Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

The Triune Brain

Lý thuyết về bộ não Triune

The first of our three brains to evolve is what scientists call the reptilian cortex.
Lớp phát triển đầu tiên của ba lớp não có tên khoa học là não bò sát (hay não phẳng).
1. The first of our three brains to evolve is what scientists call the
reptilian cortex.
1. Trong ba vùng não, vùng não có mặt đầu tiên trong quá trình tiến
hóa có tên khoa học là não bò sát.
This brain sustains the elementary activities of animal survival such
as respiration, adequate rest and a beating heart.
Vùng não bò sát này duy trì các hoạt động cơ bản của sự sống
động vật, bao gồm sự hô hấp, sự nghỉ ngơi đầy đủ và nhịp tim.
We are not required to consciously “think” about these activities.
Đây là những hoạt động mà chúng ta không phải “suy nghĩ” một
cách có ý thức về việc thực hiện những hoạt động đó (hoạt động
trong vô thức).
The reptilian cortex also houses the “ startle centre”, a mechanism
that facilitates swift reactions to unexpected occurrences in our
surroundings.
Não bò sát cũng chứa “trung khu phản xạ”, một cơ chế tạo điều kiện
cho sự phản xạ nhanh chóng đối với những tình huống bất ngờ xảy
ra ở môi trường xung quanh.
That panicked lurch you experience when a door slams shut
somewhere in the house, or the heightened awareness you feel
when a twig cracks in a nearby bush while out on an evening stroll
are both examples of the reptilian cortex at work.
Bạn cảm thấy sợ hãi bất thình lình khi mà cửa đóng sầm ở đâu đó
trong nhà, hoặc sự cảnh giác tăng cao khi nghe thấy tiếng cành cây
nứt gãy trong bụi rậm ở gần lúc bạn đi dạo vào buổi tối, đó là hai ví
dụ về cách mà Não bò sát hoạt động.
When it comes to our interaction with others, the reptilian brain
offers up only the most basic impulses: aggression, mating, and
territorial defence.
Khi nói đến sự tương tác với đối tượng bên ngoài, não bò sát chỉ huy
thực hiện những động lực sống cơ bản nhất: gây chiến, giao phối và
bảo vệ lãnh thổ.
There is no great difference, in this sense, between a crocodile
defending its spot along the river and a turf war between two urban
gangs.
Theo nghĩa này, không có sự khác nhau đáng kể giữa việc một con
cá sấu bảo vệ vị trí dọc bờ sông của nó và việc tranh giành địa bàn
giữa hai băng đảng ở nơi thành thị.
2. Although the lizard may stake a claim to its habitat, it exerts total
indifference toward the well-being of its young.
2. Mặc dù loài thằn lằn có thể nỗ lực để tranh giành nhau lãnh thổ,
nhưng nó hoàn toàn không quan tâm gì đến hạnh phúc của các con
non.
Listen to the anguished squeal of a dolphin separated from its pod
or witness the sight of elephants mourning their dead, however, and
it is clear that a new development is at play.
Tuy nhiên, khi lắng nghe tiếng kêu đau khổ của một con cá heo bị
lạc khỏi đàn hoặc chứng kiến quang cảnh khi những con voi thương
tiếc về cái chết của đồng loại, rõ ràng có một bước phát triển mới
đang diễn ra.
Scientists have identified this as the limbic cortex.
Các nhà khoa học đã xác định đây là vùng não cảm xúc.
Unique to mammals, the limbic cortex impels creatures to nurture
their offspring by delivering feelings of tenderness and warmth to
the parent when children are nearby.
Duy nhất ở động vật có vú, vùng não cảm xúc thúc đẩy động vật
nuôi dưỡng con cái của chúng bằng việc mang lại cảm xúc dịu dàng
và ấm áp cho cha mẹ khi lũ con của chúng ở gần.
These same sensations also cause mammals to develop various
types of social relations and kinship networks.
Những cảm giác tương tự này cũng khiến động vật có vú phát triển
nhiều kiểu quan hệ xã hội và mạng lưới quan hệ họ hàng.
When we are with others of “our kind” – be it at soccer practice,
church, school or a nightclub – we experience positive sensations
of togetherness, solidarity and comfort. If we spend too long away
from these networks, then loneliness sets in and encourages us to
seek companionship.
Khi chúng ta ở cùng với những người khác thuộc “đồng loại của
chúng ta” - có thể là ở sân tập bóng đá, nhà thờ, trường học hoặc
hộp đêm - chúng ta trải nghiệm những cảm giác tích cực về sự gần
gũi, đoàn kết và thoải mái. Nếu chúng ta rời xa những mạng lưới này
quá lâu, thì sự cô đơn sẽ xuất hiện và khuyến khích chúng ta tìm
kiếm tình bạn.
3. Only human capabilities extend far beyond the scope of these
two cortexes. Humans eat, sleep and play, but we also speak, plot,
rationalise and debate finer points of morality.
3. Chỉ có khả năng của con người mới vượt xa phạm vi của hai vùng
não này. Con người ăn, ngủ và chơi nhưng chúng ta cũng trò
chuyện, lập mưu, hợp lý hóa và tranh luận những điểm tốt hơn về
đạo đức.
Our unique abilities are the result of an expansive third brain – the
neocortex – which engages with logic, reason and ideas.
Khả năng độc đáo của chúng ta là kết quả của một vùng não thứ ba
mở rộng - vùng não mới - cái mà tham gia vào tư duy logic, lý trí và
những ý tưởng.
The power of the neocortex comes from its ability to think beyond
the present, concrete moment.
Sức mạnh của Neocortex đến từ khả năng suy nghĩ vượt ra ngoài
thời điểm hiện tại, vượt ra khỏi thời điểm cụ thể.
While other mammals are mainly restricted to impulsive actions
(although some, such as apes, can learn and remember simple
lessons), humans can think about the “big picture”.
Trong khi những động vật có vú khác chủ yếu giới hạn trong những
hành vi bốc đồng không suy nghĩ (mặc dù như một số loài, chẳng
hạn như loài khỉ có thể học và ghi nhớ những bài học đơn giản), con
người lại có thể nghĩ về bức tranh toàn cảnh.
We can string together simple lessons (for example, an apple drops
downwards from a tree; hurting others causes unhappiness) to
develop complex theories of physical or social phenomena (such as
the laws of gravity and a concern for human rights).
Chúng ta có thể xâu chuỗi các bài học đơn giản lại với nhau (ví dụ,
một quả táo rơi xuống từ trên cây; làm tổn thương người khác gây
ra sự bất hạnh) để phát triển các lý thuyết phức tạp về các hiện
tượng vật lý hoặc xã hội (chẳng hạn như luật hấp dẫn và mối quan
tâm đến quyền con người).
4. The neocortex is also responsible for the process by which we
decide on and commit to particular courses of action.
4. Vùng não Neocortex cũng chịu trách nhiệm cho quá trình xử lý ra
quyết định và thực hiện những hành động cụ thể.
Strung together over time, these choices can accumulate into feats
of progress unknown to other animals.
Kết hợp với nhau theo thời gian, những lựa chọn này có thể tích lũy
thành những kỳ tích tiến bộ mà các loài động vật khác chưa biết
đến.
Anticipating a better grade on the following morning’s exam, a
student can ignore the limbic urge to socialise and go to sleep early
instead.
Mong chờ điểm số sẽ tốt hơn trong bài kiểm tra vào sáng hôm sau,
một học sinh có thể lờ đi những thúc giục của vùng não Limbic về
việc ngồi nói chuyện cùng mọi người, và thay vào đó là đi ngủ sớm
hơn.
Over three years, this ongoing sacrifice translates into a first class
degree and a scholarship to graduate school; over a lifetime, it can
mean ground-breaking contributions to human knowledge and
development.
Trong ba năm, sự hy sinh liên tục này thu được kết quả là tấm bằng
đầu tiên và có học bổng để tốt nghiệp; nếu duy trì cả cuộc đời, nó
biến thành những đóng góp mang tính đột phá vào kiến thức và sự
phát triển của con người.
The ability to sacrifice our drive for immediate satisfaction in order
to benefit later is a product of the neocortex.
Thay vì hưởng sự thỏa mãn trong hiện tại, khả năng hy sinh những
nỗ lực của chúng ta để đổi lấy lợi ích trong tương lai do Vùng não
Neocortex chỉ huy.
5. Understanding the triune brain can help us appreciate the
different natures of brain damage and psychological disorders.
Hiểu được có 3 vùng não có thể giúp chúng ta biết rõ được bản chất
khác nhau của sự tổn hại não bộ và rối loạn tâm lý.
The most devastating form of brain damage, for example, is a
condition in which someone is understood to be brain dead.
Ví dụ, dạng tổn thương não tàn khốc nhất là tình trạng một người
nào đó được hiểu là đã chết não.
In this state a person appears merely unconscious – sleeping,
perhaps – but this is illusory.
Trong trạng thái này, một người chỉ xuất hiện trong tình trạng vô
thức - có lẽ đang ngủ - nhưng điều này là ảo tưởng.
Here, the reptilian brain is functioning on autopilot despite the
permanent loss of other cortexes.
Ở đây, não bò sát đang thực hiện các chức năng duy trì sự sống
một cách tự động mặc dù những vùng não khác đã chết vĩnh viễn.
6. Disturbances to the limbic cortex are registered in a different
manner.
6. Rối loạn vùng não Limbic được khoa học ghi nhận theo một cách
khác.
Pups with limbic damage can move around and feed themselves
well enough but do not register the presence of their littermates.
Những con non bị tổn thương vùng não Limbic có thể di chuyển
xung quanh và tự kiếm ăn đầy đủ nhưng không ghi nhận sự hiện
diện của các con non cùng lứa.
Scientists have observed how, after a limbic lobotomy, “one
impaired monkey stepped on his outraged peers as if treading on a
log or a rock”.
Các nhà khoa học đã quan sát thấy, sau khi bị tác động phẫu thuật
vùng não Limbic, “một con khỉ bị phẫu thuật đã giẫm lên những
đồng loại đang phẫn nộ của mình như thể đang giẫm lên một khúc
gỗ hoặc một tảng đá”.
In our own species, limbic damage is closely related to sociopathic
behaviour.
Ở loài người, tổn thương Vùng não Limbic có liên quan chặt chẽ đến
những hành vi rối loạn nhân cách.
Sociopaths in possession of fully-functioning neocortexes are often
shrewd and emotionally intelligent people but lack any ability to
relate to, empathise with or express concern for others.
Những người rối loạn nhân cách mà Vùng não neocortex vẫn hoạt
động đầy đủ chức năng thường là những người sắc sảo và thông
minh về mặt cảm xúc nhưng không có khả năng liên hệ, đồng cảm
hoặc bày tỏ sự quan tâm đối với người khác.
7. One of the neurological wonders of history occurred when a
railway worker named Phineas Gage survived an incident during
which a metal rod skewered his skull, taking a considerable amount
of his neocortex with it.
7. Một trong những điều kỳ diệu của thần kinh học xảy ra trong lịch
sử khi mà một công nhân đường sắt tên là Phineas Gage sống sót
sau một sự cố, một thanh kim loại xiên qua hộp sọ của anh ta, lấy đi
một lượng đáng kể Vùng não Neocortex của anh ta.
Though Gage continued to live and work as before, his fellow
employees observed a shift in the equilibrium of his personality.
Mặc dù Gage vẫn tiếp tục sống và làm việc như trước, nhưng các
nhân viên, đồng nghiệp của ông đã quan sát thấy có sự thay đổi
trạng thái cân bằng trong tính cách của ông.
Gage’s animal propensities were now sharply pronounced while his
intellectual abilities suffered; garrulous or obscene jokes replaced
his once quick wit.
Khuynh hướng động vật trong Gage (phần con) giờ đây đã xuất hiện
rõ rệt, trong khi khả năng trí tuệ của anh ta bị ảnh hưởng; những trò
đùa lố lăng hoặc tục tĩu đã thay thế cho sự hóm hỉnh một thời của
anh ấy.
New findings suggest, however, that Gage managed to soften these
abrupt changes over time and rediscover an appropriate social
manner.
Tuy nhiên, những phát hiện mới cho thấy, Gage đã làm dịu những
thay đổi không mong muốn này theo thời gian và tìm lại cách cư xử
xã hội cho phù hợp.
This would indicate that reparative therapy has the potential to help
patients with advanced brain trauma to gain an improved quality of
life.
Điều này chỉ ra rằng trị liệu pháp Reparative có tiềm năng giúp
những bệnh nhân bị chấn thương não nặng cải thiện được chất
lượng cuộc sống sau chấn thương

You might also like