Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 21

NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM GIẢNG VIÊN

BÀI TẬP LỚN


MÔN:PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Ở TRƯỜNG ĐH

LỚP: K1.2024.TC.NVSP GIẢNG VIÊN

Họ và tên : TRẦN THỊ HỒNG HIỀN


Ngày sinh : 09/10/1996
Nơi sinh: Ninh Bình
STT: 68
BÀI TẬP CHUYÊN ĐỀ
PHƯƠNG PHÁP NCKH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Câu 1. Nghiên cứu khoa học có những đặc trưng cơ bản nào? Lấy ví dụ cụ thể để
làm sáng tỏ các đặc trưng cơ bản của nghiên cứu khoa học.
Câu 2. Nghiên cứu thực nghiệm là một trong những loại hình nghiên cứu có sức
thuyết phục nhất mà nhà nghiên cứu có thể sử dụng. Đây là cách tốt nhất để thiết
lập mối quan hệ nguyên nhân – kết quả giữa các biến số. Anh/Chị hãy trình bày
tổng quan về các loại hình nghiên cứu thực nghiệm.

Câu 3. Đề xuất một hướng nghiên cứu mà Anh/Chị quan tâm và hoàn thành việc
xây dựng đề cương theo mẫu sau:

Giảng viên: Vũ Mạnh Quang


BÀI LÀM

1. Nghiên cứu khoa học có những đặc trưng cơ bản nào? Lấy ví dụ cụ thể để
làm sáng tỏ các đặc trưng cơ bản của nghiên cứu khoa học
Khoa học là hệ thống những tri thức về các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư
duy,về những biện pháp tác động đến thế giới xung quanh, đến nhận thức và làm
biến đổi thế giới đó phục vụ cho lợi ích con người.
NCKH là một hoạt động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu
nhất định để tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm những điều mà khoa học
chưa biết, chưa giải thích được. Tức là tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức mới,
có giá trị mới về nhận thức và phương pháp.
Các đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học:
- Tính khách quan, chính xác trong nghiên cứu là thể hiện sự trung thành với
hiện thực khách quan trong khi phát hiện được cái mới. Yêu cầu đó trước hết đòi
hỏi chúng ta phải lựa chọn những đề tài nêu được những vấn đề thiết thực được đặt
ra từ thực tiễn hay lí luận. Yêu cầu khách quan, chính xác đòi hỏi phải lựa chọn
phương pháp, biện pháp, công cụ, kĩ thuật nghiên cứu một cách phù hợp để ghi
nhận đúng đắn, đầy đủ nhất các sự kiện, hiện tượng và tài liệu.
Ví dụ, trong nghiên cứu Các nhà khoa học phải tuân thủ các nguyên tắc khách
quan trong quá trình nghiên cứu, như nguyên tắc phản biện: Các nhà khoa học phải
kiểm tra và chứng minh các giả định và kết luận của họ bằng các chứng cứ và
phương pháp khoa học hợp lý và nguyên tắc độc lập: Phải làm việc độc lập và
trung thực, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ quan điểm, lợi ích cá nhân hay áp lực
nào từ bên ngoài.
- Quan điểm vận động và phát triển thể hiện ở việc phát hiện càng đầy đủ
càng tốt tính quá trình, sự biến đổi và phát triển của đối tượng được nghiên cứu bởi
hiện thực không ngừng vận động và phát triển. Trong sự vận động, sự vật và hiện
tượng bộc lộ rõ hơn đặc điểm và quy luật của nó. Đặc điểm này cũng cần được

3
quán triệt khi lựa chọn đề tài nghiên cứu, chọn đối tượng nghiên cứu, khi phân
tích, xử lí tài liệu cũng như khi trình bày kết quả nghiên cứu.
- Xu hướng đi sâu thể hiện ở sự cố gắng tìm ra bản chất của sự kiện, tìm ra
những quy luật chi phối các sự kiện đó chứ không dừng lại ở bề mặt của sự kiện.
Vì vậy, một công trình nghiên cứu khoa học dù chỉ đòi hỏi ở mức phát hiện tình
hình cũng cần sử dụng những phương pháp, biện pháp, kĩ thuật, những khái niệm,
phạm trù khoa học để mô tả, ghi nhận hiện tượng, để đo đạc, đánh giá, phân tích sự
kiện với mức đầy đủ, tỉ mỉ, chính xác, sâu sắc cao nhất. Yêu cầu đi sâu thường đòi
hỏi chúng ta thu hẹp phạm vi đề tài bởi sẽ có khả năng phân tích nhiều mặt.
Các đặc trưng của phương pháp nghiên cứu khoa học
a) Phương pháp nghiên cứu khoa học có mặt chủ quan và khách quan thể
hiện sự tương tác biện chứng giữa chủ thể và khách thể trong hoạt động nghiên cứu
khoa học
Mặt chủ quan gắn liền với chủ thể nghiên cứu. Đó chính là đặc điểm, trình độ,
năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, khả năng thực hành... của chủ
thể, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử
dụng chúng để khám phá chính đối tượng và kết quả đạt được sẽ phù hợp với khả
năng chủ quan ấy.
Mặt khách quan gắn liền với đối tượng nghiên cứu, phản ánh đặc điểm của
đối tượng và quy luật khách quan chi phối đối tượng mà chủ thể nghiên cứu phải ý
thức được.
Trong nghiên cứu khoa học, cái chủ quan phải tuân thủ cái khách quan, Vì
vậy, chủ thể phải hiểu biết chân thực về đối tượng để trên cơ sở đó tìm ra được
những thao tác đúng đắn với đối tượng và hành động chủ quan theo đúng quy luật
đó.
Ví dụ, Nghiên cứu về ảnh hưởng của môi trường làm việc đến sức khỏe tinh
thần của nhân viên trong một công ty công nghệ ở Việt Nam.
Mặt khách quan, nghiên cứu cần sử dụng câu hỏi khảo sát có cấu trúc để thu
thập dữ liệu về mức độ áp lực công việc, môi trường làm việc, cảm giác hạnh phúc
và sức khỏe tinh thần của nhân viên. Sử dụng biểu đồ và số liệu thống kê để phân
tích dữ liệu khảo sát, nhằm đo lường mức độ ảnh hưởng của môi trường làm việc
đối với sức khỏe tinh thần của nhân viên.
Mặt chủ quan, Tiến hành cuộc phỏng vấn sâu để hiểu rõ hơn về trải nghiệm
cá nhân của mỗi nhân viên, bao gồm cảm xúc, suy nghĩ và cách họ tương tác với
môi trường làm việc. Phân tích các câu trả lời từ cuộc phỏng vấn để hiểu sâu hơn
về cách mà mỗi cá nhân đánh giá môi trường làm việc và cảm nhận về sức khỏe
tinh thần của họ.
Kết quả khi kết hợp hai mặt của vấn đề là sự tương tác biện chứng, dữ liệu từ
cuộc khảo sát và phỏng vấn sẽ được kết hợp và phân tích cùng nhau để đưa ra cái
nhìn toàn diện về ảnh hưởng của môi trường làm việc đối với sức khỏe tinh thần
của nhân viên. Kết quả từ phần khảo sát có thể được sử dụng để xác định xu hướng
chung và mức độ ảnh hưởng trung bình, trong khi những câu chuyện và trải
nghiệm từ phỏng vấn có thể cung cấp thông tin phong phú và sâu sắc hơn về trải
nghiệm cá nhân và đa dạng trong cảm nhận về môi trường làm việc.
b) Phương pháp nghiên cứu khoa học có tính mục đích, gắn liền với nội dung;
chịu sự chi phối của mục đích và nội dung; bản thân phương pháp có chức năng
phương tiện để thực hiện mục đích và nội dung
Mục đích nào, phương pháp ấy; mục đích chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn
phương pháp nghiên cứu. Muốn cho phương pháp nghiên cứu được áp dụng hiệu
quả, áp dụng thành công cần đảm bảo được hai điều: xác định mục đích và tìm
được phương pháp thích hợp với mục đích nghiên cứu
Nội dung nào, phương pháp ấy; sự thống nhất của nội dung và phương pháp
thể hiện ở logic phát triển của bản thân đối tượng nghiên cứu. Mối quan hệ của
mục đích, nội dung và phương pháp nghiên cứu là mối quan hệ biện chứng, được
diễn ra theo quy luật: mục đích và nội dung quy định phương pháp. Còn phương
pháp là phương tiện thực hiện nội dung để đạt mục đích.
Ví dụ, Nghiên cứu về ảnh hưởng của chất lượng giáo dục trẻ em đối với sự
phát triển tinh thần và thể chất ở các trẻ em tại Việt Nam. Mục đích của nghiên cứu
này là tìm hiểu và đánh giá tác động của chất lượng giáo dục đối với sự phát triển
5
toàn diện của trẻ em ở Việt Nam, bao gồm cả mặt tinh thần và thể chất. Để đạt
được mục tiêu nghiên cứu, các phương pháp sau có thể được áp dụng:
Khảo sát và phỏng vấn: Tiến hành cuộc khảo sát với các phụ huynh, giáo viên
và trẻ em để đánh giá chất lượng giáo dục hiện tại và nhận định về sự phát triển
của trẻ em.
Quan sát trực tiếp: Quan sát trực tiếp các hoạt động giáo dục tại các trường
học và các cơ sở giáo dục khác nhau để đánh giá chất lượng giáo dục từ góc độ
khách quan.
Sử dụng thước đo và kiểm định: Sử dụng các thước đo chuẩn để đánh giá các
chỉ số về sức khỏe thể chất và tinh thần của trẻ em, như chỉ số BMI, kết quả học
tập, cảm xúc và hạnh phúc.
Mục đích nghiên cứu quyết định việc lựa chọn các phương pháp nghiên cứu
như khảo sát, phỏng vấn và quan sát, nhằm thu thập dữ liệu đa chiều và đa dạng để
có cái nhìn toàn diện về chất lượng giáo dục và tác động của nó đối với sự phát
triển của trẻ em.
Các phương pháp được chọn có chức năng phương tiện để thực hiện mục đích
nghiên cứu, đồng thời cung cấp dữ liệu chính xác và đáng tin cậy để phân tích và
rút ra kết luận.
c) Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu trúc đặc biệt (cấu trúc đa
cấp) đó là hệ thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu.
Hoạt động (có mục đích chung là M) bao gồm nhiều hành động A1.... An (có
mục đích riêng – chính là các mục tiêu: M A1... MAn) mà mỗi hành động lại bao gồm
nhiều thao tác: t1.... tn ( thao tác không có mục đích). Để đạt được mục đích
chung, người nghiên cứu cần phải thực hiện một loạt các hành động với những hệ
thống logic chặt chẽ được sắp xếp theo một trình tự xác định và có kế hoạch rõ
ràng. Người nghiên cứu phải biết tổ chức hợp lý cấu trúc bên trong của phương
pháp và triển khai quy trình đó một cách tinh thông - đây là mặt kỹ thuật của
phương pháp nghiên cứu.
Ví dụ, Nghiên cứu về ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng đối với sức khỏe tim
mạch ở người trưởng thành có cấu trúc đa cấp của phương pháp nghiên cứu, bao
gồm:
Thu thập dữ liệu cơ bản:
- Tiến hành cuộc khảo sát về lối sống và thói quen ăn uống của người
trưởng thành.
- Sử dụng phần mềm để tự động ghi lại dữ liệu về hành vi ăn uống hàng
ngày, bao gồm loại thức ăn, lượng calo tiêu thụ, cân nặng và chỉ số
BMI (Body Mass Index).
- Xác định lịch sử y tế cá nhân, bao gồm các yếu tố rủi ro tiềm ẩn như
huyết áp cao, đái tháo đường và cholesterol cao.
Đánh giá sức khỏe tim mạch:
- Thực hiện các kiểm tra y tế định kỳ, bao gồm đo huyết áp, kiểm tra
đường huyết và đo cholesterol.
- Sử dụng thiết bị giám sát tim mạch để ghi lại nhịp tim và hoạt động vận
động hàng ngày của người tham gia.
Phân tích dữ liệu:
- Sử dụng phương pháp thống kê để phân tích mối liên hệ giữa chế độ
dinh dưỡng và sức khỏe tim mạch, bao gồm việc tính toán các chỉ số
như rủi ro tim mạch tương đối.
- Áp dụng mô hình hồi quy tuyến tính hoặc mô hình hồi quy logistic để
dự đoán mức độ ảnh hưởng của các yếu tố dinh dưỡng đến sức khỏe
tim mạch.
Phân tích kết quả và đề xuất giải pháp:
- Đánh giá kết quả nghiên cứu và xác định mối liên hệ giữa chế độ dinh
dưỡng và sức khỏe tim mạch.
- Đề xuất các biện pháp cải thiện chế độ dinh dưỡng và lối sống để giảm
thiểu rủi ro tim mạch và cải thiện sức khỏe tim mạch của người trưởng
thành.
7
Phương pháp này được tổ chức một cách có cấu trúc, sắp xếp các thao tác
theo một chương trình tối ưu, từ việc thu thập dữ liệu đến phân tích và đánh giá kết
quả, nhằm đảm bảo tính toàn vẹn và hiệu quả của nghiên cứu.
d) Phương pháp nghiên cứu cần có công cụ, các phương tiện hỗ trợ
Phương pháp và phương tiện là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng lại gắn
bó chặt chẽ với nhau. Tùy theo các yêu cầu của phương pháp nghiên cứu mà chọn
các phương tiện phù hợp, đôi khi phải tạo ra các công cụ đặc biệt để nghiên cứu
đối tượng. Phương tiện kĩ thuật hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện
các phương pháp nghiên cứu và đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt được độ
chính xác và tin cậy cao.
Ví dụ, Nghiên cứu về ảnh hưởng của việc sử dụng công nghệ thông tin đối
với hiệu suất làm việc trong môi trường văn phòng, phương pháp nghiên cứu là
khảo sát:
- Sử dụng phiếu khảo sát trực tuyến để thu thập ý kiến từ nhân viên văn
phòng về việc sử dụng công nghệ thông tin trong công việc hàng ngày.
- Sử dụng phần mềm khảo sát để tự động phân tích dữ liệu và tạo báo
cáo.
Quan sát và ghi nhận dữ liệu:
- Sử dụng phần mềm theo dõi hoạt động trên máy tính để ghi lại thời
gian mà nhân viên dành cho các ứng dụng và trang web công việc.
- Sử dụng các thiết bị đo lường vật lý như máy đo nhịp tim hoặc thiết bị
theo dõi hoạt động để ghi nhận mức độ hoạt động vận động của nhân
viên.
Phân tích dữ liệu:
- Sử dụng phần mềm phân tích thống kê để phân tích mối quan hệ giữa
thời gian sử dụng công nghệ thông tin và hiệu suất làm việc.
- Sử dụng các phương pháp phân tích dữ liệu thời gian như Time Series
Analysis để đánh giá xu hướng thay đổi trong hoạt động làm việc và sử
dụng công nghệ.
Phân tích kết quả và đề xuất giải pháp:
- Dựa trên kết quả phân tích, đề xuất các biện pháp cải thiện như việc áp
dụng kỹ thuật quản lý thời gian hoặc tổ chức lại môi trường làm việc để
tối ưu hóa sử dụng công nghệ thông tin và nâng cao hiệu suất làm việc.
Trong ví dụ này, các công cụ và phương tiện hỗ trợ như phiếu khảo sát trực
tuyến, phần mềm khảo sát, phần mềm theo dõi hoạt động trên máy tính, thiết bị đo
lường vật lý và phần mềm phân tích thống kê đều đóng vai trò quan trọng trong
việc thu thập dữ liệu và phân tích kết quả của nghiên cứu.
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm
những điều mà khoa học chưa biết: hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển
nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện
kĩ thuật mới để cải tạo thế giới. Nghiên cứu khoa học là hành động tìm hiểu, quan
sát, thí nghiệm … dựa trên những số liệu, dữ liệu, tài liệu thu thập được để phát
hiện ra bản chất, quy luật chung của sự vật, hiện tượng, tìm ra những kiến thức mới
(đây là hướng nghiên cứu hàn lâm) hoặc tìm ra những ứng dụng kỹ thuật mới,
những mô hình mới có ý nghĩa thực tiễn (đây là hướng nghiên cứu ứng dụng).
Nghiên cứu khoa học là một dạng hoạt động xã hôi, là một dạng nhân công
lao động xã hội và có các yêu cầu sau:
i. Tính mới mẻ
Quá trình nghiên cứu khoa học là quá trình sáng tạo ra những điều mới mẻ, vì
vậy nó có tính mới mẻ.
- Quá trình nghiên cứu khoa học không có sự lặp lại các thí nghiệm hoặc một
việc gì đã được làm trước đó.
-Tính mới trong nghiên cứu khoa học được hiểu là dù đạt được một phát hiện
mới thì người nghiên cứu vẫn phải hướng tới, tìm tòi những điều mới mẻ hơn.
ii. Tính thông tin
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học có thể là một bài báo khoa học, tác phẩm
khoa học, cũng có thể là một mẫu vật, sản phẩm mới, … Tuy nhiên dù sản phẩm
đó là gì thì nó đều mang đặc trưng thông tin về quy luật vận động của sự vật hiện
tượng, thông tin về quy trình công nghệ và các tham số đi kèm.
9
iii. Tính khách quan
Tính khách quan là đặc điểm của nghiên cứu khoa học và cũng là tiêu chuẩn
của người nghiên cứu khoa học. Nếu trong nghiên cứu khoa học mà không khách
quan thì sản phẩm nghiên cứu khoa học sẽ không thể chính xác và không có giá trị
gì cả.
iv. Tính tin cậy
Một kết quả nghiên cứu được gọi là tin cậy nếu nó có khả năng kiểm chứng
bởi bất kỳ người nào, bất kỳ trong trường hợp, điều kiện giống nhau nào đều cho
một kết quả như nhau.
v. Tính rủi ro
Nghiên cứu khoa học là quá trình tìm ra cái mới, vì vậy nó có thể thành công
hoặc thất bại, thành công sớm hoặc thành công rất muộn. Vì vậy tính rủi ro của nó
là rất cao.
vi. Tính kế thừa
Tính kế thừa có ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp nghiên cứu khoa
học.- Hầu hết các phương hướng nghiên cứu đều xuất phát và kế thừa từ các kết
quả đã đạt được trước đó.
vii. Tính cá nhân
Dù có thể là một nhóm người cùng thực hiên nghiên cứu thì vai trò cá nhân
trong sáng tạo cũng mang tính quyết định
viii. Tính kinh phí
– Nghiên cứu khoa học rất khó định lượng được một cách chính xác như
trong lao động sản xuất và thậm chí có thể nói không thể định mức.
– Hiệu quả kinh tế không thể xác định được
– Lời nhuận không dễ xác định
.
2. Nghiên cứu thực nghiệm là một trong những loại hình nghiên cứu có sức
thuyết phục nhất mà nhà nghiên cứu có thể sử dụng. Đây là cách tốt nhất
để thiết lập mối quan hệ nguyên nhân – kết quả giữa các biến số. Anh/Chị
hãy trình bày tổng quan về các loại hình nghiên cứu thực nghiệm
Nghiên cứu thực nghiệm là một trong những loại hình nghiên cứu có sức
thuyết phục nhất mà nhà nghiên cứu có thể sử dụng. Đây là cách tốt nhất để thiết
lập mối quan hệ nguyên nhân – kết quả giữa các biến số.
a. Đặc trưng của phương pháp thực nghiệm
Đặc trưng chính của nghiên cứu thực nghiệm là người nghiên cứu điều khiển
biến số độc lập hay còn gọi là biến số thực nghiệm. Họ quyết định sẽ tác động đến
khía cạnh nào, đối tượng nào và ở chừng mực nào. Trong nghiên cứu về khoa học
giáo dục, các biến số độc lập có thể là các phương pháp giảng dạy; các loại hình
kiểm tra, đánh gía; tài liệu học tập; các hình thức tổ chức họat động giáo dục; các
loại hình câu hỏi giáo viên đặt ra trong giờ học; các hình thức tổ chức lớp học, các
hình thức khen thưởng... Biến số phụ thuộc là kết quả của nghiên cứu. Đó thường
là kết quả học tập, hứng thú đối với môn học, với hoạt động, động cơ, thái độ đối
với nhà trường...
Những đặc trưng cơ bản của nghiên cứu thực nghiệm: Ý tưởng cơ bản của
tất cả các nghiên cứu thực nghiệm rất đơn giản: thử nghiệm một cái gì đó và quan
sát một cách có hệ thống xem cái gì xảy ra. Các thực nghiệm chính thức thường
bao gồm hai điều kiện chính:
(1) Thứ nhất, ít nhất phải có hai điều kiện hay phương pháp đem so sánh để
đánh giá hiệu quả của một điều kiện đặc biệt hay còn gọi là biến số độc lập;
(2) Thứ hai, biến số độc lập thường được vận hành trực tiếp bởi nhà nghiên
cứu ngay từ đầu. Ngoài ra sắp xếp các đối tượng vào các nhóm một cách ngẫu
nhiên cũng là khía cạnh quan trọng của nghiên cứu thực nghiệm.
- So sánh nhóm: Một thực nghiệm thường có 2 nhóm đối tượng - một nhóm
thực nghiệm và một nhóm so sánh hay còn gọi là nhóm đối chứng (đôi khi có thể
chỉ có một nhóm, hoặc nhiều hơn 2 nhóm). Nhóm thực nghiệm được nhận sự tác
11
động của nhà nghiên cứu hay được nhận cách thức tiến hành mới, trong khi nhóm
đối chứng vẫn tiến hành theo cách thức bình thường, hoặc có thể một cách thức
khác. Nhóm đối chứng rất quan trọng trong tất cả các thực nghiệm vì được sử dụng
nhằm mục đích so sánh để tìm xem cách thức tiến hành mới có hiệu quả hơn trong
nhiều cách đưa ra. Đôi khi trong thực tế chúng ta bắt gặp nhiều thực nghiệm, mà ở
đó, nhóm đối chứng không nhận được bất kì một cách thức mới nào cả.
- Điều khiển biến số độc lập. Đặc trưng cơ bản thứ hai của tất cả các thực
nghiệm là người nghiên cứu điều khiển biến số độc lập một cách tích cực. Điều đó
có nghĩa là người nghiên cứu xác định trực tiếp và có mục đích các hình thức của
biến số độc lập, nhóm đối tượng nào sẽ nhận hình thức nào. Để điều khiển biến số
độc lập, người nghiên cứu cần phải qui định ai sẽ nhận được cái gì; khi nào, ở đâu
và bằng cách nào họ nhận được nó..
Biến số độc lập trong thực nghiệm có thể được thiết lập dưới nhiều cách
khác nhau. Cụ thể là:
+ Hai cách thức tiến hành đối ngược nhau.
+ Sự hiện diện và sự vắng mặt của một cách thức tiến hành nào đó.
+ Các mức độ khác nhau của cùng một cách thức.
- Tính ngẫu nhiên: Khía cạnh quan trọng của bất cứ một thực nghiệm nào là
sự sắp xếp ngẫu nhiên các đối tượng vào các nhóm nghiên cứu. Trên thực tế, có
nhiều thực nghiệm không thể sử dụng sự sắp xếp ngẫu nhiên được, nhưng người
nghiên cứu cần cố gắng sử dụng nó bất cứ khi nào có thể. Sự sắp xếp ngẫu nhiên
này tương tự như sự chọn mẫu ngẫu nhiên mà chúng ta sẽ thảo luận chi tiết ở phần
sau. Tuy nhiên, chúng không phải giống nhau hoàn toàn. Sự sắp xếp ngẫu nhiên có
nghĩa là từng cá nhân - đối tượng nghiên cứu đều có cơ hội như nhau để được xếp
đặt vào nhóm thực nghiệm hay nhóm đối chứng.
Để có được sự sắp xếp ngẫu nhiên, từng đối tượng trong mẫu nghiên cứu
được đánh số và sau đó dùng “Bảng số ngẫu nhiên” để lựa chọn đối tượng vào
nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Việc xếp đặt một cách ngẫu nhiên vào
nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng là nhằm hạn chế đến mức tối đa những ảnh
hưởng của các biến số không liên quan đến thực nghiệm nhưng có tác động đến kết
quả nghiên cứu. Đây chính là một trong những lí do vì sao thực nghiệm thường
được xem xét có hiệu quả hơn các loaị hình nghiên cứu khác trong việc đánh giá
mối quan hệ nguyên nhân và hệ quả.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu một thực tế là việc xếp đặt ngẫu nhiên chỉ
đảm bảo các nhóm tương đương nhau ở một vài khía cạnh. Hơn nữa, việc xếp đặt
ngẫu nhiên sẽ không bảo đảm các nhóm tương đương nếu cả hai nhóm không đủ
về số lượng. Trong nghiên cứu thực nghiệm ít nhất mỗi nhóm phải có 30 đối
tượng.
b. Các loại hình thực nghiệm
(1) Loại hình tiền thực nghiệm: Trong một số tài liệu người ta còn
gọi loại thực nghiệm này là loại hình thực nghiệm yếu, bởi vì chúng không
kiểm soát được bất cứ một sự tác động nào từ phía ngoài đến kết quả
nghiên cứu. Bên cạnh biến số độc lập, còn có nhiều sự giải thích cho kết
quả nghiên cứu. Vì thế, nhà nghiên cứu khi sử dụng loại hình này sẽ khó
khăn khi đánh giá hiệu quả của biến số độc lập. Có 4 loại hình nghiên cứu
tiền thực nghiệm sau:
- Loại thứ nhất: Nghiên cứu thực nghiệm một trường hợp: Loại hình
này chỉ thu hút một nhóm chịu sự điều khiển hay tác động của nhà nghiên
cứu và sau đó tiến hành đo đạc để đánh giá hiệu quả của sự tác động. Điểm
yếu nhất của loại hình này là không có bất kì sự kiểm soát nào.
- Loại thứ hai: một nhóm có kiểm tra trước và sau thực nghiệm: Khi
sử dụng loại hình này, người nghiên cứu cũng chỉ thu hút một nhóm đối
tượng, nhưng việc kiểm tra, đo đạc sẽ được tiến hành trước và sau khi tác
động: đo trước thực nghiệm (0)- tác động (X) - đo sau TN (0). Thành công
của thực nghiệm được xác định bằng sự so sánh điểm số đo trước và đo
sau. Loại hình này có tốt hơn loại hình trên, nhưng vẫn còn yếu. Bởi vì còn
có nhiều yếu tố người nghiên cứu không thể kiểm soát được như: thời
gian, cách thức thu thập số liệu, khoảng cách đo trước và sau thực nghiệm,
thái độ của đối tượng nghiên cứu...
13
- Loại thứ ba: so sánh nhóm tĩnh (cố định): Ở đây hai nhóm đối
tượng có sẵn được sử dụng làm thực nghiệm, nghĩa là các đối tượng không
được xếp đặt ngẫu nhiên thành hai nhóm. Một nhóm được nhận phương
thức tiến hành mới, còn nhóm kia vẫn tiến hành bình thường, rồi cả hai
nhóm đều được đo sau thực nghiệm. Nhóm thứ nhất gọi là nhóm thực
nghiệm, nhóm thứ hai gọi là nhóm đối chứng. Mặc dù loại hình này kiểm
soát được một vài biến số ngoại lai tác động đến kết quả thực nghiệm như
yếu tố thời gian, kiểm tra..., nhưng còn có một yếu tố quan trọng nhất có
thể tạo ra kết quả khác nhau. Đó là sự khác nhau giữa các đối tượng trong
hai nhóm.
- Loại thứ tư: so sánh nhóm tĩnh có kiểm tra trước và sau thực
nghiệm. Loại hình này khác loại hình so sánh nhóm tĩnh chỉ ở một điểm là:
có sự đo đạc, kiểm tra trước thực nghiệm ở cả hai nhóm. Khi phân tích số
liệu, lấy điểm số đo được của mỗi nhóm đối tượng sau thực nghiệm trừ đi
điểm số đo được trước thực nghiệm của chính nhóm đó. Sự chênh lệch sẽ
cho phép kết luận về sự thay đổi. Ở đây nhiều biến số ngoại lai đã được
kiểm soat. Tuy nhiên, nhiều khi sự chênh lệch về điểm số giữa trước thực
nghiệm và sau thực nghiệm chỉ đơn giản là do đối tượng đã quen với công
cụ đo đạc.
(2) Loại hình thực nghiệm khoa học đích thực.
Đặc trưng cơ bản của loại hình thực nghiệm khoa học đích thực này
là các đối tượng được xếp đặt ngẫu nhiên vào nhóm thực nghiệm và nhóm
đối chứng. Như đã nói ở trên, việc xếp đặt ngẫu nhiên là cách tốt nhất để
kiểm soát sự tác động của những khác biệt giữa các đối tượng nghiên cứu
đến kết quả thực nghiệm. Có ba loại hình thực nghiệm khoa học đích thực.
- Loại thứ nhất: nhóm ngẫu nhiên chỉ kiểm tra sau thực nghiệm.
Loại hình này cũng gồm hai nhóm được xếp đặt ngẫu nhiên. Một nhóm
được nhận sự tác động thực nghiệm, còn nhóm kia không và sau đó cả hai
nhóm được kiểm tra, đo đạc sau thực nghiệm. Điểm số đo đạc đó được so
sánh với nhau để đánh giá hiệu quả của thực nghiệm.
Sự kết hợp giữa việc xếp đặt đối tượng một cách ngẫu nhiên và sự
hiện diện của nhóm đối chứng cho phép nhà nghiên cứu kiểm soát được tất
cả những biến số ngoại lai tác động đến kết quả thực nghiệm.
- Loại thứ hai: nhóm ngẫu nhiên có đo trước và đo sau thực nghiệm.
Loại hình này chỉ khác loại hình trên ở một điểm duy nhất là đối tượng
được đo trước thực nghiệm. Hai nhóm đối tượng đều được đo hai lần. Sự
đo đạc hai nhóm đối tượng cần phải tiến hành cùng thời gian. Kết quả đo
trước thực nghiệm nhằm mục đích tìm hiểu xem liệu hai nhóm đối tượng
có tương đương nhau hay không. Còn để đánh giá hiệu quả của thực
nghiệm, chúng ta chỉ cần so sánh điểm số đo đạc sau thực nghiệm của cả
hai nhóm là đủ, bằng cách sử dụng một vài dạng test để kiểm định mức ý
nghĩa của khác biệt trong thống kê toán học. Loại hình này có thể kiểm
soát được tất cả các tác động của những ảnh hưởng khác đến kết quả thực
nghiệm nhờ sự kết hợp giữa xếp đặt ngẫu nhiên và sự đo đạc trước thực
nghiệm.
- Loại thứ ba: thực nghiệm bốn nhóm: Ở đây, đối tượng nghiên cứu
được sắp xếp ngẫu nhiên thành bốn nhóm. Hai nhóm được đo đạc trước
thực nghiệm, còn hai nhóm kia thì không. Cả bốn nhóm sẽ được đo sau
thực nghiệm. Một trong hai nhóm được đo trước thực nghiệm còn một
trong hai nhóm không được đo trước thực nghiệm sẽ được xếp vào các
nhóm thực nghiệm, hai nhóm kia là nhóm đối chứng. Mô hình này hạn chế
được sự ảnh hưởng của đo đạc trước thực nghiệm. Tuy nhiên, nhược điểm
của loại hình này là đòi hỏi một mẫu nghiên cứu lớn để có thể đủ sắp xếp
vào bốn nhóm. Đồng thời, việc tiến hành nghiên cứu bốn nhóm cùng một
lúc đòi hỏi sự chi phí về tài lực cũng như sự nỗ lực của người nghiên cứu
là rất lớn.
(3) Loại hình thực nghiệm trong môi trường tự nhiên
Đôi khi nhà nghiên cứu không thể sắp xếp đối tượng một cách ngẫu
nhiên vào các nhóm nghiên cứu, bởi vì họ chỉ được phép sử dụng các lớp
15
học như nó đang tồn tại trong thực tế mà không có bất kỳ một sự xáo trộn
nào. Thuộc nhóm này cũng có nhiều loại hình khác nhau.
- Thực nghiệm nhóm đối chứng không tương đương: Loại hình này
gần giống với loại hình thực nghiệm có kiểm tra trước và sau thực nghiệm.
Điểm khác biệt duy nhất là không có sự sắp xếp ngẫu nhiên các đối tượng
nghiên cứu vào các nhóm. Vì thế có nhiều ảnh hưởng khác đến kết quả
thực nghiệm mà người nghiên cứu không kiểm soát được.
- Loại hình thực nghiệm theo chuỗi thời gian: Loại hình này cũng
gần giống như loại hình thực nghiệm một nhóm có kiểm tra trước và sau
thực nghiệm. Điểm khác biệt là ở chỗ việc đo đạc, kiểm tra được lặp đi lặp
lại nhiều lần trong thời gian trước, trong và sau thực nghiệm. Nếu như các
điểm số đo được trước thực nghiệm đều như nhau và sau đó tăng dần lên
trong quá trình thực nghiệm và sau thực nghiệm thì người nghiên cứu có
thể tin tưởng hơn trong việc khẳng định hiệu quả của thực nghiệm so với
loại hình thực nghiệm chỉ gồm một lần đo trước và sau.
- Loại hình thực nghiệm ngang bằng: Ở đây, tất cả các nhóm tham
gia thực nghiệm đều nhận được sự tác động như nhau của người nghiên
cứu nhưng theo trật tự khác nhau. Số nhóm tham gia có thể là hai hay
nhiều hơn nhưng phải tương đương với số lượng tác động. Trật tự tác động
mà các nhóm nhận được phải bố trí ngẫu nhiên. Loại hình thực nghiệm
này được minh hoạ như sau:
Nhóm I X1 O X1 O X1 O
Nhóm II X2 O X2 O X2 O
Nhóm III X3 O X3 O X3 O

Có 3 nhóm đối tượng tham gia. Nhóm 1 nhận được sư tác động 1
(X1) và đo ngay (O); sau đó nhận sự tác động 2 (X2) và đo (O); cuối cùng
là sự tác động 3 (X3) - lại đo (O). Tương tự, nhóm II nhận sự tác động 2
trước – rồi đo; sau đó là tác động 3 – rồi lại đo; cuối cùng là tác động 1 -
và đo; Nhóm III nhận sự tác động 3 trước - đo; tác động 1 - đo và cuối
cùng là tác động 2 - đo. Điểm số trung bình đo được sau lần tác động 1 của
tất cả 3 nhóm được đem so sánh với điểm số trung bình đo được sau lần
tác động 2 và sau lần tác động 3 của tất cả các nhóm để xác định hiệu quả
của từng tác động.
Loại hình thực nghiệm này kiểm soát được rất tốt ảnh hưởng của sự
khác biệt giữa các đối tượng đến kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên, có thể có
sự tác động qua lại giữa các tác động khi mà cùng một nhóm nhận được
nhiều tác động khác nhau. Vì thế người nghiên cứu cần kiểm tra cẩn thận
khi sử dụng loại hình này.
- Loại hình thực nghiệm nhiều yếu tố: Trong mô hình này người
nghiên cứu thường quan tâm đến hai hay nhiều biến số độc lập (biến số tác
động) và ít nhất có một biến số do người nghiên cứu điều khiển. Đây là sự
chi tiết hoá loại hình thực nghiệm khoa học đích thực và nó cho phép
nghiên cứu hai hay nhiều biến số riêng rẽ hoặc trong mối tương tác lẫn
nhau. Khái niệm "yếu tố" ở đây có nghĩa là mô hình này thu hút hai hay
nhiều biến số độc lập. Mỗi biến số có hai hay nhiều mức độ. Ví dụ, biến số
"phương pháp giảng dạy" có hai hình thức giảng dạy - giảng dạy theo
nhóm và giảng dạy truyền thống; biến số “năng khiếu” cũng có hai mức độ
- cao và thấp. Như vậy mô hình 2 - 2 yếu tố có hai biến số và mỗi biến số
có hai mức độ. Ta có thể có sơ đồ đơn giản sau:
Năng khiếu Cao Truyền thống Nhóm
Nhóm I Nhóm II
Thấp Nhóm III Nhóm IV

Mô hình 2 - 2 yếu tố này đòi hỏi có bốn nhóm đối tượng. Mỗi nhóm
thể hiện sự kết hợp giữa một mức độ của một yếu tố và một mức độ của
yếu tố khác. Ở đây có một yếu tố được tác động - loại hình giảng dạy; còn
yếu tố kia - năng khiếu - không được tác động mà được xem như biến số
kiểm chứng. Ngoài ra, còn có thể có mô hình 3 - 2 (3 loại hình giảng dạy
17
và giới tính của học sinh - nam, nữ chẳng hạn); hoặc mô hình 2 - 3 (2 loại
hình giảng dạy; 3 mức độ của năng khiếu - cao, trung bình, thấp)... Mục
đích của loại hình thực nghiệm nhiều yếu tố là để xác định xem tác động
của biến số thực nghiệm có thể khái quát hoá ở mọi mức độ của biến số
kiểm chứng hay chỉ có hiệu quả ở một mức độ riêng biệt nào đó. Ngoài ra
nó còn nghiên cứu các mối liên hệ giữa tập hợp các số liệu.

3. Đề xuất một hướng nghiên cứu


Đề tài
Nguy cơ tuyệt chủng các loài chim di cư tại Việt Nam
nghiên cứu
Nội dung Nội dung nghiên cứu bao gồm:
nghiên cứu/
1. Phân tích tình trạng hiện tại:
nhiệm vụ
nhiên cứu - Xác định và liệt kê các loài chim di cư hiện có tại Việt Nam.
- Đánh giá mức độ bảo tồn của từng loài dựa trên dữ liệu quan
sát và nghiên cứu trước đây.
2. Xác định nguy cơ tuyệt chủng:
- Phân tích các yếu tố gây nguy cơ tuyệt chủng cho các loài
chim di cư như mất môi trường sống, mất rừng, săn bắn, ô
nhiễm môi trường, và biến đổi khí hậu.
- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu tố đối với sự giảm số
lượng và sự đa dạng của các loài chim di cư.
3. Đề xuất biện pháp bảo vệ và bảo tồn:
- Đề xuất các biện pháp quản lý rừng và môi trường nhằm giảm
thiểu mất môi trường sống của các loài chim di cư.
- Đề xuất các biện pháp phục hồi môi trường sống và môi
trường sống dự phòng cho các loài chim di cư.
- Đề xuất các biện pháp giáo dục cộng đồng và tăng cường quản
lý săn bắn để giảm thiểu áp lực đe dọa lên các loài chim di cư.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Thu thập dữ liệu: Tiến hành nghiên cứu thư mục và quyết
sách, điều tra trực tiếp trên thực địa và thu thập dữ liệu về sự
hiện diện và tình trạng của các loài chim di cư tại các khu vực
khác nhau của Việt Nam.
- Phân tích dữ liệu: Sử dụng các phương pháp thống kê và phân
tích để đánh giá mức độ nguy cơ tuyệt chủng của các loài chim
di cư và xác định các yếu tố gây nguy cơ.
- Nghiên cứu đề xuất biện pháp bảo vệ: Dựa trên kết quả phân
tích, đề xuất các biện pháp bảo vệ và bảo tồn cụ thể cho từng
loài chim di cư và môi trường sống của chúng.
- Xây dựng chương trình tuyên truyền và giáo dục: Phát triển
các chương trình giáo dục và tuyên truyền để nâng cao nhận
thức của cộng đồng về tình trạng nguy cơ tuyệt chủng của các
loài chim di cư và tăng cường sự tham gia trong việc bảo vệ
chúng.
Mục tiêu Nghiên cứu về nguy cơ tuyệt chủng các loài chim di cư tại Việt Nam
nghiên cứu/ nhằm đánh giá tình trạng hiện tại của các loài chim di cư, xác định
mục đích các yếu tố gây nguy cơ tuyệt chủng và đề xuất biện pháp bảo vệ và
nghiên cứu bảo tồn cho các loài này.
Mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
Đánh giá tình trạng nguy cơ tuyệt chủng: Xác định mức độ nguy cơ
tuyệt chủng hiện tại của các loài chim di cư ở Việt Nam thông qua
việc phân tích các yếu tố gây nguy cơ như mất môi trường sống, săn
bắn, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu.
Xác định yếu tố gây nguy cơ: Phân tích và đánh giá vai trò của các
yếu tố gây nguy cơ như mất môi trường sống, biến đổi khí hậu, hoạt
động con người và các yếu tố khác đối với sự giảm số lượng và đa
dạng của các loài chim di cư tại Việt Nam.
Đề xuất biện pháp bảo vệ và bảo tồn: Dựa trên kết quả phân tích, đề
xuất các biện pháp bảo vệ và bảo tồn cụ thể nhằm giảm thiểu nguy
cơ tuyệt chủng của các loài chim di cư và bảo vệ môi trường sống
của chúng.
Tăng cường nhận thức và hành động cộng đồng: Phát triển các
chương trình giáo dục và tuyên truyền để nâng cao nhận thức và sự
tham gia của cộng đồng trong việc bảo vệ chim di cư và môi trường
sống của chúng.
Cung cấp cơ sở dữ liệu cho quản lý và bảo tồn: Xây dựng cơ sở dữ
liệu về tình trạng nguy cơ tuyệt chủng của các loài chim di cư và các

19
yếu tố nguy cơ liên quan, nhằm hỗ trợ quá trình quản lý và bảo tồn
các loài này tại Việt Nam.
Những mục tiêu này sẽ hướng nghiên cứu vào việc hiểu rõ hơn về
tình trạng và nguy cơ tuyệt chủng của các loài chim di cư tại Việt
Nam, từ đó đề xuất các biện pháp bảo vệ và bảo tồn hiệu quả.
Thực trạng có nguy cơ tuyệt chủng của các loài chim di cư.
Việc mất môi trường sống, sự thay đổi môi trường và các hoạt động
con người là những yếu tố chủ yếu góp phần vào nguy cơ tuyệt
chủng của các loài chim di cư tại Việt Nam.
Các định nghĩa/giả thuyết bổ sung cho giả thuyết chính:
Mất môi trường sống: Sự suy giảm và mất môi trường sống tự nhiên,
Giả thuyết như rừng ngập mặn, rừng ngập nước và rừng già, làm giảm sự đa
khoa học dạng sinh học và số lượng loài chim di cư.
Biến đổi khí hậu: Biến đổi khí hậu gây ra sự thay đổi trong môi
trường sống và môi trường sinh sống của các loài chim di cư, làm
giảm khả năng sinh sản, tìm thức ăn và di cư của chúng.
Hoạt động con người: Sự phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng,
khai thác gỗ và săn bắn không kiểm soát gây ra mất môi trường sống
và làm giảm số lượng các loài chim di cư.
Khách thể Khách thể nghiên cứu, hay đối tượng khảo sát của nghiên cứu về
nghiên cứu/ nguy cơ tuyệt chủng các loài chim di cư tại Việt Nam, có thể bao
đối tượng gồm các nhóm sau:
khảo sát
Loài chim di cư: Đây là đối tượng trực tiếp của nghiên cứu, bao gồm
các loài chim di cư có mặt và sinh sống tại Việt Nam. Các loài này
có thể bao gồm chim nhạn, chim bồ câu, chim ruồi và nhiều loài
chim di cư khác.
Môi trường sống: Môi trường sống của các loài chim di cư, bao gồm
rừng ngập mặn, rừng ngập nước, rừng già, cánh đồng, vùng đồng cỏ
và các khu vực sinh thái khác, cũng là đối tượng quan trọng trong
nghiên cứu này.
Cộng đồng địa phương: Những người sống và làm việc tại các khu
vực gần môi trường sống của các loài chim di cư cũng là đối tượng
quan trọng, vì hoạt động của họ có thể ảnh hưởng đến môi trường
sống của chim.
Chuyên gia và nhà nghiên cứu: Các nhà khoa học, nhà bảo tồn,
chuyên gia về chim và sinh thái học cũng có thể là đối tượng của
nghiên cứu, bằng cách cung cấp thông tin chuyên môn và tham gia
vào quá trình nghiên cứu và đánh giá.
Chính phủ và tổ chức phi chính phủ: Các cơ quan chính phủ và tổ
chức phi chính phủ có thể được tham mưu hoặc hợp tác để cung cấp
thông tin về chính sách quản lý môi trường và bảo tồn động vật
hoang dã.
Bằng việc nghiên cứu các đối tượng này, nghiên cứu về nguy cơ
tuyệt chủng các loài chim di cư tại Việt Nam có thể hiểu rõ hơn về
tình trạng và nguy cơ tuyệt chủng của các loài chim di cư, từ đó đề
xuất các biện pháp bảo vệ và bảo tồn hiệu quả.
Địa lý: Nghiên cứu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, tập trung vào
các khu vực đặc biệt tại Việt Nam, bao gồm rừng ngập mặn, rừng
ngập nước, rừng già và các vùng đồng cỏ, nơi có sự xuất hiện của
nhiều loài chim di cư.
Thời gian: Phạm vi thời gian của nghiên cứu trong 20 năm trở lại
đây, nhằm đánh giá sự thay đổi của môi trường sống và tình trạng
của các loài chim di cư qua các giai đoạn thời gian.
Loài chim di cư: Nghiên cứu tập trung vào một loạt các loài chim di
Phạm vi
cư phổ biến tại Việt Nam, bao gồm các loài đặc hữu hoặc đang đối
nghiên cứu
mặt với nguy cơ cao về tuyệt chủng.
Yếu tố gây nguy cơ: Phạm vi nghiên cứu cũng bao gồm việc xác
định và phân tích các yếu tố gây nguy cơ tuyệt chủng cho các loài
chim di cư, bao gồm mất môi trường sống, biến đổi khí hậu, hoạt
động con người và các yếu tố khác.
Các biện pháp bảo vệ và bảo tồn: Nghiên cứu có thể đề xuất các biện
pháp bảo vệ và bảo tồn cụ thể cho từng loài chim di cư và môi trường
sống của chúng, trong phạm vi địa lý và thời gian xác định

Học viên

Trần Thị Hồng Hiền

21

You might also like