV công nghiệp, KV
3,6 45 16
7,2 60 22
12,0 75 28
17,5 95 38
24,0 125 50
36 170 70
52 250 95
72,5 325 140
Điện áp kích thích của bộ phận bảo vệ quá điện thế không thể chọn nhỏ quá để
nó có thể tác động với bất kỳ quá điện thế nội bộ nào. Khả năng chịu nhiệt của chất
bán dẫn trong bộ phận bảo vệ quá điện thế quyết định mức điện áp kích thích của
Bài giảng Vật liệu điện 48
Bộ môn Thiết bị điện, khoa Điện, trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
nó. Trên cơ sở đó, điện áp kích thích được quy định bằng 1,8 2,5 lần điện áp làm
việc (điện áp dây), chu kỳ 50Hz; Trong thực tế chế tạo thì nó bằng 2 (0,8 1,3)
lần (với điện áp làm việc cao thì chế tạo trị số nhỏ). Mức điện áp giữa đương nhiên
phải lớn hơn trị số trên, thường bằng 1,25 lần trị số điện áp mức dưới; Mức điện áp
trên thì bằng 1,25 lần trị số điện áp mức giữa. Như vậy mức điện áp trên bằng: 2,5.
2 .1,3.1,25.1,25 = 7.2 lần điện áp làm việc (điện áp dây) với giới hạn trên hoặc
bằng: 1,8. 2 .0,8.1,25.1,25 = 3,15 lần điện áp làm việc (điện áp dây) với giới hạn
dưới.
Bảng 7.3: Điện áp làm việc trên 110KV:
Điện áp làm việc Điện áp thử xung kích, KV Điện áp thử tần số công
lớn nhất, 100KV nghiệp, KV
Toàn phần Giảm Toàn phần Giảm
100 450 380 185 150
123 550 450 230 185
145 650 550 275 230
170 750 650 325 275
245 1050 900 460 395
300 - 1050 - 460
420 - 1425 - 630
Mức điện áp dưới và giữa tương ứng với điện áp đánh thủng và điện áp
phóng điện bề mặt. Mức điện áp trên quyết định trị số điện áp thử; điện áp thử phải
chọn nhỏ hơn mức điện áp trên như vậy cần có hệ số an toàn, do người thiết kế
chọn.
7.2.3. Xác định trị số điện áp làm cơ sở thử nghiệm cách điện
a. Điện áp làm việc:
Điện áp làm việc của cách điện có thể xác định dễ dàng. Đối với cuộn dây thì
nó bằng điện áp làm việc giữa vòng dây, giữa lớp vòng dây và điện áp làm việc của
cuộn dây. Ở những điểm khác nhau trong hệ thống 3 pha thì điện áp làm việc của
cách điện chính có trị số khác nhau, nó bằng từ 0 (gần điểm 0) đến điện áp pha (ở
đầu cực ra của dây). Ở sứ đỡ và sứ xuyên điện áp làm việc cũng bằng ấy. Trường
hợp có ngắn mạch chạm đất thì có thể có điện áp bằng 3 lần điện áp nói trên.
b. Điện áp thử:
Được quy định trong tiêu chuẩn. Điện áp đánh thủng cách điện phải lớn hơn
điện áp thử. Hệ số an toàn là tỷ số giữa điện áp đánh thủng và điện áp thử, do người
thiết kế cách điện quyết định mà tiêu chuẩn không quy định.
c. Quá điện thế nội bộ:
Phụ thuộc vào tính chất của hệ thống điện mà thiết bị điện được đặt. Nó
cũng còn phụ thuộc vào người vận hành thiết bị có thực hiện đúng các quy định về
vận hành hay không.
Có thể tính với trị số nhỏ nhất bằng 2 lần điện áp vận hành.
Bài giảng Vật liệu điện 49
Bộ môn Thiết bị điện, khoa Điện, trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
áp trên các lớp do điện trở trung bình của cách điện quyết định; còn với điện áp
xoay chiều thì hằng số điện môi quyết định.
Ở trong khoảng vượt phóng điện xảy ra dưới hình thức phóng điện chọc thủng
khoảng không khí giữa các pha hoặc giữa pha với đất (dây chống sét). Để hạn chế
hoặc loại trừ các phóng điện nói trên cần phải nâng cao mức cách điện của đường
dây như tăng thêm số cách điện trong chuỗi hoặc tăng khoảng cách không khí. Tuy
nhiên việc tăng cường cách điện sẽ làm tăng giá thành xây dựng đường dây do phải
tăng kích thước cột và tăng số cách điện trong chuỗi. Hiện nay ngoài biện pháp
tăng cường cách điện còn có các biện pháp khác như dùng các thiết bị số quá điện
áp khí quyển hoặc các thiết bị tự động (cuộn dập hồ quang, thiết bị tự động đóng lại
TĐL...) có khả năng loại trừ sự cố nhanh chóng, đảm bảo cung cấp điện liên tục.
Trong việc chọn cách điện của đường dây trên không, thường xuất phát từ các
yêu cầu sau đây:
- Cách điện của đường dây phải chịu được tác dụng của đa số các loại quá điện
áp nội bộ, trừ một vài loại có biên độ quá lớn nhưng xác suất xuất hiện bé.
Bài giảng Vật liệu điện 51
Bộ môn Thiết bị điện, khoa Điện, trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
- Đối với yêu cầu của quá điện áp khí quyển, phải giải quyết sao cho được hợp
lý về kinh tế kỹ thuật. ở các đường dây 110kV trở lên yêu cầu này được thoả mãn
dễ dàng vì cách điện đường dây khi chọn theo yêu cầu của quá điện áp nội bộ đã có
được mức cách điện xung kích rất cao, chỉ cần có các biện pháp bảo vệ chống sét
tương đối đơn giản là đủ đảm bảo cho đường dây có mức chịu sét cao.
Ngược lại với đường dây 3kV, để thoả mãn yêu cầu của quá điện áp khí
quyển cách điện phải tăng rất cao và như vậy sẽ rất tốn kém. Bởi vậy cách điện
đường dây chỉ cần chọn tới mức cần thiết hợp lý kết hợp với một số biện pháp khác
để hạn chế số lần sự cố gây nên như cải thiện nối đất cột điện, dùng cuộn dập hồ
quang v.v...
Cách điện của đường dây trên không ngoài các cách điện thể rắn (sứ, thuỷ tinh)
còn dùng cách điện không khí của gỗ.
Cường độ cách điện xung kích của gỗ rất tản mạn, phụ thuộc vào tình trạng độ
ẩm của gỗ và các yếu tố có liên quan đến sự bố trí và kích thước của nó trong cách
điện tổ hợp (cách điện gỗ phối hợp với cách điện thể rắn). Trong tính toán thiết kế
có thể lấy trị số gần đúng khoảng 100kV/m (điện áp phóng điện xung kích bé nhất -
U50%).
Như trên hình c, có thể tính được mức cách điện theo đường mk - mk :
U 50% 2U ch50% 100. kk 2.645 100.4 1690(kV)
Trong đó: Uch50% = 645kV là điện áp phóng điện xung kích 50% của chuỗi
gồm 7 sứ treo II - 4,5.
kk 4m chiều dài của đoạn xà gỗ k - k.
Và theo đường nns:
U 50% U nn50% 100. ns 720 100.11,2 1840(kV)
Unn50% = 720kV là điện áp phóng điện xung kích 50% của khoảng cách
không khí n-n dài 115cm. ns 11,2m là độ dài đoạn n-s của thân cột gỗ.
7.3.2. Vật liệu và kết cấu của cách điện đường dây
Cách điện đường dây gồm thành phần điện môi, bộ phận kim loại (làm mũ
hoặc chân) và vật liệu gắn giữa điện môi với bộ phận kim loại. Điện môi thường
được chế tạo bằng sứ hoặc thuỷ tinh, chúng có cường độ cách điện cao, độ bền cơ
giới lớn và chịu đựng được các tác dụng của môi trường khí quyển.
Cường độ cách điện của sứ trong trường đồng nhất với độ dầy của mẫu sứ
1,5mm có thể đạt tới (2228) KV/mm. Khi độ dày tăng, cường độ cách điện có
giảm và nếu là điện trường không đồng nhất thì nó còn giảm bé hơn nữa.
KV/mm
E0
70
90
80
1
60 70
60
50
50 2
40
3
30
40 20
10
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 200
0 10 20 mm
Cường độ cách điện xoay chiều của Biến thiên về độ bền cơ giới của sứ theo tiết
sứ đặt trong trường không đồng nhất diện.
1. Khi bị nén; 2. Khi bị kéo; 3. Khi bị uốn
Hình vẽ cho cường độ cách điện xoay chiều trung bình của sứ theo độ dày
trong trường không đồng nhất. Cường độ cách điện xung kích của sứ cao hơn so với
trị số xoay chiều khoảng 5070%. Về độ bền cơ giới của sứ còn phụ thuộc vào kết
cấu của bộ phận kim loại và cách gắn nó vào sứ và bao giờ cũng giảm đi tiết diện
tăng. Hình vẽ cho biết sự biến thiên về độ bền cơ giới của trụ sứ theo tiết diện của
nó.
Trong chế tạo, độ dày của sứ thường không quá (3040) cm (trừ trường hợp
sứ thanh) vì nếu dày quá sẽ không tránh được các bọt khí bên trong làm ảnh hưởng
đến đặc tính điện. Với độ dày đó nếu không đảm bảo được yêu cầu về cách điện để
sẽ được dùng kết cấu nối cấp (ví dụ cách điện 110kV do 4 phần tử 35kV ghép nối
tiếp).
Bảng 7.5: Đặc tính điện và cơ giới của các loại điện môi
Điện môi
Đặc tính Thuỷ tinh Ống giấy
Sứ
Ít kiềm Kiềm bakêlit
Cường độ cách điện của mẫu 2228 48 17,9 1015
Hệ số điện môi 5,57 5,510 5,510 45
tg ở 20oC 24% 23% 67% 6%
Điện trở xuất mặt ở độ ẩm
3.1013 4.1014 1,5.109 1010
tương đối 65%, cm
Hệ số dãn nở nhiệt 3.1013 5.10-6 9,4.10-6 -
Điện trở xuất khối ở nhiệt độ
1013 4,5.1014 4.109 109
20oC, .cm
Khi nén 4500 7000 400
650 (khi tôi nóng tới
Khi uốn 700 800
2500)
Khi kéo 300 600 500
Hiện nay cách điện thuỷ tinh ngày càng được áp dụng rộng rãi vì rẻ tiền hơn
nhiều so với cách điện sứ trong khi các đặc tính về điện và cơ giới không bị giảm
sút. Các đặc tính này phụ thuộc vào thành phần kiềm. Khi thành phần kiềm nhiều
(thuỷ tinh kiềm) thì cường độ cách điện thấp; Dưới tác dụng của điện áp một chiều
sẽ có hiện tượng điện phân xúc tiến quá trình già cỗi, có hệ số giãn nở nhiệt cao nên
dễ bị vỡ khi nhiệt độ thay đổi đột ngột... Do đó loại cách điện được chế tạo bằng
cách điện chế tạo bằng thuỷ tinh kiềm chỉ dùng cho điện áp xoay chiều và đặt trong
nhà. Đối với loại cách điện dùng ngoài trời do có thành phần kiềm ít hơn nên có
cường độ cách điện cao (có thể tới 49kV/mm trong khi đó loại thuỷ tinh kiềm chỉ
đạt 17, 9kV/mm) và có khả năng chịu xung nhiệt tốt hơn.
Để tăng độ bền cơ giới, trong chế tạo thường dùng phương pháp tôi nóng ở
nhiệt độ cao (6500C đối với thuỷ tinh kiềm và 7800C đối với thuỷ tinh ít kiềm) sau
đó được thổi bằng không khí lạnh lúc này lớp bên ngoài của thuỷ tinh sẽ rắn lại và
khi tiếp tục làm lạnh thì các lớp bên trong do nguội dần nên giảm thể tích. Kết quả
là lớp bên ngoài chịu ứng xuất nén và lớp bên trong chịu ứng xuất kéo. Do đó khi
có tải trọng kéo, cách điện chỉ bị hư hỏng nếu lực kéo thắng được lực nén của lớp
bên ngoài ... Vì vậy độ bền cơ giới của loại thuỷ tinh tôi cao hơn nhiều so với khi
dùng phương pháp nung.
Đường dây trên không thường dùng các loại cách điện sau đây:
a. Loại cách điện có chân sắt:
Đường dây điện áp từ 35 kV trở xuống thường dùng loại cách điện có chân sắt,
đây là loại cách điện đỡ vì dây dẫn được đặt trên cách điện. Điện áp càng cao thì
yêu cầu về đường kính và chiều cao của cách điện càng lớn nghĩa là độ dày của điện
môi phải lớn và như vậy trong chế tạo rất khó đảm bảo phẩm chất.
Do đó đối với cách điện 35 kV đã phải dùng 2 3 lớp ghép lại như trên hình vẽ.
Đối với đường dây điện áp cao hơn sẽ
không dùng loại có chân sắt vì kết cấu sẽ
rất cồng kềnh và không đạt được độ bền H H
chịu uốn cần thiết mà dùng loại cách điện
treo kiểu đĩa và kiểu thanh. Ở Liên Xô loại D
D
cách điện có chân sắt được chế tạo theo các a. Loại ШС 6-10kV; b. loại ШД 35kV
kiểu ШД và ШС như trên hình vẽ.
Chân sắt vặn vào ngang mức cổ cách điện để cho mô men uốn do lực căng của
dây dẫn tác dụng lên nó là bé nhất.
Điện áp phóng điện chọc thủng (tiến hành trong dầu) có trị số cao hơn điện áp
phóng điện khô mặt ngoài khoảng (3040)%. Khi bị mưa phần ngoài của cách điện
bị ướt hoàn toàn, chỉ có phần dưới là khô ráo và nó phải chịu đựng toàn bộ điện áp.
Do đó trị số điện áp phóng điện ướt rất bé so với trị số phóng điện khô.
Để tăng trị số điện áp phóng điện ướt thường đặt thêm lá giữ cho mặt ngoài
không bị ướt hoàn toàn (kiểu ШД), kết cấu loại này phức tạp hơn do trong quá trình
chế tạo phải qua khâu tiện và hàn gắn các bộ phận với nhau.
Bảng 7.6: Kích thước và đặc tính của loại cách điện có chân sắt.
Kích thước Điện áp phóng điện
Độ bền cơ
Loại cách điện đảm bảo khi Tần số 50 Hz Xung kích
H D
uốn (kg) (kV) +1,5/40, (kVmax)
(mm) (mm)
Khô Ướt Ở 2s 50%
ШC-6 94 96 1400 50 28 109 83
của xi măng lớn hơn của sứ) và tạo nên các ứng suất phụ. Để ứng suất không đạt tới
mức độ nguy hiểm thì góc nón không được bé hơn 10130, nhưng như vậy sẽ phải
tăng kích thước mũ sứ và ảnh hưởng không tốt đến đặc tính phóng điện của chuỗi
sứ. Đối với kiểu sứ có đầu hình trụ, để xi măng gắn chặt với sứ thì mặt trong của
đầu sứ có bọc một lớp vụn sứ. Ngoài ra còn có các cải tiến khác như trên bề mặt của
xi măng cũng như của sứ cho quét lớp bitum để khử các ứng xuất phụ gây nên bởi
giãn nở nhiệt đầu thanh kim loại có lỗ trống để giảm sức cơ ở phía đầu thanh do đó
kiểu sứ có đầu hình trụ có kích thước và kết cấu gọn nhẹ hơn so với kiểu kích thước
có đầu hình nón.
Kích thước và hình dạng của phần đĩa ảnh hưởng rất lớn đến phần đặc tính
điện. Phải đảm bảo không cho các phóng điện chọc thủng xảy ra trước khi có phóng
điện mặt ngoài bằng cách giữ tỷ lệ giữa điện áp phóng điện chọc thủng và điện áp
phóng điện khô (mặt ngoài) không bé hơn trị số 1,5. Thường trị số điện áp phóng
điện khô khoảng 75kV do đó để có điện áp phóng điện chọc thủng lớn gấp 1,5 thì
chiều dài của lớp sứ ở đầu sứ phải từ 2530mm trở lên. Má trên của đĩa sứ nghiêng
một góc khoảng 50100 để thoát nước còn bên dưới có gờ để tăng chiều dài rò điện
và trị số điện áp phóng điện ướt.
Cách điện treo bằng thuỷ tinh (thuỷ tinh đĩa) có hình dáng kết cấu tương tự
với loại sứ đĩa. Loại thuỷ tinh tôi nóng có kích thước và trong lượng giảm đi rất
nhiều so với loại sứ đĩa. Bất kỳ sự hư hỏng nào của thuỷ tinh cũng đều làm cho nó
vỡ tan nên các sự cố của cách điện dễ phát hiện. Dùng thuỷ tinh làm điện môi cho
phép cơ giới hoá và tự động hoá toàn bộ quá trình sản xuất do đó mang lại hiệu quả
kinh tế rất lớn và dẫn đến xu hướng ngày càng sử dụng rộng rãi loại thuỷ tinh cách
điện thay thế cho loại sứ cách điện. Bảng sau cho kích thước và đặc tính của loại
cách điện treo (Liên xô) trong đó: ∏ và ∏C là ký hiệu loại sứ và thuỷ tinh cách
điện.
Bảng 7.8: Kích thước và đặc tính của loại cách điện treo
Kích thước Tải Độ bền Cường độ Điện áp phóng
Trọng
Loại trọng thí cơ giới phóng điện điện tần số
H D lượng
cách điện nghiệm đảm chọc thủng 50Hz (kV)
(mm) (mm) (kg)
1 giờ (T) bảo (T) (kV) Khô Ướt
∏-4,5 170 270 6,0 4,5 7,0 110 75 40
∏C-4,5 90 255 4,0 4,5 9,0 135 75 40
∏-8,5 240 320 9,3 8,5 11,0 95
∏C-8,5 160 270 5,5 8,5 15,0 135
∏-11 215 350 1,2 11 14,5 95
∏C-11 170 270 6,0 11 18,0 135
∏C-16 190 320 9,0 16 25,0 150
∏C-4,5* 130 255 3,0 4,5 7,0 87 62 40
*) Loại thanh
Trên hình vẽ cho kết cấu của loại cách điện treo kiểu thanh, thường là loại sứ
thanh. Là loại thanh dài có lá, hai đầu có mũi kim loại. Đường kính của thanh được
chọn theo độ bền khi kéo.
Dùng sứ thanh thì tiết kiệm được nhiều kim loại và
giảm nhẹ trọng lượng. Ví dụ chuỗi sứ 110kV (gồm 7 đĩa sứ
∏-45) nặng 48kg trong khi đó dùng sứ thanh thì chỉ nặng
23kg, trọng lượng phần kim loại của chuỗi sứ 110kV là
15kg còn ở sứ thanh chỉ có 3,5kg.
Khuyết điểm của sứ thanh là khi bị hư hỏng (do hồ
quang hoặc do va chạm cơ giới) thì phải thay thế toàn bộ.
Về mặt chế tạo có phức tạp hơn vì yêu cầu phải có trình độ
khoa học kỹ thuật hiện đại. Số liệu kỹ thuật của sứ thanh
cho ở bảng sau:
giữa cuộn dây với đất (gông từ, vỏ thùng). Ngoài ra còn có thành phần cách điện
dọc là cách điện giữa các vòng dây (đĩa dây, lớp dây) trong cùng cuộn dây. Môi
trường cách điện trong máy biến áp là dầu máy biến áp phối hợp với điện môi rắn
(các tông cách điện, bakêlit, giấy, vải cách điện). Điện môi rắn được sử dụng dưới
các hình thức lớp bọc, lớp cách và màn chắn.
Kết cấu cách điện của máy biến áp từ 35kV trở xuống như hình vẽ:
1. Lõi thép.
4
2. Ống cách điện. 5
3. Cuộn dây.
4. Gông từ. hB
B
Gông từ
Lõi thép
70
63
57
HA CA pha 1 C
6
A
Kết cấu cách điện của máy biến áp 110kV
CA - Cuộn dây cao áp; HA - Cuộn dây hạ áp.
p
h
Gông từ a
2
Lõi thép
TA HA
CA
Kết cấu cách điện của máy biến áp ba dây quấn 220/110/35kV có đầu
ra cao áp ở giữa cuộn dây.
CA - Cuộn dây cao áp; TA - Cuộn dây trung áp; HA - Cuộn dây hạ áp.
Khi đầu cao áp lấy từ giữa cuộn dây trong máy biến áp có điểm trung tính
nối đất thì kết cấu cách điện được giảm nhẹ đi nhiều. Đầu cao áp ở giữa cuộn dây
được cách xa lõi thép và gông từ nên dễ thực hiện cách điện, đồng thời đầu và cuối
cuộn dây là nơi gần lõi thép, gông từ thì được nối với nhau làm điểm trung tính có
điện áp thấp và yêu cầu cách điện không cao (cách điện ở các điểm trung tính của
cuộn dây có thể được giảm đi 1 cấp nghĩa là cuộn 220kV được chọn theo cấp điện
áp 110kV và cuộn 110kV được chọn theo 35kV).
Trong hệ thống có điểm trung tính trực tiếp nối đất vẫn có 1 số máy biến áp
mà điểm trung tính đặt cách điện đối với đất. Kết cấu cách điện của chúng không
có gì khác so với loại máy biến áp có điểm trung tính được nối đất vì điểm trung
tính đã được bảo vệ bằng chống sét van có điện áp định mức phù hợp với điện áp
được chọn thiết kế của điểm trung tính.
Cách điện giữa các vòng dây được thực hiện bằng các lớp vải còn giữa các
lớp dây, đĩa dây thì dùng giấy hoặc các khe hở dầu có màn chắn...
trong lò nung để nhựa chuyển sang trạng thái rắn. Vì có hệ số giãn nở nhiệt bé nên
cách điện không bị biến dạng do nhiệt.
Loại máy điện dùng nhựa silic hữu cơ có các đặc tính nhiệt, điện, cơ rất tốt
nhưng quá đắt nên chỉ dùng chế tạo động cơ làm việc ở môi trường xấu (hầm lò...)
cách điện. cách điện này có khả năng chịu nén bề mặt, làm bằng vải thuỷ tinh đã
tẩm hoặc tấm mỏng mica.
b. Cách điện của máy điện một chiều:
* Cách điện vòng dây:
Dây nhỏ thì bọc cách điện bằng 2 lớp vải được tẩm bằng emay gốc nhựa tổng
hợp hoặc bằng sợi thuỷ tinh đã tẩm; Dây lớn hoặc dây có tiết diện hình chữ nhật thì
bọc bằng sợi đã tẩm, bằng giấy mica hoặc bằng thuỷ tinh. trong 1 rãnh thường có 2
cạnh bên của 2 cuộn dây, do đó giữa chúng phải lót tấm cách điện đã tẩm nhựa, dày
ít nhất 0,8mm. Trường hợp dùng dây cách điện cấp B thì lót bằng mica hoặc vải
thuỷ tinh đã tẩm dày từ 1 - 2mm.
* Cách điện bối dây:
Cách điện rãnh ở máy điện trung bình và lớn thường dùng mica hoặc vải
thuỷ tinh. Cách điện rãnh phải dôi ra ở 2 đầu rãnh ít nhất 10 mm mỗi đầu. với rãnh
miệng hở bối dây có thể tẩm và sấy rồi đặt vào rãnh. Với rôto: sau khi đặt bối dây
vào rãnh ta còn phải tẩm và sấy rôto để làm kín các lỗ hổng giữa bối dây và lõi thép.
Đồng thời còn thêm 1 lớp cách điện bọc chung ở ngoài.
* Cách điện vòng dây cực từ chính:
ở máy điện kích thích song song có số cực = 2 thì dây thường có tiết diện
tròn. Cách điện của dây hoặc là 2 lớp vải hoặc emay và thường bọc 1 lớp sợi vải. ậ
máy có công suất trung bình và lớn, thường dùng dây tiết diện chữ nhật, cách điện
của dây là sợi vải hoặc lụa thuỷ tinh.
Ở máy kích thích song song công suất nhỏ cuộn dây có ống lót và được quấn
trên khuôn mẫu. Sau khi bỏ khuôn ra ta quấn lên ngoài cuộn dây băng vải tẩm dầu.
Băng cách điện này được quấn chồng lên nhau 1 nửa bề rộng của băng. Bề dày lớp
vải khoảng 1mm. Cuộn dây có thể nguyên, có thể chia thành nhiều đĩa:
+ Cuộn dây nguyên cách điện với lõi thép cực từ là giấy tẩm nhựa bakelit
hoặc mica mềm. Bề dày của cách điện này khoảng 3 mm. Trên và dưới cuộn dây có
tấm bakelit dày 10 - 15 mm, có khi còn có thêm 1 tấm kim loại không nhiễm từ
(nếu làm bằng sắt sẽ tăng từ thông tản). Đầu dây ra được quấn cách điện bằng vải
tẩm nhựa.
+ Cuộn dây gồm nhiều đĩa: giữa các đĩa cuộn dây có đệm cách điện bằng gỗ,
phù hợp với điều kiện lưu thông không khí để làm mát cuộn dây. Cũng có thể tăng
bề mặt làm mát bằng cách lồng các cuộn dây vào nhau và coi như cuộn dây được
phân chia thành những cuộn dây hình trụ đồng tâm. Cách điện giữa 2 cuộn dây này
là đệm gỗ đã tẩm dầu. Cách điện giữa cuộn dây với lõi cực từ dùng bakelit.
* Cách điện cuộn dây bù:
Gồm những thanh dẫn bọc cách điện bằng mica dày 0,8 mm. Cũng có thể
gồm nhiều vòng dây được quấn sẵn, quấn cách điện sẵn và đặt vào rãnh. Cách điện
vòng dây là lớp vải phin nõn đã tẩm. Bọc cuộn dây là vải phin nõn hoặc giấy đã tẩm
dày 0,6mm.
chuyển tiếp từ cách điện rãnh sang cách điện đầu dây cần tránh góc cạnh bằng cách
tạo ra sự chuyển tiếp dần dần hoặc không để có ranh giới chuyển tiếp, nghĩa là cách
điện rãnh và cách điện đầu dây nối tiếp liên tục nhau hay cách điện rãnh cũng làm
bằng băng giấy mica như cách điện đầu dây.
* Cách điện vòng dây:
Nếu dùng cách điện cấp B thì dùng băng thuỷ tinh hoặc băng mica. ở giữa vòng dây
lót bằng những miếng nhỏ mica.
* Cách điện cuộn dây:
Cách điện cuộn dây luôn luôn là mica. Cách điện phải quấn kín quanh cuộn
dây. Tốt nhất là cách điện rãnh và cách điện đầu dây giống nhau. Khi cần nối dây
phải cẩn thận các mối nối, đấy là điểm yếu của cách điện cuộn dây.
* Cách điện Rôto:
Về cơ bản giống như cách điện ở stato nhưng khoảng cách cách điện nhỏ
hơn.
* Cách điện của cuộn kích từ của máy đồng bộ:
Giống như ở cuộn kích từ trong máy điện 1 chiều. Chỉ khác là cuộn dây kích
từ này đặt ở rôto , chịu tác dụng của lực ly tâm nên cách điện phải có độ bền cơ phù
hợp.
b. Cách điện của máy phát tua bin:
Cách điện của stato đơn giản: dây dẫn mỏng bằng đồng bện kết thành thanh
dẫn; dùng màng mica quấn lên thanh dẫn và ép nóng thành ống mica. Bên ngoài
ống có bọc 1 lớp kim loại mỏng hoặc giấy để bảo vệ ống mica khỏi bị xây xát.
Thanh dẫn sau khi được bọc cách điện thì được luồn vào rãnh nửa kín. Các đầu dây
được bọc cách điện bằng vải tẩm nhựa.
Cách điện Rôto: dây dẫn đặt trong rãnh được cách điện với nhau bằng phiến
nhỏ mica hoặc giấy mica. Cách điện rãnh bằng ống mica hở ở phía trên. Phía ngoài
mica còn có 1 tấm thép mỏng uốn theo thành rãnh, phía trên hở miệng. Tấm thép
này để bảo vệ ống mica chống không khí được thổi vào. Có thể thay lớp này bằng
mica dễ uốn.
- Cáp đổ dầu: vật liệu cách điện ngoài giấy cáp còn có dầu lỏng có thể lưu
thông dọc theo đường cáp.
- Cáp chứa khí nén: lõi cáp các pha sau khi được quấn cách điện (giấy cáp) và
bọc bằng vỏ chì sẽ đặt trong ống thép chứa khí nén.
Loại cáp tẩm dầu có ưu điểm hơn cáp đổ dầu là ở các đầu nối cáp, chất tẩm
không bị rỉ ra ngoài do đó không tạo nên các khoảng trống lớn bên trong. Nhưng
nhược điểm là khi phụ tải thay đổi đột ngột sẽ hình thành các bọt khí ảnh hưởng xấu
đến cách điện.
Nguyên nhân hình thành bọt khí là do hệ số giãn nở của cách điện rất lớn so
với vỏ chì, khi phụ tải tăng cáp bị nóng và vỏ chì bị cách điện căng phồng ra, khi
phụ tải giảm cáp nguội lạnh, vỏ co lại ít hơn so với cách điện... do đó hình thành các
lỗ trống chứa đầy khí thoát ra từ chất cách điện. Các bọt khí này ban đầu ở gần vỏ
chì là nơi trường yếu nhưng do khuếch tán chúng cũng sẽ xuất hiện ở gần lõi là khu
vực có điện trường lớn. Do nhược điểm này nên cáp tẩm dầu chỉ dùng ở điện áp
xoay chiều 35KV ở điện áp cao hơn phải dùng cáp đổ dầu để dùng dầu lấp kín các
bọt khí
7.6.1. Cáp tẩm dầu 1 2
3
* Xét cáp tẩm dầu 3 lõi điện áp 6 KV: lõi có dạng cánh
4
quạt để giảm đường kính ngoài của cáp. Cách điện pha
là băng giấy cáp (rộng 10 - 30mm dày 20 - 120 micron) 5
quấn quanh dây dẫn sao cho khoảng cách giữa các mép 6
giấy khoảng 1,5 - 3,5 mm để khi uốn cáp băng giấy 7
không bị hư hỏng. Như vậy khe dầu giữa các mép băng 8
Cáp tẩm dầu 6 kV:
là điểm cách điện yếu nên khi quấn cần chú ý không để 1: lõi; 2: cách điện pha;
cho khe dầu cuả các lớp giấy trùng lên nhau. 3: đai cách điện; 4: độn chất dẻo;
5: vỏ chì; 6: lớp đệm; 7: vỏ
Khi quấn xong, cách điện pha được sấy trong tôn;
chân không ở nhiệt độ 120 - 1350C để khử ẩm và được 8: lớp nhựa bitum.
tẩm dầu cũng trong chân không. Khi giấy đã được tẩm
thì cách điện được cải thiện nhiều.
Tuy nhiên cường độ cách điện của loại này giảm rất nhanh theo thời gian tác dụng
của điện áp mà nguyên nhân chủ yếu là do sự hình thành các bọt khí. (Quá trình ion
hoá các bọt khí ở gần lõi có thể xảy ra ngay cả khi điện áp không lớn lắm so với
điện áp làm việc).
* Đối với cáp 20 và 35KV mỗi pha đều dùng vỏ chì riêng hoặc có màn che kim
loại. Trong đó lõi còn được bọc giấy tráng kim loại nên khử được sự tăng cục bộ
của trường trên bề mặt dây xoắn. Khi dùng vỏ chì riêng do trường phân bố xuyên
tâm nên có thể tăng cường độ làm việc của cách điện cao hơn 2 lần so với khi
dùng chung vỏ chì đồng thời do điều kiện tản nhiệt được cải thiện nên khả năng
truyền tải công suất tốt hơn.
phép có thể tới 10 15 kV/mm nhưng kết cấu rất phức tạp và phải tăng cường bằng
những đai lớn.
Để giữ áp suất trong cáp không thay đổi trong thời gian vận hành, cách 1
2,5 km dọc theo đường cáp có đặt thùng áp lực và hộp phân chia.
+ Thùng áp lực là 1 hình vỏ kiểu lượn sóng chứa dầu và đặt trong thùng chứa
khí nén. Khi cáp bị nóng thì áp suất dầu trong cáp tăng, dầu sẽ chảy vào bình lượn
sóng làm bình giãn nở. Khi cáp nguội lạnh, dầu sẽ chảy ngược vào cáp.
+ Hộp phân chia có tác dụng chia cáp ra nhiều đoạn khiến dầu không thể lưu
thông với nhau. Khoảng cách giữa các vị trí đặt thùng áp lực và hộp phân chia được
chọn sao cho biến đổi của áp suất ở khoảng giữa của đoạn cáp không vượt quá giới
hạn cho phép.
Hiện tượng rò dầu là 1 sự cố nghiệm trọng của loại cáp này, vì vậy dọc theo
đường cáp phải đặt các đồng hồ đo và báo hiệu tự động để thường xuyên theo dõi
tình trạng áp suất của dầu.
Trong cáp đổ dầu xác suất hình thành bọt khí rất bé và nếu có bọt khí thì do
áp suất lớn nên quá trình ion hoá chỉ có thể xảy ra khi cường độ trường lớn hơn
nhiều so với cường độ trường làm việc. Hiện tượng phóng điện chủ yếu trong loại
cáp này là do nhiệt, xảy ra khi nhiệt lượng sinh ra bởi tổn hao điện môi vượt quá
nhiệt lượng được tản ra ngoài. Vì vậy vật liệu dùng trong cáp phải có tổn hao điện
môi bé và trong quá trình chế tạo cần đo trị số tg nhiều lần.
7.6.4. Cáp khí nén
Là cáp chứa khí azôt, khí than. Do áp suất của 1
khí nén truyền vào cách điện của lõi nên các bọt khí 2
trường rất lớn. Thường khí azôt, khí than được nén tới 4
Hiện nay đã dùng khí Êlêga và Frêon là những Cáp chứa khí nén:
khí có khả năng cách điện cao hơn nhiều so với không 1: lõi; 2: cách điện; 3: vỏ;
4: ống thép; 5: khí nén;
khí. Việc giữ áp suất được thực hiện bằng các bình khí 6: lớp bảo vệ chống ăn mòn
nén có van tự động, điều khiển bởi tiếp điểm của áp kế.
Nhược điểm của cáp chứa khí nén là điều kiện tản nhiệt xấu nên việc sử dụng
chúng ở điện áp cao bị hạn chế. Hiện nay cáp chứa khí nén được dùng nhiều ở điện
áp 35 kV trên các tuyến đường dốc hoặc yêu cầu đặt cáp thẳng đứng.
Chất lượng của cách điện giảm sút do sự già cỗi chung của điện môi hoặc do
có chỗ xấu trong nội bộ làm cho cách điện mất dần các tính chất ban đầu của nó.
Các chỗ xấu trong điện môi được phân thành 2 loại:
+ Chỗ xấu tập trung (cục bộ), chiếm 1 phần không lớn của thể tích điện môi
như các vết rạn nứt, các bọt khí, tạp chất trong điện môi ...
+ Chỗ xấu phân bố (toàn bộ), có thể tồn tại trong toàn bộ hoặc phần lớn thể
tích điện môi (khoảng cách giữa các điện cực) như khi cách điện bị ẩm, bề mặt bị
ướt hoặc bám bụi...
Các phương pháp để kiểm tra dự phòng cách điện bao gồm các thí nghiệm đo
tổn hao điện môi, trị số điện dung, trị số dòng điện và điện áp khi nạp và phóng điện
của cách điện - các thí nghiệm này liên quan đến quá trình phân cực trong điện môi
- ... Ngoài ra còn có các thí nghiệm về phân bố điện áp, phóng điện cục bộ và thí
nghiệm điện áp tăng cao.
Những thí nghiệm trên bổ sung lẫn nhau vì bất kỳ 1 thí nghiệm riêng lẻ nào
cũng không thể cho được đầy đủ các nhận định chính xác và toàn diện về tình trạng
của cách điện. Phương pháp thông dụng để phán đoán chất lượng cách điện là đo
tổn hao tg vì nó là chỉ tiêu phẩm chất của điện môi. Tuy nhiên phương pháp này
chỉ có tác dụng khi điện môi có các chỗ xấu phân bố hoặc bị già cỗi, còn với các
chỗ xấu tập trung thì không nhạy bằng phương pháp thí nghiệm điện áp tăng cao.
VD: điện môi có 2% thể tích có trị số tg rất lớn (lớn gấp 5 lần) thì tổng tổn hao
chỉ tăng lên được 5.2% = 10%, do đó không gây chú ý và không thể dựa vào đó để
phân tích tình trạng cách điện.
Ở các chỗ xấu cục bộ, trường phân bố lại theo chiều hướng bất lợi đối với
cách điện hoặc do tổn hao điện môi tăng cao sẽ gây phát nóng và phân huỷ vật
liệu... cả 2 khả năng này đều có thể xuất hiện đồng thời dẫn đến kết quả chung là
làm giảm trị số điện áp phóng điện. Do đó thí nghiệm điện áp tăng cao có thể phát
hiện chỗ xấu này tương đối nhạy bén và chính xác.
7.7.2. Sự phân cực trong điện môi nhiều lớp và biện pháp kiểm tra dự phòng
cách điện
Trong thực tế thường dùng nhiều loại điện môi phối hợp với nhau nên trong
vận hành sẽ xuất hiện quá trình phân cực kết cấu. Quá trình này càng phát triển
mạnh khi có 1 lớp điện môi nào đó bị ẩm trầm trọng.
Trường hợp đơn giản nhất là 2 lớp điện môi có hằng số điện môi 1 và 2;
điện dẫn suất 1, 2. Nếu diện tích điện môi là S và độ dày của chúng là d1 và d2 thì
điện dung và điện dẫn của các lớp sẽ bằng:
g1 C1
d1 1 1
U
S S d2 2
C1 1 ; C2 2
d1 d2 g2 C2 2
1S 2S
g1 ; g2
d1 d2
Khi cho tác dụng nguồn điện áp 1 chiều thì lúc ban đầu trường phân bố theo
điện dung nhưng về sau sẽ phân bố lại theo điện dẫn. Do đó khi dòng điện nạp chấm
dứt thì vẫn còn dòng điện trong các lớp điện môi và vì điện dẫn của chúng khác
nhau nên có tập trung điện tích ở mặt biên giới. Hiện tượng đó được gọi là hiện
tượng hấp thụ.
Có thể dùng tính toán để nghiên cứu quá trình phân cực:
Lúc đóng nguồn (t = 0) điện áp phân bố trên các lớp:
UC2 UC1
U 10 ; U 20
C1 C2 C1 C2
Điện tích trên các điện dung bằng nhau và bằng:
UC1C2
Q10 Q10 C1U10 C2U 20 ;
C1 C2
Tốc độ nạp điện phụ thuộc công suất nguồn: nếu nguồn có công suất lớn
nghĩa là có điện trở trong bé thì tốc độ nạp lớn và quá trình nạp sẽ rất nhanh chóng.
Sau khi nạp xong sẽ bắt đầu quá trình quá độ do hiện tượng phóng điện cục bộ qua
điện dẫn của các lớp.
+ Xét trường hợp g1 >> g2 (lớp thứ nhất bị ẩm trầm trọng), điện dung C1 xem
như bị ngắn mạch bởi điện dẫn g1. Điện áp trên C1 sẽ giảm dần tới 0 còn trên C2 sẽ
tăng dần tới điện áp nguồn. Phương trình của điện áp như sau:
UC2
t
C
t
U1 e ; U 2 U 1 2
e
C1 C2 C C
1 2
C C2 C C2
Trong đó là hằng số thời gian: 1 1
g1 g 2 g1
Khi quá trình quá độ chấm dứt thì năng lượng điện tập trung vào lớp điện
môi có điện dẫn bé tức là vào C2: Q2 = UC2
Số điện tích được nạp thêm cho C2 gọi là điện tích hấp thụ:
C22
Qht = Q2 - Q20 = U
C1 C2
Nó tạo nên dòng hấp thụ xác định theo biểu thức:
t 2 t
C22 U C2
i ht e U.g1 . e
C1 C2 C1 C2
Trong quá trình phân cực điện dung của toàn bộ kết cấu cách điện được tăng
CC
dần từ trị số điện dung hình học lúc đầu Chh 1 2
tới trị số điện dung
C1 C2
vật lý (ở trường hợp đang xét nó có trị số gần bằng điện dung của lớp điện môi có
điện dẫn bé: Cvl C2).
Điện môi rắn khi khô ráo có điện dẫn suất = 10-11 10-13[cm]-1 và hằng
số điện môi thường lấy bằng 5 (0 = 5.8,86.10-14F/cm). Nếu chọn độ dày các lớp
2 0
như nhau và lấy trị số 1 = 2 = 10-13[cm]-1 thì hằng số thời gian = 0,45s.
2
Thời gian này rất lớn so với thời gian của nửa chu kỳ dòng điện xoay chiều tần số
T
công nghiệp = 0,01s do đó khi cho tác dụng điện áp xoay chiều quá trình phân
2
cực sẽ không phát triển kịp.
Ngược lại nếu có 1 lớp bị ẩm trầm trọng, trị số của nó có thể tăng tới 10-10
[cm]-1 và hằng số thời gian sẽ gần bằng khoảng thời gian của nửa chu kỳ tần số
công nghiệp. Trường hợp này quá trình phân cực bộc lộ rõ và gây tổn hao năng
lượng.
Để tính tổn hao điện môi (điện áp xoay chiều) vẫn dùng mạch đẳng trị nhưng
bỏ qua trị số g2:
2 C vl C hh C1C2
tg với C hh và Cvl C2
C vl C hh 2 2 C1 C2
Từ đó ta thấy tg phụ thuộc vào hằng số thời gian và tần số của điện áp.
Những quan hệ này được sử dụng trong các thí nghiệm kiểm tra dự phòng cách
điện.
Thí nghiệm đo điện dung theo nhiệt độ:
Thí nghiệm này dựa trên hiện tượng khi cách điện chủ yếu của máy biến áp
khô ráo, trị số điện dung của nó không thay đổi theo nhiệt độ. Ngược lại: khi bị ẩm
thì điện dung thay đổi rõ rệt - nhiệt độ càng tăng cao điện dung càng lớn. Điều này
cũng đúng cho cách điện dùng vải sợi hữu cơ và dầu biến áp.
Thí nghiệm đo điện dung theo nhiệt độ được tiến hành ở tần số công nghiệp
(50Hz). Như đã biết: khi cách điện khô ráo thì quá trình phân cực phát triển không
kịp với sự biến thiên của tần số (không kể đến phân cực ion và điện tử) nên điện
dung của nó không thay đổi ngay cả khi nhiệt độ biến thiên trong phạm vi rộng từ
10 800C và có trị số bằng trị số điện dung hình học của kết cấu cách điện.
Khi cách điện bị ẩm, điện dẫn tăng cao do sự hình thành các dung dịch muối
và axit trong nội bộ điện môi. Độ hoà tan của muối và axit lại tăng theo nhiệt độ do
đó khi nhiệt độ tăng cao thì điện dẫn tăng gấp bội và hằng số thời gian càng giảm
thấp. Ta có thể viết gần đúng trị số điện dung tại 2 nhiệt độ khác nhau, nhiệt độ lúc
bình thường 200C và lúc 700C: C20 Chh và C70 Cvl.
C70
Như vậy khi bị ẩm điện dung thay đổi rõ rệt theo nhiệt độ và nếu 1,3
C20
thì cách điện phải đem sấy vì đã bị ẩm trầm trọng.
Theo sơ đồ, cho kết cấu cách điện nạp điện 1 chiều trong thời gian khá lâu để quá
trình quá độ kịp chấm dứt. Sau đó cắt nguồn và cách điện được ngắn mạch trong
thời gian ngắn (cầu dao K đóng rồi mở ngay). Trong thời gian này điện tích trên C 2
sẽ phân bố lại theo điện dung và điện áp trên các lớp sẽ bằng nhau và bằng:
C2
U1 U 2 U U
C1 C2 1
C1
g1 + g C
Hình (a): Sơ đồ thí nghiệm U
1 1
k V
đo điện áp phản hồi. C2U -
U
Hình (b): Quan hệ của C1 C2 +
C2
-
điện áp phản hồi heo thời
(a) (b)
gian.
Khi mở K thì điện áp trên toàn bộ kết cấu cách điện bằng 0 (điện áp trên các
lớp bằng nhau nhưng ngược dấu) và Vônmet chỉ số 0, sau đó vì C1 sẽ phóng điện
qua g1 còn điện áp trên C2 giữ không đổi nên số đọc trên Vônmet tăng dần tới mức
U2 (về sau điện áp giảm rất chậm đến trị số 0 do lớp điện môi C2 cũng có điện dẫn).
Với thí nghiệm này có thể phán đoán được các vấn đề:
+ Phán đoán được lớp môi chất nào bị ẩm:
C2 U
Nếu lớp I bị ẩm, điện áp phản hồi đo được sẽ có trị số như trên.
C1 C2
C1U
Nếu lớp II bị ẩm, điện áp phản hồi đo được sẽ có trị số
C1 C2
+ Mức độ ẩm của lớp điện môi bị ẩm: thể hiện ở tốc độ tăng của điện áp phản hồi.
Nếu lớp I bị ẩm trầm trọng thì g1 lớn và hằng số thời gian bé, điện áp phản hồi
tăng nhanh tới trị số cực đại.
7.7.3. Thí nghiệm phát hiện phóng điện cục bộ
Ta đã biết, các vết rạn nứt, bọt khí là các chỗ xấu tập trung thường gặp trong
kết cấu cách điện. Cường độ trường trong bọt khí lớn hơn nhiều so với trị số trường
trung bình trong cách điện do hệ số điện môi của khí bé. Bởi vậy quá trình ion hoá
trong bọt khí có thể xuất hiện sớm, ngay cả khi ở điện áp làm việc, gây nên hiện
tượng phóng điện cục bộ trong nội bộ điện môi. Với đa số vật liệu cách điện (trừ
gốm cách điện) hiện tượng phóng điện cục bộ này thường làm cho điện môi bị phân
huỷ mãnh liệt, chỗ xấu được phát triển nhanh chóng và dẫn đến phóng điện hoàn
toàn. Bởi vậy trong chế tạo cách điện rất chú trọng đến việc khử bọt khí như dùng
các phương pháp tẩm sấy trong chân không, sơn mặt ngoài, bịt kín... và yêu cầu ở
điện áp làm việc hiện tượng ion hoá bọt khí không được xảy ra.
Xét trường hợp đơn giản về cách điện có chứa bọt khí như ở sơ đồ :
Trong đó: CB - điện dung của bọt khí. Z C
C0- điện dung của phần điện môi còn lại nối tiếp U C
0
Cứ mỗi nửa chu kỳ thì điện áp bị tụt đi 1 lượng U nhưng do C0 < CB và <<
C nên U rất bé (không quá 1% của điện áp tác dụng lên cách điện)... không thể đo
lường trực tiếp mà phải dùng mạch giao động LC có độ nhạy chọn lọc đối với tần số
cuả phóng điện, sau đó qua bộ phận khuếch đại và đưa vào máy hiện sóng.
Phương pháp đo dòng điện trong mạch ngoài
C
Dòng điện xung gây nên giao động C Đ
trong mạch gồm điện dung C và điện cảm L.
MH
L K
S
Đ
Bài giảng Vật liệu điện 73
Bộ môn Thiết bị điện, khoa Điện, trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
Trong quá trình đo, trị số điện trở cách điện tăng i
inap
dần tới mức ổn định theo quan hệ:
ihấp thụ
R i nap i ht
1 irò
R0 i ro
R0 - Trị số điện trở cách điện lúc bắt đầu đo (t = 0).
t
R - Trị số điện trở cách điện lúc ổn định (t = ).
Dòng trong điện môi khí khi
Khi điện môi bị ẩm dòng điện rò tăng nên trị số tuyệt cho tác dụng điện áp 1 chiều
R
đối của điện trở cách điện giảm đồng thời tỷ số cũng giảm tới giới hạn bằng 1.
R0
* Phương pháp đo dòng điện rò:
Trong thí nghiệm này nguồn 1 chiều được cung cấp bởi hệ thống chỉnh lưu
cao áp và dùng các loại Ampemet nhạy để đo dòng điện. Điện cao áp 1 chiều được
quy định ứng với từng cấp điện áp của thiết bị để đảm bảo cho cách điện không bị
hư hỏng trong quá trình thí nghiệm.
So với phương pháp đo điện trở cách điện, phương pháp này có độ nhạy cao
hơn đồng thời còn có thể xác lập được quan hệ Vôn - Ampe để theo dõi trị số dòng
điện rò ở nhiều mức điện áp khác nhau.
b. Thí nghiệm đo sự phân bố điện áp:
Được dùng để phát hiện các phần tử xấu (bị chọc thủng) của chuỗi cách điện
treo, cách điện đỡ có nhiều tầng nhiều lá hoặc ghép nối cấp. Dụng cụ chính là cần
phóng điện như hình vẽ:
1: Cần phóng điện. 3
2: Khe hở giữa 2 quả cầu. C
3: Chuỗi cách điện. 2
1
Nếu cách điện của đĩa tốt và khi điều chỉnh khoảng cách giữa 2 quả cầu sao
cho điện áp phóng điện của nó bằng trị số điện áp phân bổ trên đĩa cách điện thì sẽ
có phóng điện giữa 2 quả cầu. Khi đĩa cách điện đã bị chọc thủng thì sẽ không có
phóng điện dù khoảng cách giữa 2 quả cầu có giảm bé. Tụ điện C phải chịu được
mức điện áp lớn nhất phân bố trên các đĩa của chuỗi cách điện, tác dụng của nó là
để ngăn chặn sự phóng điện xảy ra trên cả chuỗi trong trường hợp chuỗi cách điện
đã có 1 hay vài đĩa bị xấu mà cần phóng điện lại đặt trên đĩa còn tốt.
c. Thí nghiệm bằng điện áp cao:
Trong tất cả các biện pháp kiểm tra dự phòng cách điện, thí nghiệm bằng
điện áp cao được tiến hành sau cùng và cũng là mục kiểm tra cách điện có ý nghĩa
quyết định nhất. VD: theo phương pháp của hiện tượng hấp thụ đã phát hiện cách
điện bị ẩm trầm trọng và đã đem sấy nhưng chưa thể đảm bảo là cách điện có đủ
khả năng để chịu đựng được tác dụng của các loại quá điện áp.
Thí nghiệm bằng điện áp cao có thể gây nên phá hoại cách điện nên phải
được tiến hành rất thận trọng, mức điện áp thí nghiệm phải chọn hợp lý sao cho có
thể phát hiện được các chỗ xấu mà vẫn đảm bảo an toàn cho cách điện. Phải căn cứ
vào độ lớn, thời gian tác dụng và số lần xuất hiện các loại quá điện áp tác dụng lên
cách điện, căn cứ vào phẩm chất kết cấu cách điện, tình trạng cụ thể của thiết bị và
các hoàn cảnh khác có liên quan để lựa chọn mức điện áp thí nghiệm hợp lý.
Thời gian tác dụng của điện áp thí nghiệm có ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình phóng điện của cách điện nên không thể kéo dài vô thời hạn. Khi thí nghiệm
với điện cao áp xoay chiều, thời gian tác dụng của điện áp quy định là 1 phút, đủ để
kiểm tra tình trạng của cách điện bằng thị giác và thính giác. Khi dùng điện cao áp 1
chiều, vì tổn hao điện môi bé nên cách điện không bị phát nóng và không bị phá
hoại như khi dùng điện cao áp xoay chiều, do đó thời gian tồn tại của điện áp lâu
hơn (10 hoặc 20 phút) đồng thời mức điện áp thí nghiệm cũng được tăng cao gấp
rưỡi hoặc gấp đôi so với điện áp xoay chiều.
Thí nghiệm bằng điện áp 1 chiều thường được tiến hành đối với các thiết bị
có điện dung lớn (cáp, máy điện...) vì nó yêu cầu công suất của thiết bị thí nghiệm
(nguồn) không lớn. Trong quá trình thí nghiệm có thể kết hợp đo dòng điện rò và
xây dựng quan hệ Vôn - Ampe để phối hợp kiểm tra tình trạng cách điện. Trong 1
số trường hợp cụ thể cách điện còn được thí nghiệm với điện áp xung kích.
8.1. PHÂN LOẠI VÀ CÁC TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA VẬT DẪN
1. Phân loại:
* Phân loại theo trạng thái: Vật liệu dẫn điện có thể là vật rắn, lỏng và trong
những điều kiện nhất định có thể là thể khí.
* Phân loại theo điện dẫn:
Vật dẫn có điện dẫn cao: Dùng làm dây dẫn, cáp, dây quấn máy biến áp...
Vật dẫn có điện trở cao: Dùng trong các dụng cụ đốt nóng bằng điện: Biến trở,
đèn sợi đốt, điện trở mẫu...
* Phân theo tính chất:
- Vật dẫn loại 1: Có dòng điện là dòng chuyển dịch của các điện tử tự do(kim
loại rắn và lỏng).
- Vật dẫn loại 2: Có dòng điện là dòng chuyển dịch của các điện tích, gồm các
ion và điện tử (dung dịch điện phân, axit, kiềm…).
2. Các tính chất cơ bản:
a. Điện dẫn suất: Đặc trưng cho khả năng cản trở dòng điện của vật liệu
S
R (.mm2/m) (8.1)
l
b. Hệ số nhiệt của điện trở suất: Khi nhiệt độ thay đổi, điện trở suất của vật liệu
cũng thay đổi, gần đúng có thể tính theo (7.2), t 0 .(1 .t ) (8.2)
Với t và 0 là điện trở suất tại nhiệt độ t0, và nhiệt độ ban đầu, - Hệ số nhiệt của
1 d 1 0
điện trở suất TK . . t (độ-1) (8.3)
dt 0 t
c. Tính siêu dẫn:
Ở nhiệt độ thấp điện trở suất của kim loại trở nên rất nhỏ. Theo lý thuyết thì
điện trở suất của kim loại thuần khiết có thể coi bằng 0 ở nhiệt độ không tuyệt đối
(O0K = - 2730C), khi đó chúng đạt tới trạng thái siêu dẫn.
d. Sự biến đổi điện trở suất khi biến dạng.
Đối với kim loại khi bị kéo hay bị nén, điện trở suất có thể thay đổi
l .(1 . ) (8.4)
Với: - Ứng suất cơ, - Hệ số ứng suất cơ, dấu (+) khi bị éo, dấu (-) khi bị nén
e. Độ dẫn nhiệt: Kim loại khác nhau có mức độ dẫn nhiệt khác nhau, thông thường
kim loại dẫn điện tốt thì cũng dẫn nhiệt tốt
1 dl
f. Hệ số nhiệt giãn nở dài của vật dẫn: l TK l . (độ-1) (8.5)
l dt
g. Sức nhiệt điện động:
Khi cho hai kim loại khác nhau tiếp xúc giữa chúng phát sinh hiệu
điện thế tiếp xúc, được gọi là sức nhiệt điện động
h. Tính chất cơ học của vật dẫn: Là khả năng chống lại tác dụng của lực bên ngoài
lên kim loại. Đặc trưng bởi độ đàn hồi, độ bền, độ dẻo, độ cứng, độ dai va chạm, độ
chịu mỏi...
+ Đồng cứng (MT): Cứng, chịu mài mòn tốt, chủ yếu được sử dụng làm tiếp
điểm, thanh cái, thanh dẫn …
+ Đồng mềm (MM), đồng có ủ: Dẻo, chịu uốn và chịu kéo tốt, chủ yếu được
dùng làm dây dẫn, dây quấn …
b. Hợp kim của đồng:
Trong nhiều trường hợp người ta sử dụng hợp kim của đồng, với một lượng nhỏ
thiếc, silic, crom, magie… Hợp kim đồng có cơ tính tốt và vẫn giữ được những tính
chất đáng quy của đồng.
* Theo thành phần hoá học: có 2 nhóm chính
- Đồng thau (Latông): Là hợp kim đồng kẽm trong đó kẽm 46%. Nó có độ
giãn dài tương đối khá cao, độ bền kéo và điện trở suất cao hơn đồng tinh khiết.
Được dùng để sản xuất mọi chi tiết dẫn điện. Có thể phân thành: đồng thau dùng để
đúc, dùng để cán mỏng, dùng để hàn gắn.
- Đồng thanh (Brông): Là hợp kim của đồng với 1 lượng nhỏ thiếc, Si, P, Mg,
Cr ... Nó có độ bền cơ và điện trở suất lớn hơn đồng tinh khiết, được dùng để chế
tạo lò xo dẫn điện, vòng cổ góp điện, dây dẫn...
-Ngoài ra còn Đồng - Cadimi : là hợp kim chịu mài mòn , được ứng dụng ở
những chỗ tiếp xúc và phiến góp có công dụng đặc biệt.
2. Nhôm và hợp kim của nhôm
a. Nhôm: Là kim loại nhẹ hơn đồng 3,5 lần, có màu bạc trắng. Hệ số nhiệt độ giãn
nở dài của nhôm lớn hơn đồng. Nhưng nhôm kém đồng cả về độ bền cơ cũng như
các đặc tính điện. Khó khăn trong việc thực hiện tiếp xúc điện. Các tạp chất cũng
làm giảm điện dẫn của nhôm.
Nếu đem so sánh hai dây dẫn có cùng chiều dài và cùng điện trở, thì dây nhôm
nhẹ hơn dây đồng khoảng 2,2 lần. Điều đó có nghĩa rất lớn khi sử dụng nhôm làm
dây dẫn trên không. Ngoài ra nhôm còn được dùng làm vỏ tụ điện, làm điện cực bể
điện phân, làm dây quấn rotor máy điện quay… Trong đại đa số các trường hợp
khác nếu dùng dây nhôm thay dây đồng thì không cớ lợi về mặt kinh tế.
*) Tính chất của nhôm: Điện trở suất cũng rất nhạy với các tạp chất, cơ tính
cũng phụ thuộc vào công nghệ gia công, nhôm bị ôxy hoá mạnh tạo nên màng ôxy
hoá mỏng có điện trở lớn. Lớp màng này bảo vệ nhôm khỏi bị ăn mòn nhưng tạo
nên điện trở lớn ở chỗ tiếp xúc, ngoài ra nhôm còn bị ăn mòn điện hóa mạnh…
b. Hợp kim của nhôm:
Theo tính công nghệ hợp kim nhôm phân thành: hợp kim biến dạng (chế tạo
bán thành phẩm bằng gia công áp lực) và hợp kim đúc (đúc chi tiết).
Hợp kim nhôm biến dạng dùng để chế tạo các bán thành phẩm hoặc chi tiết
bằng gia công áp lực nóng hoặc nguội (ủ mềm, tôi, tôi và hoá già nhân tạo, biến
cứng, biến cứng không hoàn toàn...). Ta còn có thể phân biệt thành loại có thể hoá
bền bằng nhiệt luyện và loại không hoá bền bằng nhiệt luyện.
Hợp kim nhôm đúc dùng để đúc các chi tiết có hình dạng và công dụng khác
nhau.
Bài giảng Vật liệu điện 78
Bộ môn Thiết bị điện, khoa Điện, trường ĐH Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
3. Sắt: Là vật liệu rẻ tiền, có độ bền cơ học cao, sắt tinh khiết có 0,1
mm2/m, trong nhiều trường hợp sắt cũng được dùng làm vật dẫn. Trong kỹ thuật
chủ yếu sắt được dùng dưới dạng hợp kim (thép)
Khi sử dụng vật dẫn bằng thép sẽ gặp hiệu ứng mặt ngoài và tổn hao từ trễ, do vậy
thép chủ yếu được dùng trong mạch điênh một chiều, xoay chiều tần số thấp hoặc
trong những trương hợp vừa là vật dẫn vừa là vật liệu kết cấu.
4. Lưỡng kim: Là vật dẫn bằng thép được bọc đồng, hai kim loại gắn chặt với
nhau trên suốt chiều dài của thanh dẫn. Các tính chất cơ và điện là trung bình của
hai kim loại đó.
8.3. CÁC HỢP KIM ĐIỆN TRỞ CAO VÀ THAN KỸ THUẬT ĐIỆN
1- Các hợp kim điện trở cao:
a. Manganin: Là hợp kim gốc đồng (với 12%Mn, 2%Ni) dùng phổ biến trong
các dụng cụ đo điện và điện trở mẫu (nhiệt độ làm việc 600C với điện trở và
khoảng 3000C với biến trở).
b. Conxtantan:
Là hợp kim 60% đồng - 40% niken, dùng để sản xuất dây biến trở và dụng cụ
đốt nóng bằng điện có nhiệt độ làm việc không quá 4000C.
Có thể kéo thành sợi và cán thành tấm như Manganin. Khi đốt nóng đến nhiệt
độ tương đối cao trên bề mặt sẽ tạo màng ôxít có tính cách điện.
c. Hợp kim Crôm - Niken:
Dùng trong các dụng cụ đốt nóng bằng điện: thiết bị nung, lò điện, mỏ hàn...
Chịu được nhiệt độ cao, khả năng chống ôxy hoá tốt.
d. Hợp kim Crôm - nhôm:
Là hợp kim rẻ tiền dùng trong các thiết bị đốt nóng bằng điện công suất lớn
và lò điện công nghiệp. Hợp kim này cứng và giòn, khó kéo thành sợi và thành băng
dài.
2- Than kỹ thuật điện:
Dùng làm chổi than của máy điện, các điện cực đèn chiếu, điện cực các lò
điện và các bể điện phân. Từ than có thể làm các điện trở có trị số cao, cái phóng
điện cho mạng thông tin và dùng cả than trong kỹ thuật chân không.
Nguyên liệu sản xuất than kỹ thuật điện có thể dùng bồ hóng, than chì hay
than gầy tự nhiên. Các thanh điện cực được chế tạo bằng cách nghiền nguyên liệu
với chất dính kết - nhựa than đá hay đôi khi là thuỷ tinh lỏng - ép qua miệng phun.
Có thể chế tạo hình dạng phức tạp bằng khuôn ép. Phôi than đi qua quá trình nung
và chế độ nung sẽ quyết định dạng của cácbon trong sản phẩm. ở nhiệt độ cao
cacbon chuyển sang dạng Graphit, do đó quá trình này gọi là graphit hoá.
Chổi than của các máy điện được nung ở 8000C. Chổi điện Graphit hoá nung
đến 22000C. Các điện cực than làm việc ở nhiệt độ cao được nung ở nhiệt độ rất
cao, đến 30000C.
+ Con số thứ 2 đặc trưng cho tính chất điện và từ của thép (chỉ chất lượng về
mặt tổn hao. Số càng lớn tổn hao càng ít).
+ Con số thứ 3 (0) chỉ tôn cán nguội.
+ Có 2 chữ số 0 liên tiếp là thép cán nguội và ít thớ.
+ Chữ A ký hiệu suất tổn hao rất thấp.
* Fecmalôi:
Là hợp kim Fe - Ni, có độ từ thẩm ban đầu lớn trong vùng từ trường yếu. Nó
không có hiện tượng dị hướng và từ giảo. Để nâng cao điện trở suất của nó người ta
đưa thêm vào các tạp chất Mn, Si...
Fecmalôi nhiều niken (72 - 80% Ni) dùng làm lõi cuộn cảm kích thước nhỏ,
biến áp âm tần nhỏ, các biến áp xung...
Fecmalôi ít niken (40 - 50% Ni) có từ cảm bão hoà lớn hơn gần 2 lần
fecmalôi nhiều Niken, thường dùng làm lõi thép máy biến áp điện lực, cuộn cảm và
các dụng cụ cần có từ thông cao...
Các Fecmalôi với vòng từ trễ hình chữ nhật dùng làm khuyếch đại từ, cơ cấu
chuyển mạch, thiết bị chỉnh lưu và các phần tử của máy tính.
* Alusipe:
Hợp kim sắt với nhôm và silic. Có đặc tính cứng và giòn nhưng dễ đúc định
hình. Dùng để sản xuất màn từ, thân các dụng cụ... Do tính giòn nó có thể nghiền
bột để sản xuất lõi ép cao tần.
9.3. VẬT LIỆU TỪ CỨNG
Chủ yếu được ứng dụng làm nam châm vĩnh cửu, theo thành phần, trạng thái,
phương pháp chế tạo vật liệu từ cứng được chia thành các loại sau:
* Thép hợp kim hoá: Chế tạo nam châm vĩnh cửu. Chúng được hợp kim hoá
với các chất phụ như: Vonfram, Crôm, Côban ...
* Hợp kim từ cứng đúc: Là hợp kim của 3 nguyên tố Al - Ni - Fe (Aluni). Vì
có độ giòn và cứng chỉ có thể gia công bằng phương pháp mài nên khó chế tạo các
chi tiết có kích thước chính xác.
* Các nam châm bột: Chế tạo nam châm vĩnh cửu bằng phương pháp luyện
kim bột từ hợp kim Fe - Ni - Al. Nó được ép từ bột nghiền sau đó thiêu kết ở nhiệt
độ cao.
* Ferit từ cứng: Loại được biết đến nhiều nhất là Ferit bari: BaO. 6Fe2O3.
Thường dùng để sản xuất nam châm bari. Chúng có tính ổn định cao với tác dụng
của từ trường ngoài, chịu được lắc, va đập, điện trở suất lớn. Có thể dùng ở tần số
cao. Nhưng độ bền cơ thấp, độ giòn lớn, tính chất từ phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ.
hoặc rất cao. Nó không phải là kim loại. Ferit là gốm từ có thể xếp vào loại bán dẫn
điện tử (vì có điện dẫn điện tử không đáng kể). Năng lượng tổn hao ở vùng tần số
cao tương đối nhỏ làm cho Ferit được dùng rộng rãi ở tần số cao. Các Ferit là những
vật liệu cứng và giòn, không cho phép gia công bằng cắt gọt, chỉ có thể mài hoặc
đánh bóng.
Ferit từ mềm: Có lớn, có trị số tổn hao lớn và tăng nhanh khi tần số tăng. Có
hằng số điện môi tương đối lớn phụ thuộc vào tần số và thành phần của Ferit, khi
tần số tăng giảm.
Ferit từ cao tần: Ngoài Ferit từ mềm ở tần số cao có thể dùng thép lá kỹ thuật
điện hoặc Fecmalôi cán nguội và điện môi từ (Điện môi từ chế tạo bằng cách nén
bột sắt từ có chất kết dính cách điện).
Ferit có vòng từ trễ hình chữ nhật: Được đặc biệt chú ý trong kỹ thuật máy
tính để làm bộ nhớ, trong các thiết bị chuyển mạch
* Gang và thép kết cấu: Dùng trong ngành chế tạo máy điện, thiết bị điện và
dụng cụ cần có đặc tính cơ tốt và khả năng áp dụng rộng rãi các phương pháp công
nghệ. Phân thành vật liệu từ tính (gang xám, thép các bon, thép hợp kim) và vật liệu
không từ tính (thép không từ tính, gang không từ tính).
Gang xám: Dùng đúc vỏ máy điện, các chi tiết ghép chặt, đúc các chi tiết có
hình dáng đặc biệt lớn.
Thép cacbon: thường dùng thép có hàm lượng cacbon từ 0,08 - 0,2%. Với
những máy chuyên dụng và đặc biệt quan trọng dùng thép có độ bền cơ tăng cường
bằng cách hợp kim hoá với niken, crôm, môlipđen.
Gang không từ `tính: Gang có pha thêm Ni, Mn. Dễ gia công cắt, điện trở
gang không từ tính lớn nên giảm tổn hao dòng xoáy. Dùng chế tạo nắp, vỏ, các ống
của máy cắt dầu, vòng cách của máy biến áp điện lực...
Thép không từ tính: Đưa thêm Ni, Mn vào thép. Thép không từ tính có cơ tính
cao, dùng chế tạo nhiều chi tiết mà dùng hợp kim đồng, nhôm không đủ độ bền cơ.