MỞ, KẾT, TIỀN ĐỀ CÔ TTD

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 14

♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥

——————————————————————————————————————————————

TẶNG CÁC CON YÊU CỦA CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG!


Tài liệu lưu hành nội bộ
__________________
TỦ SÂU
Cô Trần Thùy Dương PHẦN MỞ - YÊU CẦU PHỤ - PHẦN KẾT
1. Truyện ngắn “VỢ NHẶT” – Kim Lân
Mở bài: Đến với mảnh đất văn chương, nếu Nguyễn Công Hoan coi “đời là mảnh ghép của những nghịch cảnh”; Thạch
Lam ví “đời là miếng vải có nhiều lỗ thủng, nhiều vết ố nhưng vẫn nguyên vẹn”; và Nam Cao thì coi “cuộc đời là tấm áo cũ
bị xé rách tả tơi từ cái làng Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận”, thì Kim Lân lại không nhìn đời bằng con mắt “đau thương”
như thế! Kim Lân là cây bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về đề tài nông thôn. Những sáng tác của ông phản ánh một
cách chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc cảnh ngộ cũng như tâm lí của họ - những
con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Một trong những sáng tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện
ngắn “Vợ nhặt”, tác phẩm vừa là bức tranh hiện thực về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu vừa là bài ca ca ngợi sức sống và
niềm tin mãnh liệt của con người vào tương lai, vào Cách mạng, vào tình người. Và … (yêu cầu của đề)
Đoạn giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Viết về đề tài nông thôn, nhà văn Kim Lân đã khơi gợi những cái chưa ai khơi gợi,
đó là thân phận rẻ rúng như rơm rác của người nông dân nghèo trong xã hội cũ, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Và
ông đã rất thành công khi khắc họa chân dung người dân lao động tuy nghèo khổ, quanh năm chân lấm tay bùn nhưng ở sâu
trong họ vẫn luôn mang những phẩm chất cao đẹp. Truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời là dựa vào cốt truyện cũ với nhan đề “Xóm
ngụ cư” mà Kim Lân viết còn dang dở sau Cách mạng. Truyện in trong tập “Con chó xấu xí” năm 1962. Truyện ngắn “Vợ
nhặt” được xây dựng trên bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu – cái năm mà người ta vẫn nhắc đến như một tai nạn
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 1 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
thảm khốc khiến “hai triệu đồng bào ta bị chết đói từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ”. Trong cái tình cảnh đó: Tràng, một thanh niên
nghèo khổ làm nghề đẩy xe bò thuê lại dắt thêm một người đàn bà về làm vợ. Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, bà cụ Tứ (mẹ Tràng)
cũng ngạc nhiên không kém và ngay cả bản thân Tràng cũng không tin đó là sự thật.
Đánh giá nghệ thuật và nội dung: Bằng ngôn từ giản dị và tình huống truyện độc đáo, đầy bất ngờ. Nhà văn Kim Lân đã
rất thành công khi dựng lên một thước phim quay chậm về cuộc sống của người dân xóm ngụ cư trong tình cảnh đói khát,
thiếu thốn đến cùng cực những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Càng khó khăn, càng đói khổ bao nhiêu thì tình
người lại càng sáng chói bấy nhiêu. Bởi ở đó, họ dù có khổ sở, có cùng quẫn cũng không chà đạp lên nhau. Đi hết bất ngờ này
đến bất ngờ khác, người đọc càng xót xa cho thân phận người nông dân bao nhiêu, lại càng oán hận tội ác của phát xít Nhật,
thực dân Pháp và bọn thực dân phong kiến bấy nhiêu. Chính chúng đã đẩy dân ta vào cảnh túng đói khinh hoàng “người chết
như ngả rạ”, “hơn hai triệu đồng bào ta chết đói” từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ. Bởi vậy, nhà văn cũng không quên gieo vào lòng
người đọc sự hoan hỉ khi xây dựng hình ảnh “lá cờ đỏ bay phấp phới” ở cuối truyện. Lá cờ ấy như một lời khẳng định: Nhân
dân ta nhất định sẽ chiến thắng. Kẻ gian ác tàn bạo nhất định sẽ bị lụi bại dưới ánh sáng của Cách mạng Việt Nam.
Lời kết: Truyện ngắn “Vợ nhặt” đọng lại trong lòng độc giả vô số những ấn tượng khác nhau: từ cách miêu tả khung cảnh
ngày đói một cách chân thực đến biễn biến tâm lý bậc thầy của Kim Lân, nhưng có lẽ cái đọng lại cuối cùng vẫn là cách nhìn
đời, nhìn người đầy xót xa và thương yêu của nhà văn, là niềm tin mà dường như ông muốn trao gửi đến tất cả chúng ta qua
thiên truyện: Rằng, dù cuộc sống có bi thảm đến đâu thì cái cội nguồn nhân bản lưu giữ trong nhân dân vẫn là bất diệt; rằng
con người không có khao khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như một con người, được nên người.

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 2 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
2. Truyện ngắn “VỢ CHỒNG A PHỦ” – TÔ Hoài
Mở bài: Nhà văn Phan Anh Dũng nói về Tô Hoài rằng: “Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn
đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi, trên con đường đưa họ đến với thế giới động tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến
với những miền đất mới, đến với con người đời dài rộng khi đã trưởng thành”. Quả đúng như vậy, Tô Hoài là một trong những
nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông sớm bước vào đời, vào nghề văn và cũng sớm tham gia hoạt động cách
mạng. Ông viết ở nhiều thể loại và thể loại nào cũng gặt hái được những thành công rực rỡ. Đặc biệt là những tác phẩm viết
về hiện thực cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc, bởi ông rất am hiểu về phong tục tập quán cũng như văn hóa nhiều
vùng miền khác nhau. Tô Hoài luôn có những cố gắng tìm tòi, khám phá trong sáng tạo nghệ thuật, đó là một trong những
yếu tố góp phần làm nên sự hấp dẫn, sức sống và ý nghĩa lâu bền ở tác phẩm của ông đối với đời sống tinh thần của người
đọc nhiều thế hệ…. (Yêu cầu của đề)
Đoạn giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được rút trong tập “Truyện Tây Bắc” viết năm 1952,
là truyện ngắn xuất sắc nhất của tập sách này. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân
nghèo miền núi dưới ách áp bức, thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng
tự do, hạnh phúc của con người. Truyện có hai phần: Phần đầu kể về cuộc sống đầy tủi nhục của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài –
nơi bọn thống lý ngự trị độc tôn, người dân cực khổ có đấu tranh nhưng chỉ là đấu tranh tự phát (chính là đoạn trích trong
chương trình Ngữ văn 12); phần sau là thời kì ở Phiềng Sa – nơi thực dân là kẻ thống trị cao nhất, con người đấu tranh tự
giác để tự giải phóng đời mình, dưới sự giác ngộ và lãnh đạo của Đảng.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật: Bằng nghệ thuật miêu tả, phân tích sâu sắc tinh tế cùng với cách dẫn dắt tình tiết khéo
léo, giọng trần thuật của tác giả hòa vào độc thoại nội tâm nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc, Tô Hoài đã tái
hiện chân thực, sinh động câu chuyện về những người dân vùng cao bị áp bức. Đặc biệt, với tài năng nghệ thuật và trái tim
ấm nóng của người cầm bút, Tô Hoài đã đi sâu vào tâm hồn để thấu hiểu được thế giới nội tâm và những khát vọng thầm kín
của nhân vật. Ông còn khám phá được “hạt ngọc ẩn chứa trong bề sâu tâm hồn con người”, tạo nên giá trị nhân văn cao cả
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 3 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
cho tác phẩm. Đến với “Vợ chồng A Phủ” chúng ta không thể tìm được những cá tính đặc sắc trong nhân vật như Xuân tóc đỏ
trong “Số đỏ”, Tràng trong “Vợ nhặt” hay Chí Phèo trong truyện cùng tên của nhà văn Nam Cao... Bởi đó không phải là chủ
đích của Tô Hoài khi viết thiên truyện này. Nhà văn muốn dành sự quan tâm cho một vấn đề khác, cấp bách hơn: đó là“vấn
đề số phận” – số phận của con người, số phận của cả một cộng đồng người nông dân lao động dưới ách thống trị của bọn thực
dân phong kiến trên những triền núi Tây Bắc heo hút.
Kết bài: Rồi A Phủ và Mị sẽ trở thành vợ chồng, sẽ giác ngộ cách mạng và lần lượt trở thành du kích giải phóng quê hương
đất nước nhưng đó là nửa sau của truyện, là lúc họ đưa nhau đến Phiềng Sa. Còn khi đọc hết nửa đầu của truyện, gấp trang
sách lại mà một Tây Bắc xa xôi vẫn quanh quẩn đâu đó thật gần. Bởi lẽ, “Vợ chồng A Phủ” đã chinh phục trái tim của mọi
độc giả. Sức chinh phục ấy không phải là từ thứ văn chương bay bổng hay những ngôn từ hoa mĩ, mà là ở chỗ nhà văn đứng
về phía khát vọng được sống, được yêu để tố cáo cái xã hội thực dân đã giam hãm, trói buộc, hủy hoại tuổi xuân của con
người đặc biệt là người phụ nữ. Và sâu sắc hơn cả là tấm lòng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài khi tin tưởng vào sức sống bất
diệt, tin tưởng vào khả năng tự vươn lên, phản kháng cái hiện thực đen tối để tìm đến với tình yêu, tự do và hạnh phúc.
3. Truyện ngắn CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA – Nguyễn Minh Châu
Mở bài: Một nhà văn đã từng nói: “Có những hình ảnh thoạt mới nhìn thì đẹp, thậm chí là rất đẹp, nhưng nếu nhìn kĩ
bên trong, đi sâu vào bản chất của nó thì hoàn toàn ngược lại. Cuộc sống nhiều khi thường "đánh lừa" ta như thế. Phải có con
mắt tinh tường nhìn thấu gan ruột cuộc sống để khám phá, phát hiện thì mới mong tìm ra đúng bản chất của nó. Và “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một truyện ngắn như vậy! Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây
bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới, là “vị khai quốc công thần của triều đại văn học mới” – “người mở
đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc). Những sáng tác của ông đều xuất phát từ cảm hứng thế sự, đời tư mang đậm
chất triết lý nhân sinh trong giai đoạn văn học mới, khác xa với cảm hứng sử thi lãng mạn quen thuộc trước năm 1975.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một sáng tác thuộc giai đoạn thứ hai của nhà văn…. (Yêu cầu của đề)

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 4 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” lúc đầu được in trong tập “Bến quê”, sau được nhà
văn lấy làm tên chung cho một tập truyện ngắn (in năm 1987). Truyện in đậm phong cách tự sự triết lý của Nguyễn Minh
Châu, tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn cùng những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về “nghệ
thuật và cuộc đời”.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật: Nhà văn Nguyên Minh Châu từng bộc bạch trong tập tiểu luận “Trang giấy trước đèn”
của mình rằng: “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm cái công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng
đường tuyệt lộ bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường, để bênh vực cho những con người không còn được ai bênh
vực”. Chính vì vậy, khi hướng ngòi bút của mình về văn học, Nguyễn Minh Châu quả quyết: “Văn học và cuộc sống là hai
vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”, sẽ đến một lúc văn học “phải viết về con người, trước sau con người cũng leo
lên trên sự kiện để đòi quyền sống” và nhà văn chân chính thì bao giờ cũng “mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống, nhất
là tình yêu thương con người”. Sau cách mạng, những sáng tác của Nguyễn Minh Châu đều xuất phát từ cảm hứng thế sự, từ
cái nhìn hiện thực đa chiều, mang đậm chất triết lý nhân sinh. Điều đó đã giúp ông nhận ra đời sống con người bao gồm cả
qui luật tất yếu lẫn những điều may rủi khó lường, ông day dứt về việc con người phải chấp nhận những nghịch lí không
đáng có.
Nguyễn Minh Châu tâm niệm: “Văn học ra đời để gìn giữ trong từng con người – một cái gì hết sức mong manh và luôn
luôn run rẩy… một cái gì đó thật là như vậy, nhưng thiếu nó trong con người thì y rằng con người ấy không thể sống giữa
quần thể loài người được, và trở thành một tại họa cho loài người”. Và truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” cũng gói trọn
những suy tư, trăn trở của ông. Đó là gánh nặng mưu sinh giam hãm vợ chồng người dân hàng chài trong cảnh tối tăm, đói
khổ, bấp bênh. Điều ấy khiến người chồng trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo. Còn người vợ vì thương con nên nhẫn nhục, chịu
đựng sự ngược đãi của người chồng mà chị không hề biết chính việc ấy đã làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại. Vì thương
mẹ, cậu bé trở nên thù địch với cha, nhưng rồi liệu trong tương lai cậu có thể sống khác cha mình hay cũng chỉ là một bản
sao – cũng tàn tệ vũ phu như người bố? Đằng sau câu chuyện là cái nhìn ấm áp, nhân hậu của nhà văn: sự trân trọng, tin

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 5 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
yêu vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự bao dung và can đảm của người phụ nữ. Đó không phải là vẻ đẹp chói sáng, hào
hùng mà là những “hạt ngọc khuất lấp”, lẫn trong lấm láp lam lũ đời thường. Theo ông, tình yêu của người nghệ sĩ vừa là
niềm hân hoan say mê vừa là nỗi đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những
người xung quanh. Điều này đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho thiên truyện.
Kết bài: Đọc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, ta có thể nhận thấy vẻ đẹp của ngòi bút Nguyễn Minh Châu và các giá
trị sâu sắc mà ông để lại, tất cả đều toát ra từ tình yêu tha thiết với con người cùng khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tôn vinh
những vẻ đẹp trong cốt cách con người. Khép lại những trang văn kể về cuộc đời người đàn bà hàng chài vô danh nơi vùng
biển, dư âm của nó vẫn còn day dứt, ám ảnh trong lòng độc giả mãi tận hôm nay và mãi mãi về sau.
4. Kịch “HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT” -Lưu Quang Vũ
Mở bài: Bước vào thời kì văn học đổi mới, một trong những chuyển biến làm nên tiếng vang cho giai đoạn này, chính là
sự xuất hiện “nở rộ” của kịch. Và Lưu Quang Vũ chính là một nhà thơ, nhà viết kịch xuất sắc nhất của nền kịch nói Việt
Nam. Thành công lớn nhất của ông là ở lĩnh vực sân khấu và ông được coi là “ngòi bút vàng của sân khấu Việt Nam”. Kịch
Lưu Quang Vũ đặc sắc trên nhiều phương diện: đó là sự kết giữa kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu, giữa tính hiện đại
với các giá trị truyền thống; giữa sự phê phán mạnh mẽ và chất trữ tình đằm thắm, bay bổng. Những tác phẩm của ông luôn
là những bức thông điệp gửi tới người đọc, người xem những vấn đề xã hội có tính nhân văn sâu sắc…. (Yêu cầu của đề)…
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” gồm bảy hồi, là một trong những vở kịch đặc sắc
nhất của Lưu Quang Vũ đã được trình diễn rất nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian,
ông đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu
sắc. Đoạn trích trong sách giáo khoa (Ngữ văn 12) là từ cảnh VII và đoạn kết của vở kịch.
Kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được chuyển thể từ một câu chuyện dân gian: Trương Ba vốn là một người lương
thiện, hiền lành, đánh cờ giỏi, có học thức và rất yêu thương vợ con. Ông được mọi người nể trọng, con cháu hết mực kính
mến. Nhưng rồi con người đánh kính ấy lại bị chết một cách vô lý do sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu. Để sửa sai, họ đã
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 6 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác hàng thịt, Trương Ba gặp rất
nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, người thân trong gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ...
bản thân Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, sống giả tạo. Đặc biệt thân xác anh hàng thịt làm Trương Ba
nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải của chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và
sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết.
Đánh giá chung nội dung và nghệ thuật: Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả đã gửi gắm những thông điệp về lẽ sống
thời cuộc vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ quyết liệt, vừa kín đáo sâu sắc. Điều nhấn mạnh ở đây là vẻ đẹp tâm hồn
của những người dân lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, thói xấu, thói giả tạo để bảo vệ sự trọn vẹn trong
nhân cách. Không chỉ có ý nghĩa về triết lý nhân sinh, về hạnh phúc con người. Trong vở kịch nói chung và đoạn kết nói
riêng, Lưu Quang Vũ muốn phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống: Thứ nhất, con người đang sống và chạy theo
những ham muốn tầm thường về vật chất đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là cao quý, đời sống
tâm hồn là đáng trọng mà lại sao nhãng việc chăm lo, vun vén cho bề ngoài. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cấp
bách, không kém phần bức xúc, đó là tình trạng sống giả tạo, sống dối trá, sống không dám và sống không được là chính
mình. Đó là nguy cơ đẩy con người đến sự tha hóa do danh và lợi chỉ đường một cách nhanh nhất.
Kết bài: Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nói chung, Lưu Quang
Vũ đã sử dụng nhuần nhuyễn một số thủ pháp nghệ thuật một cách độc đáo, nhà biên kịch xây dựng tác phẩm dựa trên sự
sáng tạo lại cốt truyện dân gian. Nghệ thuật dựng cảnh, viết lời đối thoại, độc thoại, hành động, tính cách, tình huống... tất
cả đều đạt tới trình độ bậc thầy về kịch sân khấu. Thông qua vở kịch, ta như hiểu hơn vấn đề triết lý nhân sinh về cái cao cả
và cái thấp hèn, giữa cái dung tục tầm thường và cái thanh khiết trong sáng mà Lưu Quang Vũ nhắn gửi thông qua cuộc đấu
tranh giữa hai mặt hồn và xác trong một con người. Chính vì vậy, hơn 30 năm trôi qua nhưng những giá trị của vở kịch vẫn
còn là tấm gương phản chiếu cuộc sống xã hội một cách chân thực cho thế hệ hôm nay và mai sau nghiền ngẫm.

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 7 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
5. Tùy bút NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – Nguyễn Tuân
Mở bài: Những năm 1960 là giai đoạn miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, và “tâm hồn Tây Bắc”
chính là một trong những miền đất mà có biết bao nhà văn, nhà thơ đã hướng ngòi bút của mình tới để thực hiện quá trình
lột xác văn học. Và Nguyễn Tuân cũng đã mang “chủ nghĩa xê dịch” của mình đặt chân đến đó. Nguyễn Tuân là một trong
những cây bút có sức sáng tạo dồi dào nhất của nền văn học Việt Nam với những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn trước
và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ông là một nghệ sĩ tài ba, uyên bác, có cá tính độc đáo. Là một nghệ sĩ suốt đời đi
tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, thường miêu tả con người trong vẻ đẹp
tài hoa nghệ sĩ. Ông sáng tác nhiều thể loại nhưng đặc biệt thành công ở thể tùy bút. Tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyên
Tuân ở thể loại này là tùy bút “Người lái đò sông Đà”.
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Đến với nghệ thuật Nguyễn Tuân đề cao sự tìm tòi và sáng tạo, bởi “nhà văn là người
sáng tạo lại thế giới” trong những trang văn của mình. Nguyễn Tuân rất sợ mình của ngày hôm nay giống mình của ngày
hôm qua, ông sợ nhất là sự trùng lặp tầm thường trong văn chương. Chính vì thế, ông đã lấy “chủ nghĩa xê dịch” làm đề tài
cho các tác phẩm, làm mục đích sống cho cuộc đời của chính mình. Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ. Trước cách
mạng, một mình một chiếc “vali”, Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều miền quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu
quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi
nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng
nói: ông đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc sông núi và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm
trí tất cả những con người đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững”.
Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ
phong phú của mình để viết nên những trang văn nở hoa về con người và thiên nhiên miền sông núi này. Tùy bút “Người lái
đò sông Đà” ra đời sau chuyến đi thực tế gian khổ đầy hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn của Nguyễn Tuân. Bài tùy
bút được in trong tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960..

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 8 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
Đánh giá nội dung và nghệ thuật: Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của người lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ngợi ca dưới
sự kết hợp của những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ gợi lên cảm giác mãnh liệt, hồi hộp cho người đọc. Cảnh
vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, một bức tranh hoành tráng về dũng sĩ vượt thác. Tất cả được tạo nên bởi cái tài, cái
tâm, cái trí tuệ uyên bác cùng vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực như thể thao, điện ảnh, quân sự... của Nguyễn Tuân.
Viết về người lái đò sông Đà trên vùng sông núi của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn cảm xúc tha thiết đối với
người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động bao nhiêu thì hình ảnh ông lái đò càng anh dũng,
ngoan cường bấy nhiêu, từ đó ta lại càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Có lẽ, đối với người dân vùng
sông nước Tây Bắc thì hình ảnh ông lái đò thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói nhưng đó lại là người hùng
trong mắt Nguyễn Tuân và trong những trang văn của ông. Nhà văn đã phát hiện ra chất nghệ sĩ tài hoa dám đương đầu
với sóng to gió lớn, hăng hái lao động, quên mình vì công việc chèo chống con thuyền trên sông.
Kết bài: Cuộc sống quanh ta luôn vận động với theo vòng quay của đất trời, nhưng suy cho cùng ngày lại qua ngày, mây
vẫn bay và gió vẫn thổi nhưng chính Nguyễn Tuân đã mang đến cho ta một thế giới mới, tinh khôi và kì diệu. Song, ông cũng
là một nhà văn góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí riêng
biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác!
6. Bài thơ “TÂY TIẾN” – Quang Dũng
Mở bài: Nhận xét về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến, có ý kiến cho rằng: “Một ngọn hút đầy tài hoa vừa khắc họa được
cái dữ dội, hào hùng lại vừa diễn tả được cái tươi mát, sâu lẳng, đau thương mà không hề bi lụy”. Quả đúng như thế! Quang
Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc,... Nhưng trước hết phải nói Quang Dũng là một hồn
thơ phóng khoáng và đầy tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng mạn. Ông đã thực sự thành công khi viết về người lính, và
“Tây Tiến” là bài thơ tiên phong cho phong cách thơ Quang Dũng…. Và khổ thơ… (yêu cầu của đề)
Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Muốn hiểu được bài thơ “Tây Tiến”, trước hết cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây
Tiến cùng với địa bàn hoạt động của nó. Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 9 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao
địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây
Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Mai Châu, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi
vòng về qua miền Tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, có nhiều
thú dữ. Những người lính binh đoàn Tây Tiến phần đông là thanh niên trí thức Hà Thành, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau,
trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức
gian khổ, ốm đau bệnh tật không có thuốc, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và
chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn
giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật: Một điều không thể phủ nhận là đặc điểm văn học từng giai đoạn sẽ chi
phối phong cách sáng tác của các văn nghệ sẽ khi cầm bút viết lên những thi phẩm làm giàu cho nền văn học Việt Nam. Và
nhà thơ đa tài mang tên Quang Dũng cũng không ngoại lệ, bởi bài thơ Tây Tiến sáng tác vào năm 1948 thuộc chặng đường
phát triển 1945 - 1954: Văn học lúc này tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Vậy nên, đến với cách
mạng và kháng chiến, các văn nghệ sĩ đều thể hiện lòng yêu nước và tinh thần yêu dân tộc. Chính hình ảnh người lính người
lính Tây Tiến cũng không ngại khó khăn gian khổ, vất vả, hi sinh, “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã góp phần tạo nên
thành công của nền văn học kháng chiến. Và ...đã góp phần làm cho ta thêm yêu, thêm trân trọng những những người lính
bộ đội cụ Hồ và càng tự hào hơn về nên văn học nước nhà giai đoạn này.
Kết bài: Một thời đại chiến tranh khói lửa, gian nan thách thức, hy sinh xương máu mà vẫn thật oai hùng đã được Quang
Dũng dựng lại qua bài thơ Tây Tiến. Đặc biệt nhà thơ đã xây dựng thành công bức tượng đài sừng sững về người lính Tây
Tiến bằng những đường nét cụ thể và tiêu biểu từ hình dáng đến tâm hồn. Bức tượng đài ấy sẽ đứng hiên ngang trong lòng
những người yêu thơ ca nói riêng và trong lòng người dân Việt Nam nói chung.

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 10 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
7. Bài thơ “SÓNG” – Xuân Quỳnh
Mở bài: Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca, nhiều nhà thơ nổi tiếng viết rất hay về tình yêu. Trước đó, ông hoàng
của thơ tình Xuân Diệu cũng đã mượn hình tượng “Biển” để bày tỏ tình yêu của mình; Đến với Xuân Quỳnh, chị lại mượn
hình tượng “Sóng” để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, phức tạp vừa tha thiết, sôi
nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khao khát yêu đương. Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc trưởng
thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, luôn
khao khát hạnh phúc bình dị đời thường; đồng thời cũng là tiếng lòng của một người nhiều âu lo, luôn day dứt, trăn trở trong
tình yêu. Chị viết nhiều và viết rất hay về tình yêu, trong đó “Sóng” là một bài thơ tiêu biểu. Đến với Xuân Quỳnh và “Sóng”,
thơ ca Việt Nam hiện đại mới có được một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khao khát tình yêu vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa
chân thành đằm thắm của một trái tim phụ nữ đang yêu… (Yêu cầu của đề)…
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác ở bãi biển Diêm Điền vào năm 1967, in trong
tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng biển, ẩn vào đó là những con sóng lòng đang khao khát
tình yêu mãnh liệt. Bài thơ có hai hình tượng song song và tương trợ lẫn nhau, đó là “Sóng” và “Em”, cả hai đã cùng nhau tạo
nên nét riêng biệt cho bài thơ. Trong bài thơ, song song với hình tượng “Sóng” là hình tượng “Em”. “Sóng” là hình ảnh ẩn dụ
cho tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình. Hai nhân vật “sóng” và “em”, tuy hai nhưng lại là
một, tuy một những lại là hai. Có lúc phân đôi ra để soi chiếu, làm nổi bật sự tương đồng; có lúc lại hòa nhập vào nhau để
tạo nên sự cộng hưởng. Hai hình tượng này song song với nhau từ đầu đến cuối bài thơ, vừa soi sáng vừa bổ sung cho nhau
nhằm diễn tả một cách quyết liệt hơn, sâu sắc hơn và thấm thía hơn khát vọng tình yêu đang dâng trào trong trái tim nữ thi
sĩ, trong trái tim những người trẻ đang yêu.
Đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật: Tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng là đề tài muôn thuở được các thi sĩ khai
thác và thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Các nhà văn, nhà thơ thường thông qua những biểu tượng, quy luật tự nhiên
trong cuộc sống hay những vật gần gũi, thân quen để ví von, ẩn dụ khi nói về tình yêu. Như nhà thơ Nguyễn Trung Kiên
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 11 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
dùng hình tượng “Đôi dép” để triết lý sâu sắc về sự gắn bó, thủy chung, son sắt trong tình yêu. Nhà thơ Vũ Cao thì ví tình yêu
đôi lứa như ngọn “Núi đôi” không thể chia lìa “núi chồng núi vợ đứng song đôi”; nhà thơ Trần Hòa Bình vô tình nhìn thấy
một chiếc lá rụng giữa mùa thu cũng có bài thơ hay để chiêm nghiệm về cuộc đời, về tình yêu. Nhưng có lẽ, hình tượng được
nói đến nhiều nhất và thể hiện được sự tinh tế, đằm thắm mà dữ dội, mãnh liệt nhất của tình yêu là hình tượng sóng biển.
Và, một trong những nhà thơ đã mượn hình tượng sóng biển để nói về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữa trong tình yêu một
cách thành công nhất trên thi đàn thơ ca Việt Nam hiện đại là nữ thi sĩ mang tên Xuân Quỳnh.
Quá trình tiếp nhận tạo ra sự đồng cảm sẽ giúp người đọc thể nghiệm sâu vào tác phẩm, cảm nhận cái hay cái đẹp của
bài thơ, từ đó đưa bài thơ trường tồn cùng năm tháng. Thơ ca là vậy. Chỉ có những cảm xúc dạt dào và chân thành nhất mới
có thế vun đắp nên một bài thơ hay có giá trị. Đặc biệt “thơ là tiếng nói chung cho cả loài người”. Bài thơ khiến người ta đồng
cảm và bắt gặp chính mình trong đó sẽ có sức lan tỏa sâu rộng hơn. Thơ Xuân Quỳnh vì thế gây được tiếng vang lớn trong
lòng bạn đọc và nền thơ hiện đại Việt Nam. Tình cảm chân thành, rất mực thẳng thắn làm nên những nét thơ đi cùng năm
tháng. Khát vọng tình yêu trong con người Xuân Quỳnh kết tinh trong thơ ca và lan truyền sang người đọc những khát khao
mãnh liệt, chính đáng.
Kết bài: Bài thơ “Sóng” của nữ hoàng thơ tình - Xuân Quỳnh giống như một câu chuyện cổ tích đời thường về tình yêu.
Có lẽ, khi đọc bài thơ này, những trái tim đã từng đau đớn, thất vọng, mất niềm tin trong tình yêu cũng sẽ thêm một lần nữa
được thổn thức với những xúc cảm mà nó mang lại. Bởi nó đánh thức, khơi dậy trong ta về nguồn gốc, về đạo lý, ân tình của
tình yêu khiến mỗi câu thơ, mỗi ý thơ như sợi chỉ đan vào tâm hồn ta bao sợi nhớ sợi thương, se lành bao vết thương dù đã
tổn thương. Từ đó soi chiếu vào tình yêu của mình để ta biết trân trọng nhau hơn, đặc biệt là trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của
người phụ nữa khi họ đã dâng hiến trọn vẹn cho tình yêu.
8. Truyện ngắn “RỪNG XÀ NU” – Nguyễn Trung Thành
Mở bài: Chiến tranh qua đi đã để lại cho chúng ta không biết bao nhiêu là đau thương mất mát: có những bà mẹ đau xót
tiễn con lên đường ra mặt trận không lâu đã phải nhận tin con hi sinh; có những người vợ bỏ cả thanh xuân để chấp nhận
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 12 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
sự thật về người chồng đã “gửi thân xác nơi chiến trường”, “vợ mất chồng, con mất cha, gia đình mất bị một người thân yêu”
thật khó có thể diễn tả được nỗi đau này thành lời. Và sự mất mát về người lại làm tôi nhớ đến hình ảnh cây xà nu kiên cường
bất khuất: “nó có sức chịu đựng ghê gớm và có sức sống mãnh liệt, tượng trưng cho sức sống của người dân làng Xô Man và
nhân dân Tây Nguyên bất khuất: “Cây xà nu ham ánh nắng mặt trời, hóng lên rất nhanh” như chính khát vọng vươn tới tự
do, hướng về hòa bình của người dân nơi đây được thể hiện qua truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyên Trung Thành.
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại và trưởng thành
từ hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, Nguyễn Trung Thành đã khẳng định tên tuổi của mình với vô
số các tác phẩm viết về mảnh đất Tây Nguyên anh dũng quả cảm, kiên cường bất khuất. Và “Rừng xà nu” viết năm 1965 là
một trong những thành công xuất sắc của ông. Tác phẩm là một thiên truyện kết tinh những vẻ đẹp cơ bản của khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn xuôi kháng chiến.
Đánh giá nội dung và nghệ thuật: Nguyễn Trung Thành đã tạo cho truyện một không khí sử thi hùng tráng và một bức
tranh đầy màu sắc Tây Nguyên đậm đà giữa cảnh vật và con người. Đồi xà nu, rừng xà nu trong mưa đạn vẫn nối tiếp nhau
“ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Đó cũng chính là hình ảnh lớp lớp thế hệ người dân làng Xô Man nối tiếp
nhau đánh giặc bảo vệ quê hương đất nước. Tất cả những nét vẽ sắc sảo đầy ấn tượng đó là âm thanh trầm bổng trong bản
hùng ca chống Mĩ thời đại Hồ Chí Minh: mỗi một người, một cuộc đời là một nốt nhạc trong khuôn nhạc bất hủ ấy.
Với ngôn ngữ đậm tính sử thi kết hợp với chất lãng mạn trữ tình, lời văn giàu tính tạo hình, tạo nhạc, khi trầm ngâm da
diết khi nghiêm trang hào hùng. “Rừng xà nu” đã tái hiện sinh động cuộc chiến đấu của người dân núi rừng Tây Nguyên.
Mỗi trang văn dưới ngòi bút nhà văn Nguyễn Trung Thành là cả một trang sử vàng “đau thương nhưng anh dũng” của làng
Xô Man, của Tây Nguyên quật khởi và cả những gương mặt ưu tú của người dân miền Nam trong thời lửa đạn chống Mỹ -
Ngụy, có những nỗi đau ghê gớm nhưng vẫn sáng ngời ý chí kiên cường bất khuất. Và cứ thế “Rừng xà nu” bất chấp bom đạn,
sinh sôi nảy nở, “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”.

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 13 -
♥ Tài liệu TẶNG 2K3” (cô Trần Thùy Dương) ♥
——————————————————————————————————————————————
Kết bài: “Rừng xà nu” đã nói gì? Nó nói rằng: với những người như Tnú, hội tụ tất cả những điểm “có” trong tay: có sức
cường tráng của thân cây xà nu lớn; có đủ gan góc, thừa kiêu hãnh đến bướng bỉnh; không sợ chết, không biết đến khuất phục
nhưng vẫn “không cứu sống được mẹ con Mai”, không bảo vệ được tình yêu và gia đình nhỏ của chính mình. Vì sao vậy? Vì
Tnú chỉ có tay không giữa những loại vũ khí tối tân của quân thù. Như vậy, “Rừng xà nu” không chỉ đơn thuần là câu chuyện
về cuộc đời một con người, một đời người mà nó là câu chuyện của một thời đại, một đất nước với chân lý cách mạng: “Chúng
nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 14 -

You might also like