Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 307

HỌC VIỆN TRUNG Y NAM KINH TRUNG QUỐC

BÀI GIẢNG THƯƠNG HÀN


(THƯƠNG HÀN LUẬN GIẢNG NGHĨA)

NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC


THUYẾT MINH VỀ ĐÍNH CHÍNH VÀ TÁI BẢN TÀI LIỆU GIẢNG DẠY
THÍ ĐIỂM CỦA HỌC VIỆN TRUNG Y

Tài liệu giảng dạy thí điểm của học viện trung y xuất bản đến nay đã được ba
năm. Thực tiễn đã chứng minh, toàn bộ tài liệu giảng dạy này tuy chỉ là sơ thảo,
nhưng nó đã vạch ra một cái sườn có hệ thống của nền y học tổ quốc mà trước đây
chưa vạch được. Do đó , nó có tác dụng tích cực đói với việc nâng cao chất lượng
giảng dạy, học tập, và điều trị. Ba năm nay, trong thực tiễn giảng dạy, học tập và điều
trị cũng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm và tài liệu có giá trị, tạo điều kiện rất tốt
cho việc đính chính sửa chữa lần này.

Bộ vệ sinh1 nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, căn cứ yêu cầu và khả năng
thực tế của công tác giảng dạy, học tập, điều trị và nghiên cứu khoa học, tháng 5, 6
năm 1963 đã mở Hội nghị Giáo tài Trung y toàn quốc ở Giang Tây, để đính chính
sửa chữa tài liệu giảng dạy đợt thứ nhất. Tham gia hội nghị lần này, trừ đơn vị… chủ
biên 6 Học viện trung y: Bắc Kinh, Nam Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thành Đô,
Hồ Bắc ra, còn mời được các đại biểu của Học viện Trung Y: Thiên Tân, Sơn Đông,
Liêu Ninh, Giang Tây, Hà Nam, Phúc Kiến, lại mời được các vị lão Trung y có danh
tiếng như các ông Dục Chân Kiều, Phó Cục trưởng Cục vệ sinh thành phố Vũ Hán,
Ngô Trạo Tiên, Học viện Trung y Thành Đô, Tần Bá Vị, Học viện Trung y Bắc Kinh,
Ngô Khảo Bàn, Học viện Trung y Nam Kinh, và các cán bộ cao cấp Tây y đã học tập
Trung y có hệ thống như ông Hoàng Tình Viên, Bệnh viện nhân dân I thành phố
Trùng Khánh, Hứa Tự Thành. Y học viện Lan Châu, Trương Đại Chiêu, Y học viện
Vũ Hán, Đàm Gia Hưng, Học viện Trung y Trường Xuân, đến dự. Như thế đã làm
cho việc đính chính sửa chữa tài liệu giảng dạy này càng phản ảnh được rộng rãi trí
tuệ của tập thể.

Đợt đính chính sửa chữa tài liệu này gồm có 7 loại: Bài giảng Nội Kinh, Bài
giảng Chẩn đoán học, Bài giảng Dược học, Bải giảng Phương tễ học, Bài giảng
Thương hàn luận, Bài giảng Ôn bệnh học, Bải giảng Nội khoa. Đồng thời còn căn cứ

1
Bộ vệ sinh : như Bộ Y tế của nước ta.
1
kế hoạch giảng dạy học tập mới bổ sung của Học Viện Trung y, đã biên soạn xong
tập Bài giảng Kim quỹ yếu lược.

Trong tài liệu giảng dạy này, trừ việc kế tục giữ lấy những đặc điểm “đã toàn
diện mà đơn giản rõ ràng” ra, còn tăng tính hệ thống của lý luận Trung y như tập bài
giảng Thương Hàn Luận, bài giảng Nội khoa thì tăng thêm phần Tổng luận, các bài
giảng Nội kinh, chẩn đoán, Ôn bệnh, Phương tễ, đều tăng thêm mục tuyển đọc. Nội
dung của mỗi loại bài giảng đều so đính chính sửa chữa và bổ sung tương đối lớn,
như bài giảng Ôn bệnh học đối với nguyên nhân ôn bệnh, phân tích cơ chế bệnh; các
mục bàn riêng của bải giảng Nội khoa Trung y, đối với nguyên nhân bệnh, cơ chế
bệnh, chẩn đoán, trị liệu của bệnh chứng đã vạch ra tính hệ thống của lý pháp phương
dược; bài giảng Chẩn đoán học, đối với các chỉ tiêu chẩn đoán như tạng phủ, bệnh
chứng, tứ chẩn, bát cương, đều được đính chính bổ sung cụ thể và toàn diện hơn. Do
đó trong tài liệu giảng dạy các môn có thể phản ảnh được rõ ràng thực chất của nền
y học tổ quốc và tăng cường tính lý luận và tính tổng hợp, làm cho lý luận càng có
thể liên hệ chặt chẽ với thực tế, tin tưởng rằng có thể thích ứng được với yêu cầu thực
tế của công tác giảng dạy, học tập, điều trị và nghiên cứu khoa học sau này.

Đương nhiên, sự nghiệp nghiên cứu khoa học đều không ngừng phát triển đặc
biệt là trong nước chúng ta hiện nay, đang trên đà phát triển với tốc độ mạnh mẽ, toàn
bộ tài liệu giảng dạy này tuy so với trước đã có nhiều chỗ nâng cao nhưng còn phải
tùy thời tích lũy những tâm đắc, kinh nghiệm và thành quả trong công tác thực tiễn
giảng dạy, học tập, điều trị và nghiên cứu khoa học, để chuẩn bị đính chính sửa chữa
lần nữa, kế tục nâng cao chất lượng của nó, là cho tài liệu giảng dạy về Trung y trở
thành tính khoa học hơn, hiệu quả giảng dạy học tập cao hơn. Vì thế, rất mong được
các bạn giáo sư Trung Tây y trong cả nước, các bạn đọc khắp địa phương, trong khi
sử dụng, thông qua thực tiễn giảng dạy học tập và điều trị của mình kiểm nghiệm nó
một cách sâu sắc rồi sẵn sàng đề xuất cho nhiều ý kiến sửa chữa bổ sung, để chúng
ra cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vị vinh quang này.

Hội nghị Giáo tài Trung y toàn quốc

Tháng 7 năm 1963

2
PHÀM LỆ SỬA CHỮA ĐÍNH CHÍNH

1. Tập tài liệu giảng dạy này là dựa trên cơ sở tập Bài giảng Thương hàn luận
xuất bản lần đầu, thông qua trên ba năm thực tiễn giảng dạy và học tập sau khi
chưng cầu ý kiến rộng rãi về các mặt rồi mới tiến hành đính chính.
2. Tập tài liệu giảng dạy đính chính này đã biên thêm phần “khái luận”, chủ yếu
trình bày một số tri thức cơ bản hữu quan đối với việc học tập Thương hàn
luận đã giới thiệu khái quát về nội dung chủ yếu của bệnh chứng, bệnh cơ về
lục kinh, đối với việc giải thích nguyên văn cuốn Thương hàn luận cũng đính
chính sửa chữa và bổ sung nhất định.
3. Thể lệ biên chép phần nguyên văn cuốn Thương hàn luận phân ra mấy mục
sau:
a) Nguyên văn. Căn cứ theo bản khắc lại Thương hàn luận của Triệu Khai Mỹ
làm chủ yếu và tham khảo cách sách Mạch kinh, Thiên kim, Chú giải Thương
hàn luận, đem một bộ phận nguyên văn, đính chính sửa chữa lại và đánh số
thứ tự riêng.
b) Tóm tắt. tóm tắt rõ ràng, nêu lên tinh thần chủ yếu của điều văn ấy để dễ nắm
vững ý nghĩa chủ yếu trong đó.
c) Thích nghĩa. Căn cứ vào hệ thống lý luận của Trung y, dùng ngôn ngữ hiện
đại để giải thích nguyên văn, nhằm làm cho rõ ràng thông suốt, dễ học, dễ hiểu,
học để áp dụng và hết sức phân tích so sánh để thể hiện tinh thần chủ yếu về
biện chứng luận trị của Thương hàn luận.
d) Lời chú chọn lọc. Chọn lấy những lời chú giải thích đáng đối với nguyên văn,
thuyết minh rành mạch, có tính đại biểu, để cung ứng cho việc tham khảo và
để làm cơ sở cho học sinh học tập các sách thuốc cổ điển.
e) Ý nghĩa phương thuốc. Chú trọng giải thích tác dụng chủ yếu của bài thuốc,
quy luật phối ngẫu, cách biến hóa và phương pháp sử dụng, nhằm làm cho hệ
thống lý, pháp, phương, dược được quán triệt toàn diện.
f) Nhận xét. Đối với nội dụng lời chú chọn lọc có nhiều lối nhìn khác nhau, hoặc
đối với lý, pháp, phương dược của nguyên văn, vận dụng trên lâm sàng có
kinh nghiệm thực tiễn, đều dùng lời nhận xét để thuyết minh, làm cho lý luận
liên hệ chặt chẽ với thực tế.
3
g) Giải thích chữ khó. Đối với nguyên văn có nhiều danh từ thuật ngữ khó hiểu,
làm một bản giải thích đơn giản rõ ràng hơn để tiện tra cứu.
4. Có một số ít nguyên văn trong Thương hàn luận mà hiện nay còn chưa có thể
giải thích đầy đủ, hoặc tuy có thể giải thích mà không giúp ích gì cho việc chỉ
đạo thực tiễn, thì viết tồn nghi chờ khảo cứu thêm.
5. Phương pháp gia giảm các bài thuốc trong Thương hàn luận, có rất nhiều bài
không thích hợp với thực tế lâm sàng, cho nên đối với phép gia giảm các bài
thuốc nói chung chưa giải thích.
6. Vì chế độ cân lường đo đạc xưa nay khác nhau, do đó, đối với phân lạng của
cổ phương trong Thương hàn luận vẫn chiểu theo sách cũ mà không quy ra
phân lạng hiện nay. Khi vận dụng lâm sàng có thể kết hợp với cách sử dụng
theo thói quen, và châm chước theo tình hình cụ thể đối với địa phương, thời
tiết, cùng nhân tố thể chất để sử dụng cho hợp lý.
7. Biên tập tài liệu này, do hạn chế ở trình độ, thời gian ngắn ngủi, rất nhiều chỗ
sơ sót, hy vọng các đồng chí độc giả đề xuất cho nhiều ý kiến quý báu để tiện
đính chính sửa chữa cho kỳ tái bản tới.

4
KHÁI LUẬN

Thương hàn luận là một tập sách chuyên đề trình bày rõ ràng về nhiều loại bệnh
ngoại cảm, do Trương Trọng Cảnh đời Đông Hán biên soạn là một trong 4 bộ sách
cổ điển lớn của Trung y, nguyên danh là “Thương hàn luận” và “Tạp bệnh luận”.
Sách biên soạn xong vào khoảng đầu thời kỳ cuối nhà Hán, chiến họa lan tràn, do đó
bị mất mát không còn đủ. Sau đến thời Tây Tấn, có Thái Y lệnh Vương Thúc Hòa
đem bộ phận Thương hàn luận, tập hợp, chỉnh lý, biên soạn lại, đến đời Tống lại được
nhóm ông Lâm Ức hiệu chính nữa mới truyền lại đến ngày nay. Toàn thư cộng 10
quyển, 22 thiên, 397 phương, trừ bỏ các phương trùng và các khuyết phương, cộng
lại 112 phương.

Sách này dựa trên cơ sở lý luận Nội kinh, Nạn kinh, tổng kết các thành tựu Y
học từ đời Hán trở về trước cũng như kinh nghiệm lâm sàng của tác giả, trọng điểm
là nghiên cứu tìm tòi trong nhân thể sau khi cảm thụ tà khí phong hàn mà gây ra bệnh
lý biến hóa của tạng phủ kinh lạc và đặc trưng của chứng hậu lâm sàng, đã tổng kết
một cách sáng tạo được quy luật biến hóa chung nhất của sự phát sinh, phát triển của
bệnh ngoại cảm, từ nguyên tắc trị liệu cho đến phương pháp phối hợp bài thuốc, trước
sau đều chặt chẽ và có hệ thống nhất quán với lý, pháp, phương, dược, chỉ đạo một
cách hiệu quả việc biện chứng luận trị đối với bệnh ngoại cảm và các tạp bệnh khác,
góp phần cống hiến rất quan trọng vào việc phát triển y học cho đời sau.

I. HÀM NGHĨA CỦA THƯƠNG HÀN


Thương hàn có hai nghĩa, nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Thương hàn nghĩa rộng là
tên gọi chung cho tất cả các bệnh sốt ngoại cảm, như thiên Nhiệt luận sách Tố vấn
nói: “Các bệnh nhiệt hiện nay đều thuộc loại thương hàn”. Thương hàn nghĩa hẹp là
chỉ nói về bệnh ngoại cảm phong hàn, tức là chỉ vào bệnh thương hàn, bệnh trúng
phong như đã trình bày trong sách này. Xét sách Nạn kinh có nói : “Bệnh Thương
hàn có năm thứ”. Tức là chỉ vào thương hàn nghĩa rộng, còn chứng thương hàn trong
năm thứ đó là chỉ vào Thương hàn nghĩa hẹp. Sách Thương hàn đã lấy tên là Thương
hàn mà trong thiên Thái dương còn trình bày phân biệt các bệnh chứng như Thương
hàn, Trúng phong, Ôn bệnh, do đó có thể thấy chữ “Thương hàn” mà sách này đã

5
trình bày là thương hàn nghĩa rộng. Nhưng xét vào nội dung chủ yếu của toàn sách
Thương hàn luận, trọng điểm là trình bày về nhân thể cảm thụ tà phong hàn dẫn đến
một loạt bệnh lý với biểu hiện lâm sàng biến hóa và biện chứng luận trị, về nguyên
nhân bệnh lý với biểu hiện lâm sàng có quan hệ đến ôn bệnh, chỉ là trong lúc trình
bày thương hàn nghĩa hẹp, tóm tắt để mà phân biệt so sánh. Vì thế, Thương hàn luận
tuy là một tập sách chuyên đề trình bày nhiều loại bệnh ngoại cảm, nhưng trọng điểm
là trình bày bệnh Thương hàn.
Bệnh Thương hàn là do nhân thể cảm thụ tà khí phong hàn mới đầu từ bì mao,
thớ thịt, dần dần theo ba kinh dương, ba kinh âm (lục kinh) của kinh lạc từ biểu nhập
đến lý, truyền đến tạng phủ. Bởi thế, về bệnh lý biến hóa của nó, thì đang lúc bệnh tà
còn ở nông như da thịt, kinh lạc thì biểu hiện lâm sàng là biểu chứng. Nếu hàn tà nhập
lý hóa thành nhiệt thì chuyển thành chứng lý thực nhiệt mà trong tình huống chính
khí hư, dương khí suy, thì hàn tà thường dễ xâm phạm vào ba kinh âm, xuất hiện một
loạt hiện tượng bệnh lý thuộc dương hư lý hàn như, ỉa mửa, chân tay quyết lạnh, mạch
vi, chỉ muốn ngủ.
Còn như hàm nghĩa của Thương hàn do Trọng Cảnh trình bày cũng không hoàn
toàn giống như thương hàn của Y học hiện đại, đấy chỉ là do sự nhầm lẫn của công
tác phiên dịch trước đây quen dùng đến ngày nay, về khái niệm khác nhau đó cần
phải phân biệt rõ ràng mới có thể lý giải chính xác nội dung chân thực và giá trị thực
tiễn của Thương hàn luận.

II. KHÁI NIỆM VỀ LỤC KINH TRONG THƯƠNG HÀN LUẬN.

Lục kinh trong Thương hàn luận là Thái dương, Dương minh, Thiếu dương,
Thái âm, Quyết âm và Thiếu âm, đây là dựa trên cơ sở phân chứng lục kinh trong
thiên Nhiệt luận sách Tố vấn mà phát huy hoàn chỉnh thêm một bước. Lục kinh trong
thiên Nhiệt luận sách Tố vấn chỉ là cương lĩnh để phân loại chứng trạng chứ chưa
trình bày cụ thể về biện chứng luận trị, mới chỉ trình bày chứng nhiệt của lục kinh mà
chưa bàn tới chứng hàn, chứng hư của lục kinh, mà lục kinh của Thương hàn luận thì
đem cơ chế bệnh lý của tạng phủ kinh lạc thuộc lục kinh của Thương hàn mà tiến
hành biện chứng luận trị; nói cách khác là căn cứ vào nhân tố các mặt như sức đề
kháng của nhân thể mạnh hay yếu, bệnh thế đang tiến triển hay đã lui, hoãn hay cấp,
6
đem các loại triệu chứng biểu hiện trong quá trì diễn biến của bệnh ngoại cảm để tiến
hành phân tích, tổng hợp, quy nạp các đặc điểm của chứng hậu, bộ vị diễn biến của
bệnh, tổn hại đến tạng nào, phủ nào, chiều hướng hàn hay nhiệt, tà khí chính khí thịnh
hay suy,… để làm chỗ dựa mà chẩn đoán, cũng như trị liệu. Hễ là bệnh biểu hoặc
bệnh tam dương chính khí thắng tà khí thực thì cách trị liệu phải lấy khu tà làm chủ
yếu, hễ lấy chứng tam âm, hàn tà nhập lý, chính khí hư, dương khí suy, sức đề kháng
yếu thì cách trị liệu phải phù chính làm chủ yếu.

1. Quan hệ giữa lục kinh với tạng phủ kinh lạc.

Sự nhận thức về thực chất của lục kinh trong Thương hàn luận của các nhà y
xưa nay thì hãy còn đang phân vân, lối nhìn và lối giải thích không nhất trí, có người
dùng kinh lạc để giải thích, có người dùng tạng phủ để giải thích, có người lấy khí
hóa để giải thích. Các lối nhìn ấy đều có lý do nhất định của nó, đã cung cấp tài liệu
quý báu cho sự nghiên cứu tìm tòi của chúng ta; nhưng vô luận lối giải thích nào cũng
chưa được toàn diện. Bởi vì lục kinh trên thực tế là bao quát 12 kinh, ví dụ: bệnh
thiếu âm thì thực chất chủ yếu là phản ảnh bệnh lý biến hóa của kinh Thủ thiếu âm
tâm và Túc thiếu âm thận, các kinh khác cũng có thể suy ra như thế. Cho nên lục kinh
là liên hệ toàn diện với ngũ tạng lục phủ, giữa nó với nó có mối quan hệ lẫn nhau
không thể tách rời được. Khí hóa lại là biểu hiện của cơ năng hoạt động sinh lý của
tạng phủ kinh lạc; khí hóa bình thường hay khác thường có thể giải thích được hiện
tượng sinh lý bệnh lý với một mức độ nhất định, cũng tức là nói khí hóa một khi tách
rời khỏi kinh lạc tạng phủ thì mất hết cơ sở vật chất , tạng phủ kinh lạc mà tách rời
khỏi khí hóa thì không phản ảnh được công năng hoạt động. Do đó, giữa tạng phủ
kinh lạc và khí hóa là luôn luôn quan hệ lẫn nhau, không thể phiến diện chỉ đứng về
một mặt nào đó để cường điệu giải thích thực chất của lục kinh, mà phải liên hệ lại
để nhận thức.

Còn có một lối nhìn quá đơn thuần đem lục kinh làm phương pháp phân loại
chứng hậu. Lối nhìn này có mặt đúng, cũng có mặt không đúng. Mặt đúng, bởi vì
chứng hậu là bệnh lý biến hóa của tạng phủ kinh lạc biểu hiện ra lâm sàng, hễ tạng
phủ kinh mạch nào đó bị bệnh thì tất nhiên sẽ phản ảnh ra những dấu hiệu lâm sàng

7
của nó. Nhưng, cùng một bệnh song không phải rập một khuôn chỉ giới hạn của một
tạng phủ, hoặc kinh mạch khác nào đó mà thường là dính dáng đến tạng phủ khác
hoặc kinh mạch khác, nên xuất hiện chứng hậu cực kỳ phức tạp. Nếu đem phương
pháp phân loại chứng hậu đơn thuần để nhìn một cách máy móc vào bệnh lục kinh,
tách rời tạng phủ kinh lạc ra để quy nạp chứng hậu, cũng là điều không thỏa đáng.

Do đó tạng phủ của lục kinh phụ thuộc lẫn nhau, cho nên bệnh biến của các kinh
trong quá trình bệnh tiến triển thường hay liên lụy đến các tạng phủ có quan hệ với
nó mà phản ảnh ra các chứng hậu của tạng phủ. Như Thái dương kinh bắt đầu bị bệnh
thường biểu hiện các chứng của Thái dương kinh. Đang lúc biểu tà không giải ảnh
hưởng đến Thái dương phủ thì sẽ xuất hiện chứng súc huyết, hoặc chứng súc thủy.
Nếu như biểu tà Thái dương không giải, tà truyền vào phần lý, lại có thể vì chính khí
của nhân thể mạnh hay yếu mà có sự chuyển biến thành hư chứng mà xuất hiện chứng
thiếu âm (tâm, thận), người khỏe thì có thể chuyển biến thành chứng dương minh (vị,
đại trường). Bởi vậy, lục kinh của Thương hàn luận trên thực tế là lấy sự phản ánh
bệnh lý của tạng phủ, liên hệ với lục kinh để chỉ đạo cho việc biện chứng luận trị.

2. Cơ chế phát bệnh của lục kinh.

Bệnh lục kinh phát sinh đều là kết quả do sự giao tranh của chính khí với tà khí,
do tác dụng của ngoại tà. “Tà”, tức là chỉ vào tà khí lục dâm có thể gây ra bệnh, Ngoại
tà gây bệnh nói trong Thương hàn luận chủ yếu là phong hàn. Cái gọi là “Chính” tức
là chỉ vào cơ năng chống giữ bên ngoài và sức đề kháng tiềm tàng từ bên trong. Chính
khí khỏe hay yếu là điều kiện quyết định trước có phát bệnh hay không, sau khi cảm
thụ ngoại tà và bệnh thế nặng hay nhẹ. Cho nên chính khí khỏe hay yếu có tác dụng
chủ yếu trong quá trình phát sinh và phát triển của bệnh ngoại cảm. Tà khí và chính
khi thịnh hay suy có quan hệ đến tính chất, đến chiều hướng và tiên lượng đối với
bệnh tật.

Nói chung, hễ người mà chính khí dồi dào, sức chống giữ bên ngoài và cơ năng
kháng bệnh tốt thì dù có bị ngoại tà xâm nhập cũng không phát bệnh, hay có phát
bệnh thì bệnh nhẹ thôi, tiên lượng cũng dễ chữa nếu được xử lý kịp thời và hợp lý thì
chứng biểu thực nhiệt của tam dương cũng không thể phát triển mà chuyển vào chứng

8
tam âm. Trái lại, nếu người chính khí vốn yếu một khi bị ngoại tà xâm nhập thì rất dễ
phát bệnh, mà cũng rất dễ từ chứng tam dương chuyển thành chứng tam âm, hoặc lúc
mới phát thì đã thể hiện chứng hư hàn ngay, bệnh thế cũng rất nặng, thậm chí chạy
chữa không kịp thì khó khỏi.

Đem so sánh quan hệ thịnh suy giữa tà và chính mà xét thì sự thịnh hay suy của
bệnh cũng là phản ánh chính khí khỏe hay yếu, vả lại cái sau hay chi phối cái trước
(đương nhiên cái trước cũng ảnh hưởng đến cái sau). Như chính khí và tà khí đều
thịnh cả thì bệnh hay biểu hiện thực chứng, nhiệt chứng; chính khí suy thì bệnh tà
dần dần xâm vào, bệnh thế sẽ từ tam dương chuyển vào tam âm, đang lúc chính khí
khôi phục dần thì bệnh tà cũng vì đó mà từ thịnh đến suy, bệnh thế cũng dần dần từ
nặng đến nhẹ mà khỏi. Nếu bệnh nhân vốn không có những chứng tỳ vị yếu, hoặc
công năng của tâm can thận mất điều hòa và khí huyết suy kém, thì bệnh thể diễn
biến cũng không trực tiếp phản ánh ra chứng hậu Thái âm, Quyết âm hoặc Thiếu âm.

3. Quan hệ giữa lục kinh với bát cương


Các thiên trong Thương hàn luận nói về chứng hậu khác nhau của bệnh lục kinh
đều quán triệt nội dung cơ bản của bát cương là âm dương, biểu lý, hàn nhiệt, hư thực.
Như bệnh Thái dương là biểu chứng, nếu không biện được là biểu hư hay biểu thực
thì không thể phân biệt vận dụng được cách chữa giải cơ hay phát hãn. Bệnh Thiếu
âm là lý chứng, nếu không biện được là lý hư hàn hay lý hư nhiệt thì không thể phân
biệt vận dụng được cách chữa phù dương hay dưỡng âm. Do đó, có thể thấy trong
quá trình biện chứng luận trị không thể tách rời giữa lục kinh với bát cương.

Chứng trạng tam âm tam dương (lục kinh) trong Thương hàn luận theo thuộc
tính của bệnh mà nói thì bệnh tam dương gọi tắt là dương chứng, bệnh tam âm phần
nhiều thuộc hàn chứng, hư chứng, gọi tắt là âm chứng; theo quan hệ là chính thịnh
suy mà nói thì bệnh tam dương là biểu thị chính khí của bệnh nhân còn thịnh, sức đề
kháng còn khỏe, tà khí thực, bệnh tình nói chung đều thể hiện trạng thái căng thẳng;
bệnh tam âm là biểu thị chính khí của bệnh nhân đã suy, sức đề kháng yếu, bệnh tà
chưa trừ được, bệnh tình nói chung đều thể hiện trạng thái hư suy. Đấy là quan hệ
của tổng cương “âm dương” trong lục kinh và bát cương vậy.

9
Biểu lý là cương lĩnh để phân tích vị trí của bệnh, nói khái quát là tà ở kinh lạc
thì xuất hiện biểu chứng; tà ở tạng phủ thì xuất hiện lý chứng. Cách phát biểu hay
công lý của bệnh tam dương tức là căn cứ vị trí của bệnh ở biểu hay lý mà quyết định
cách chữa như Thái dương biểu chứng thì nên giải biểu, nên phát hãn; Dương minh
lý chứng thì nên thanh tiết lý nhiệt hoặc công hạ lý thực. Cho nên trên lâm sàng, thấy
xuất hiện chứng hậu biểu lý chưa chắc chắn, hoặc giả trong tình huống biểu chứng lý
chứng cùng xuất hiện, thì việc biện chứng bệnh ở biểu hay ở lý đối với việc trị liệu
có chính xác hay không có quan hệ rất trọng yếu, như trong sách này nói: “Thương
hàn không đi ngoài 6-7 ngày, nhức đầu, có sốt, cho uống bài Thừa khí thang, nước
giải trong thì biết chẳng phải ở lý, vẫn còn ở biểu, cần phải phát hãn”, nếu như
“Thương hàn thầy thuốc cho hạ rồi đi ngoài toàn cái với nước không cầm được, mình
đau nhức, phải cứu lý gấp, sau rồi chứng mình đau nhức, ỉa ra cái và nước đã hết,
phải cứu biểu gấp”. Đó là một loại bệnh án thực tế.

Phàm cách trị bệnh cả biểu lẫn lý thì không ngoài ba nguyên tắc trước trị biểu
sau trị lý, trước trị lý sau trị biểu hoặc vừa trị biểu vừa trị lý. Bệnh ở biểu mà lý hư
cho nên lấy chứng lý hư gấp hơn, phải trị lý trước, sau đó mới trị biểu. Bệnh ở biểu
mà lý thực thì thường là giải biểu trước rồi công lý sau. Nhưng mà, ở tình huống đặc
biệt lý thực nặng hơn, bệnh tình gấp hơn, thì tuy có biểu chứng mà chưa giải, cũng
có thể công lý trước. Bệnh tình cả biểu lẫn lý đều gấp cả thì có thể xét phương pháp
chữa cả biểu lẫn lý. Bởi thế, việc lý giải về quan hệ biểu lý của bệnh lục kinh đối với
việc chỉ đạo thực tiễn, có ý nghĩa rất quan trọng.

Hàn nhiệt là cương lĩnh để phân biệt tính chất của bệnh. Phàm bệnh thế đang
tiến triển, dương tà thịnh lắm, phần nhiều là thuộc nhiệt chứng; phàm bệnh thế trầm
tĩnh, âm tà thịnh lắm, phần nhiều là thuộc hàn chứng. Cùng một thể ấy, chứng hậu
hàn nhiệt cũng tương đối phức tạp, như cùng một chứng ỉa chảy mà có ỉa chảy vì
nhiệt, ỉa chảy vì hàn khác nhau, nếu tự ỉa chảy không khát nước, là bên trong có hàn,
mà ỉa chảy muốn uống nước là bên trong có nhiệt. Lại có cách biện chứng hàn nhiệt
chân giả, như bệnh nhân mình nóng dữ lại muốn được mặc áo là nhiệt ở bì phu, hàn
ở trong xương tủy ; mình lạnh ngắt mà lại không muốn mặc áo là hàn ở bì phu mà
nhiệt ở trong xương tủy. Trường hợp trước là bên trong chân hàn mà bên ngoài giả

10
nhiệt, trường hợp sau là bên trong chân nhiệt mà bên ngoài giả hàn. Do đó có thể thấy,
hàn nhiệt trong bệnh lục kinh cũng là nội dung trọng yếu trong việc biện chứng luận
trị.

Hư thực là cương lĩnh để phân biệt tà chính thịnh suy. Hư là chỉ chính khí hư,
thực là chỉ tà khí thực, phân biệt được tà chính hư thực là then chốt trọng yếu trong
khi trị liệu để chọn đúng hướng chữa phù chính hay khu tà, như sau khi phát hãn rồi
sợ lạnh là hư; không sợ lạnh mà nóng là thực. Trường hợp trước là khi phát hãn,
dương hư, cách chữa nên chọn dùng bài Thược dược Cam thảo Phụ tử thang để chiếu
cố chứng hư; trường hợp sau là sau khi phát hãn rồi tà thịnh truyền vào thành chứng
lý thực, cho nên cách chữa phải chọn dùng bài Điều vị thừa khí thang để công chứng
thực.

Mấy trường hợp kể trên, có thể nói rõ lục kinh chứng trị của Thương hàn có
quan hệ rất mật thiết với cách biện chứng theo bát cương. Cho nên trên lâm sàng chỉ
có lý giải được cơ chế bệnh lý của lục kinh mới có thể nắm vững được yếu lĩnh của
cách biện chứng luận trị và chiều hướng phát triển của bệnh ngoại cảm trong Thương
hàn luận; chỉ có lý giải được sự quan hệ giữa lục kinh với bát cương, mới có thể từ
trong các chứng hậu phức tạp mà phân biệt được biểu lý, hàn nhiệt, hư thực, và do đó
mới quyết định được cách trị liệu có hiệu quả.

4. Sự truyền biến, hợp bệnh, tính bệnh của lục kinh.


Bệnh chứng của lục kinh đã là phản ảnh trên lâm sàng về bệnh lý biến hóa của
tạng phủ kinh lạc, mà tạng phủ kinh lạc lại là một khối thống nhất chỉnh thể không
thể tách rời ra được, cho nên bệnh biến ở một kinh nào đó thì thường ảnh hưởng đến
một kinh khác, do đó mà xuất hiện chứng hậu truyền biến lẫn nhau, hợp bệnh và tính
bệnh với nhau.
Nói chung, chữ “truyền” là chỉ vào bệnh tình phát triển theo một chiều hướng
nhất định nào đó, chữ “biến” là chỉ vào bệnh tình chuyển biến tính chất theo một số
điều kiện đặc thù nào đó. Bệnh có truyền biến hay không, nói chung là quyết định do
2 nhân tố chủ yếu như sau: một là so sánh lực lượng thịnh suy giữa tà khí và chính
khí, hai là việc xử lý điều trị có thích đáng hay không? Như bệnh từ biểu vào lý, từ

11
dương vào âm, đấy là quy luật truyền biến chung nhất của tình trạng tà khí thắng
chính khí suy. Nhược bằng ở tình trạng tà khí suy chính khí phôi phục thì có thể từ
lý ra biểu, từ âm ra dương, như “Thương hàn mạch phù mà hoãn, chân tay tự ấm, đó
là thuộc về Thái âm… đến 7 – 8 ngày, đại tiện rắn là bệnh Dương minh”. Đó là chứng
hậu bệnh Thái âm chuyển thành chứng Dương minh phủ thực, lại như “Thiếu âm
trúng phong mạch dương vi mạch âm phù là sắp khỏi”, đấy là bệnh Thiếu âm chuyển
sang mạch chứng của bệnh Thái dương, nếu bệnh Quyết âm có xuất hiện triệu chứng
“nôn mà phát sốt” là chuyển sang chứng Thiếu dương. Đó đều là thuộc về chứng
truyền biến, từ lý đạt ra biểu, từ âm chuyển sang dương. Những trường hợp trước là
sự truyền biến của bệnh tình đang tiến triển mà trường hợp sau là bệnh tình chuyển
biến tốt, sắp khỏi.
“Hợp bệnh” và “Tính bệnh” đều là chứng hậu phức tạp, không thể dùng 1 kinh
để quy nạp được. Hễ chứng hậu của 2 kinh hoặc 3 kinh xuất hiện một lúc thì gọi là
“hợp bệnh”. Trong Thương hàn luận có 4 loại hợp bệnh là: hợp bệnh Thái dương +
Dương minh, hợp bệnh Thái dương + Thiếu dương, hợp bệnh Dương minh + Thiếu
dương và hợp bệnh Tam dương. Hễ bệnh chứng của một kinh chưa khỏi mà lại xuất
hiện chứng hậu của một kinh khác, gọi là “Tính bệnh”. Trong Thương hàn luận có 2
loại tính bệnh: Tính bệnh Thái dương + Dương minh, tính bệnh Thái dương + Thiếu
dương.
Ngoài ra, còn có do điều trị nhầm mà làm cho chính khí đại hư, bệnh tình trở
nên nguy kịch, gọi là “Hoại bệnh”. Như “Bệnh Thái dương, thầy thuốc cho phát hãn
rồi phát sốt sợ lạnh, nhân đó lại cho hạ, dưới tâm đấy tức, biểu lý đều hư, khí âm
dương đều kiệt, không có dương thời âm bị cô độc, lại dùng phép thiêu châm (1) nữa,
nhân đó mà ngực khó chịu, sắc mặt xanh vàng, da máy giật, khó chữa”. Đấy tức là
hoại chứng do bệnh Thái dương mà hạ nhầm thành chứng đều tức rồi lại thiêu châm.
Trường hợp tương tự như vậy tương đối nhiều trong sách “Thương hàn luận”, cho
nên Trương Trọng Cảnh đã đặc biệt đề xuất câu : “Xem ở mạch chứng, biết sai phạm
ở chỗ nào rồi tùy chứng mà chữa”, để làm nguyên tắc chẩn trị những loại bệnh trên
lâm sàng.

12
III. CHỨNG BỆNH CỦA LỤC KINH

Chứng bệnh của lục kinh là các thứ chứng hậu về bệnh lý biến hóa của tạng phủ
thuộc về lục kinh biểu hiện trên lâm sàng, vì thế phải tổng hợp bộ vị bệnh, tính chất
bệnh, cơ chế của bệnh, thể bệnh rồi phân tích quy nạp, phân làm bệnh chứng của kinh
nào để làm chỗ dựa mà biện chứng luận trị đấy là nội dung trọng yếu của Thương
hàn luận và cũng là tổng kết của những kinh nghiệm do công tác thực tiễn trên lâm
sàng đã thực hành có hiệu quả. Nay chứng bệnh của lục kinh biểu hiện trên lâm sàng,
cơ chế bệnh lý và nguyên tắc trị liệu chia ra trình bày như sau:

1. Chứng bệnh Thái dương.

a. Biểu hiện lâm sàng:

Thái dương chủ phần biểu của toàn thân, hễ cảm phải phong hàn thì xuất
hiện mạch chứng như phát sốt, sợ lạnh, nhức đầu cứng gáy, mạch phù, gọi là
bệnh Thái dương.

Bệnh Thái dương có thể phân làm hai loại hình lớn là “Kinh chứng” và “Phủ
chứng”. Kinh chứng là bệnh tà còn ở phần cơ biểu; phủ chứng là bệnh biến do tà ở
Thái dương kinh chưa giải, truyền vào trong bàng quang mà gây nên.

Biểu hiện lâm sàng của Thái dương kinh chứng là mạch chứng chủ yếu có
đủ của Thái dương bệnh kể trên, do thể chất của bệnh nhân khác nhau, tuy cùng
là cảm thụ phong hàn mà sinh bệnh, nhưng trên lâm sàng lại biểu hiện hai thứ
loại hình bệnh chứng khác nhau, tức là “Trúng phong” và “Thương hàn”. Mạch
chứng chủ yếu của Trúng phong là có đầu gáy cứng đau, phát sốt, ghê gió, tự
đổ mồ hôi, mũi thở kêu, nôn khan, mạch phù hoãn, do chỗ có đặc trưng “tự đổ
mồ hôi, mạch phù hoãn” cho nên lại gọi là chứng biểu hư. Mạch chứng chủ yếu
của Thương hàn là có đầu gáy cứng đau, phát sốt, sợ lạnh, không mồ hôi mà
suyễn, nôn ngược, mình đau, khớp xương đau nhức, mạch phù khẩn, do chỗ có

13
đặc điểm “không ra mồ hôi, mạch phù khẩn” cho nên lại gọi là chứng biểu thực. Chỗ
phân biệt giữa trúng phong và thương hàn là chỗ tự đổ mồ hôi hoặc không đổ mồ hôi,
mạch phù hoãn hoặc phù khẩn, cũng là đặc trưng biểu thực biểu hư khác nhau. Nhưng
biểu hư biểu thực trong này chẳng qua là lấy trúng phong thương hàn đối nhau mà
nói, biểu thực tuy đích xác là thực chứng, nhưng biểu hư lại không thể nhận cho là
hư chứng, khái niệm này cần phải hiểu rõ.

Thái dương phủ chứng là do tà ở kinh không giải được, truyền vào bàng
quang mà gây nên. Do bệnh tà có truyền vào khí phận và huyết phận khác nhau,
cho nên có hai thứ chứng hậu súc thủy (nước đọng) và súc huyết (huyết ứ).
Chứng súc thủy là bệnh tà ở khí phận mạch chứng chủ yếu là phát sốt, đổ mồ
hôi, phiền khát, hoặc khát muốn uống nước, uống nước vào thì mửa, tiểu tiện
không lợi, bụng dưới đầy, mạch phù sác; chứng súc huyết là bệnh tà ở huyết
phận, biểu hiện lâm sàng là bụng dưới quặn đau hoặc bụng dưới rắn đầy, như
cuồng, phát cuồng, tiểu tiện lợi, đại tiện ra phân đen, nhầy như sơn… chỗ phân
biệt chứng súc thủy và súc huyết chủ yếu là nhìn vào tiểu tiện lợi hay không lợi,
và có phát cuồng, như phát cuồng hay không. Bởi vì hai trường hợp ấy đều có
chứng hậu bụng dưới đầy mà trường hợp trước là tiểu tiện không lợi, không
phát cuồng hoặc như phát cuồng, trường hợp sau là tiểu tiện lợi, có như phát
cuồng hoặc phát cuồng. Ngoài ra, chứng súc thủy bụng dưới đầy tương đối nhẹ
mà chứng súc huyết thời tương đối nặng, phần nhiều là bụng dưới quặn đau
hoặc bụng dưới rắn đầy, sự phân biệt chẩn đoán đối với hai trường hợp ấy cũng
rất trọng hiện kiêm chứng hoặc biến chứng của Thái dương bệnh có quan hệ
Xuấtyếu.
với thể chất vốn có của bệnh nhân khác nhau và trị liệu không đúng cách. Như
vốn có chứng suyễn, có thể vì Thái dương trúng phong mà dẫn đến bệnh suyễn
tái phát, như ngày thường vốn có uất nhiệt ở trong lại bị bệnh thương hàn thời
có thể kiêm có chứng buồn phiền vật vã. Như bên trong có chứng thủy ẩm, lại
cảm thụ hàn tà thì có thể đồng thời xuất hiện các chứng nôn khan hoặc suyễn
thở; cũng có khi vì Thái dương kinh bị cảm thụ tà mà xuất hiện chứng lưng gáy
co rút khó chịu; hợp bệnh của Thái dương + Dương minh thì xuất hiện chứng
ỉa chảy hoặc nôn, còn vì trị liệu không đúng mà trở thành các chứng ngực kết
hoặc chứng đầy cũng không phải ít.
14
a. Cơ chế bệnh lý.
Thái dương chủ phần biểu, tổng quản dinh vệ trong toàn thân, hễ dinh vệ
điều hòa thì công năng vệ ngoại chặt chẽ, có thể ngăn ngừa không cho ngoại tà
xâm nhập, một khi ngoại tà xâm nhập được nhân thể thì dinh vệ đương đầu chịu
đựng trước, tà khí và chính khí giao tranh với nhau, dinh vệ mất sự điều hòa,
đây là cơ chế chủ yếu để sản sinh ra Thái dương bệnh kinh chứng. Chứng Thái
dương trúng phong tự đổ mồ hôi, mạch phù hoãn và Thái dương thương hàn
không có mồ hôi, mạch phù khẩn, đều có quan hệ với công năng của dinh vệ
mất điều hòa. Trường hợp trước về cơ chế của bệnh là thuộc về dinh âm không
đủ, vệ khí mất chứng năng đóng mở bên ngoài; trường hợp sau là thuộc về vệ
dương bị tắc, dinh huyết do đó mà uất trệ không thông.

Kinh mạch Thái dương lên trán, giao nhau tại đỉnh đầu; vào liên lạc với não,
xuống gáy, men theo trong bắp vai, kinh khí này bị ngoại tà phong hàn bó lại mà
không thông được, cho nên nhức đầu cứng gáy.
Thái dương kinh thuộc bàng quang và tiểu trường, do kinh mạch có quan hệ liên
lạc sở thuộc với nhau, như tâm có tương quan biểu lý với tiểu trường, thận có tương
quan biểu lý với bàng quang, cho nên giữa chúng với chúng có quan hệ sinh lý và
bệnh rất chặt chẽ.
Trong trạng thái sinh lý bình thường thì tiểu trường hay dẫn tâm hỏa đi xuống
lại có công năng tiếp thu thủy cốc ở dạ dày để tiến hành tiêu hóa và gạn lọc chất thanh
chất trọc, chất thanh là tân dịch được phân bố toàn thân, chất trọc là cặn bã, thông
qua đường đại tiểu tiện mà bài tiết ra ngoài cơ thể. Bởi vì, bàng quang có công năng
bài xuất nước tiểu, do đó đường tiểu tiện có bài xuất tiện lợi hay không công năng
khí hóa của bàng quang có bình thường hay không đều có quan hệ trực tiếp với nhau;
mà công năng khí hóa của bàng quang lại phải nhờ vào thận, nếu thận khí không đủ
sẽ có ảnh hưởng đến tác dụng khí hóa của bàng quang mà thủy khí không lưu hành
làm cho tiểu tiện không lợi hoặc đái lâu và đái không cầm được.

Ở trạng thái bệnh lý, nếu kinh chứng của Thái dương không chữa khỏi
bệnh tà sẽ từ kinh Thái dương mà xâm nhập vào phủ Thái dương, ảnh hưởng
15
đến công năng khí hóa của bàng quang, làm cho mất điều hòa, đến nỗi khi kết lại
nước đình lại mà sinh ra chứng tiểu tiện không thông lợi, đó là đặc trưng của chứng
súc thủy, nếu người bệnh vốn có chứng súc huyết, nhiệt kết ở hạ tiêu, đến nỗi huyết
ứ lại không lưu hành được, thì sẽ sinh ra chứng súc huyết bụng dưới rắn đầy, tiểu tiện
tự thông lợi.
Bệnh Thái dương, biểu tà chưa giải hoặc điều trị không đúng thì có khả
năng làm tổn thương thêm đến thiếu âm, tâm thận mà phát sinh biến chứng. Như
trong sách này nói: “Thái dương bệnh, phát hãn rồi ra nhiều mồ hôi không cầm
được, người ghê gió, tiểu tiện khó co duỗi được, dùng bài Quế chi gia Phụ tử
thang làm chủ” “Ra mồ hôi quá nhiều, người chắp tay ôm ngực, dưới tâm hồi
hộp muốn được ấn vào, dùng bài Quế chi Cam thảo thang làm chủ”. Trường
hợp trước là tổn thương đến thận dương, trường hợp sau là tổn thương đến tâm
dương đều là sự phản ảnh bệnh lý do điều trị không đúng mà ra mồ hôi nhiều,
ảnhNguyên
b. hưởng đến
tắc trị
tâmliệu.
thận.

Nguyên tắc trị liệu bệnh Thái dương là: Kinh chứng thì dùng phép phát hãn,
chọn các thang tân ôn giải biểu mà sử dụng, trong phủ chứng, thấy có chứng súc thủy
thì dùng phép hóa khí hành thủy, thấy chứng súc huyết thì dùng phép phá huyết trục
ứ, còn như có kiêm chứng hoặc có biến chứng thì có thể tùy chứng mà chữa.

2. Bệnh chứng Dương minh

a. Biểu hiện lâm sàng.

Bệnh Dương minh là giai đoạn dương khí cang thịnh, nhiệt tà đốt dữ đến cực độ
trong quá trình bệnh ngoại cảm. Xét về tính chất chứng hậu mà nói thì nó thuộc lý
nhiệt, thực chứng. Bệnh Dương minh có thể từ kinh khác chuyển đến, cũng có thể từ
bản thân kinh ấy mà phát ra, vì chỗ hỏa nhiệt làm tổn thương tân dịch cho nên mạch
và chứng điển hình là mình nóng, tự đổ mồ hôi, không sợ lạnh mà lại sợ nóng, mạch
đại; thấy được mạch và chứng như thế thì gọi là bệnh Dương minh. Bệnh Dương
minh chia làm hai loại hình “ kinh chứng” và “phủ chứng”, tà truyền vào phần lý tuy
nhiệt tà nhiệt truyền vào trong, kết với các chất cặn bã trong ruột làm thành phân táo,
gọi là phủ chứng, biểu hiện lâm sàng của kinh chứng bệnh Dương minh là mình nóng,

16
đổ mồ hôi, miệng khát uống luôn, mạch hồng đại, rêu lưỡi vàng ráo… biểu hiện
lâm sàng của phủ chứng bệnh Dương minh là sốt cơn, nói sảng, đại tiện bí, bụng
đầy mà đau, mồ hôi ra tầm tã, mạch trầm thực. Nặng lắm thì có thể xuất hiện các
chứng trạng nghiêm trọng như mân áo, sờ giường, hơi suyễn thở, mắt trực thị.

Ngoài ra, tỳ không thể giúp vị để vận hành tân dịch mà xuất hiện chứng đại tiện
bí, loại đại tiện bí này gọi là “tỳ ước”.

Lại nữa, Dương minh uất nhiệt không giải, giả sử cùng câu kết với thấp nhiệt,
thấp nhiệt đã không thông qua sự đổ mồ hôi mà tán ra ngoài, cũng không thể thông
qua đường tiểu tiện mà bài tiết, kết quả là thấp nhiệt uất bốc ở kinh Dương minh, làm
trở trệ công năng khí hóa, gây cho nước mật không đi theo con đường của nó mà tràn
ra ngoài, nhuộm thâm da dẻ nên sẽ phát sinh bệnh hoàng đản, chứng hậu lâm sàng
đầu tiên là không mồ hôi hoặc chỉ ra mồ hôi đầu, tiểu tiện không lợi. Mạch chứng
chủ yếu của bệnh hoàng đản là mình mẩy và mắt đều phát vàng, vàng tươi như màu
quả quít, bụng hơi đầy, hoặc phát sốt, hoặc kiêm có biểu chứng.

b. Cơ chế bệnh lý.

Dương minh thuộc vị, với đại trường, do chỗ quan hệ liên thuộc giữa kinh
mạch, tỳ với vị, phế với đại trường có tương quan biểu lý với nhau, cho nên giữa
những cái đó có quan hệ sinh lý bệnh lý rất mật thiết.

Trong trạng thái sinh lý bình thường, công năng chủ yếu của vị là thu nạp và
làm ngấu nhừ thủy cốc, tỳ chủ việc vận hóa phần tinh vi của thủy cốc, tỳ ưa táo mà
ghét thấp, vị ghét táo mà ưa nhuận, chất táo và chất thấp giữa tỳ và vị giúp đỡ cho
nhau, luôn luôn điều hòa để duy trì sinh lý bình thường là tiêu hóa, hấp thu và chuyển
vận phân bố thủy cốc; công năng chủ yếu của đại trường là truyền hóa chất cặn bã,
nhờ sự dịu mát của phế khí và sự phân bố tân dịch và bài tiết, truyền đạt, để giữ lấy
công năng sinh lý bình thường.

Trong trạng thái bệnh lý, như ngoại tà nhập lý mà hóa nhiệt và táo hợp lại
trong vị, thiêu đốt tân dịch cũng có thể xuất hiện chứng mình nóng, đổ mồ hôi,

17
khát uống nước luôn, mạch hồng đại gọi là Dương minh kinh chứng; như ngoại tà
nhập lý mà hóa thành nhiệt, cùng hợp với táo nhiệt của đại trường, làm cho tân dịch
tiêu hao, táo kết thành chứng thực, ngưng trệ ở trong, tức là có thể sản sinh ra chứng
thực của Dương minh phủ chứng như sốt cơn, nói sảng, đại tiện bí, bụng đầy mà đau,
mạch trầm thực.

Vì Dương minh có tương quan biểu lý với Thái âm, cho nên Dương minh
bị bệnh, đến tình huống nào đó thường có thể chuyển biến thành bệnh Thái âm.
Như bệnh dương minh mà công hạ quá sớm hoặc quá mạnh thì có thể tổn thương
đến tỳ dương mà chuyển thành bệnh Thái âm. Ví dụ phân chỉ rắn lúc đầu mà
sau nhão thì không thể công, công thì bụng đầy, không ăn được. “Lại như bụng
hơi đầy, phân ban đầu rắn sau nhão không thể công”. Trong ấy các chứng bụng
đầy không ăn được, đại tiện nhão, v.v… tức là chứng hậu bệnh Dương minh
chuyển biến thành bệnh Thái âm.

Như đã kể trên, cơ chế bệnh lý của bệnh Dương minh với bệnh Thái âm
có liên hệ nhất định. Dựa theo biểu hiện lâm sàng của hai trường hợp này kết
hợp với cơ năng chống bệnh của bệnh nhân khỏe hay yếu để phân tích thì bệnh
Dương minh là thuộc nhiệt chứng, thực chứng, bệnh Thái âm là thuộc hàn chứng,
hư chứng, bệnh Dương minh chuyển biến thành bệnh Thái âm tức là biểu hiện
sức chống bệnh từ chỗ khỏe mà giảm yếu đi; bệnh Thái âm chuyển biến thành
bệnh Dương minh là biểu hiện sức chống bệnh từ chỗ yếu mà chuyển thành
khỏe. Các nhà y học cổ đại nhận rằng: “Thực là chứng Dương minh, hư là chứng
Thái âm”. Xem qua các lối giải thích này là lý luận có căn cứ, có cơ sở thực
tiễn nhất định vậy.
c. Nguyên tắc trị liệu.

Nguyên tắc trị liệu của Dương minh kinh chứng thì chủ yếu là dùng phép thanh,
có thể chọn các bài thuốc tân hàn, khổ hàn để thanh giải lý nhiệt; Dương minh phủ
chứng thì chủ yếu là dùng phép hạ, có thể chọn dùng các bài thuốc khổ hàn để tả hạ
(xổ). Chứng tỳ ước thì chỉ có thể áp dụng phép nhuận hạ để thông dần dần, bệnh
hoàng đản thì có thể vận dụng các bài thuốc thanh nhiệt, lợi đởm, thấm thấp.

18
3. Chứng bệnh Thiếu dương.

a. Biểu hiện lâm sàng.

Bệnh Thiếu dương là chứng hậu bệnh tà không ở phần biểu, lại chưa vào
phần lý, mà là ở khoảng nửa biểu nửa lý. Bệnh này có thể từ kinh khác truyền
đến, cũng có thể từ bản thân kinh ấy mà phát ra, hễ khi xuất hiện các mạch chứng
như miệng đắng, cổ khô, mắt mờ, nóng rét qua lại, ngực sườn đầy tức, lìm lịm
không muốn ăn uống, tâm phiền hay nôn, mạch huyền tế, gọi là bệnh Thiếu
dương. Biểu hiện lâm sàng của bệnh Thiếu dương là có thể xuất hiện toàn bộ
mạch và chứng, chủ yếu như đã kể trên cũng có thể là xuất hiện một số chứng
hậu trong đó, vì nó đều khác với biểu chứng của bệnh Thái dương và lý chứng
của bệnh Dương minh, mà ở khoảng giữa biểu và lý, cho nên gọi là chứng bán
biểu bán lý. Vì sự phát triển của bệnh Thiếu dương có hai xu thế là hướng vào
lý và hướng ra biểu, cho nên có thể nói “Thiếu dương là cái bản lề”. Bệnh Thiếu
dương mà hướng ra biểu hay hướng vào lý, chẳng qua là xuất hiện dưới hình
thức kiêm chứng mà ra. Như Thiếu dương biểu tà chưa giải mà Dương minh vị
phủ đã thành thực chứng, xuất hiện các chứng nóng rét qua lại, miệng đắng,
bụng đầy đau, không đi ngoài được, sốt cơn, hơi khó chịu, tức là chứng Thiếu
dương kiêm lý thực chứng, chứng trạng thấy phát sốt, hơi sợ lạnh, chân tay,
khớp xương đau nhức khó chịu, hơi nôn, dưới tâm1 bó chặt, tức là chứng Thiếu
dương kiêm biểu chứng chưa hòa, như bệnh thiếu dương thấy trong bụng đau
thắt là kiêm có chứng lý hư. Đàn bà bị bệnh trúng phong đúng lúc có kinh hoặc
lúc dứt kinh, tà nhiệt hãm vào, trên lâm sàng xuất hiện chứng “Sốt lui mà mạch
trì, mình mát, dưới ngực sườn đầy như chứng kết hung, nói sảng” hoặc chứng
hậu lên cơn, nóng lạnh như sốt rét, đấy là chứng “nhiệt nhập huyết thất”, cũng
thuộc phạm vi của bệnh Thiếu dương.

Ngoài ra, như bệnh Thiếu dương thấy ỉa chảy là hợp bệnh Thái dương +
Thiếu dương; thấy ỉa chảy mà đồ ăn còn lại ở trong, mạch hoạt sác là hợp bệnh
Dương minh + Thiếu dương, thấy đầu gáy cứng đau, xây xẩm, thỉnh thoảng như

1
Dưới tâm: vùng vị quản

19
tức ngực, dưới tâm đầy rắn, là tính bệnh Thái dương + Thiếu dương. Nếu trị liệu
không đúng cũng có thể trở thành biến chứng khí uất mà có chứng thủy ẩm
ngưng đọng, hoặc trở thành hoạn chứng như ngực đầy khó chịu, kinh sợ, tiểu
tiện không lợi, nói sảng, không thể trăn trở được.
b. Cơ chế bệnh lý.

Thiếu dương thuộc đởm và tam tiêu, do sự quan hệ liên thuộc giữa kinh mạch,
can với đởm, tam tiêu với tâm bào lạc, có tương quan biểu lý với nhau, do đó chứng
hậu của bệnh Thiếu dương có quan hệ mật thiết với bệnh lý biến hóa của những tạng
phủ kinh lạc ấy.

Trong trạng thái sinh lý bình thường, do đởm có công năng chứa tinh trấp
mà chủ việc sơ tiết, hễ đởm hòa thì tỳ vị không bị tà quấy rối, cho nên công
năng của tỳ vị là thu nạp và tiêu hóa thủy cốc được kiện toàn. Vì đởm ký thác
vào can, bẩm thụ mộc khí của mùa xuân, chủ việc quyết đoán, vả lại tướng hỏa
du hành khắp tam tiêu, bên trong thì ký vào can đởm, cho nên chức năng sơ tiết
của can cũng bao quát nhịp nhàng với công năng của can đởm. Tam tiêu là
đường lối để vận hành khí cơ của dinh vệ, liên quan với đởm. Như thiên Dinh
khí sách Linh khu nói: “Khí từ Thái âm mà ra… hợp với Thủ Thiếu dương, đi
lên rót vào Đản trung, tán ra tam tiêu, từ tam tiêu rót đến đởm, ra sườn, rót vào
túc Thiếu
Trongdương
trạng kinh”.
thái bệnh lý, như ngoại tà xâm phạm Thiếu dương thì khí hóa của
can đởm sẽ bị ảnh hưởng, nghịch lên hoặc găng bốc lên, do đó mà xuất hiện chứng
hậu, cổ khô, miệng đắng, mắt mờ. Đồng thời do tà phạm vào đởm phủ, nên đởm khí
không thể giáng xuống được, do đó mà dẫn đến vị khí nghịch lên. Như Linh khu nói:
“Tà ở đởm, nghịch ở vị”. Cho nên xuất hiện các chứng hậu công năng tiêu hóa thất
thường như tâm phiền, hay nôn, lìm lịm không muốn ăn uống. Nếu tà phạm vào Thiếu
dương, khí cơ thông sướng, thăng giáng không lưu lợi, thì có thể phát sinh chứng
ngực sườn đầy tức. Đến như phát sinh chứng nóng rét qua lại, đấy là phản ảnh sự giao
tranh giữa tà khí và chính khí, nếu thực chính khí thắng tà khí thời thượng tiêu sẽ
thông, tân dịch hạ được, vị khí nhờ điều hòa mình sẽ ra mồ hôi dâm dấp mà khỏi.
“Nếu như chính khí hơi yếu không thể đuổi được tà ra ngoài, tà khí và chính khí phân
tranh thời nóng rét qua lại. Như trong sách này nói: “Huyết kém khí hết, tấu lý mở ra,

20
tà khí do đó mà lẻn vào, cùng kích bác với chính khí, kết lại ở dưới sườn, chính
khí và tà khí giao tranh, nóng rét qua lại, có lúc lên cơn, có lúc dứt.”.
c. Nguyên tắc trị liệu.
Nguyên tắc trị liệu bệnh Thiếu dương là phải hòa giải biểu lý làm chủ yếu,
không nên sử dụng các phép phát hãn, thổ, hạ. Vì bệnh tà Thiếu dương không ở
biểu cho nên không phải phát hãn, nếu phát hãn thì do chỗ tổn thương tân dịch, hao
sút chính khí, thường trở lại làm cho bệnh truyền vào trong. Bệnh tà Thiếu dương
cũng không ở lý, nếu nhầm cho hạ thì sẽ hao tổn chân âm, âm hư hỏa bốc thì dễ
thành chứng kinh sợ. Trong ngực cũng không có thực tà , cho nên cũng không nên
cho thổ, thổ thì hại dương mà dễ biến chứng thành tâm hồi hộp. Nhưng vì bệnh
Thiếu dương phần nhiều lại có chứng hậu kiêm biểu kiêm lý, có thể theo trên cơ sở
hòa giải, xem bệnh tình khác nhau như thế nào mà kiêm dùng phép giải biểu công
lý, tùy chứng mà trị.
4. Bệnh chứng Thái âm.

a. Biểu hiện lâm sàng.

Biểu hiện lâm sàng của bệnh Thái âm chủ yếu là chứng hậu tỳ hư thấp
thịnh. Bệnh Thái âm có thể do lúc bệnh tam dương điều trị không đúng làm tổn
thương tỳ dương mà phát ra. Cũng có thể do tà của phong hàn trực tiếp xâm
nhập mà gây nên. Cho nên hay xuất hiện các mạch chứng như bụng đầy mà thổ,
ăn không xuống, ỉa chảy, thỉnh thoảng đau bụng, mạch hoãn nhược, gọi là bệnh
Thái âm.

Biểu hiện lâm sàng của bệnh Thái âm là mạch chứng chủ yếu kể trên nhưng
chứng bụng đầy đau của bệnh Thái âm cùng với chứng bụng đầy đau của bệnh Dương
minh là có phân biệt. bệnh Dương minh là thực nhiệt, có phân táo kết ở trong thì bụng
đầy, đau nhiều, mà đau thì chối nắn, còn chứng bụng đầy đau của bệnh Thái âm này
là hư hàn, cho nên bụng đầy đau có lúc bớt và lại ưa nắn, hoặc được ấm thì đỡ. Như
chứng ỉa chảy của bệnh Thái âm phần nhiều có đặc điểm miệng không khát, dẫu có
khát cũng chỉ ưa uống nóng mà không uống nhiều, đấy cũng là chỗ khác với bệnh
Dương minh. Vì tỳ chủ chân tay bắp thịt, khi ngoại tà phong thấp xâm phạm vào cơ
biểu uất lại không thông, lại có thể xuất hiện chứng hậu chân tay nhức mỏi khó chịu.

21
Đang lúc bệnh Thái âm từ âm chuyển thành dương, thành thực, có thể biến
thành bệnh Dương minh; nếu thấp trệ không hóa được, ảnh hưởng đến sự bài
tiết của nước mật, có thể dẫn đến phát ra chứng âm hoàng. Đến như Thái âm
kiêm biểu chứng thì biểu hiện lâm sàng là ỉa chảy, bụng trướng đầy, mình mẩy
đau nhức. Bệnh Thái dương cho hạ nhầm, tà hãm vào bệnh Thái âm mà biểu
vẫn chưa giải thì biểu hiện lâm sàng là ngoài chứng biểu của Thái dương ra còn
có thể thấy các chứng bụng đầy đau, hoặc rắn chắc mà đau.

b. Cơ chế bệnh lý.

Thái âm thuộc tỳ và phế, do chỗ quan hệ liên thuộc giữa kinh mạch, tỳ với vị,
phế với đại trường có tương quan biểu lý với nhau cho nên trên mặt sinh lý bệnh lý
đều có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Trong trạng thái sinh lý bình thường, về công năng làm ngấu nhừ thủy cốc
tiêu hóa và để bài tiết ra ngoài là do vị với đại trường phụ trách riêng. Mà chất
tinh vi của thủy cốc nhờ vào sự vận hóa của tỳ và sự phân bố của phế để đưa đi
nuôi dưỡng toàn thân, tỳ lấy “thăng” làm việc thường, phế lấy “giáng” làm
thuận. Tỳ chủ việc vận hóa, đưa khí thanh dương lên thay cho vị để vận hành
tân dịch; đại trường thì nhờ sự lắng xuống của phế và sự phân bố của tân dịch
mà có thể bài tiết, truyền tống được. Công năng của tỳ với vị, phế với đại trường
được điều hòa thì sự tiêu hóa, chuyển vận, thăng giáng được duy trì bình thường.
Khí thanh dương thăng được, thời chân tay xương cốt, ngũ tạng lục phủ mới có
thể dinh dưỡng được đầy đủ, chất trọc âm lắng xuống được, thời các chất cặn
bã mới có thể bài xuất ra ngoài, thân thể mới khỏe khoắn vô bệnh.

Trong trạng thái bệnh lý, như hàn thấp cản trở bên trong, làm tổn hại tỳ dương
hoặc hàn tà phạm thẳng vào tỳ kinh, hoặc vì điều trị không đúng cách làm tổn hại
trường vị, đều có thể ảnh hưởng đến sự tiêu hóa bài tiết. hoặc lúc mới mắc bệnh hoặc
lúc bệnh đang tiến triển, đều có thể xuất hiện chứng hậu bệnh Thái âm kể trên. Do
hàn tà thấp tà làm trở ngại sự vận hóa, cho nên thỉnh thoảng thấy đau bụng; hàn thấp
phạm vào vị thì vị khí đã không giáng xuống mà lại nghịch lên, cho nên thấy nôn

22
mửa tỳ mất sự kiện vận, vị khí trở trệ cho nên ăn không xuống, hàn thấp không
hóa, tỳ khí không thăng, ảnh hưởng đến đường ruột, cho nên tự ỉa chảy. Nếu
thầy thuốc biện chứng không chính xác, trị liệu thất cách, nhầm dùng thuốc
công hạ thời tỳ vị càng hư, có thể tạo thành chứng ỉa chảy không cầm được, nên
hàn tà thừa hư mà kết ở dưới hoành cách mô, cũng có thể phát sinh chứng rắn
đầy ở vùng bụng.

Ngoài ra, do Thái âm với Dương minh có tương quan biểu lý với nhau cho nên
bệnh Thái âm có khả năng chuyển biến thành bệnh Dương minh. Như trong sách này
nói: “Thương hàn mạch phù hoãn, chân tay ấm, đấy là còn thuộc bệnh Thái âm, đến
7-8 ngày, đại tiện rắn là bệnh Dương minh”. Đến như sự chuyển hóa giữa hai loại
bệnh ấy thời quyết định là do điều kiện thân thể của bệnh nhân và việc điều trị của
thầy thuốc.

c. Nguyên tắc trị liệu.

Bệnh Thái âm là vì thuộc chứng hư hàn, ở lý, cho nên nguyên tắc trị liệu
là phải ôn bổ làm chủ yếu, trọng điểm là ôn trung tán hàn. Nhưng bệnh Thái âm
thường kiêm có chứng hậu khác, do đó trên lâm sàng nếu biểu chứng nặng hơn
thì giải biểu trước, lý chứng gấp hơn thì phải trị lý trước.

5. Bệnh chứng quyết âm

a. Biểu hiện lâm sàng.

Bệnh quyết âm là thương hàn ở giai đoạn gần cuối, bệnh tình tương đối
phức tập mà nguy nặng. Bệnh này thuộc về chứng hậu hàn nhiệt phức tạp, đặc
điểm lâm sàng là hàn nhiệt lẫn lộn, vì cơ chế bệnh lý khác nhau, trên lâm sàng
có thể quy nạp làm 4 loại “Thượng nhiệt hạ hàn”, “Quyết nhiệt thắng phục”,
“Quyết nghịch” và chứng “Ỉa mửa”.

- Chứng thượng nhiệt hạ hàn. Chứng này phần nhiều thể hiện khi bệnh thương
hàn bị điều trị nhầm mà gây nên, chủ chứng là “tiêu khát, khí xông lên tâm,

23
trong làm tâm đau nóng, đói mà không muốn ăn, ăn thời nôn ra giun đũa, xổ
thời đi ngoài không cầm được”. Ba trứng trước thì biểu hiện chủ yếu là nóng
ở thượng bán thân (thượng nhiệt) các chứng sau thì biểu hiện chủ yếu là lạnh
ở hạ bán thân (hạ hàn)l.
- Chứng quyết nhiệt thắng phục. Đặc điểm lâm sàng của chứng này là chân tay
quyết lạnh và phát hiện cùng xuất hiện nhiệt xen lẫn nhau, có thể dựa theo thời
gian xuất hiện chứng quyết lạnh hoặc chứng phát nhiệt dài hay ngắn mà suy
đoán được sự thịnh suy của quyết lạnh và phát nhiệt cũng như xu thế diễn biến
lẫn nhau của nó theo đó mà phân tích được sự biến chuyển và tiên lượng của
bệnh tình. Nếu thời gian xuất hiện chứng quyết lạnh và thời gian xuất hiện
chứng phát nhiệt bằng nhau, hoặc phát nhiệt nhiều hơn quyết lạnh, đều là biểu
thị chính khí có thể thắng tà khí, là dấu hiện sắp khỏi. Như trong sách này nói:
“bệnh thương hàn có chứng quyết lạnh 5 ngày, phát nhiệt cũng 5 ngày thì ngày
thứ 6 đáng lý là quyết lạnh trở lại, nếu không quyết lạnh là tự khỏi”. Với câu
“Thường lạnh ít, phát nhiệt nhiều thì bệnh đáng lý khỏi”. Trái lại, chứng quyết
lạnh nhiều hơn chứng phát nhiệt, hoặc hết quyết lạnh rồi lại phát nhiệt không
ngừng, đều là hiện tượng chính khí không thắng nổi tà khí, bệnh thế tiến triển
hoặc trở nên ác hóa. Như trong sách này nói: “Thương hàn quyết lạnh 4 ngày,
phát nhiệt lại 3 ngày, rồi lại quyết lạnh 5 ngày là bệnh tiến triển. Hàn nhiều
nhiệt ít, dương khí thoái, cho nên bệnh tiến triển” và “Thương hàn phát nhiệt
4 ngày, quyết lạnh lại ba ngày rồi lại phát nhiệt 4 ngày là phát nhiệt không
khỏi được, tất ỉa ra máu mủ”.
Theo các đoạn kể trên, số ngày quyết lạnh và số ngày phát nhiệt ngắn hay dài
chỉ là chứng quyết lạnh và chứng phát nhiệt so với nhau nhiều hay ít mà nói, chứ
không phải số ngày cố định của chứng quyết lạnh và chứng phát nhiệt. Sự ghi chép
tương tự như vậy thường thấy trong các điều văn của Thương hàn luận, độc giả
phải chú ý.
- Chứng quyết nghịch. Chứng quyết nghịch cũng là chứng chủ yếu của bệnh
quyết âm. Quyết nghịch tức là ý nói chân tay quyết lạnh, nhẹ thì lạnh không
quá cổ tay, không quá mắt cá, nặng thì có thể quyết lạnh đến quá khủy tay,
quá đầu gối. Nguyên nhân gây ra chân tay quyết lạnh rất nhiều, như hàn quá

24
mà hóa quyết gọi là “hàn quyết”, nhiệt quá mà phát quyết gọi là “nhiệt quyết”,
giun đũa quấy ở trong gọi là “hồi quyết”, chân dương suy thoái mà phát quyết
gọi là “tạng quyết”, cho đến thủy tà phạm vào tâm mà quyết, đờm dãi vít lấp
mà phát quyết.
Chủ chứng của hàn quyết là “ra nhiều mồ hôi, sốt không lui, bên trong co thắt,
chân tay đau nhức”, lại nói “ỉa chảy quyết nghịch mà sợ lạnh; chủ chứng của nhiệt
quyết là “Thương hàn mạch hoạt mà chân tay quyết lạnh là lý có nhiệt”, chủ chứng
của hồi quyết là “Thương hàn mạch vi mà chân tay quyết lạnh, ăn vào thì nôn, lại khó
chịu là giun thấy mùi đồ ăn mà ngoi lên, người bệnh hay mửa ra giun”. Chủ chứng
của tạng quyết là “Thương hàn mạch vi mà chân tay quyết lạnh, da lạnh, người vật
vã mà không lúc nào yên”. Chứng quyết lạnh do thủy tà lấn tâm là “Thương hàn chân
tay quyết lạnh mà tim hồi hộp”, đờm dãi vít lấp mà chân tay quyết lạnh là “bệnh nhân
chân tay quyết lạnh, mạch có lúc khẩn, vùng thượng vị đầy khó chịu, đói mà không
ăn được” .
- Chứng ỉa chảy, chứng nôn ọe: Chứng ỉa chảy hoặc nôn ọe xuất hiện ở bệnh
quyết âm thương hàn tương đối nhiều. Đấy là vì tạng phủ của bệnh nhân hư
thực khác nhau, bệnh tà thịnh suy khác nhau, dẫn đến âm dương thắng phục
khác nhau, bệnh lý phản ứng hàn nhiệt biến hóa phúc tạp. Chứng ỉa chảy trong
bệnh quyết âm có thể quy nạp làm ba loại hình. Như tà nhiệt cản trở, bức
xuống đường ruột xuất hiện chứng “ỉa chảy thuộc nhiệt, mót rặn” là ỉa chảy
mà phân đọng lại, lấy “ỉa chảy, nói sảng” làm chủ chứng, là chứng ỉa chảy
thuộc thực nhiệt; nếu âm hàn nhiều ở trong, dương khí bị uất át, xuất hiện “ỉa
chảy ra cái và nước” làm chủ chứng, đấy là chứng ỉa chảy vì hư hàn.
Chứng nôn ọe trong bệnh quyết âm cũng có thể quy nạp làm 3 loại hình: Như
uống đồ lạnh tích đọng lại, thì lấy những chứng “nôn khan, mửa ra nước dãi, nhức
đầu do âm hàn nghịch lên mà gây ra chủ chứng, đó là nôn mửa vì uống đồ lạnh, như
lý chứng ra phần biểu, xuất hiện chứng “nôn mà phát sốt” là nôn mửa vì sốt; nếu do
nước tích tụ mà gây bệnh, hoặc là chứng phủ thực táo kết, vị khí nghịch lên, xuất hiện
chứng “ọe mà bụng đầy” là chứng ọe ngược vì lý thực.

b. Cơ chế bệnh lý.

25
Quyết âm thuộc can với tâm bào, do chỗ quan hệ liên thuộc giữa kinh mạch, can
với đởm, tâm bào với tam tiêu có tương quan biểu lý với nhau. Do đó, giữa các tạng
phủ ấy trên mặt sinh lý và bệnh lý có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Trong trạng thái sinh lý bình thường, do tướng hỏa của tâm bào giao xuống
dưới làm cho thận thủy nuôi dưỡng được can mộc, mọi việc sơ tiết được điều
đạt làm can cũng nhờ đó mà giữ được trạng thái bình thường. Vả lại, thủy và
hỏa giúp nhau (ký tế) khí của tam tiêu được thông sướng thì thượng tiêu được
mát mẻ hòa bình, hạ tiêu được ấm áp. Như thế thì công năng của tạng phủ được
điều hòa, âm dương được thăng bằng, trên mát mẻ, dưới ấm áp, thân thể cũng
khỏe khoắn vô bệnh.
Trong trạng thái bệnh lý, nếu tật bệnh tà xâm nhập hoặc hãm vào trong,
bệnh đưa đến quyết âm thì can mộc mất điều hòa, tâm bào lạc cũng bị tà xâm
phạm, tướng hỏa bốc lên mà sinh ra nhiệt, tâm hỏa không thể đưa xuống dưới
mà sinh ra hàn. Trong quá trình giao tranh giữa tà khí và chính khí, nếu dương
có thể thắng được âm, hoặc dương thịnh âm suy thời biểu hiện chứng quyết lạnh
và phát nhiệt bằng nhau, hoặc hàn ít nhiệt nhiều; nếu dương suy âm thịnh hoặc
dương phục thái quá thời biểu hiện nhiệt nhiều hàn ít, hoặc quyết lạnh hết mà
nhiệt không hết, đấy là cơ chế của chứng quyết nhiệt thắng phục. Nếu như bệnh
tà hãm vào trong, công năng của tạng phủ mất điều hòa, khí huyết rối loạn, âm
dương không thuận tiếp với nhau, thì có thể biểu hiện các chứng quyết nghịch
khác nhau. Như âm nhiều dương ít thời sinh hàn quyết; tà nhiệt hãm vào sâu
thời sinh nhiệt quyết, vị khí hư hàn, giun đũa quấy động thì sinh hồi quyết; âm
hàn nhiều ở trong, dương khí suy kiệt nên tạng quyết, cho đến tình trạng nước
đọng ở vùng vị quản, dương khí ắt không phân bố mà sinh quyết; đờm ngăn trên
cách mô, dương khí ở ngực bị át không tuyên thông mà sinh quyết. Đến như
chứng ỉa mửa thời cơ chế là can khí, vị khí nghịch lên hoặc thấp nhiệt bức xuống
dưới, hoặc thực nhiệt kết tụ lại, hoặc tỳ vị hư hàn mà gây nên.
c) Nguyên tắc trị liệu.
Bởi vì bệnh Quyết âm tương đối phức tạp, cho nên khi lâm sàng cần phải căn
cứ vào chứng hậu cụ thể, kết hợp với thể chất của bệnh nhân để tùy chứng mà điều
trị; nói chung, hễ nhiệt thì nên thanh nên hạ, hàn thì nên ôn nên bổ. Đối với các chứng

26
hậu phức tạp như hàn nhiệt trên dưới khác nhau. Trong ngoài khác nhau, hư
thực lẫn lộn. Ngoài việc dùng thuốc thang để chữa, còn có thể dùng phép cứu
để giải quyết.
Tóm lại, cách điều trị bệnh quyết âm là phải tùy thời mà chiếu cố, làm cho khí
âm, khí dương được thuận tiếp nhau. Chứng quyết lạnh là phải chú ý hồi dương, đồng
thời phải chú ý bảo tồn âm dịch.
Ngoài ra, điều trị bệnh Quyết âm, lại có những trường hợp phải kiêng nhất định.
Như chân tay quyết nghịch thì không thể công hạ, ỉa chảy ra toàn cái và nước thì
không thể công biểu, nôn mửa do ung nhọt bên trong thì không thể trị nôn mửa; đấy
là các trường hợp cần chú ý trong khi điều trị lâm sàng.

6. Chứng bệnh Thiếu âm.


a. Biểu hiện lâm sàng.

Bệnh Thiếu âm là giai đoạn cuối cùng và rất nghiêm trọng trong quá trình
diễn biến, phát triển của bệnh lục kinh thương hàn. Cho nên bệnh thiếu âm thì
“chứng hậu tử vong” nhiều hơn so với các bệnh khác. Bệnh mà đến kinh thiếu
âm thì cơ năng kháng bệnh tuy giảm rõ rệt, biểu hiện toàn thân là lý chứng, hư
chứng và hàn chứng. Mạch chứng chủ yếu của nó là “mạch vi tế, chỉ muốn ngủ”.
Bởi vì dương khí đã suy yếu, dinh huyết không đủ, cho nên mạch vi tế, xuất hiện
trạng thái mê man mơ hồ, tinh thần suy kém cực độ, muốn ngủ không được, tựa
như ngủ mà không phải ngủ.

Biểu hiện lâm sàng của bệnh thiếu âm là trừ các chủ chứng kể trên, do thể
chất vốn có của bệnh nhân mạnh yếu khác nhau, có thể phân ra hai loại hình lớn
là hàn hóa và nhiệt hóa. Hàn hóa là chứng hậu bản thân của bệnh Thiếu âm hư
hàn, quy nạp các chứng hậu gồm có sốt mà sợ lạnh, tâm phiền, ỉa mửa, khát
muốn uống đồ nóng, uống mà không nhiều, tiểu tiện trong mà dài, chân tay
quyết lạnh, nằm co, lấy dương hư làm chứng trạng chủ yếu. Nhưng cũng xuất
hiện chứng giả nhiệt làm âm chứng cực độ tương tự như dương chứng, bởi vì
hư dương bị âm hàn ngăn trở, lại thấy các chứng trạng phát sốt, mặt đỏ, hoặc
vật vã khó chịu v.v … Chứng nhiệt hóa là biến chứng của bệnh Thiếu âm. Quy

27
nạp các chứng hậu gồm có các chứng ỉa chảy, miệng khát nước, tâm phiền, nằm
không được, họng đau, trong cổ mọc mụn v.v … lấy âm hư làm chứng trạng
chủ yếu. Ngoài ra, vì Thiếu âm với Thái dương có tương quan biểu lý với nhau, bệnh
Thiếu âm mới bắt đầu thường kèm có biểu chứng của Thái dương. Trong quá trình
của bệnh Thiếu âm nhiệt hóa vì dương khí dần dần hồi phục, tà dần dần dồn về vị
phủ, cũng có thể xuất hiện các chứng trạng Dương minh lý chứng, thực chứng như
miệng khô họng ráo, bụng trướng không đi đồng, hoặc ỉa ra nước trong, dưới tâm đau
nhức.
Tóm lại, sự biến hóa của bệnh Thiếu âm tương đối phức tạp, dương hư âm
hư, thậm chí âm dương đều hư cũng có; có chứng phát sốt do lý hư kiêm biểu
chứng, cũng có khi chuyển thành chứng lý thực của dương minh táo hỏa.

b. Cơ chế bệnh lý.

Thiếu âm là cái bản lề của 3 kinh âm, thuộc tâm thận tổng quản phần khí của
thủy hỏa. Do quan hệ liên thuộc giữa kinh mạch với nhau như tâm với tiểu trường,
thận với bàng quang có tương quan biểu lý với nhau, cho nên sự quan hệ về sinh lý,
bệnh lý của các tạng phủ rất chặt chẽ.

Trong trạng thái sinh lý bình thường. Vì tâm chủ huyết mạch lại còn chủ thần
minh, làm chức năng “quân chủ”, đối với sự hoạt động sinh lý của thân thể, nó có tác
dụng thống lĩnh; thận chủ việc tàng trữ tinh, thủy hỏa ( tức chân âm chân dương ),
ngụ ở trong, làm căn bản của tiên thiên, làm nguồn gốc của sự sống. Vì tâm hỏa thông
qua tác dụng của kinh mạch mà đạt xuống thận, thận thủy cũng nhờ tác dụng của
dương khí mà đưa lên để giao tiếp với tâm, như thế là thủy thăng lên được, hỏa giáng
xuống được, thủy hỏa giúp nhau được ( kí tế) thì thân thể sẽ giữ được trạng thái sinh
lý bình thường.

Trong trạng thái bệnh lý, do tác dụng của bệnh tà làm cho tâm thận hư suy, thận
thủy không đưa lên được, hoặc thận hỏa không giáng xuống được thì dẫn đến trạng
thái mất điều hòa. Do dương khí không đủ cho nên mạch vi, âm huyết kém cho nên
mạch tế; khí huyết hư suy, tinh thần uể oải không phấn chấn cho nên muốn ngủ. Tâm

28
hỏa và thận thủy không giúp nhau được, bệnh tà theo thủy hóa ra hàn, âm hàn thịnh
bên trong mà dương khí suy yếu thì xuất hiện một loạt chứng trạng hàn hóa như hàn
thịnh, hư cực độ, dương khí bị ngăn trở bên ngoài, trên lâm sàng có thể xuất hiện các
chứng trạng giả nhiệt như đỏ mặt, vật vã không yên, đó là cơ chế của bệnh đới dương.
Nếu bệnh tà theo hỏa hóa ra nhiệt, tổn thương âm, mà âm hư dương thịnh thì xuất
hiện một loạt chứng trạng nhiệt hóa như tâm phiền không ngủ được, họng đau, lưỡi
đỏ, mạch tế sác.

Hàn hóa và nhiệt hóa là khâu chính của cơ chế bệnh Thiếu âm đối với sự lý giải
sự biến hóa phức tạp và cách biện chứng luận trị của bệnh Thiếu âm đều có ý nghĩa
rất quan trọng.

Vì Thiếu âm là cái bản lề của 3 kinh âm, cho nên bệnh Thiếu âm ở tình trạng
chính khí, dương khí khôi phục cũng có thể chuyển thành bệnh Thái dương hoặc bệnh
Dương minh. Như trong sách này nói “ Bệnh Thiếu âm 8-9 ngày toàn thân và chân
tay đều nóng là nhiệt ở bàng quang, tất đái ra máu”. Lại nói : ‘’ Bệnh Thiếu âm 6-7
ngày, bụng đầy không đi đồng được, kíp cho hạ đi, dùng Đại thừa khí thang ‘’.

c. Nguyên tắc trị liệu.

Nguyên tắc chủ yếu để chữa bệnh Thiếu âm là phù dương dưỡng âm, phù dương
là đối với chứng hàn mà nói, dưỡng âm là nhằm chứng nhiệt mà chữa. Phù dương
nên dùng thuốc ôn bổ, dưỡng âm kiêm dùng thuốc thanh nhiệt, nếu khi xuất hiện
chứng đới dương, cách dương, thì trừ dưỡng âm, phù dương ra còn phải gia thêm các
thuốc tuyên thông dương khí trên dưới mới có công hiệu. Nếu bệnh Thiếu âm kiêm
biểu chứng, có thể chữa ôn kinh phát hãn, nếu thấy thực nhiệt kết ở trong, có thể chữa
‘kíp cho hạ để bảo tồn chân âm’. Vì hàn tà rất dễ làm tổn thương dương khí bệnh
Thiếu âm, trong quá trình bệnh biến toàn diện, bao giờ cũng phải phù dương, hễ hồi
dương được thì sống, vong dương thì chết, bởi vì sự mất còn của dương khí có quan
hệ trực tiếp đến sự sống của con người, khi điều trị cần phải đặc biệt lưu ý.

29
IV – BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ TRONG THƯƠNG HÀN LUẬN

Biện chứng luận trị là một phương pháp cơ bản, căn cứ theo lý luận của Trung
y để chẩn đoán và điều trị bệnh tật, sách Thương hàn luận là một bộ sách chuyên đề
của Trung Y đã vận dụng thành công phương pháp này, là bộ sách kinh điển mẫu
mực để cho đời sau học tập và nắm vững phương pháp biện chứng luận trị. Kinh qua
những y gia của các thời đại luôn luôn thực nghiệm và bổ sung, đã được phát triển
thành phương pháp biện chứng theo bát cương đơn giản, rõ ràng trọng yếu và rất cơ
bản để chẩn đoán bệnh tật.

Biện chứng luận trị của Thương hàn luận là lấy các chứng hậu lâm sàng phản
ánh những bệnh lý biến hóa của tạng phủ kinh lạc theo hệ thống lục kinh làm cơ sở,
nội dung cụ thể của nó là chứng trạng và cách chữa theo lục kinh, biện chứng theo
bát cương.

Biện chứng là theo quá trình diễn biến như phát sinh và phát triển của bệnh
thương hàn, căn cứ những đặc trưng của chứng hậu lục kinh và cơ chế chuyển hóa
của bệnh để đoán biết bộ vị của bệnh ở kinh nào, tạng nào, phủ nào, phân tách chứng
hậu đã phản ánh thuộc tính hàn hay nhiệt, tình huống hư hay thực, chính khí, tà khí
tiêu hao hay phát triển, nhờ đó mà chẩn đoán được chính xác, rõ ràng.

Luận trị là dựa theo kết quả của biện chứng mà đề ra cách chữa chính xác, thiết
thực, để tiến hành điều trị có hiệu quả. Mục đích của biện chứng là để luận trị, mà
chỗ dựa để luận trị là nhờ vào biện chứng, biện chứng càng tỉ mỉ thì chẩn đoán lại
càng chính xác, đó là then chốt để thu được hiệu quả tốt trong khi điều trị.

Phương pháp biện chứng trong thương hàn luận có thể trình bày khái quát làm
hai phương diện dưới đây:

1. Dựa theo chủ chứng của các kinh để biện chứng

Trong các thiên về bệnh lục kinh của Thương hàn luận, mỗi một thiên đều đề ra
một chủ chứng của bệnh kinh ấy như chủ chứng bệnh của kinh Thái dương, là phát
sốt, sợ lạnh, đầu gáy cứng đau, mạch phù. Lại như ‘’ vị gia thực’’ của bệnh Dương

30
minh,’’ mạch vi tế, chỉ muốn ngủ’’ của bệnh Thiếu âm, vv… đều có chủ chứng khác
nhau của các kinh. Như thế, khi lâm sàng đã nắm được chủ chứng của các kinh thì có
thể nhận thức thêm một bước về các chứng hậu phức tạp là thuộc về bệnh của kinh
nào, hoặc bệnh của các kinh, là kinh chứng hay phủ chứng, là hợp bệnh, hay tính
bệnh, là kiêm chứng, hay biến chứng. Trên cơ sở ấy, lại kết hợp cách biện chứng theo
bát cương để phân biệt được bệnh thuộc biểu hay lý, hàn hay nhiệt, hư hay thực. Dựa
theo đó mà quyết định nguyên tắc trị liệu và định ra bài thuốc tương ứng.

2. Dựa theo sự phát triển và diễn biến của bệnh để biện chứng.

Vì bệnh tật thường do ảnh hưởng của bệnh nhân mạnh yếu khác nhau hoặc điều
trị không đúng mà biến hóa phức tạp. Trên lâm sàng của bệnh tật có khi biến thì cơ
chế bệnh tương ứng sẽ phản ánh ra cũng có sự biến hóa khác đi, lúc ấy cần phải biện
chứng mới thêm và áp dụng phương pháp điều trị mới. Ví như ‘’ Uống Quế chi thang,
ra nhiều mồ hôi, chứng phiền khát nặng không khỏi, mạch hồng đại, dùng bài Bạch
hổ gia nhân sâm thang làm chủ ‘’. Đã nói rõ bệnh trúng phong sau khi uống thang
Quế chi biểu chứng giải được, mà lại xuất hiện chứng hậu phiền khát nặng không
khỏi, mạch hồng đại, là vì tân dịch hao tổn quá nhiều, đã chuyển thành kinh chứng
của dương minh cho nên việc điều trị cũng cần theo đó mà cải biến. Lại như bệnh
Quyết âm biểu hiện chứng chân tay quyết lạnh với chứng phát sốt có khi thượng nhiệt
hạ hàn, có khi sốt nhiều mà quyết lạnh ít, hoặc là hàn quyết, hoặc là nhiệt quyết, hoặc
là hồi quyết, hoặc là tạng quyết vv… Bấy nhiêu chứng hậu lẫn lộn ấy xuất hiện, đều
có cơ chế khác nhau, nếu nắm chắc được cơ chế bệnh lý của chứng quyết nhiệt thắng
phục, sẽ có thể dựa theo quá trình phức tạp của bệnh tật để tổng hợp phân tích mà
chẩn đoán được chính xác rõ ràng và đề ra cách điều trị thiết thực, hợp lý.

Nguyên tắc điều trị của Thương hàn luận có thể phân khái quát làm hai phương
diện là khu tà và phù chính, do tính chất bệnh lý của bệnh tam dương là thuộc biểu,
thuộc thực, thuộc nhiệt, tính chất bệnh lý của bệnh tam âm là thuộc lý, thuộc hư,
thuộc hàn, cho nên nguyên tắc điều trị bệnh tam dương cần lấy phù chính làm chủ,
lấy khu tà mà đạt đến phù chính, bệnh tam âm cần lấy phù chính làm chủ, lấy phù
chính mà đạt đến khu tà. Chẳng qua, cách vận dụng cụ thể của khu tà và phù chính là

31
căn cứ vào bệnh tình cụ thể mà dùng riêng hoặc dùng chung hoặc dùng cái này trước,
cái kia sau, hoặc cái kia trước cái này sau, phép chữa phải tùy chứng hậu biến đổi mà
vận dụng linh hoạt. Đấy là nguyên tắc điều trị của Thương hàn luận.

Nhận xét: Tương truyền sách Thương hàn luận về trình tự trước sau của bệnh
lục kinh vốn là Thái dương, Dương minh, Thiếu dương, Thái âm, Thiếu âm, Quyết
âm. Trình tự trước sau này có thể là trong quá trình biên soạn của đời xưa do chỗ sắp
xếp thẻ sách nhầm lẫn mà gây ra, cho nên bất luận là theo bệnh tình nặng nhẹ, hoặc
lý luận về thời tiết âm dương thay đổi của thiên nhiên và dựa vào tình huống thực tế
mà phân tích, đều có những mâu thuẫn. Chúng tôi cho là phải xếp trình tự lại làm
Thái dương, Dương minh, Thiếu dương, Thái âm, Quyết âm, Thiếu âm, tức là sau
Quyết âm mới đến Thiếu âm thì tương đối hợp lý hơn.

Bởi vì theo quy luật về thời tiết âm dương thay đổi của thiên nhiên, căn cứ sách
Nội kinh thì ‘’ Đồng chi nhất dương sinh’’ ‘’Hạ chi nhất âm sinh’’ và ‘’Thiếu’’ ‘’Thái”
là khái niệm thủy chung về âm dương, tiêu trưởng.

Trình tự là Thiếu dương ( tháng 1-2) , Dương minh ( tháng 3-4), Thái dương
( tháng 5-6), Thiếu âm ( tháng 7-8), Quyết âm ( tháng 9-10), Thái âm ( tháng (11-12)
như vòng ngoài của biểu đồ.

Lại như sách Tố vấn nói : ‘’ Thái dương mở, Dương minh đóng, Thiếu dương
là cái bản lề ‘’,’’Thái âm mở, Quyết âm đóng, Thiếu âm là cái bản lề’’, và bệnh tình
của bệnh Thiếu âm phần nhiều so với bệnh Quyết âm là nặng hơn, đó là tình hình
thực tế. Do đó, trong phần khái luận của sách này, đem bệnh Thiếu âm xếp vào cuối
cùng. Như vậy trình tự trước sau của bệnh lục kinh là trái với phương hướng thay đổi
âm dương về thời tiết của thiên nhiên.

32
BỆNH VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THÁI DƯƠNG

1. Thái dương gây bệnh mạch phù, đầu gáy cứng đau mà sợ lạnh.

Tóm tắt: Đề cương bệnh Thái dương

Thích nghĩa: Thái dương thống quản vinh vệ, chủ phần biểu của thân thể để bảo
hộ bên ngoài, là hàng rào của các kinh. Hễ phong hàn xâm nhập thân thể thì Thái
dương chịu đựng trước tiên. Phần ngoài cơ thể cảm thụ tà khí, do đó mà xuất hiện các
chứng mạch phù, đầu gáy cứng đau, sợ lạnh, vv.. tức là bệnh Thái dương cũng gọi là
biểu bệnh, tà khí can phạm vào phần biểu, chính khí dồn ra ngoài để chống lại tà khí,
cho nên mạch thấy phù. Phong hàn bó ở ngoài, sự vận hành của khí Thái dương bị
cản trở, tà khí cùng chính khí giao tranh với nhau ở bộ phận đầu gáy của kinh Thái
dương, cho nên đầu gáy cứng đau. Tà khí phong hàn bó ở ngoài phần biểu cho nên
sợ lạnh. Đấy là mạch chứng chủ yếu của bệnh Thái dương sau này khi nói đến bệnh
Thái dương là phần nhiều bao quát cả mạch và chứng này.

2. Bệnh thái dương phát sốt, đổ mồ hôi, sợ gió, mạch hoãn gọi là trúng phong.

Tóm tắt : Chủ mạch chứng của Thái dương trúng phong.

Thích nghĩa : Nội bệnh Thái dương là phải bao quát cả mạch chứng của điều 1.
Nếu có chứng phát sốt, đổ mồ hôi, sợ gió, mạch hoãn thì gọi là trúng phong. Đang
lúc thân thể mới bị phong tà xâm nhập, vinh vệ mất điều hòa, dương khí bốc ra ngoài
để giao tranh với ngoại tà thì phát sốt. Tính của phong thì sơ tiết gây cho vệ khí mất
sự chặt chẽ ở ngoài, vinh khí không cố thủ ở trong thì đổ mồ hôi. Đổ mồ hôi thì da
thưa hở, chịu không nổi phong tà xâm nhập cho nên ghê gió. Bởi vì mồ hôi tiết ra
ngoài cho nên mạch tượng mềm giãn mà thể hiện mạch hoãn.

Trên đây là phần nhiều có quan hệ với việc đổ mồ hôi, lại kết hợp với chủ mạch
của bệnh Thái dương mà xem xét thì biết mạch hoãn tức là phù hoãn. Khi thấy mạch
chứng này thì gọi là Thái dương trúng phong.

33
3. Bệnh thái dương đã phát sốt hoặc chưa phát sốt sợ lạnh, đau mình nôn
mửa, mạch âm dương đều khẩn, gọi là thương hàn.

Tóm tắt : Chủ mạch chủ chứng của Thái dương thương hàn.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương hàn tà xâm phạm đến ngoài cơ thể, đã phát sốt,
hoặc chưa phát sốt, là nói rõ sự cảm thụ tà khí có nặng nhẹ khác nhau, thể chất có
mạnh yếu khác nhau, cho nên phát sốt có khi nhanh khi chậm khác nhau. Đã phát sốt
là hàn tà xâm nhập phần biểu, chính khí chống với tà khí, dương khí có thể kịp thời
đạt ra phần biểu. Chưa phát sốt là hàn tà mới cảm vào dương khí trong một lúc không
có thể đạt ra phần biểu để chống với tà.

Khi cảm thụ hàn tà , bao bó ở ngoài da, vô luận đã phát sốt hay chưa sốt thế nào
cũng có chứng sợ lạnh, Lại do chỗ hàn tà uất át ngoài phần biểu, mồ hôi ra không
được cho nên mình mẩy đau nhức. Tà khí phạm vào kinh Thái dương ảnh hưởng đến
sự giáng xuống của vị khí, vị khí không giáng xuống được nên sinh nôn mửa. Không
ra mồ hôi, khí của phần biểu không tuyên thông, mạch không hoãn mà lại khẩn, cho
nên hàn tà làm tổn thương đến kinh Thái dương thì mạch ắt phù khẩn. Mạch chứng
kể trên toàn là có quan hệ đến sự không ra mồ hôi, tuy ở mục này không nói rõ về sự
không ra mồ hôi, nhưng cùng so với điều trên thì cũng đã ngụ ý là không có mồ hôi.
Thấy mạch chứng thế này thì gọi là Thái dương thương hàn.

4. Thương hàn một ngày là kinh thái dương bị bệnh, nếu mạch tĩnh là không
truyền kinh, nếu muốn mửa và vật vã mạch sác cấp là truyền kinh.

Tóm tắt: Biện mạch và chứng truyền biến với không truyền biến của bệnh
thương hàn.

Thích nghĩa : Đây nói thương hàn là bao quát trúng phong vào trong. Thương
hàn 1 ngày là kinh Thái dương bị bệnh là bệnh mới phát. Mạch tĩnh là mạch của thái
dương mới phát tức là mạch phù hoãn, phù khẩn mà chưa biến đổi. Mạch là dấu hiệu
biến đổi trước khí, mạch không biến đổi cho nên biết bệnh cũng chưa biến đổi, tức là
chưa truyền biến. Nếu có thể muốn mửa hoặc thấy chứng vật vã mà mạch lại thấy các
cấp là tà khí đã quay lên bên trong, biết bệnh đã có truyền biến.

34
Lời chú chọn lọc. Thẩm Thiên Lục nói: ‘’ Một ngày, là lời nói phỏng chứng,
chứ không phải chỉ định một ngày. Mạch tĩnh là Thái dương thương hàn, mạch phù
khẩn vẫn là mạch phù khẩn chưa từng biến đổi khác đi, cho nên bệnh vẫn ở thái
dương mà cũng chưa chuyển sang kinh khác. Đấy là căn cứ vào mạch mà biết, còn
các chứng về kinh thái dương tự nhiên có thể thấy. Nếu xét theo chứng thì dương khí
ở trong ngực bị hàn tà ở biểu làm uất lại, do đó mà muốn mửa, vật vã, mạch lại không
tĩnh, mà từ phù khẩn biến thành sác cấp, thế của tà thái dương tất nhập lý mà truyền
sang dương minh, bởi vì muốn mửa, vật vã đều là chứng thuộc dương minh vị, đây là
xét cả mạch và chứng mà biết ‘’.

5. Thương hàn 2,3 ngày mà không thấy chứng dương minh, chứng thiếu
dương là bệnh không truyền biến.

Tóm tắt : Biện chứng Thương hàn không truyền biến.

Thích nghĩa : thương hàn 2,3 ngày vốn có khả năng truyền biến. Nếu 2,3 ngày
mà không thấy chứng Dương minh ( không sợ lạnh, mà sợ nóng, miệng khát), cũng
không thấy chứng Thiếu dương ( miệng đắng họng khô, hoa mắt), tức là nói tuy đã
đến kỳ truyền biến nhưng chứng trạng chưa thấy biến đổi nên bệnh cũng chưa đến
lúc truyền biến, vẫn có thể theo phép chữa bệnh Thái dương mà xử lý.

Nhận xét : Ý nghĩa chữ truyền biến là từ ngoài truyền vào trong hoặc từ chỗ này
truyền đến chỗ khác. Như vốn là bệnh Thái dương mà nay chuyển thành bệnh Dương
minh, tức là Thái dương truyền sang Dương minh, nếu thấy bệnh Thiếu dương tức là
từ Thái dương truyền sang Thiếu dương. Đã truyền sang Dương minh rồi lại thấy
bệnh Thiếu dương là từ Dương minh truyền sang Thiếu dương. Truyền biến hay
không là dựa vào mạch chứng mà quyết định không thể câu nệ vào số ngày.

Điều trên nói mạch chứng có biến đổi là truyền, điều này nói thương hàn 2,3
ngày không thấy chứng của Dương minh, Thiếu dương là không truyền. Do đó có thể
biết, bệnh thái dương có truyền hay không là cần phải dựa vào số ngày, mà thuyết
tính ngày truyền kinh, trên thực tiễn lâm sàng không có ý nghĩa quan trọng.

35
6. Bệnh Thái dương, phát sốt mà khát, không sợ lạnh là ôn bệnh, nếu phát
hãn rồi mà mình nóng như đốt, gọi là phong ôn, bệnh phong ôn mạch âm
mạch dương đều phù, tự đổ mồ hôi, mình mẩy nặng nề, hay ngủ, mũi thở
như ngáy, nói năng khó ra lời. Nếu ngộ cho hạ, tiểu tiện không lợi, mắt
trực thị, tiểu tiện không được, nếu ngộ dùng lửa xông hơ chườm cứu để
chữa, hơi phát sắc vàng, nặng thời như kinh giật, thỉnh thoảng chân tay
co giật, nếu dùng lửa để xông, trị nhầm lần đầu còn có thể kéo dài ngày
giờ, trị nhầm lần nữa thì có thể nguy đến tính mạng.

Tóm tắt : chứng trạng của ôn bệnh và biến chứng sau khi trị nhầm.

Thích nghĩa : Bệnh thái dương thấy có chứng phát sốt mà khát, không sợ lạnh
đấy là ôn bệnh. Nguyên nhân của ôn bệnh là do ngoại cảm ôn tà hoặc do nhiệt tà uất
ở trong mà gây nên. Nếu bệnh mới mắc có chứng trạng ngoại cảm việc điều trị nên
dùng phương pháp tân lương giải biểu, không nên dùng thuốc tân ôn phát hãn; nếu
nhiệt tà uất ở trong lại càng không thể dùng thuốc tân ôn. Nếu dùng nhầm thuốc tân
ôn để phát hãn, tất nhiên là dẫn đến nhiệt tà càng thịnh làm tổn thương tân dịch, gây
cho toàn thân nóng như lửa đốt, đấy gọi là chứng phong ôn. Phong ôn là biến chứng
của ôn bệnh do trị nhầm mà sinh ra, khác với chứng phong ôn ngoại cảm như Trần
bình Bá đời Thanh đã nói.

Bệnh phong ôn là do nhiệt tà đầy rẫy trong ngoài, cho nên mạch âm mạch dương
đều phù; nhiệt nung nấu bên trong mà tự đổ mồ hôi; nhiệt nhiều thì hại khí mà mình
mẩy nặng nề, nhiệt nhiều thì thần mê ngủ nhiều; nhiệt tắc trong phổi, đờm nhiệt cản
trở nhau, thở không được thì mũi thở như ngáy; nhiệt tà uất ở trong, khí trệ không
tuyên thông thì tiếng nói nặng khó ra lời. Chứng này nếu bị hạ nhầm tân dịch bị mất
ở dưới làm cho tiểu tiện không lợi, tinh không tỏa lên đến mắt thì mắt trực thị, tà nhiệt
làm tổn thương khí của hạ tiêu nên đại tiện không được. Nếu nhầm dùng lửa để chữa
thì đó là dùng nhiệt chữa nhiệt, hai thứ dương cùng xông đốt nhau, nhẹ thì nhiệt làm
tổn thương huyết phận mà bì phu hơi phát sắc vàng, nặng thì nhiệt nhiều làm cho
phong động, đốt hao tân dịch mà gân mất sự nuôi dưỡng, xuất hiện các chứng động
kinh ( kinh giản) luôn luôn co giật, màu da như lửa hun. Các chứng này đều là hoại

36
chứng do trị nhầm mà tạo thành. Trị nhầm một lần còn có thể kéo dài ngày giờ, nếu
trị nhầm lần nữa thì có thể nguy đến tính mạng.

Điều này nêu ra mạch và chứng của ôn bệnh phong ôn, chỉ rõ việc dùng các
phương pháp điều trị hãn hạ với hỏa trị ( dùng lửa để chữa ) không đúng mà biến
thành hoại bệnh. Có thể thấy mạch và chứng của trúng phong thương hàn có phân
biệt, không thề lấy phép chữa trúng phong thương hàn thông thường mà chữa như
nhau được. Trong điều văn nêu ra rằng ‘’ nếu phát hãn, nếu ngộ cho hạ, hoặc ngộ
dùng lửa đều có thể xuất hiện hoại bệnh ‘’ rõ ràng là để khuyên răn, kẻ học giả phải
xét sâu. Đến như cách chữa ôn bệnh, trong sách tuy có vận dụng các phương thang
Ma hạnh thạch cam thang, Chi tử sị thang, Bạch hổ thang, Hoàng liên a giao thang,
nhưng áp dụng cụ thể còn hiềm chưa đủ, nên tham khảo các tác phẩm của các Ôn
bệnh đời Thanh như Diệp thiên Sĩ, Tiết lập Trai, Ngô cúc Thông, Vương mạnh Anh
mới là hoàn bị.

Lời chú chọn lọc. Kha Vận Bá nói : ‘’ Ôn bệnh trong ngoài đều nóng , cho nên
khác với trúng phong, Thương hàn là sợ lạnh, phát sốt ‘’ lại nói : ‘’ Phát sốt là bệnh
ở biểu , theo phép phải phát hãn để giải. Nhưng không sợ lạnh thì không phải Ma
hoàng, Quế chi thích nghi được’’.

Sách kim giám nói: ‘’ Ôn bệnh, nhiệt bệnh không sợ lạnh là nhiệt ở biểu, miệng
khát hay uống là nhiệt ở lý, nhiệt ở biểu không có hàn, cho nên không phát hãn , nhiệt
ở lý không phải thực cho nên không thể hạ. Biểu lý đều nhiệt , càng không nên dùng
cách xông hơ chườm cứu để hỏa trị’’.

7. Bệnh có phát sốt sợ lạnh là phát ở dương, không phát sốt mà sợ lạnh là
phát ở âm. Phát ở dương 7 ngày khỏi, phát ở âm 6 ngày khỏi, bởi vì dương
số 7 , âm số 6, cho nên thế.

Tóm tắt: Biện bệnh phát ở dương với bệnh phát ở âm.

Thích nghĩa: Phát sốt sợ lạnh phát ở dương, không phát sốt mà sợ lạnh là phát
ở âm là căn cứ vào chứng trạng thời kỳ đầu của bệnh, xét xem có phát sốt hay không
phát sốt để nhận định bệnh phát ở dương hoặc phát ở âm. Nếu sau khi cảm thụ tà khí

37
dương khí giao tranh ngay với tà khí thời chứng trạng phát sốt sợ lạnh cùng thấy một
lúc tức là bệnh phát ở dương; nếu khi tà khí xâm nhập thân thể, dương khí chưa có
thể giao tranh với tà khí thời không phát sốt sợ lạnh tức là bệnh phát ở âm.

Thời kỳ bệnh khỏi, thường do cảm thụ tà khí nặng hay nhẹ, thân thể khỏe hay
yếu, điều trị đúng hay không mà khác nhau. Điều này nói : ‘’ Phát ở dương 7 ngày
khỏi, phát ở âm 6 ngày khỏi ‘’; vì chưa có thể chỉ đạo lâm sàng (1), cần chờ nghiên
cứu thêm.

Nhận xét: Sách Ngoại đài nói: ‘’ Bệnh phát sốt mà sợ lạnh , phát ở dương;
không phát sốt mà sợ lạnh phát ở âm. Phát ở dương có thể công biểu , phát ở âm có
thể làm ôn lý. Công biểu có thể dùng Quế chi thang, ôn lý nên dùng Tứ nghịch thang’’.
Cũng giống với sách Thương hàn tổng bệnh luận.

8. Bệnh thái dương, nhức đầu đến 7 ngày trở lên mà tự khỏi là vì chạy hết
kinh ấy cho nên thế; nếu muốn truyền kinh nữa thì châm ở túc dương
minh kinh làm cho không truyền kinh thời khỏi

Tóm tắt: Bệnh Thái dương có trường hợp chạy hết kinh thì tự khỏi với phép
châm để ngăn ngừa truyền kinh.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương là bao quát các chứng mạch phù nhức đầu, phát
sốt sợ lạnh, nay chỉ nói nhức đầu là nói tắt. Căn cứ sự ghi chép của Nội kinh có nói :
‘’ 7 ngày bệnh Thái dương suy, nhức đầu rồi hơi bớt’’ ; là nói rõ bệnh Thái dương
đến 7 ngày là kinh Thái dương chạy hết một chu kỳ, giả sử trong người có cơ hội
chính khí thắng tà khí lui, bệnh có thể vì ngày giờ kéo dài, chính khí ngày một khôi
phục mà tự khỏi. Bảy ngày là thời kỳ kinh khí trở lại, đừng giải thích nhầm là quá
trình truyền biến của bệnh, xét trong lời văn nói chạy hết kinh ấy mà không nói truyền
biến, có thể biết bệnh trải qua 7 ngày thì bản thân kinh Thái dương đã chạy hết, Là
chính khí hồi phục, sắp khỏi. Nếu không khỏi muốn truyền kinh nữa là tà khí có xu
thế muốn truyền biến sang Dương minh, thời có thể châm trước các huyệt của Túc

Ý nói hiện tượng này chưa gặp trên thực tế lâm sàng.
1

38
dương minh kinh, làm cho kinh khí sơ thông thời tà khí không truyền biến mà bệnh
khỏi.

9. Bệnh thái dương, lúc sắp khỏi, từ giờ tỵ đến trước giờ mùi.
Tóm tắt : Suy lường thời gian bệnh Thái dương sắp khỏi.
Thích nghĩa : Lục dâm hay gây bệnh cho người, lục khí hay giúp cho người khỏi
bệnh. Trên lâm sàng chứng minh, các bệnh nặng, bệnh lâu ngày, có quan hệ mật thiết
đối với khí hậu biến hóa rõ ràng, thường là ngày nhẹ đêm nặng, cũng rất nhiều những
trường hợp ấy có chứng cớ đáng tin. Nhưng bệnh Thái dương lúc sắp khỏi, nếu cho
rằng khỏi từ lúc giờ Tỵ đến trước giờ Mùi thì không nên câu nệ. Trong 6 kinh của
sách này mỗi kinh đều có một điều nói về ‘’ thời gian sắp khỏi’’, bởi vì chưa chỉ đạo
được lâm sàng nên tồn nghi chờ nghiên cứu thêm.

10. Người vốn có bệnh phong, biểu đã giải mà không nhanh nhẹn, 12 ngày
khỏi.
Tóm tắt: Người vốn có bệnh phong, biểu đã giải, chính khí phục hồi là tự khỏi.

Thích nghĩa: Nói người vốn có bệnh phong là người lúc bình thời khi vệ dương
không đủ, cho nên ngoại cảm phong tà, tuy biểu đã giải rồi nhưng chính khí chưa
khôi phục trong một lúc, không nhanh nhẹn là trạng thái tinh thần không thoải mái,
chính khí chưa khôi phục. 12 ngày khỏi là lời nói ước chừng.

11. Bệnh nhân mình nóng dữ, lại muốn được mặc áo, là nhiệt ở bì phu mà hàn
ở trong xương tủy, mình lạnh dữ mà lại không muốn mặc áo là hàn ở bì
phu mà nhiệt ở trong xương tủy
Tóm tắt : Bệnh về biểu lý hàn nhiệt.
Thích nghĩa : Bệnh nhân là chỉ chung cho những người mắc bệnh không chỉ nói
riêng cho bệnh Thái dương, Trúng phong, Thương hàn. Mình nóng dữ, lạnh dữ là
tình trạng hàn nhiệt của bệnh phản ánh ra ngoài, lại muốn mặc áo, hoặc không muốn
mặc áo là tình trạng hàn nhiệt ở trong. Bì phu là nói ngoài, nói nông, xương tủy là
nói trong, nói sâu. Ở ngoài, nhưng bệnh tình thì không thể che giấu được. Ở đây nói
mình nóng dữ mà muốn mặc áo, là nói nhiệt ở biểu mà hàn ở lý; mình lạnh dữ mà

39
không muốn mặc áo là nói hàn ở biểu mà nhiệt ở lý. Nên phải phân biệt biểu lý nhiệt
hàn.

12. Thái dương trúng phong, mạch dương phù mà âm nhược, dương phù thì
nhiệt tự phát, âm nhược thì mồ hôi tự ra, gai gai ớn lạnh, rợn rợn ghê gió,
hâm hấp phát sốt, thở kêu nôn khan, dùng Quế chi thang làm chủ.
Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa chứng Thái dương trúng phong.

Thích nghĩa : Thái dương trúng phong tức là bao quát cả mạch phù, đầu gáy
cứng đau mà sợ lạnh của điều 1 với các chứng mạch phát sốt, đổ mồ hôi, ghê gió,
mạch hoãn của điều 2. Mạch dương phù mà âm nhược tức là ý nghĩa mạch phù hoãn.
Khí dương vệ ngoại của thân thể có công năng đề kháng ngoại tà. Khí dương vệ chống
tà khí, chính thịnh ở ngoài cho nên tự phát, vì vinh âm yếu ở trong không giữ được,
nên tự đổ mồ hôi, đấy là ý nghĩa dương phù thì nhiệt tự phát, âm nhược thì tự đổ mồ
hôi.
Sau khi cảm thụ phong tà, khí dương vệ ngoại bị thương tổn, cho nên ghê gió
sợ lạnh. Phế ứng với bì mao, tà khí lưu lại ở phần biểu, phế khí không thông lợi, ảnh
hưởng đến vệ khí nghịch lên, bởi thế nên nôn khan. Căn cứ vào mạch chứng thì tà
còn ở ngoài thân thể mà làm cho vinh vệ không điều hòa, cho nên có thể dùng Quế
chi thang để giải cơ mà điều hòa vinh vệ.
Lời chú chọn lọc. Phương hữu Chấp nói: ‘’ Dương phủ mà âm nhược là nói
trạng thái mạch để giải thích nghĩa chữ hoãn’’. Sách Nạn kinh nói :’’ Mạch trúng
phong thời dương phù mà hoạt, âm nhu mà nhược, là thế vậy ‘’. Dương phù thì nhiệt
tự phát, âm nhược thì tự đổ mồ hôi, trước bộ quan là dương, bên ngoài là dương, vệ
cũng là dương. Phong tà trúng vào phần vệ thì phần vệ thực, thực thời thái quá, thái
quá thời mạnh. Nhưng vệ khí vốn lưu hành ngoài mạch lại được dương tà giúp vào,
mạch ở ngoài thời khí càng bốc ra ngoài, mạch do đó mà dương phù. Dương chủ khí,
khí uất thời nung nấu, bản tính của dương là nhiệt, phong, hay chạy mà luôn luôn
biến đổi, cho nên biến thành nhiệt cũng nhanh chóng, không chờ uất bế mà tự bốc ra.
Cho nên nói rằng: ‘’ Dương phù thì nhiệt tự phát ‘’. Sau bộ quan là âm, bên trong là
âm, dinh huyết cũng là âm, bình thường thời dinh so với vệ là bất cập, bất cập thời
không đủ, không đủ thời nhược. Nhưng dinh huyết vốn lưu hành bên trong, mạch

40
không được sự giúp đỡ nào, mà chỉ vì nó không đủ bên trong nên khi càng yếu ở
mạch, do đó mà âm nhược. Âm chủ huyết, mồ hôi là chất dịch của huyết, âm nhược
không thể giữ lại ở bên trong, dương cường không thể củng cố bên ngoài, cho nên rất
dễ đổ mồ hôi, không chờ đắp chăn mà cũng tự tiết ra. Cho nên nói:’’ Âm nhược thì
mồ hôi tự ra, gai gai ớn lạnh, rợn rợn ghê gió, là câu văn đối nhau. Gai gai là nói sợ
lạnh do khí bên trong kém, ý nói không đủ để chịu đựng sự thẩm thấu mà sinh ra gai
ớn lạnh như vậy. Rợn rợn là nói ghê gió, do phần ngoài cơ thể sơ hở, ý nói kinh sợ
nước mưa, bỗng nhiên nhỏ giọt trên người mà sợ tắm vậy. Vì phong động thì hàn khí
sinh, hàn khí sinh thì da sởn gai ốc, sợ cũng là ghê là gai cả, chưa có trường hợp sợ
lạnh mà không ghê gió, ghê gió mà không sợ lạnh, cho nên sách đều xét và nói xen
kẽ như vậy. Hâm hấp sốt là hình dung mức độ nhẹ của sốt, hâm hấp là nóng như hơ
lửa nóng đều đều như gà mái ấp trứng, nóng ấm ấm mà không nóng dữ dội; mũi thở
kêu là hơi thở không thông lợi, nôn khan là khí nghịch không thuận. Bởi vì dương
chủ khí mà đi lên, hơi thở không thông ra mũi, dương nhiệt ủng tắc lại, cho nên mũi
tắc nghẹt mà thở kêu, khí nghịch lên mà nôn khan’’.

Quế chi thang


Quế chi 3 lạng ( bỏ vỏ)
Thược dược 3 lạng
Chích thảo 2 lạng
Sinh khương 3 lạng ( thái mỏng)
Đại táo 12 quả ( xé ra)
Năm vị trên thái nhỏ 3 vị, nước 7 thăng, đun nhỏ lửa, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã
vừa nguội thì uống 1 thăng. Uống xong giây lát húp cháo nóng loãng chừng 1 thăng
để trợ dược lực. Đắp chăn kín một lát, khắp mình hơi ra mồ hôi dâm dấp là tốt, không
nên cho ra dầm dề như nước thì bệnh sẽ không khỏi. Nếu uống một lần đầu đổ mồ
hôi bệnh khỏi thì thôi không uống lần sau, không nhất thiết phải uống hết. Nếu như
không đổ mồ hôi thì lại uống như cách trước. Nếu không đổ mồ hôi thì thời gian uống
lần sau cho nhanh hơn lên, ước chừng nửa ngày là uống hết cả 3 lần. Nếu bệnh nặng
phải uống một ngày một đêm rồi xem lại. Đã uống hết 1 thang mà bệnh vẫn còn, thì

41
lại cho uống nữa. Nếu không đổ mồ hôi thì mới uống 2,3 thang, kiêng ăn đồ sống
lạnh, mỡ dầu, thịt miến, các đồ gia vị (1) các thứ rượu sữa và đồ tanh hôi.
Ý nghĩa phương thuốc : Quế chi thang là chủ phương để chữa chứng Thái dương
trúng phong. Có công năng điều hòa vinh vệ, giải cơ, ngăn sự xông bốc, phát hãn để
ngăn ra mồ hôi. Quế chi tuyên phát phần dương làm cho khí vận hành. Thược dược
điều hòa phần âm, thông điều huyết mạch. Thược dược với Quế chi làm một đội ngũ
thì có thể điều hòa vinh vệ. Sinh khương tân tán, ấm dạ dày, chống mửa, giúp quế chi
để thông phần dương. Đại táo, Cam thảo tính ngọt, hòa hoãn, ích khí hòa trung giúp
Thược dược để điều hòa phần âm. Hiệp lực để đạt được công năng phù chính khu tà,
ở bên trong, dẹp bên ngoài. Uống thang này còn phải ăn cháo để trợ dược lực, làm
cho cốc khí được đầy đủ, bồi dưỡng nguồn mồ hôi thì mới đổ mồ hôi mà giải.
Nhận xét: Về tiêu chuẩn liều lượng thuốc xưa nay khác nhau đời Hán cho 6 thù
làm 1 phân, 4 phân làm 1 lạng, tức là 24 thù làm 1 lạng. Khi xử phương ứng dụng thì
một mặt dựa vào liều lượng của tiền nhân đã khảo chứng quy định, điều trọng yếu
nhất là dựa vào thực tiễn lâm sàng. Hễ trong sách này nói 1 lạng thì tính chừng 1
đồng cân bây giờ, nói 1 thăng thì trọng lượng tính bằng 6 đồng cân đến 1 lạng ngày
nay, so với dung tích thì tính từ 60ml đến 80ml. Nói 1 phương thốn chủy thì tính
chừng 2-3 đồng cân hiện nay, nói 1 tiền chủy thì tính bằng 5-6 phân hiện nay. Nói
Hậu phác 1 xích thì tính chừng 1 lạng bây giờ. Nói lớn bằng quả trứng gà thì tính
chừng 1 lạng rưỡi ngày nay, còn các vị Hạnh nhân, Đào nhân, Đại táo, Chi tử, Chỉ
thực, Phụ tử, Thủy diệt, Manh trùng… thì kể con, kể hạt, kể quả, v.v… nhưng nên
kết hợp tình hình thực tế, so sánh phối hợp với các vị khác mà vận dụng linh hoạt.

13. Bệnh thái dương nhức đầu, phát sốt, đổ mồ hôi, ghê gió, dùng Quế chi
thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng chủ trị của Quế chi thang.

Thích nghĩa: Đây là tiếp theo điều văn trên nói về chứng trạng chủ yếu của Quế
chi thang. Hễ bệnh Thái dương lúc thấy có các triệu chứng nhức đầu phát sốt, đổ mồ

Đồ gia vị : Nguyên văn là 5 thứ cay : hành tăm , tỏi, hẹ, cải sen, rau mùi.
1

42
hôi, ghê gió thời có thể dùng Quế chi thang để chủ trị và không giới hạn ở chứng
trúng phong, mà tiến thêm một bước, để có thể suy rộng cách ứng dụng Quế chi thang.

Lời chú chọn lọc: Kha Vận Bá nói: “Điều văn này là chủ chứng của Quế chi
thang, lấy biện chứng làm căn bản, đúng bệnh này thì dùng thang này, không cần hỏi
là thương hàn hay trúng phong, tạp bệnh gì cả. Người đời nay xuyên tạc chia riêng
phong hàn mà chẳng biết biện chứng, cho nên phương thuốc hay của Trọng Cảnh
mà cứ nghi ngờ. Trong 4 chứng, nhức đầu là chứng cơ bản của bệnh Thái dương,
còn nhức đầu ghê gió phát sốt thì giống với chứng của Ma hoàng thang, phương này
cốt yếu ở chỗ đổ mồ hôi chứ không đổ mồ hôi là không phải chứng của Quế chi
thang”.

14. Bệnh Thái dương, lưng gáy cứng đờ mà đổ mồ hôi, ghê gió, dùng Quế
chi gia Cát căn thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa chứng phong tà lưu ở du huyệt của kinh
Thái dương.

Thích nghĩa: Chứng Thái dương trúng phong là phong tà xâm nhập vào phần
cơ biểu, nên dùng Quế chi thang để giải cơ. Nay lại thêm một chứng lưng gáy cứng
đờ, đấy là do phong tà xâm nhập đến kinh huyệt Thái dương. Bệnh Thái dương lưng
gáy cứng đờ nói chung phần nhiều không thấy đổ mồ hôi cho nên nói: “lại”. Du huyệt
của kinh Thái dương ở lưng, tà nhập vào trong làm cho kinh khí không thư sướng,
cản trở tân dịch không phân bố ra được, kinh mạch mất sự nhu dưỡng thời lưng gáy
cứng đờ, cho nên dùng Quế chi thang để giải cơ, gia Cát căn để giải tán phong tà ở
du huyệt của Thái dương kinh.

Quế chi gia Cát căn thang:

Cát căn 4 lạng (160g)

Quế chi 3 lạng, (bỏ vỏ) (120g)

Thược dược 3 lạng (120g)

43
Sinh khương 3 lạng,(thái mỏng) (120g)

Chích thảo 2 lạng (80g)

Đại táo 12 quả (xẻ ra) (12 quả = 50g).

Sáu vị trên, nước 1 đấu, nấu Cát căn trước cho cạn bớt 2 thăng rồi cho các vị
kia vào sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng. Đắp chăn cho ra mồ hôi, không
phải ăn cháo, còn cách theo dõi và kiêng khem thì y như cách uống Quế chi thang.

Ý nghĩa phương thuốc: Bài này để chữa chứng Quế chi thang mà lưng gáy cứng
đờ. Dùng Quế chi thang chữa chứng đổ mồ hôi, ghê gió, Cát căn chữa chứng lưng
gáy cứng đờ. Cho nên bài này có công năng giải cơ phát biểu, cổ vũ cho vị khí đi lên
để thăng tân dịch.

15. Bệnh Thái dương, sau khi hạ mà khí xông lên nên cho uống Quế chi
thang, phép dùng y như trước, nếu không có khí xông lên thì không nên cho
uống.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh Thái dương bị cho uống nhầm thuốc hạ mà khí xông
lên.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương phải giải biểu, nếu dùng nhầm thuốc hạ dễ làm
cho tà khí hãm vào trong mà sinh biến chứng. Nay nhầm cho hạ rồi bệnh nhân tự thấy
khí xông lên là biết chính khí chưa suy, tà khí còn ở biểu. Khí xông lên là tà khí với
chính khí giao tranh nhau không thể thông sướng ra ngoài, nghịch mà đưa lên, vẫn
có thể giải ra biểu được, cho nên có thể cho uống Quế chi thang để giải tà ở cơ biểu.
Nếu cho hạ rồi mà khí không xông lên là tà đã hãm vào trong, Quế chi thang không
thể dùng được nữa, cho nên nói: “Không nên cho uống”.

16. Bệnh Thái dương 3 ngày, đã dùng thuốc phát hãn, đã cho thổ, cho hạ,
hoặc cho ôn châm1 mà vẫn không giải, đấy là hoại bệnh, Quế chi thang không

1
Ôn châm: Châm kim vào rồi lấy ngải đốt kim cho nóng lên.
44
thể uống được nữa, quan sát mạch chứng coi sai phạm chỗ nào để tùy chứng mà
chữa.

Tóm tắt: Thái dương hoại bệnh không thể cho uống Quế chi thang, phải tùy
chứng mà chữa.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương 3 ngày là đã kinh qua mấy ngày rồi, từng dùng
các phương pháp điều trị như phát hãn, cho thổ, cho hạ, cho ôn châm v.v... mà bệnh
vẫn không giải, đấy là hoại bệnh. Vì bệnh thái dương điều trị không đúng thường
thường biến thành hoại bệnh. Cách chữa hoại bệnh phải quan sát mạch chứng và phải
biết cách chữa nào sai phạm để tùy chứng mà chữa.

17. Quế chi vốn là giải cơ, nếu người mạch phù khẩn, phát sốt, mồ hôi
không ra thì không thể cho uống. Thường phải biết điều ấy chớ nên nhầm.

Tóm tắt: Thương hàn cấm uống thang Quế chi.

Thích nghĩa: Quế chi thang là chủ phương để chữa chứng Thái dương trúng
phong, đặt ra là nhằm giải tà ở cơ biểu, thích dùng cho các chứng mạch phù hoãn,
phát sốt, đổ mồ hôi. Nếu mạch phù khẩn, phát sốt, không đổ mồ hôi, đó là Thái dương
thương hàn, thì phải dùng Ma hoàng thang, không nên dùng Quế chi thang. Mạch
phù khẩn, không đổ mồ hôi thì nhất thiết không nên cho uống Quế chi thang, khi lâm
sàng phải chú ý.

18. Nếu người nghiện rượu mắc bệnh, không thể cho uống Quế chi thang,
uống vào thì mửa, bởi người nghiện rượu không ưa của ngọt.

Tóm tắt: Người nghiện rượu mắc bệnh Thái dương trúng phong không nên cho
uống Quế chi thang.

Thích nghĩa: Người nghiện rượu, phần nhiều có thấp nhiệt uất ở trong, nếu bị
trúng phong, tuy thấy chứng của Quế chi thang cũng nên cẩn thận khi dùng Quế chi
thang. Bởi vì Quế chi thang là bài thuốc tân ôn, tân (cay) thì hay trợ nhiệt, cam (ngọt)
hay trợ thấp, vốn có thấp nhiệt mà gặp thuốc cay ngọt vào thì làm ủng trệ bên trong.
Thế tất làm cho vị khí nghịch lên mà gây mửa. Bởi vì người nghiện rượu vốn sẵn có

45
thấp nhiệt, không ưa của ngọt cho nên thế. Nếu người nghiện rượu không có thấp
nhiệt ở trong thì cũng có thể dùng Quế chi thang được.

Lời chú chọn lọc: Dụ Gia Ngôn nói: “Người nghiện rượu vốn sẵn có thấp và
nhiệt cấu kết ở trong ngực. Gặp phải ngoại tà ắt tăng thêm sự đầy nghịch, cho nên
phương pháp tân cam đối với những người này thì không thể dùng. Cứ dùng thuốc
tân lương để triệt hết nhiệt, thuốc tân khổ để tiêu hết đầy thì không phải nói nữa”.

19. Người vốn có bệnh suyễn, cho uống Quế chi thang gia Hậu phác, Hạnh
tử là tốt.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh Thái dương trúng phong đối với người vốn có bệnh
suyễn.

Thích nghĩa: Người vốn có bệnh suyễn mà mắc chứng Thái dương trúng phong
dẫn đến lên cơn suyễn thở, trong việc điều trị phải chiếu cố cả hai mặt, bệnh mới và
bệnh cũ, dùng Quế chi thang gia Hậu phác, Hạnh tử, giải biểu để đuổi phong tà, lợi
phế giáng khí để chữa bệnh vốn có. Đấy là nói người vốn có bệnh suyễn dùng phép
kiêm trị là tốt.

Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang:

Quế chi 3 lạng ( bỏ vỏ)

Chích thảo 2 lạng

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Thược dược 3 lạng

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

Hậu phác 2 lạng (nướng, bỏ vỏ)

Hạnh nhân 50 hạt (bỏ vỏ và đầu nhọn).

46
Bảy vị trên, nước 7 thăng nhỏ lửa sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng,
đắp chăn cho ra ít mồ hôi.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này dùng Quế chi thang gia Hậu phác, Hạnh
nhân mà cấu thành, dùng Quế chi thang để giải cơ, gia Hạnh nhân Hậu phác để giáng
khí cắt cơn hen, thích dùng cho người vốn có bệnh suyễn kiêm có chứng của Quế chi
thang.

20. Hễ uống Quế chi thang mà mửa, sau đó tất mửa ra máu mủ.

Tóm tắt: Nhiệt bên trong nhiều thì cấm dùng Quế chi thang.

Thích nghĩa: Người mà dương nhiệt thịnh ở trong thì kỵ uống thuốc tân ôn, vì
uống vào thì dương nhiệt càng nhiều thêm, thường thường dẫn đến hoại bệnh. Uống
Quế chi thang rồi, nếu thấy nôn mửa, phải xét coi người ấy có phải là nhiệt ở trong
nhiều hay ít. Nhiệt ở trong nhiều lắm thì phải thận trọng khi dùng bài Quế chi cay ấm.
Nếu dùng nhiệt trợ nhiệt, nhiệt sẽ làm hại dương lạc1 tiên lượng sẽ dẫn đến biến chứng
thổ huyết.

Nhận xét: Điều này chỉ cho ta chú ý: Hễ người có nhiệt ở bên trong nhiều thì
phải kiêng dùng thuốc cay ấm. Đến như uống Quế chi thang rồi thấy mửa, sau đó có
mửa ra máu mủ hay không thì trên lâm sàng vẫn không thể coi là định lệ, nên căn cứ
tình huống cụ thể mà không thể chấp nhất.

21. Bệnh Thái dương, phát hãn rồi mồ hôi ra không ngừng, người bệnh ghê
gió, đi đái khó, chân tay hơi căng cứng khó co duỗi, dùng Quế chi gia Phụ tử
thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh Thái dương phát hãn biểu tà chưa giải,
dương khí ở biểu đã hư.

Thích nghĩa: Cách chữa bệnh Thái dương, tuy lấy phát hãn làm chủ yếu, nhưng
lấy mồ hôi ra dâm dấp làm tốt. Nay vì phát hãn thái quá, làm cho biểu tà chưa lui mà

1
Dương lạc: kinh lạc thuộc dương.
47
dương khí đã hư cho nên có chứng mồ hôi ra không ngừng, ghê gió, đi đái khó, chân
tay căng cứng khó co duỗi. Thể hiện chứng mồ hôi ra không ngừng là dương khí bị
tổn thương không thể bảo vệ chặt chẽ bên ngoài, ghê gió là do ra mồ hôi làm dương
khí hư, đi đái khó là mồ hôi ra nhiều ở ngoài, tân dịch hao ở trong; chân tay căng
cứng khó co duỗi là dương khí không đủ để làm ấm, âm dịch không đủ để nhu dưỡng.
Các chứng kể trên là biểu chứng chưa giải, biểu dương đã hư, phải dùng Quế chi gia
Phụ tử thang để chủ trị.

Quế chi gia Phụ tử thang:

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

Thược dược 3 lạng

Chích thảo 3 lạng

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

Phụ tử 1 củ (thui, bóc bỏ vỏ xẻ ra làm 8 miếng).

Sáu vị trên, nước 7 thăng, sắc lọc bỏ bã uống ấm 1 thăng. Nguyên bản chép:
“Quế chi thang, nay gia Phụ tử. Theo dõi sử dụng y như cách trước”.

Ý nghĩa phương thuốc: Tác dụng chủ yếu của phương này là phù dương cố biểu
và liễm âm dịch. Dùng Quế chi thang để điều hòa vinh vệ và giải biểu, gia Phụ tử ôn
kinh cố biểu để phù dương.

22. Bệnh Thái dương sau khi hạ, mạch xúc, ngực đầy, dùng Quế chi khử
Thược dược thang làm chủ. Nếu hơi sợ lạnh, dùng Quế chi khử Thược dược gia
Phụ tử thang làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh Thái dương vì hạ nhầm mà sinh ra hai loại biến chứng.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương hạ nhầm rồi thấy mạch xúc, ngực đầy là hiện
chứng sau khi hạ, tà hãm vào ngực mà chính khí vẫn còn có thể đẩy tà ra ngoài, mạch
48
xúc là trong sác có một lần ngừng là tâm dương đã bị tổn thương. Ngực đầy là tà hãm
vào ngực, vệ dương không thể thông suốt, cho nên dùng Quế chi thang khử Thược
dược là vị thuốc êm dịu để khôi phục tâm dương mà điều hòa vinh vệ. Nếu hơi sợ
lạnh là biểu tà đã hãm vào, dương khí đã hư, cho nên dùng phương trước gia Phụ tử
để ôn kinh phù dương.

Quế chi khử Thược dược thang:

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

Chích thảo 2 lạng

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Đại táo 12 quả (bổ ra).

4 vị trên, nước 7 thăng sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng. Nguyên bản
là: “Quế chi thang, nay bỏ Thược dược, sử dụng theo dõi y như cách trước”.

Ý nghĩa phương thuốc: Quế chi thang bỏ Thược dược là vật âm nhu, dùng Quế
chi, Sinh khương để tuyên dương giải biểu; Cam thảo, Đại táo để hòa trung.

Quế chi khử Thược dược gia Phụ tử thang:

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

Chích thảo 2 lạng

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

Phụ tử 1 củ (nướng, bóc bỏ vỏ, xẻ ra làm 8 miếng).

5 vị trên, nước 7 thăng, sắc còn 3 thăng lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng. Nguyên
bản là: “Quế chi thang, nay bỏ Thược dược gia Phụ tử, sử dụng và theo dõi y như
cách trước”.

49
Ý nghĩa phương thuốc: Phương này tức là phương trước gia Phụ tử phù dương
khí để chữa chứng hơi sợ lạnh.

23. Bệnh Thái dương được 8,9 ngày, tình trạng như sốt rét, phát sốt sợ lạnh,
nóng nhiều lạnh ít, người bệnh không mửa, tiểu tiện trong muốn bớt, ngày lên
2,3 cơn. Mạch vi hoãn là muôn khỏi. Mạch vi mà sợ lạnh là âm dương đều hư,
không thể phát hãn, cho hạ, cho thổ nữa, sắc mặt lại có sắc nhiệt là chưa giải,
bởi vì không được một ít mồ hôi, mình tất sinh ngứa, nên uống Quế chi Ma
hoàng các bán thang.

Tóm tắt: Mấy loại chuyển biến của bệnh Thái dương qua 8,9 ngày sau.

Thích nghĩa: Nội dung điều này là nêu lên 3 loại chuyển biến của bệnh Thái
dương sau 8,9 ngày:

a, Chuyển biến tốt, sắp khỏi: Bệnh Thái dương 8,9 ngày một là tương đối lâu,
bệnh tình chuyển biến như chứng sốt rét tức là nóng lạnh lên có từng cơn. Nóng nhiều
lạnh ít là dấu hiệu dương khí tiến, tà khí thoái, người bệnh không nôn là tà chưa nhập
vào Thiếu dương, tiểu tiện trong muốn bớt là tà chưa nhập vào Dương minh. Mỗi
ngày lên 2,3 cơn là nói nóng lạnh mỗi ngày phát 2,3 lần. Mạch vi hoãn, vi là tà khí
suy, hoãn là chính khí hồi phục. Mạch chứng hòa hợp với nhau đấy là bệnh sắp khỏi.

b, Âm dương đều hư: Mạch vi mà sợ lạnh, mạch vi là chính khí suy, sợ lạnh là
dương khí kém, ngụ ý có lạnh nhiều nóng ít. Đấy là âm dương đều hư là nói biểu lý
đều hư cho nên mạch vi mà sợ lạnh, không thể lại dùng phép hãn, thổ hoặc hạ để chữa
nữa. Ý chắc là đã dùng đủ các phép hãn thổ hoặc hạ, nay bệnh đã chuyển thành hư
cho nên không thể dùng các phép ấy để chữa nữa.

c, Chuyển biến thành chứng Quế Ma các bán thang: Bệnh Thái dương đến 8-9
ngày, đáng lý phần biểu giải được, mình mát được. Nay nóng nhiều lạnh ít, trên mặt
lại có sắc uất nhiệt là biểu tà vẫn chưa muốn giải. Tà khí uất lại lâu ngày không ra
được tí mồ hôi nào, cho nên mình ngứa. Chỉ vì bệnh tình không thích hợp với sự dùng
một mình Quế chi thang hoặc một mình Ma hoàng thang, cho nên dùng Quế chi Ma
hoàng các bán thang để cho ra được tí mồ hôi là giải biểu được.

50
Quế chi Ma hoàng các bán thang:

Quế chi 1 lạng 16 thù (bỏ vỏ)

Thược dược 1 lạng

Sinh khương 1 lạng (thái mỏng)

Chích thảo 1 lạng

Ma hoàng 1 lạng (bỏ mắt)

Đại táo 4 quả (xẻ ra)

Hạnh nhân 24 hạt (tẩm nước sôi, bỏ vỏ, đầu nhọn và 2


cái mầm).

Bảy vị trên, nước 5 thăng, trước nấu Ma hoàng sôi 2 dạo, vớt bỏ bọt rồi cho các
vị kia vào sắc lấy 1 thăng 8 cáp, lọc bỏ bã, uống ấm 6 cáp. Nguyên bản chép: “Quế
chi thang 3 cáp, Ma hoàng thang 3 cáp, uống hết 1 lần. Sử dụng và theo dõi như cách
trước”.

Ý nghĩa phương thuốc: Tên bài thuốc là Quế chi Ma hoàng các bán thang, trên
thực tế chỉ dùng 1/3 Quế chi thang và 1/3 Ma hoàng thang làm một bài thuốc phát
hãn nhẹ. Bởi vì chứng này tà khí ít, chính khí chưa hồi phục, cần phát hãn giải biểu,
vì không có mồ hôi không thể chỉ dùng một mình Quế chi thang, lạnh ít không thể
chỉ dùng một mình Ma hoàng thang, cho nên dùng Quế Ma hợp tễ với liều lượng nhẹ,
để cho ra ít mồ hôi, giải biểu mà không tổn hại chính khí.

24. Bệnh Thái dương, mới uống Quế chi thang lại phiền mà không giải, thì
trước châm huyệt Phong trì, Phong phủ, rồi cho uống Quế chi thang thì khỏi.

Tóm tắt: Cách chữa trường hợp uống Quế chi thang lại phát phiền.

Thích nghĩa: Chứng Thái dương trúng phong, uống Quế chi thang đáng lý bệnh
khỏi. Nay uống rồi đã không khỏi mà lại phát phiền. Đấy không phải là thuốc không
trúng bệnh mà là do biểu tà quá thịnh cản trở ở kinh lạc, thuốc không thắng nổi bệnh,
51
cần phải châm huyệt Phong trì và Phong phủ trước để sơ thông kinh lạc, tiết bớt
phong tà ở Thái dương kinh. Phong tà trong kinh lạc được ức chế sau đó mới uống
Quế chi thang để giải cơ biểu thì có thể khỏi hết.

Lời chú chọn lọc: Từ Linh Thai nói: “Đây không phải là chữa nhầm, bởi phong
tà ngưng kết ở chỗ hiểm yếu của Thái dương kinh thời dược lực không thể lưu thông
nổi, cho nên phải châm để giải những ngưng kết ấy. Chỉ vì phong tà nhiều quá, chẳng
những ở phần vệ mà còn ở cả kinh mạch cho nên châm để sơ tiết kinh khí”.

25. Uống Quế chi thang, ra nhiều mồ hôi, mạch hồng đại, cho uống Quế chi
thang như cách trước. Nếu hình thái tựa như sốt rét , mỗi ngày lên 2 cơn, cho ra
mồ hôi để giải, nên uống Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang.

Tóm tắt: Hai thứ chứng trạng và hai cách chữa khác nhau sau khi uống Quế chi
thang

Thích nghĩa: Uống Quế chi thang ra nhiều mồ hôi, mạch hồng đại, nếu thấy
phiền khát là biểu tà đã nhập vào Dương minh là chứng bệnh của Bạch hổ thang. Nay
không thấy phiền khát là không có nhiệt ở trong, mạch hồng đại là do lúc ra nhiều
mồ hôi dương thịnh ở ngoài, không phải chủ về nhiệt ở trong. Tà khí vẫn ở Thái
dương thì theo Thái dương mà chữa, lại dùng Quế chi thang như phép trước. Nếu
hình thái tựa như sốt rét, phát sốt sợ lạnh, nóng nhiều lạnh ít, mỗi ngày lên cơn hai
lần, so với ngày lên cơn 2-3 lần của điều 23 là nhẹ hơn, cho nên dùng Quế chi nhị Ma
hoàng nhất thang. Trong phương thuốc giải cơ gia thêm ít thuốc phát hãn để giải tán
ngoại tà.

Lời chú chọn lọc: Vưu Tại Kinh nói: “Nếu người bệnh hình thái tựa như sốt rét
mà mỗi ngày lên cơn 2 lần là dấu hiệu chính khí thắng bên trong, tà khí muốn lui.
Nếu mồ hôi ra được, tà sẽ theo phần biểu mà giải, nhưng không phải trọng tễ có thể
phát biểu được. Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang để trợ chính khí, kiêm tán tà khí
thu nhỏ bài thuốc lại là khinh tễ phát hãn đối với bệnh Thái dương vậy”.

Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang:

52
Quế chi 1 lạng 17 thù (bỏ vỏ)

Thược dược 1 lạng 6 thù

Ma hoàng 16 thù (bỏ mắt)

Sinh khương 1 lạng 6 thù (thái mỏng)

Hạnh nhân 16 hạt (bỏ vỏ và đầu nhọn)

Chích thảo 1 lạng 2 thù

Đại táo 5 quả (xẻ ra).

Bảy vị trên, nước 5 thăng, nấu Ma hoàng trước sôi 2 dạo, vứt bỏ bọt rồi cho các
vị trên vào, sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bã, uống 1 thăng, ngày uống 2 lần. Nguyên bản
chép: “Quế chi thang 2 phần, Ma hoàng thang 1 phần, hợp làm 2 thăng, chia ra uống
2 lần, nay hợp làm 1 thăng. Sử dụng và theo dõi y như phép trước”.

26. Uống Quế chi thang, mồ hôi ra nhiều phiền khát nhiều không giải, mạch
hồng đại, cho uống Bạch hổ gia Nhân sâm thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp uống Quế chi thang rồi chuyển
thành Dương minh chứng.

Thích nghĩa: Uống Quế chi thang mồ hôi ra nhiều biểu tà tuy đã lui mà tân dịch
bị mất, nóng ở trong bốc lên dữ, cho nên mạch thấy hồng đại, phiền khát nhiều không
giải. Phải dùng Bạch hổ gia Nhân sâm thang để thanh nhiệt sinh tân dịch, khác với
trường hợp uống Quế chi thang ra nhiều mồ hôi, mạch hồng đại của điều 25. Lúc ra
mồ hôi, mạch thấy hồng đại mà không có chứng lý nhiệt phiền khát nhiều không giải
thì biết bệnh vẫn ở Thái dương cho nên dùng Quế chi thang làm chủ.

Bạch hổ gia Nhâm sâm thang:

Tri mẫu 6 lạng

Thạch cao 1 cân (giã nát, túi lụa bọc lại)

53
Chích thảo 2 lạng

Gạo tẻ 6 cáp

Nhân sâm 3 lạng.

Năm vị trên, nước 1 đấu, nấu cho chín gạo là được, lọc bỏ bã uống ấm 1 thăng,
ngày uống 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Thạch cao thanh nhiệt trừ phiền. Tri mẫu thanh phế
nhuận táo. Nhân sâm bổ khí sinh tân dịch. Gạo tẻ, Cam thảo trung hòa vị. Phương
này là thuốc thanh nhiệt dưỡng âm.

Nhận xét: Hễ bên trong có táo nhiệt, hao tổn tân dịch nhiều, chẩn mạch thấy
hồng đại hoặc hoạt sác, ra nhiều mồ hôi, phiền khát, miệng lưỡi khô ráo, hoặc lưỡi
có gai mà không có biểu chứng là thích ứng với phương này. Bao nhiêu bệnh nhiệt
tính, thường thấy mạch và chứng này, khi biện chứng đã được xác thực thì dùng thuốc
sẽ công hiệu (một phương này có thể chữa nhiều bệnh rất hay). Nếu chỉ bằng theo tên
bệnh, dựa theo công thức riêng của thuốc mà không biện được mạch và chứng tất sẽ
chữa nhầm.

27. Bệnh Thái dương, phát sốt sợ lạnh, nóng nhiều lạnh ít, mạch vi nhược,
đấy là không có dương khí thì không thể phát hãn, nên dùng Quế chi nhị Việt tỳ
nhất thang.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp bệnh Thái dương biểu chưa giải
mà bên trong có nhiệt.

Thích nghĩa: Câu “Nên dùng Quế chi nhị Việt tỳ nhất thang” , theo ý câu nói
thì tiếp sau câu “nóng nhiều lạnh ít”. Phát sốt sợ lạnh, nóng nhiều lạnh ít là bệnh Thái
dương biểu tà chưa giải, ngoài điều ấy ra còn có các chứng lý nhiệt như khát nước,
tâm phiền, cho nên dùng Quế chi nhị Việt tỳ nhất thang, trong bài thuốc sơ giải gia
thêm thuốc thanh nhiệt. Nếu mạch vi thấy nhược, là bệnh nhân chính khí vốn hư, phát
hãn thời dễ gây tình trạng vong dương, cho nên nói “đấy là không có dương khí không
thể phát hãn”.

54
Lời chú chọn lọc: Chương Hư Cốc nói: “Lời văn của điều này nên tả làm hai
đoạn mà xem. Câu nên dùng Quế chi nhị Việt tỳ nhất thang là tiếp sau câu nóng nhiều
lạnh ít. Nay nói trái lại như vậy là lối chuyển pháp của Hán văn. Nếu mạch vi nhược
không có dương khí thì sao lại phát hãn được. Cho nên Trọng Cảnh căn dặn người
ta rằng “không thể phát hãn” , nên đọc câu ấy như câu nói trái lại Kinh văn rành
rành không một mảy may lẫn lộn”.

Quế chi nhị Việt tỳ nhất thang:

Quế chi 18 thù (bỏ vỏ)

Thược dược 18 thù

Ma hoàng 18 thù

Chích thảo 18 thù

Đại táo 4 quả (xẻ ra)

Sinh khương 1 lạng 2 thù (thái mỏng)

Thạch cao 24 thù (giã nát, túi lụa bọc lại).

Bảy vị trên, nước 5 thăng, nấu vị Ma hoàng trước cho sôi 1,2 dạo, vớt bỏ bọt rồi
cho các vị kia vào, sắc còn 2 thăng, lọc bỏ bã, cho uống ấm mỗi lần 1 thăng. Nguyên
bản chép: “ nên chế làm Việt tỳ thang, Quế chi thang hợp lại uống 1 thăng. Nay hợp
làm 1 phương Quế chi thang 2 phần, Việt tỳ thang 1 phần”.

Ý nghĩa phương thuốc: Bài này là hợp phương Quế chi thang với Việt tỳ thang
chế thành tiểu tễ, dùng Quế chi thang để giải biểu tà, Việt tỳ thang để phát tán cái uất
nhiệt, là khinh tễ để giải cả biểu lẫn lý.

28. Uống Quế chi thang , hoặc uống thuốc hạ rồi mà đầu gáy vẫn cứng đau,
hâm hấp phát sốt, không có mồ hôi, vùng vị quản đầy, tiểu tiện hơi đau không
thông lợi, dùng Quế chi khử Quế gia Bạch truật Phục linh thang làm chủ.

55
Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp sau khi phát hãn và hạ mà thủy
khí đình trệ ở trong, biểu tà cũng chưa giải.

Thích nghĩa: dùng Quế chi thang hoặc uống thuốc hạ, vẫn thấy các chứng đầu
gáy cứng đau, hâm hấp phát sốt, không có mồ hôi là thái dương biểu chứng không
giải mà vùng vị quản đầy, hơi đau, tiểu tiện không thông lợi là tỳ không chuyên thâu,
thủy khí cản trở bên trong. Hễ biểu bệnh kiêm lý, có thủy âm, thường nên chữa chung
cả biểu lẫn lý. Nếu chỉ giải biểu thì bệnh tất không khỏi là vì khí ở phần lý không
thông thì phần biểu cũng bất hòa. Nay dùng Quế chi khử Quế gia Phục linh Bạch
truật thang để chữa, thủy âm ở phần lý được lưu lợi thì phần biểu cũng giải được.

Quế chi khử Quế gia Phục linh Bạch truật thang:

Thược dược 3 lạng

Chích thảo 2 lạng

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Bạch truật 3 lạng

Phục linh 3 lạng

Đại táo 12 quả (xẻ ra).

Sáu vị trên, nước 8 thăng, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng. Tiểu tiện
thông lợi được thời khỏi. Nguyên bản chép: “Quế chi thang, nay khử Quế gia Phục
linh Bạch truật”.

Ý nghĩa phương thuốc: Bài này dùng Phục linh để thẩm thấp lợi thủy, lấy Bạch
truật làm tá để trợ tỳ trừ thấp, Thược dược khai âm kết mà lợi tiểu tiện, Sinh khương
tuyên tán thủy khí, Đại táo, Cam thảo điều hòa trung cung, để cùng đạt hiệu quả hòa
tỳ lợi thủy.

Sách Kim giám nói: Chữ “Khử Quế” có lẽ là khử Thược dược, bài này khử quế
thì lấy gì mà trị biểu chứng đầu gáy cứng đau phát sốt ? Cho nên dùng Quế chi thang

56
khử Thược dược vị chua có tính thu liễm để tránh tình trạng không có mồ hôi, vùng
vị quản đầy, gia Linh Truật tính thấm nhuần chất ráo, làm cho giải cả biểu lẫn lý thời
các chứng trong ngoài đều khỏi cả.

Nhận xét: Theo điều văn nói trên phương này là khử Quế, sách Kim giám lại
cho là khử Thược, nhưng về lâm sàng thì loại chứng bệnh này thường dùng toàn
phương Quế chi thang gia Linh truật cũng có hiệu quả.

29. Thương hàn mạch phù, tự đổ mồ hôi, tiểu tiện đi luôn, tâm phiền, hơi
sợ lạnh, chân co quắp mà lại dùng Quế chi thang để công biểu là nhầm. Uống
vào sinh ra những chứng chân tay quyết lạnh, trong họng khô, buồn phiền vật
vã, mửa xốc, cho uống Cam thảo Can khương để khôi phục dương khí, nếu
chứng chân tay quyết lạnh khỏi chân ấm đều, lại cho uống Thược dược Cam
thảo thang thì chân duỗi được ngay, nếu vị khí không hòa, nói sảng, cho uống
một ít Điều vị thừa khí thang, nếu lại phát hãn, thì chữa bằng thiêu châm dùng
Tứ nghịch thang làm chủ.

Tóm tắt: Thương hàn uống nhầm Quế chi thang gây biến chứng tìm cách tùy
chứng trị liệu.

Thích nghĩa: Điều này là trình bày biến chứng và cách cứu nghịch do âm dương
đều không đủ, uống nhầm Quế chi thang mà sinh ra. Thương hàn mạch phù, tự đổ
mồ hôi, tiểu tiện đi luôn, hơi sợ lạnh là dấu hiệu vì cảm tà mà dương khí không đủ,
tâm phiền, chân co quắp là dấu hiệu âm dịch không đủ. Lúc ấy nếu lấy mạch phù, tự
đổ mồ hôi mà cho uống nhầm Quế chi thang sẽ dẫn đến sinh biến chứng. Cho nên
sau khi uống xong, dương khí càng hư mà chân tay quyết lạnh, âm dịch càng tổn
thương cho nên trong họng khô; buồn phiền vật vã là dương hư rồi âm dương không
hỗ trợ nhau; mửa xốc là vì dương hư hàn khí nghịch lên. Chứng trạng kể trên tuy
thuộc dương hư cũng thấy âm dịch không đủ. Ở vào lúc âm dương đều hư, phương
pháp cứu nghịch phải phân ra từng bước để tiến hành, cách chữa phải hồi phục dương
khí trước, khôi phục âm dịch sau, cho nên dùng Cam thảo Can khương thang là thuốc
cay ngọt phù dương để hồi phục dương khí, dương khí hồi phục thời chứng quyết
lạnh khỏi mà chân ấm, lại cho uống Thược dược Cam thảo thang là thuốc đắng ngọt,

57
hóa âm để khôi phục âm dịch. Âm dịch khôi phục thì hai chân duỗi được. Như thế
thời dương khí đã ấm áp được, âm dịch cũng nhu dưỡng được, phép trị phải rành
mạch, không thiên lệch. Nếu vì uống thuốc ấm, dương khí hồi phục làm cho vị nhiệt
thấy nói sảng, nên cho uống một ít Điều vị thừa khí thang để điều hòa, làm cho vị hòa
mà nói sảng sẽ hết, nếu lại phát hãn, dùng thiêu châm nữa, đã nghịch còn làm cho
nghịch thêm thì chứng quyết nghịch tất sẽ nặng hơn trước, thời không phải Cam thảo
Can khương thang có thể làm gì được nữa. Bởi vì phát hãn nhiều lần lại thiêu chậm
để cho ra mồ hôi nữa tất sẽ gây nên thoát mồ hôi vong dương. Cho nên cần dùng Tứ
nghịch thang để hồi dương cứu nghịch.

Điều này nói rõ cách xử lý bệnh tật, cần phải cân nhắc sự hoãn cấp, trước sau,
dựa vào chứng để lập phương, cho uống các bài thuốc ôn lương bổ tả, đặt ra là để
phòng biến chứng, không nên đem thuốc để thử bệnh mà cho uống thuốc hàn nhiệt
lẫn lộn linh tinh.

Bệnh Thái dương có mồ hôi gọi là Trúng phong, không có mồ hôi gọi là Thương
hàn, là chỉ vào Thương hàn nghĩa hẹp mà nói. Ở đây nói “ Thương hàn, mạch phù, tự
đổ mồ hôi” là nói chứng bệnh Thương hàn, không phải chuyên nói về loại bệnh
Thương hàn không có mồ hôi.

Cam thảo Can khương thang:

Chích thảo 4 lạng,

Can khương 2 lạng.

Hai vị trên, nước 3 thăng, sắc còn một nửa, lọc bỏ bã chia uống ấm hai lần.

Ý nghĩa phương thuốc. Bài này là phương thuốc cay ngọt để hóa dương khí,
dùng cam thảo vị ngọt, tính bình, có công năng bổ trung ích khí. Can khương vị cay,
tính ấm, có thể hồi phục dương khí, cay với ngọt hợp lại mà dùng là nửa bài Lý trung,
trọng tâm là hồi phục dương khí ở trung tiêu. Dương khí ấy được hồi phục thì chứng
quyết lạnh tự khỏi.

Thược dược Cam thảo thang.

58
Thược dược 4 lạng

Chích thảo 4 lạng.

Hai vị trên, nước ba thăng, sắc còn một nửa, lọc bỏ bã, chia ra uống ấm hai lần.

Ý nghĩa phương thuốc. Đây là phương thuốc đắng ngọt để hóa âm dịch, tân dịch
không đủ thời không lấy gì để tưới bón, huyết dịch không đủ thời không lấy gì để
nuôi dưỡng gân. Thược dược hòa huyết dưỡng gân, Cam thảo bổ trung hoãn cấp, cho
nên uống rồi là hai chân sẽ duỗi ra được.

Điều vị thừa khí thang.

Đại hoàng 4 lạng, (bỏ vỏ, tẩy rượu trắng)

Chích thảo 2 lạng

Mang tiêu ½ thăng

Ba vị trên, nước ba thăng, sắc còn 1 thăng, lọc bỏ bã, cho Mang tiêu vào, bắc
lên đun nhỏ lửa cho sôi lên rồi uống ấm dần dần.

Ý nghĩa phương thuốc. Đại hoàng làm cho bài tiết thực nhiệt, Mang tiêu làm
mềm chất rắn, Cam thảo điều hòa trung tiêu, là một bài thuốc xổ nhẹ thực nhiệt ở
Dương minh, cho uống ít để hòa vị khí.

Tứ nghịch thang.

Chích thảo 2 lạng

Can khương 1,5 lạng

Phụ tử 1 củ (dùng sống, bỏ vỏ, xẻ làm 8 miếng)

Ba vị trên, nước ba thăng sắc lấy 1 thăng 2 cáp, lọc bỏ bã, chia uống ấm 2 lần,
người khỏe mạnh có thể dùng Đại phụ tử 1 củ, Can khương 3 lạng.

59
Ý nghĩa phương thuốc. Đây là phương thuốc hồi dương cứu nghịch. Phụ tử ôn
kinh hồi dương, Can khương ôn trung tán hàn, Cam thảo điều trung bổ hư, ba vị hợp
lại để cùng đạt được công năng hồi dương.

30. Hỏi rằng: “Chứng trạng của bệnh nhân rất giống chứng Dương đán
thang, thầy thuốc dùng Dương đán thang để chữa, kết quả bệnh tình lại nặng
hơn, chân tay quyết lạnh, cổ họng khô ráo, hai ống chân không thể duỗi thẳng
được mà nói sảng.

LÃO SƯ ĐÁP: Đến nửa đêm chân tay sẽ ấm lại, hai chân sẽ co duỗi được.
sau đó quả nhiên đúng như lão sư đã nói.

Vì sao biết thế?

ĐÁP: Mạch thốn khẩu phù đại, phù là phong, đại là hư, phong thời sinh
sốt nhẹ, hư thời sinh hai chân co quắp, chứng trạng tương tự như chứng Quế
chi thang, nhân đó gia Phụ tử vào, thêm Quế chi cho ra mồ hôi. Phụ tử để ôn
kinh, vì là vong dương. Quyết nghịch, họng khô buồn phiền vật vã, Dương minh
táo kết ở trong, phiền loạn nói sảng, lại dùng Cam thảo Can khương thang. Nửa
đêm dương khí hồi phục, hai chân sẽ ấm lên, hai ống chân còn hơi co quắp, nên
cho uống Thược dược Cam thảo thang thì chân có thể duỗi thẳng được. Dùng
Thừa khí thang làm cho đại tiện hơi nhão thì chứng nói sảng hết, cho nên biết
bệnh có thể chữa khỏi.

Nhận xét: điều này giải thích điều trên, không cần thích nghĩa.

60
II – BIỆN VỀ MẠCH, CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THÁI DƯƠNG

31. Bệnh Thái dương lưng gáy cứng đờ, không có mồ hôi, ghê gió, dùng Cát
căn thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh tà ở du huyệt của kinh Thái dương.

Thích nghĩa: phong hàn xâm nhập vào du huyệt của kinh Thái dương, cho nên
thấy lưng gáy cứng đờ, vì không có mồ hôi, ghê gió, cho nên dùng Cát căn thang phát
hãn để giải biểu kiêm thông du huyệt của kinh Thái dương.

So sánh chứng Cát căn thang với chứng Quế chi gia Cát căn thang

Chứng Quế chi gia Cát căn thang Chứng Cát căn thang

Có mồ hôi và du huyệt của kinh Không có mồ hôi mà du huyệt của


Thái dương không lưu lợi kinh Thái dương không lưu lợi

So sánh chứng Cát căn thang với chứng Ma hoàng thang

Chứng Ma hoàng thang Chứng Cát căn thang

Không có chứng lưng gáy cứng đờ Có chứng lưng gáy cứng đờ mà


mà có suyễn không có suyễn

Lời chú chọn lọc. Phương Hữu Chấp nói: “không có mồ hôi là khởi đầu từ
Thương hàn, cho nên mồ hôi không ra, trái với chứng có mồ hôi của thiên trên, đấy
là biện biệt giữa phong và hàn. Ghê gió là đối đãi với sợ lạnh, phong với hàn đều là
ghét cả mà không thiên về có hay không”.

Cát căn thang.

Cát căn 4 lạng

61
Ma hoàng 3 lạng (bỏ mắt)

Quế chi 2 lạng (bỏ vỏ)

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Thược dược 2 Chích thảo 2 lạng lạng

Đại táo 12 quả (xé ra)

Bảy vị trên, nước 1 đấu, nấu vị Ma hoàng trước với Cát căn cho cạn bớt 6 thăng,
vớt bỏ bọt rồi cho các vị kia vào, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã uống ấm 1 thăng, đắp
chăn cho ra mồ hôi dâm dấp. Còn các mặt theo dõi kiêng khem thì y như cách dùng
thang Quế chi.

Ý nghĩa phương thuốc. Phương này là Quế chi thang gia Ma hoàng Cát căn mà
nên, có tác dụng giải cơ phát hãn, đưa tân dịch lên, làm cho kinh lạc được thư sướng.
Cát căn có khả năng đề khởi âm khí, sinh tân dịch, giải cơ, tán tà, cho nên dùng để
chữa chứng lưng gáy cứng đờ, tuy phát hãn mà không hại tân dịch, rất là thích hợp.

32. Hợp bệnh Thái dương, Dương minh thời tất đi ỉa chảy, cho uống Cát
căn thang làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa chứng ỉa chảy do hợp bệnh Thái dương và Dương minh.

Thích nghĩa: Hai kinh dương đều cảm thụ tà, hợp nhau mà thành bệnh gọi là
hợp bệnh. Hợp bệnh nói chung là tà khí hơi nhiều. Cho nên hợp bệnh Thái dương
Dương minh đã có bệnh Thái dương lại có bệnh Dương minh, tà thịnh ở ngoài ảnh
hưởng đến trong cho nên nói “ thời tất đi ỉa chảy”, vì lý chứng do biểu chứng dẫn
đến cho nên cách chữa vẫn chú trọng giải biểu hơn, dùng Cát căn thang để phát tán
biểu tà, biểu tà giải thì lý chứng tự khỏi.

Lời chú chọn lọc. Sách Kim giám nói: “ Hợp bệnh Thái dương với Dương minh
thì khí của biểu lý thăng giáng thất thường cho nên ỉa chảy. Cách chữa là giải biểu

62
chứng Thái dương. Biểu chứng Thái dương giải được thì lý chứng Dương minh tự
khỏi.”

33. Hợp bệnh Thái dương Dương minh mà không ỉa chảy, chỉ nôn? Cho
uống Cát căn gia Bán hạ thang làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa hợp bệnh Thái dương Dương minh không ỉa chảy mà chỉ
nôn.

Thích nghĩa: Điều văn này tiếp theo điều văn trên mà nói hợp bệnh Thái dương
Dương minh vì lý chứng do biểu chứng dẫn đến can phạm đến trường vị ở trong làm
cho sự thăng giáng mất bình thường. Có tình trạng không ỉa chảy nghịch lên mà nôn,
cho nên vẫn dùng Cát căn thang để giải biểu, gia Bán hạ để giáng khí nghịch làm hết
nôn.

Cát căn gia Bán hạ thang.

Cát căn 4 lạng

Ma hoàng 3 lạng (bỏ mắt)

Chích thảo 2 lạng

Thược dược 2 lạng

Quế chi 2 lạng (bỏ vỏ)

Sinh khương 2 lạng (thái mỏng)

Bán hạ ½ thăng (tẩy)

Đại táo 12 quả (xé ra)

Tám vị trên, nước 1 đấu nấu Cát căn Ma hoang trước cho cạn bớt 2 thăng, vớt
bỏ bọt rồi cho các vị kia vào sắc lấy 3 thăng lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng, đắp chăn
cho ra mồ hôi chút ít.

63
Ý nghĩa phương thuốc. chữa chứng bệnh nói trên mà không ỉa chảy nhưng có
chứng nôn cho nên gia Bán hạ để giáng nghịch làm hết chứng nôn.

34. Bệnh Thái dương, chứng Quế chi, thầy thuốc lại cho hạ, đi đồng không
cầm lại được, mạch xúc là biểu tà chưa giải, suyễn thở mà đổ mồ hôi, cho uống
Cát căn, Hoàng cầm, Hoàng liên thang làm chủ.

Tóm tắt: chứng trạng và cách chữa trường hợp chứng Quế chi cho hạ nhầm rồi
lý nhiệt kèm với biểu nhiệt, mà ỉa chảy.

Thích nghĩa: bệnh Thái dương, chứng Quế chi, nhầm cho dùng phép hạ mà tổn
thương trường vị, do đó mà ỉa chảy không cầm lại được, nếu như mạch thấy cấp xúc
là biểu chứng còn chưa giải, nên chuyên về giải biểu, biểu giải được thì ỉa chảy tự
cầm lại được. Nếu thấy suyễn thở mà đổ mồ hôi là do tà hãm vào mà hóa nhiệt, bốc
đốt lên phổi mà gây ra suyễn thở, bốc đốt ra ngoài thân thể thì đổ mồ hôi, nên dùng
Cát căn, Hoàng cầm, Hoàng liên thang làm chủ.

Cát căn Hoàng cầm Hoàng liên thang.

Cát căn ½ cân

Chích thảo 2 lạng

Hoàng cầm 3 lạng

Hoàng liên 3 lạng

4 vị trên, nước 8 thăng, trước nấu Cát căn cho cạn bớt 2 thăng, rồi cho các vị
kia vào, sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bã chia uống ấm 2 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: phương này là bài thuốc giải biểu lý. Dùng Cát căn giải
biểu, Hoàng cầm Hoàng liên thanh giải lý nhiệt, Cam thảo hòa trung yên chính khí.
Biểu chứng giải được thời ỉa chảy sẽ khỏi, lý nhiệt thanh được thời đổ mồ hôi và
suyễn thở cũng khỏi.

64
35. Bệnh Thái dương nhức đầu phát sốt, đau mình, đau lưng, đau khớp
xương, ghê gió, không có mồ hôi mà suyễn thở, cho uống Ma hoàng thang làm
chủ.

Tóm tắt: chứng trạng và cách chữa Thái dương thương hàn.

Thích nghĩa: chứng này là do hàn tà bó ngoài phần biểu, biểu khí bị uất lại,
huyết vận hành không lưu lợi, không lưu lợi thì đau, cho nên thấy các chứng đau
mình, đau khớp xương. Dương khí bốc ra ngoài để chống lại với ngoại tà cho nên
phát sốt, tà khí bó ở ngoài, dương khí không thông sướng được, cho nên sợ lạnh, ghê
gió là nói đối với sợ lạnh, phế hợp với lông da, lông da bế tắc làm cho phế khí không
tuyên thông, cho nên không có mồ hôi mà suyễn thở. Chứng trạng kể ở trên đều do
hàn tà bó ở ngoài phần biểu mà gây nên. Dùng Ma hoàng thang làm chủ trị.

Điều văn này nên xem chung với điều 3 ở trước. Điều 3 nói: “đau mình”. Điều
này nói: “nhức đầu, đau mình đau lưng, đau khớp xương”. Điều 3 nói: “tất sợ lạnh”,
điều này nói “ghê gió”. Trước sau xem lẫn với nhau đã thấy tà khí của phong và hàn
không thể tách rời nhau được.

Các chứng đã kể trong điều này, trong đó nhức đầu, phát sốt, ghê gió là đều có
ở chứng trúng phong cũng như thương hàn, đau lưng, đau khớp xương, không mồ hôi
mà suyễn thở là chỉ có riêng ở thương hàn. Theo dõi trên lâm sàng, một chứng đau
mình tuy hai bệnh đều có mà ở thương hàn là nặng hơn, trúng phong có mồ hôi, cho
nên dùng Quế chi thang để điều hòa vinh vệ. Thương hàn không mồ hôi cho nên dùng
Ma hoàng thang để phát hãn giải biểu, tuyên phế trừ tà.

Ma hoàng thang.

Ma hoàng 3 lạng (bỏ mắt)

Quế chi 2 lạng (bỏ vỏ)

Chích thảo 1 lạng

Hạnh nhân 70 hạt ( bỏ vỏ và đầu nhọn)

65
4 vị trên, nước 9 thăng, nấu Ma hoàng trước cho cạn bớt 2 thăng, vớt bỏ bọt rồi
cho các vị kia vào, sắc lấy 2,5 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 8 cáp. Đắp chăn kín cho ra
mồ hôi, không phải ăn cháo, còn theo dõi kiêng khem thì y như cách uống thang Quế
chi.

Ý nghĩa phương thuốc. phương này là phương phát hãn mạnh (tuấn tễ) để giải
biểu trục tà, là phương chủ yếu để chữa bệnh Thương hàn. Ma hoàng để phát tán
phong hàn, mở lông da, phát hãn, cắt cơn suyễn thở; Quế chi thông dương khí, giúp
Ma hoàng để tăng công năng giải biểu phát hãn; Hạnh nhân thông lợi phế khí, cắt cơn
suyễn thở; Cam thảo điều hòa trung tiêu. Các vị hợp lại sẽ góp sức để giải biểu, phát
hãn, tuyên thông phế khí, cắt cơn suyễn thở.

36. Hợp bệnh Thái dương Dương minh, suyễn thở mà ngực đầy, không thể
hạ, nên cho uống Ma hoàng thang.

Tóm tắt: cách chữa suyễn thở và ngực đầy của hợp bệnh Thái dương Dương
minh.

Thích nghĩa: hợp bệnh Thái dương Dương minh, biểu hàn bó ở ngoài, phế khí
bị trở ngại, cho nên suyễn thở mà ngực đầy. Trường hợp này khác với chứng bụng
đầy do thực ở trong mà suyễn thở của chứng Dương minh, cho nên không thể hạ được.
Chứng này tuy là hợp bệnh của Thái dương và Dương minh, nhưng lấy biểu hàn làm
chủ yếu, cho nên cách chữa phải dùng Ma hoàng thang để giải biểu cắt cơn suyễn thở
thì chứng ngực đầy sẽ khỏi.

37. Bệnh Thái dương 10 ngày trở lên, mạch phù tế mà ham nằm, là ngoại
tà đã giải, nếu có chứng ngực đầy sườn đau, thì cho uống Tiểu Sài hồ thang;
mạch chỉ thấy phù thì cho uống Ma hoàng thang.

Tóm tắt: Bệnh Thái dương 10 ngày trở lên có 3 thứ chứng trạng và cách chữa
biến hóa khác nhau.

Thích nghĩa: bệnh Thái dương 10 ngày trở lên, mạch phù tế mà ham nằm là tình
trạng biểu tà đã lui, chính khí vẫn chưa hoàn toàn khôi phục; nếu thấy ngực đầy tức,

66
sườn đau là tà đã truyền vào Thiếu dương, cần dùng Tiểu Sài hồ thang để hòa giải,
nếu thấy mạch phù không thay đổi là chủ bệnh vẫn còn ở biểu, tuy đã hơn 10 ngày
vẫn phải cho uống Ma hoàng thang để giải biểu.

Lời chú chọn lọc: Vưu Tại Kinh nói: “ bệnh Thái dương kéo dài hơn 10 ngày,
mạch phù không khẩn mà tế, người không vật vã mà ham nằm, cho nên gọi là “hết
mạch khẩn thì người yên”, là bệnh đã giải rồi. Hai đoạn sau là nói khi chưa giải, nói
mạch tế, không ham nằm mà ngực đầy sườn đau là tà đã nhập vào Thiếu dương, chưa
giải, thì nên cho uống Tiểu Sài hồ thang. Nếu mạch chỉ phù không tế, không muốn
nằm, là tà còn ở Thái dương, chưa giải, vẫn phải cho uống Ma hoàng thang, không
phải nói ngoại chứng đã giải mà còn hòa giải phát biểu nữa đâu”.

38. Thái dương trúng phong, mạch phù khẩn, phát sốt sợ lạnh, mình đau
nhức, không ra mồ hôi mà buồn phiền vật vã, cho uống Đại thanh long thang
làm chủ. Nếu mạch vi nhược, đổ mồ hôi, ghê gió thì không nên cho uống, uống
thời sinh chứng quyết nghịch, gân thịt máy giật, đấy là trái vậy.

Tóm tắt: mạch chứng chủ yếu và cấm kị của Đại thanh long thang.

Thích nghĩa: ngoại cảm tà phong hàn uất bế ở phần biểu, cho nên thấy các chứng
biểu thực như phát sốt, sợ lạnh, mình đau nhức không đổ mồ hôi, mạch phù khẩn. Tà
thực ở biểu, nhiệt uất ở lý thời vật vã chẳng yên. Chứng này so với chứng Ma hoàng
thang thì chứng biểu hàn giống nhau và chứng lý nhiệt buồn phiền vật vã là chứng
riêng biệt của Đại thanh long thang. Cho nên Thương hàn thì dùng Ma hoàng thang
để giải biểu phát hãn làm chủ mà chứng này thời dùng Đại thanh long thang để giải
biểu hàn kiêm thanh lý nhiệt.

Sự phát hãn của Đại thanh long thang tương đối mạnh, chỉ dùng cho chứng biểu
lý đều thực gọi là biểu hàn mà lý nhiệt. Mạch vi nhược mà lý hư, đổ mồ hôi, ghê gió
là chứng Quế chi thang, cẩn thận đừng nên uống Đại thanh long thang. Nếu như uống
nhầm thì sẽ xuất hiện chứng trạng hoại bệnh ra nhiều mồ hôi mà vong dương, chân
tay quyết lạnh, gân thịt máy giật, cho nên nói “đấy là trái vậy”.

Đại thanh long thang.

67
Ma hoàng 6 lạng (bỏ mắt)

Quế chi 2 lạng (bỏ vỏ)

Cam thảo 2 lạng

Hạnh nhân 40 quả (bỏ vỏ và đầu nhọn)

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Đại táo 10 quả (xé ra)

Thạch cao 1 cục bằng quả trứng gà, giã nhỏ.

Bảy vị trên, nước 9 thăng, nấu Ma hoàng trước cho cạn bớt 2 thăng, vớt bỏ bọt
rồi cho các vị kia vào, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng cho ra ít mồ hôi.
Mồ hôi ra nhiều thì dùng phấn rôm xoa vào. Uống nước trước mà đổ mồ hôi thì thôi,
không uống nước sau. Đổ nhiều mồ hôi mà vong dương trở thành hư chứng, ghê gió,
buồn phiền vật vã, ngủ không được.

Ý nghĩa phương thuốc: phương này do Ma hoàng thang gia giảm mà lập nên, là
thuốc phát hãn mạnh. Bội dụng Ma hoàng, lấy Quế chi Sinh khương là tá để phát tán
phong hàn ở biểu, gia Thạch cao cay lạnh để trừ chứng phiền nhiệt, Cam thảo, Đại
táo điều hòa trung tiêu để giúp cho nguồn của mồ hôi, cùng góp sức nhau để đạt được
công hiệu giải biểu thanh lý.

39. Thương hàn, mạch phù hoãn, mình không đau, chỉ thấy nặng thỉnh
thoảng có lúc thấy nhẹ, không có chứng Thiếu âm thì cho uống Đại thanh long
thang để phát hãn.

Tóm tắt: giải thêm về mạch chứng và cấm kỵ của Đại thanh long thang.

Thích nghĩa: điều này nói thêm nếu dùng Đại thanh long thang là phải thấy các
chứng trạng chủ yếu của Đại thanh long thang là phát sốt, sợ lạnh, không đổ mồ hôi
mà buồn phiền vật vã. Đến như mạch khẩn hay hoãn, mình có đau hay không, bất tất

68
phải đủ, nếu như mình không đau mà chỉ thấy nặng, thỉnh thoảng có lúc thấy nhẹ,
cũng có thể dùng được

Chứng Thiếu âm mình nặng là thuộc khí huyết hư, thân mình nặng không có
lúc nào dứt, còn như thân mình nặng của chứng này là thuộc về mồ hôi ra không được
hàm uất khí trệ, cho nên thỉnh thoảng có lúc thấy nhẹ. Hai trường hợp tương tự với
nhau, phải phân biệt cho rõ.

Điều trước nói Thái dương trúng phong, mạch phù khẩn, điều này nói Thương
hàn mạch phù hoãn, lập luận tráo trở như vậy là chỉ cho ta thấy tà khí của phong với
hàn không thể tách rời nhau được, cần phải tham hợp mạch và chứng, biện chứng để
điều trị, thì không bị nhầm lẫn

Lời chú chọn lọc: Kha Vận Bá nói: “ cảm hàn có nặng, có nhẹ khác nhau, cảm
nặng thời mạch âm mạch dương đều đi khẩn, mình đau nhức; cảm nhẹ thì mạch phù
hoãn, mình mẩy nặng nề. Cũng có lúc ban đầu mạch khẩn rồi dần dần thấy hoãn,
ban đầu mình đau nhức sau hết đau nhức, thầy thuốc không nên câu chấp. Nhưng
mạch phù khẩn thì mình đau nhức, mạch phù hoãn thì mình không đau nhức, dù trúng
phong hay thương hàn đều thế cả. Lại có thể gọi là định mạch định chứng”.

Nhận xét: Dùng Đại thanh long thang tất thảy phải đầy đủ các chứng của Đại
thanh long thang là phát sốt, sợ lạnh, không đổ mồ hôi mà buồn phiền vật vã. Mạch
thấy khẩn hay hoãn, mình đau nhức thời bất tất phải có. Nếu như chủ chứng không
đủ, chỉ có chứng trạng mình đau nhức hoặc mình thấy nặng, thỉnh thoảng có lúc thấy
nhẹ là không đủ điều kiện để sử dụng Đại thanh long thang.

40. Thương hàn biểu chứng không giải, dưới tâm có thủy khí, nôn khan,
phát sốt mà ho, hoặc khát, hoặc ỉa chảy, hoặc nghẹn, hoặc tiểu tiện không thông
lợi, bụng dưới đầy hoặc suyễn thở, thì dùng Tiểu thanh long thang làm chủ.
(dưới tâm: ở đây là vùng màng phổi phía dưới, có thể đọng nước)

Tóm tắt: chứng trạng và cách chữa Thương hàn biểu chứng không giải dưới tâm
có thủy khí.

69
Thích nghĩa: Thương hàn biểu chứng không giải thời phát sốt, dưới tâm có thủy
khí, vị khí nghịch lên thời nôn khan, thủy khí phạm vào phổi thời thấy ho. Cho nên
dùng Tiểu thanh long thang làm chủ trị để giải tán hàn tà bên ngoài trừ thủy ẩm bên
trong. Nếu vì nước đọng dưới tâm không hóa ra khí được thời khát nước, chạy trong
ruột thời ỉa chảy, dương khí bị thủy khí cản trở thời phát nghẹn; nước đọng ở hạ tiêu,
khí hóa không lưu hành thời tiểu tiện không thông lợi, bụng dưới trướng đầy; thủy
khí nghịch lên phạm vào phổi thời suyễn thở. Khi gặp các chứng trạng phụ này là do
biểu hàn bó bên ngoài, thủy ẩm làm trở ngại bên trong, biến động khắp nơi mà gây
nên, đều không nhất thiết phải là chứng của phương này.

Tiểu thanh long thang.

Ma hoàng 3 lạng (bỏ mắt)

Thược dược 3 lạng

Can khương 3 lạng

Ngũ vị tử ½ thăng

Cam thảo 3 lạng

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

Bán hạ ½ thăng (tẩy)

Tế tân 3 lạng

8 vị trên, nước 1 đấu, nấu vị Ma hoàng trước cho cạn bớt 2 thăng, vớt bỏ bọt rồi
cho các vị kia vào, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã uống ấm 1 thăng.

Ý nghĩa phương thuốc. phương này chữa biểu chứng chưa giải, dưới tâm có thủy
khí, dùng bài thuốc chữa hai mặt biểu và lý, bên ngoài thì giải tán phong hàn, bên
trong thì trừ chứng thủy ẩm. Tế tân vị cay để giải tán hàn tà, Ngũ vị vị chua để liễm
phế khí, Can khương tính ấm để hành thủy, chứng ho do thủy hàn phục vào phổi, ba
vị hợp lại để chữa thì không có khi nào là không hiệu nghiệm. Ma hoàng hợp với Quế

70
chi để phát hãn, Thược dược hợp với Quế chi để điều hòa vinh vệ, Bán hạ giáng khí
nghịch, Cam thảo điều hòa trung tiêu, xét trong phương này chữa chứng ho suyễn vì
hàn thủy phạm vào phổi, vô luận là có biểu chứng hoặc các chứng bất kì hay không,
đều có thể dùng được, luôn luôn có công hiệu là thường.

41. Thương hàn dưới tâm có thủy khí ho mà hơi suyễn thở, phát sốt không
khát nước, uống thuốc thang xong mà thấy khát đấy là hàn thủy đã lui, sắp khỏi,
cho uống Tiểu thanh long thang làm chủ.

Tóm tắt: tiếp theo điều trên trình bày chủ chứng của phương này và cơ chế sắp
khỏi của bệnh sau khi đã uống thuốc.

Thích nghĩa: bệnh nhân cảm thụ hàn tà, dưới tâm có thủy khí đình tụ, tà khí bế
tắc, phế khí không tuyên thông, thấy các chứng ho mà hơi suyễn thở, phát sốt, không
khát, nên cho uống Tiểu thanh long thang để chữa. uống thuốc xong nếu thấy khát
nước là thuốc đã trúng bệnh, hàn thủy đã lui, cơ chế bệnh đã sắp khỏi.

Lời chú chọn lọc. Tiền Thiên Lai nói: “Phát sốt không khát là vì dưới tâm có
thủy khí, cho nên tuy phát sốt cũng không khát. Uống thuốc là nói Tiểu thanh long
thang, uống thuốc xong mà thấy khát là biết thủy khí ở dưới tâm đã hết, hàn thấp
trong dạ dày đã lui. Nhưng bởi vì sau khi phát sốt, sau khi dùng thuốc ôn để giải, tân
dịch ở thượng tiêu còn ít cho nên trở lại khát. Trước kia có thủy khí cho nên phát sốt
mà không khát; nay uống thuốc xong mà thấy khát cho nên biết hàn thủy đã lui mà
bệnh sắp khỏi”.

42. Bệnh Thái dương, ngoại chứng chưa giải, mạch phù nhược, nên cho
phát hãn để giải, dùng Quế chi thang để giải.

Tóm tắt: Bệnh Thái dương ngoại chứng chưa giải, mạch phù nhược, vẫn dùng
Quế chi thang.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương ngoại chứng chưa giải là các chứng phát sốt, sợ
lạnh, ghê gió vẫn còn tồn tại, theo phép phải phát hãn để giải, nhưng vì mạch phù
nhược không nên phát hãn quá cho nên dùng thang Quế chi để giải cơ phát hãn.

71
43. Bệnh Thái dương cho hạ mà hơi phát suyễn, là vì biểu chứng chưa giải,
cho uống Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang làm chủ.

Tóm tắt: cách chữa bệnh Thái dương vì cho hạ nhầm dẫn đến hơi suyễn thở.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương nhầm dùng phép hạ, làm cho biểu chứng chưa
giải mà thấy hơi suyễn thở, so với chứng của điều 19 thì có khác nhau chỗ mới cũ,
nhưng bởi vì bệnh chứng giống nhau cho nên phép chữa không khác.

Lời chú chọn lọc. Thành Vô Kỷ nói: “sau khi hạ thấy suyễn thở nặng, đấy là khí
bên trong đã hư lắm, tà khí truyền vào lý, chính khí sắp thoát hết. Sau khi hạ thấy
suyễn thở nhẹ là khí bên trong nghịch lên, tà khí không thể truyền vào lý, vẫn còn ở
biểu, cho uống Quế chi để giải ngoại chứng, gia Hậu phác Hạnh tử để giáng khí”.

44. Bệnh Thái dương, ngoại chứng chưa giải là không thể hạ được, hạ là
sai trái; muốn giải ngoại chứng nên cho uống Quế chi thang.

Tóm tắt: ngoại chứng chưa giải thì cấm dùng phép hạ.

Thích nghĩa: bệnh ở biểu cần phải dùng phép phát hãn, chứng lý thực cần phải
dùng phép hạ. Nay ngoại chứng chưa giải là biểu chứng vẫn còn, tuy có lý chứng
cũng không thể hạ, phải dùng Quế chi thang để giải biểu trước nếu nhầm dùng phép
hạ thời làm cho tà khí hãm vào trong dẫn đến biến chứng, cho nên nói “hạ là sai trái”.

45. Bệnh Thái dương trước phát hãn không giải mà lại hạ, mạch phù là
không khỏi, phù là ở ngoài mà lại hạ, cho nên không khỏi, nay mạch phù cho
nên biết ở ngoài, cần phải giải ngoại chứng thì khỏi, nên cho uống Quế chi thang.

Tóm tắt: Bệnh Thái dương sau khi phát hãn, cho hạ rồi, mạch phù vẫn phải giải
ngoại chứng.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương dùng phép phát hãn là thuộc về lỗi chữa “chính
trị”. Đã phải phát hãn rồi mà bệnh không giải là phải xét nhiều mặt, hoặc cho phát
hãn không đúng cách, hoặc bệnh nặng mà thuốc nhẹ chưa thỏa đáng. Thầy thuốc
không hiểu được như thế một lần phát hãn không giải, bèn đổi lại phép hạ. May sau

72
khi hạ, mạch phù chưa thay đổi là biết bệnh chưa phải vì hạ nhầm mà biến chứng.
Nay bệnh vẫn ở Thái dương, cho nên phải giải ngoại chứng mới khỏi, nên cho uống
Quế chi thang.

Lời chú chọn lọc. Từ Linh Thai nói: “Mạch phù mà cho hạ đấy là chữa nhầm.
Hạ rồi mà mạch vẫn phù là không phải vì hạ nhầm mà hãm vào trong, vẫn còn ở Thái
dương, không vì đã cho hãn hạ mà không dùng Quế chi thang”.

46. Bệnh Thái dương, mạch phù khẩn không mồ hôi, phát sốt, mình đau
nhức, 8-9 ngày không giải, các biểu chứng vẫn còn, như thế là nên phát hãn,
uống thuốc đã hơi đỡ, người bệnh sinh phiền, mắt mờ, nặng hơn thì chảy máu
mũi, mà chảy máu mũi rồi thì khỏi. Sở dĩ như vậy là do dương khí quá thịnh,
cho uống Ma hoàng thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh Thái dương thương hàn 8-9 ngày
không giải.

Thích nghĩa: Chứng Ma hoàng thang của bệnh Thái dương Thương hàn, kinh
qua 8-9 ngày không giải, thấy các chứng mạch phù khẩn, không mồ hôi, phát sốt,
mình đau nhức là biểu chứng vẫn còn, về mặt điều trị vẫn phải dùng Ma hoàng thang.
Chỉ vì bệnh này lâu quá không khỏi, sau khi uống thuốc tình trạng bệnh có khác nhau,
nhẹ thời xuất hiện các chứng trong lòng phát phiền và có cảm giác nhắm mắt sợ ánh
sáng, nặng thời có thể gây ra chứng chảy máu mũi, chảy máu mũi rồi thì nhiệt tà theo
đó mà tiết ra, bệnh cũng theo đó mà khỏi. Thứ máu mũi này tục gọi là “mồ hôi đỏ”
“sở dĩ như vậy là do dương khí quá thịnh” là câu văn của tác giả tự chú thích, nói
chảy máu mũi là do dương khí lâu ngày sinh hóa ra nhiệt nhiều mà thành.

47. Bệnh Thái dương, mạch phù khẩn, phát sốt, mình không mồ hôi, tự
chảy máu mũi thì khỏi.

Tóm tắt: Bệnh Thái dương, Thương hàn tự chảy máu mũi thì khỏi.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương, mạch phù khẩn, phát sốt, mình không có mồ
hôi là chứng Ma hoàng thang của bệnh Thương hàn. Vì nhiệt quá mà chảy máu mũi,

73
tuy chưa uống thuốc tà cũng có thể ra theo máu mũi mà khỏi bệnh. Đấy tức là nói
máu với mồ hôi tuy khác nhau mà đồng loại, ý nghĩa không giải theo đường mồ hôi
mà giải theo đường máu mũi.

48. Tính bệnh của hai kinh dương, lúc Thái dương mới mắc bệnh cho phát
hãn, mồ hôi ra không thấu suốt, do đó mà chuyển sang Dương minh, tiếp tục ra
một ít mồ hôi, không sợ lạnh.

Nếu bệnh chứng Thái dương không khỏi là không thể hạ, hạ là sai lầm, như
thế là có thể phát hãn một ít, giả sử sắc mặt đỏ ửng là dương khí bức uất ở phần
biểu, nên giải, nên xông.

Nếu phát hãn không thấu suốt là không đáng kể, dương khí bức uất không
vượt ra được, đáng lý phát hãn mà không phát hãn, người buồn phiền vật vã
không biết chỗ đau, khi thì đau ở bụng, khi thì đau ở chân tay, ấn vào không
chịu được, người đoản hơi, chỉ ngồi đó là do mồ hôi ra không thấu suốt, lại cho
phát hãn thời khỏi. Sao lại biết mồ hôi ra không thấu suốt? Bởi vì mạch sáp cho
nên biết.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa tính bệnh của hai kinh dương do phát hãn
không thấu suốt.

Thích nghĩa: Điều này là nói về cách chữa tính bệnh Thái dương, Dương minh
mà biểu chứng Thái dương chưa hết. Nội dung có thể phân làm ba đoạn để giải thích.

Từ câu “tính bệnh của hai kinh dương” đến câu “không sợ lạnh” là đoạn thứ
nhất, nói về nguyên nhân và chứng trạng của chứng Thái dương chuyển thuộc Dương
minh. Bệnh ở Thái dương phải phát hãn là phép thường. Nay bệnh Thái dương mới
mắc mà phát hãn, mồ hôi ra trước không thấu suốt thì chẳng những biểu tà chưa giải
ra ngoài được mà lại dẫn đến tà khí nhập lý hóa ra nhiệt, đó là nguyên nhân của chứng
Thái dương chưa khỏi mà thấy thêm chứng trạng của Dương minh, cũng chính là tính
bệnh của hai kinh dương.

74
Từ câu: “Nếu bệnh chứng Thái dương không khỏi” đến câu “nên giải nên xông”
là đoạn thứ hai, nói về biểu bệnh Thái dương không khỏi vẫn nên phát hãn để giải;
tất nhiên là biểu chứng của Thái dương đã khỏi, Dương minh phủ chứng đã thực mới
có thể cho công hạ. Nay biểu chứng chưa khỏi, tuy sắc mặt đỏ ửng tựa chư chứng
Dương minh, nhưng đó là dương khí bị uất mà bốc lên không ra ngoài biểu được,
không phải chứng Dương minh lý thực, nên vẫn không thể cho hạ được, hễ hạ thời
sẽ dẫn đến tà khí hãm vào trong, cần phải dùng phép xông để thấu biểu tà ra ngoài.

Từ câu “nếu phát hãn không thấu suốt” đến câu “mạch sáp cho nên biết” là đoạn
thứ ba là nói thêm về trường hợp ra mồ hôi không thấu suốt, đáng lý phát hãn mà mồ
hôi chưa ra được, dương khí uất bốc lên mà không vượt ra ngoài được cho nên buồn
phiền vật vã, đau nhức cả người mà không biết đau chỗ nào, người đoản hơi chỉ ngồi
là vì mồ hôi ra không thấu suốt được, cần phải phát hãn nhiều thời sẽ khỏi. Câu “bởi
mạch sáp cho nên biết” là lời chú giải của tác giả. Bởi vì mạch sáp là do khí huyết
trở trệ, cho nên biết “mồ hôi ra không thấu suốt”.

49. Mạch phù sác, theo lẽ phải phát hãn cho ra mồ hôi mới khỏi. Nếu cho
hạ rồi mà mình thấy nặng, tim hồi hộp thì không nên phát hãn, nên để tự đổ mồ
hôi thì sẽ khỏi. Sở dĩ như vậy là vì mạch xích thấy vi, đó là lý hư mà làm cho
biểu và lý đều thực thì tân dịch tự điều hòa, sẽ tự đổ mồ hôi mà khỏi.

Tóm tắt: Bệnh Thái dương mạch xích thấy vi là cấm phát hãn

Thích nghĩa: Mạch phù chủ bệnh ở biểu, mạch sác là có nhiệt. Mạch phù sác là
có nhiệt ở biểu cần phải cho phát hãn để giải. Nếu dùng nhầm phép hạ thì tà không
giải được mà chỉ tổn đến khí ở phần lý, xuất hiện các chứng trạng mình nặng, tim hồi
hộp. Lúc này mạch xích thấy vi là vì khí ở bên trong hư suy, tuy có biểu chứng cũng
không thể phát hãn. Bởi vì mạch xích là để xét ở bên trong, mạch vi là dương suy,
dương khí ở trong đã kém, cho nên phải kiêng phát hãn, phải làm cho biểu lý đều
không hư, tân dịch tự điều hòa thì có thể tự đổ mồ hôi mà khỏi. Đó là dạy cho người
ta khi chữa bệnh nên bổ dưỡng chính khí, làm cho chính khí ở biểu lý được phục hồi,
khí huyết dồi dào thì tân dịch tự điều hòa sẽ tự đổ mồ hôi mà khỏi.

75
Lời chú chọn lọc: Cổ Thượng Chí nói: “Không thể phát hãn là không thể dùng
Ma hoàng thang để phát hãn mạnh, chứ không phải ngồi nhìn để cho nó tự khỏi được,
dùng Tiểu kiến trung thang để hòa tân dịch thời tự đổ mồ hôi mà giải”.

50. Khi có mạch phù khẩn, tất nhiên là có chứng mình đau nhức, nên phát
hãn để giải. Giả sử mạch xích đi trì thì không thể phát hãn. Vì sao biết như thế?
Vì vinh khí không đủ, huyết kém cho nên thế.

Tóm tắt: Bệnh Thái dương mạch xích đi trì là kiêng phát hãn.

Thích nghĩa: Mạch phù khẩn, chủ về biểu thực, đáng lý thấy mình đau nhức thì
nên dùng phép phát hãn để giải biểu. Nhưng nếu thấy mạch xích đi trì, biết là huyết
kém thì không thể cho phát hãn.

Điều này cũng nói lên là mạch phù khẩn đáng lý phải phát hãn để giải, mạch
xích đi trì thì không thể cho phát hãn, và chỉ cho thấy lý do không thể phát hãn là vì
dinh khí không đủ, huyết kém, đủ biết lúc cần dùng Ma hoàng thang để phát hãn là
phải có chứng biểu thực mà lý không hư mới dùng được. Điều trên nói mạch xích
thấy vi không thể phát hãn. Tóm lại là thấy khí huyết hư kém thì tuy có biểu chứng
nhưng chưa giải cũng không thể đơn thuần phát hãn giải biểu.

51. Mạch phù là bệnh ở biểu, có thể phát hãn, cho nên dùng Ma hoàng
thang.

Tóm tắt: Mạch phù chủ về bệnh ở biểu, có thể dùng Ma hoàng thang.

Thích nghĩa: Điều 35 trước đây có nói rõ về chứng mà lược bỏ mạch, điều này
thì nói rõ về mạch mà lược bỏ chứng, nên phải tham hợp trước sau để xem xét thì
mới toàn diện, nhất thiết không thể chỉ thấy mạch phù rồi tự nhiên cho uống Ma
hoàng thang để phát hãn.

Mạch phù là dấu hiệu chính khí dồn ra ngoài để kháng cự với tà khí, cho nên
mạch phù là chủ về tà ở biểu. Thương hãn phát hãn, tuy chứng trạng Thương hàn đầy
đủ cần phải lấy chính khí đạt ra ngoài mà lý không hư, mạch xích không vi, không trì
thì mới có thể cho dùng Ma hoàng thang để phát hãn. Điều này tuy chưa nói tới chứng

76
nhưng tất nhiên đã có đủ chứng của Ma hoàng thang ở trong, không phải chỉ dựa vào
mạch phù mà dùng ngay Ma hoàng thang. Nói rằng “nên cho uống Ma hoàng thang”
mà không nói “làm chủ” là cũng chỉ cho ta biết lúc sử dụng phải xét cho cẩn thận chu
đáo, toàn diện. Chữ “nên” là có hàm ý châm trước khác với chữ “làm chủ”.

52. Mạch phù mà sác, có thể phát hãn, nên cho uống Ma hoàng thang.

Tóm tắt: Mạch phù sác, có thể dùng Ma hoàng thang.

Thích nghĩa: Phù khẩn là mạch của Thương hàn, chỉ về hàn tà thịnh. Điều này
nói mạch phù mà sác, dùng Ma hoàng thang để chỉ vào mạch phù sác mà có kiêm
mạch khẩn.

Điều này với điều trên điều kế tiếp lập luận trước, nói về lúc dùng Ma hoàng
thang là mạch phải không trầm mà phù, không trì mà sác, và thấy các chứng trạng
biểu thực mới có thể phát hãn, không có thời không nên dùng. Bệnh Thương hàn bộ
xích đi vi là bên trong đã hư, bộ xích đi trì là vinh khí không đủ, huyết ít, là khí huyết
hư đều không thể phát hãn. Mạch phù là chính khí có thể đẩy tà khí ra ngoài, phù sác
mà kiêm khẩn là hàn tà nặng lắm, cho nên có thể dùng Ma hoàng thang để phát hãn.

53. Bệnh mà thường tự đổ mồ hôi, đấy là vinh khí(1) hòa mà bên ngoài không
được hòa, bởi vì vệ khí không hòa với vinh khí cho nên thế. Vì vinh khí đi ở
trong mạch, vệ khí(2) đi ở ngoài mạch, dùng phép phát hãn nữa cho vinh vệ hòa
thì khỏi, nên dùng Quế chi thang.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa vệ khí không hòa với vinh khí mà thường
tự đổ mồ hôi.

Thích nghĩa: Bệnh là chỉ về bệnh hoạn nói chung, không phải chỉ nói về bệnh
cảm thụ phong hàn. Bệnh này là do vinh vệ bất hòa, vệ khí mất chức năng bảo vệ
phần ngoài, làm cho khí bên ngoài không vững, tấu lý sơ hở, cho nên hay tự đổ mồ
hôi. Lúc này tuy vệ khí mất chức năng nhưng vinh khí chưa bại bệnh. Nguyên nhân

1
Vinh khí: Cũng gọi là doanh khí, là do tinh khí của thủy cốc hóa ra, có ý nghĩa là vinh hoa, dinh dưỡng,
doanh trại.
2
Vệ khí: Do thứ khí bốc mạnh của thủy cốc hóa ra, có tác dụng bảo vệ.

77
vệ khí mất chức năng là do vinh khí vệ khí không điều hòa với nhau, vệ khí không ăn
nhịp với vinh khí, cho nên vinh tự đi trong mạch, vệ tự đi ngoài mạch, vinh không
giúp cho vệ thì vệ khó tự điều hòa, vệ khí không thể bảo vệ chắc bên ngoài mà tự đổ
mồ hôi. Nay dùng Quế chi thang để phát hãn, điều hòa được vinh vệ thì chứng đổ mồ
hôi tự hết.

Lời chú chọn lọc: Từ Linh Thai nói: “Tự đổ mồ hôi với phát hãn là khác hẳn
nhau. Tự đổ mồ hôi là vinh vệ tách rời nhau, phát hãn là làm cho vinh vệ hợp với
nhau. Tự đổ mồ hôi là tổn thương chính khí. Phát hãn nữa là nhân đã đổ mồ hôi mà
lại phát hãn nữa thời vinh vệ hòa mà chứng đổ mồ hôi sẽ hết”.

54. Bệnh nhân nội tạng không có bệnh gì, thường phát sốt, tự đổ mồ hôi mà
không khỏi đấy là vệ khí không hòa, trước giờ đó phát hãn thì khỏi, nên dùng
Quế chi thang.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp vệ khí không hòa thường phát
sốt, tự đổ mồ hôi.

Thích nghĩa: Bệnh nhân là nói chung những người mắc bệnh, không phải là nói
riêng cho người bệnh Thái dương trúng phong. Nay nội tạng không có bệnh gì khác,
chỉ có chứng phát sốt tự đổ mồ hôi mà không khỏi, đó là bệnh không ở lý mà ở biểu.
Phần lý điều hòa cho nên nói “nội tạng không bệnh gì khác”, phần biểu bị bệnh cho
nên nói “vệ khí không hòa”. Trước lúc đó phát hãn thì khỏi, nên dùng Quế chi thang,
ý là làm cho vệ khí tự hòa, thời chứng thường phát sốt tự đổ mồ hôi cũng hết.

55. Thương hàn, mạch phù khẩn, không phát hãn, nhân đó mà chảy máu
cam, dùng Ma hoàng thang làm chủ.

Tóm tắt: Bệnh Thương hàn biểu thực không phát hãn, đến nỗi chảy máu cam,
vẫn phải phát hãn để giải.

Thích nghĩa: Thương hàn, mạch phù khẩn, nên dùng Ma hoàng thang để phát
hãn, làm cho ngoại tà theo mồ hôi mà giải. Nay đáng lý phát hãn mà không phát hãn,
thời tà không theo đâu mà ra được, tắc trở trong dương lạc, bức huyết chạy không

78
đúng chỗ, do đó mà chảy máu cam, chảy máu cam rồi mà chứng biểu thực vẫn còn,
vẫn phải dùng Ma hoàng thang để chữa.

Điều này với điều 46, điều 47 đều là chứng chảy máu cam vì chứng biểu thực.
Nhưng điều 47 là chảy máu cam khi chưa uống qua thuốc thang, bệnh tà theo máu
cam mà giải, cho nên nói “tự chảy máu cam mà khỏi”; điều 46 là đã uống qua thuốc
thang, chảy máu cam là do tà nhiệt tương đối nặng, tà cũng theo máu cam mà giải,
cho nên nói “chảy máu cam thì khỏi”. Điều này là nói do không chữa mà chảy máu
cam, chảy máu cam rồi mà bệnh tà vẫn chưa giải, mạch chứng vẫn như cũ nên vẫn
dùng Ma hoàng thang làm chủ.

Lời chú chọn lọc: Trần Tu Viên nói: “Thương hàn mạch phù khẩn, không phát
hãn, nhân đó mà đến nỗi chảy máu cam, mà máu ra từng giọt không chảy thành dòng,
tuy chảy mấu cam mà biểu tà chưa giải vẫn dùng Ma hoàng thang làm chủ. Làm cho
mồ hôi thông thì máu cam sẽ hết, không được vin theo câu “người vốn có chứng nục
huyết không thể phát hãn”.

56. Thương hàn không đi ngoài 6-7 ngày, nhức đầu có sốt, cho uống Thừa
khí thang, nếu tiểu tiện trong là biết bệnh không phải ở lý, vẫn còn ở biểu, cần
nên phát hãn, nếu nhức đầu tất chảy máu cam, nên cho uống Quế chi thang.

Tóm tắt: Căn cứ vào tiểu tiện trong hay không mà biện, biểu hay lý để chữa.

Thích nghĩa: Thương hàn không đi ngoài đến 6-7 ngày, thấy nhức đầu, sốt, nếu
lâu ngày không đi ngoài được là nhiệt bên trong phạm vào mà gây nên, có thể dùng
Thừa khí thang để hạ, nhưng lại phải xét thêm về mặt tiểu tiện. Tiểu tiện đỏ đục là
biết có nhiệt bên trong, cho hạ là không nhầm. Nếu tiểu tiện trong dài là không phải
nhiệt ở bên trong, nhức đầu có sốt là biểu bệnh không giải, tuy 6-7 ngày không đi
ngoài mà bệnh vẫn còn ở biểu, cách chữa nên giải biểu, có thể cho uống Quế chi
thang lâu. “Nên cho uống Quế chi thang” là tiếp vào dưới câu “cần nên phát hãn”.
Câu “nếu nhức đầu tất chảy máu cam” là tiến một bước để giải thích chứng biểu
nhiệt lâu ngày không đi ngoài, vì chứng nhiệt này so với chứng nhiệt (sốt) đau đầu
của biểu chứng nói chung là nặng hơn, tất tổn thương dương lạc mà chảy máu cam.

79
57. Thương hàn dùng thuốc phát hãn đã giải, độ nửa ngày sau lại phát
phiền, mạch phù sác, có thể cho phát hãn lần nữa, nên dùng Quế chi thang.

Tóm tắt: Dùng thuốc phát hãn rồi, tà khi chưa hết mà lại phát phiền, vẫn dùng
Quế chi thang phát hãn để giải.

Thích nghĩa: Bệnh Thương hàn phát hãn rồi, biểu chứng đã giải, đáng lý mạch
tĩnh, mình mát, nay độ nửa ngày lại phát phiền, mạch phù sác, đấy là tà dư ở phần
biểu chưa hết, có thể phát hãn lần nữa. Nhưng đã phát hãn rồi thì không nên phát hãn
thái quá, cho nên dùng Quế chi thang để phát hãn nhẹ, làm cho tà phải lui mà không
tổn thương chính khí.

58. Phàm bệnh, nếu phát hãn, nếu thổ, nếu hạ, nếu bị mất huyết, mất tân
dịch, mà âm dương tự điều hòa là bệnh tự khỏi.

Tóm tắt: Phàm bệnh mà âm dương tự điều hòa, tất nhiên có thể tự khỏi.

Thích nghĩa: Phàm bệnh là nói về các bệnh tật nói chung, chứ không chỉ giới
hạn ở trúng phong hay Thương hàn. Phàm bệnh nếu dùng các phép chữa như phát
hãn, hoặc cho thổ, hoặc cho hạ... mà không làm mất tân dịch, hoặc do các chứng chảy
máu cam, thổ huyết, ỉa ra máu, bị đâm chém, ung nhọt, sản hậu, băng huyết, rong
huyết mà gây nên mất máu. Lúc ấy nếu cơ năng của bản thân bệnh nhân không suy
kém, âm dương tự có chiều hướng điều hòa, là bệnh tật tự nhiên khỏi.

59. Sau khi hạ mạnh rồi lại phát hãn mà tiểu tiện không thông lợi là vì mất
tân dịch, không nên chữa nữa, tiểu tiện tự lợi là bệnh tất tự khỏi.

Tóm tắt: Chữa nhầm làm hại tân dịch, tân dịch được hồi phục rồi thì tất khỏi.

Thích nghĩa: Sau khi hạ mạnh rồi lại phát hãn, hãn hạ mất trật tự, tân dịch bị tổn
thương 2 lần. Tiểu tiện không lợi là chứng trạng tổn thương tân dịch. “Không nên
chữa” là nói không nên thấy tiểu tiện không lợi mà dùng phương pháp lợi tiểu tiện,
phải chờ cho tân dịch hồi phục lại thời tiểu tiện tự nhiên thông lợi. Nói cách khác, lúc
tiểu tiện thông lợi được là lúc tân dịch đã hồi phục.

80
Lời chú chọn lọc: Vưu Tại Kinh nói: “đã hạ lại cho phát hãn, làm mất tân dịch
hai lần, ngoại tà tuy giải được nhưng tiểu tiện không thông lợi, như vậy là chưa có
thể dùng thuốc để lợi tiểu tiện, chờ cho tân dịch dần dần hồi phục lại thời tiểu tiện tự
nhiên đi được mà bệnh khỏi. Nếu cưỡng bách cho lợi tiểu tiện là làm cho hao kiệt âm
hai lần, huống hồ chưa chắc đã lợi được ngay”.

60. Sau khi hạ rồi lại phát hãn nữa tất nhiên sinh rét run mạch vi tế, sở dĩ
như vậy là do trong ngoài đều hư cả.

Tóm tắt: Sau khi hạ rồi lại phát hãn, mạch vi tế chứng trong ngoài đều hư.

Thích nghĩa: Hạ thì hư phần lý, phát hãn thì hư phần biểu, đấy là âm dương đều
hư. Rét run, mạch vi là dương khí hư, mạch tế là âm huyết không đủ, sau khi hãn hạ
rồi thấy các mạch chứng biểu hiện trong ngoài đều hư.

Điều trên là nói tổn thương tân dịch mà chưa đến nỗi vong dương, điều này lại
nói vong dương rồ mới chuyển thành hư chứng. Tổn thương tân dịch mà không vong
dương thì tân dịch có thể tự sinh lại, còn vong dương tuy tân dịch không tổn thương
nhưng tân dịch cũng không còn chỗ nào để kế tiếp cho nên chữa bệnh Thương hàn
sợ nhất là trường hợp vong dương tức là ý này.

Lời chú chọn lọc: Vưu Tại Kinh nói: “Rét run là run rẩy mà lạnh. Mạch vi là
dương khí hư, mạch tế là âm huyết kém. Đã hạ mà phát hãn, mình rét run mà mạch
vi tế là âm dương đều tổn thương, trong ngoài đều hư, thế thì phải dùng các bài thuốc
ngọt ấm để bổ dưỡng thỏa đáng”.

61. Sau khi hạ rồi lại phát hãn, ban ngày buồn phiền vật vã không ngủ được,
ban đêm thì yên tĩnh không nôn, không khát, không có biểu chứng, mạch trầm
vi, mình không nóng dữ, cho uống Can khương phụ tử thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp sau khi hạ rồi lại phát hãn nữa
gây thành chứng dương hư.

Thích nghĩa: Buồn phiền vật vã là dương hư. Ban ngày dương thịnh nên dương
hư còn có thể giao tranh với âm được. Ban đêm thì âm khí thịnh, nên dương đã suy

81
yếu không thể giao tranh nổi với âm cho nên ban đêm yên tĩnh. Không nôn không
khát là biết bệnh không ở Thiếu dương, Dương minh. Không thấy biểu chứng là biết
bệnh không ở Thái dương, mạch thấy trầm vi, trầm để xét phần lý, vi để xét dương
hư. Dương khí hư suy cho nên mình không nóng dữ. Chứng này chứng nguy cấp vì
dương khí sắp tiêu hết, cho nên dùng Can khương phụ tử thang để kịp hồi dương.

Can khương phụ tử thang:

Can khương 1 lạng

Phụ tử 1 củ (dùng sống, bỏ vỏ, xẻ làm 8 miếng).

Hai vị trên, nước 3 thăng sắc còn 1 thăng, lọc bỏ bã, uống hết 1 lần.

Ý nghĩa của phương: Chứng này là âm hàn thiên thịnh, dương khí đại hư cho
nên dùng Can khương, Phụ tử là loại cay nóng để kịp hồi dương. Phụ tử dùng sống
thì sức càng mạnh, không gia Cam thảo thì dược lực càng tập trung, có thế như “cầm
gươm đâm thẳng vào”. Uống hết 1 lần làm cho sức thuốc tập trung thì hiệu quả càng
chóng.

62. Sau khi phát hãn rồi, mình đau nhức, mạch trầm trì cho uống Quế chi
Thược dược Sinh khương các nhất lạng, Nhân sâm tam lạng, Tân gia thang làm
chủ.

Tóm tắt: Cách chữa trường hợp phát hãn nhiều làm hại dinh huyết khiến mình
mẩy đau nhức.

Thích nghĩa: Sau khi phát hãn mình mẩy đau nhức, mạch thấy trầm trì, trầm là
bệnh ở lý, trì là huyết không đủ. Sau khi phát hãn mình đau nhức là do mồ hôi ra
nhiều hao tổn dinh huyết, cân mạch mất sự nuôi dưỡng, cho nên dùng Tân gia thang
làm chủ trị.

Quế chi gia Thược dược Sinh khương các nhất lạng Nhân sâm tam lạng
Tân gia thang:

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

82
Thược dược 4 lạng

Chích thảo 2 lạng

Nhân sâm 3 lạng

Đại táo 21 quả (xẻ ra)

Sinh khương 4 lạng

Sáu vị trên, nước 1-2 đấu, sắc còn 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm mỗi lần 1 thang.
Nguyên bản chép: “Quế chi thang nay gia Thược dược Nhân sâm Sinh khương”

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là bài thuốc điều hòa vinh vệ kiêm hòa huyết
ích khí sinh tân dịch. Dùng nguyên phương Quế chi thang làm chủ, ý nghĩa ở chỗ
điều hòa vinh vệ, nhưng vì ra nhiều mồ hôi làm hao tổn dinh huyết, cho nên gia Thược
dược để tư dưỡng dinh huyết, Sinh khương để tuyên thông khí vệ dương, Nhân sâm
để bổ hư sau cơn ra mồ hôi.

63. Sau khi phát hãn không dùng được Quế chi thang nữa, mồ hôi ra mà
suyễn, không có chứng nóng dữ, có thể cho uống Ma hoàng Hạnh nhân Cam
thảo Thạch cao thang.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa những trường hợp sau khi phát hãn vì nhiệt
tà bức vào phế mà gây suyễn thở.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương khi đã phát hãn rồi, có ra mồ hôi mà suyễn thở,
không thấy nóng dữ dội là nhiệt tà bức bách cào trong phổi, nhiệt uất xông bốc mà
gây ra mồ hôi, khí nghịch lên không giáng xuống mà nổi cơn suyễn. Vì nhiệt ở lý mà
không ở biểu cho nên mình không nóng dữ dội. Cách chữa là dùng Ma hoàng Hạnh
nhân Cam thảo Thạch cao thang để thanh nhiệt khai thông phế khí. Lý nhiệt thanh
được thì phế khí lưu lợi, mồ hôi và suyễn thở tự dứt. Ra mồ hôi mà dùng Ma hoàng,
mình nóng mà dùng Thạch cao, tựa hồ như đáng hoài nghi, kì thực là Ma hoàng hợp
với Quế chi mới phát hãn được, hợp với Hạnh nhân thì lợi khí cắt cơn suyễn, hợp với
Thạch cao thì tuyên thông giải nhiệt bên trong, suyễn và mồ hôi sẽ tự khỏi.

83
Ngoài biểu không nóng dữ là nhiệt thịnh ở lý, cho nên dùng phương này để
chữa, chứng này với chứng dùng Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang nói ở điều 43
đều có chứng suyễn. Nhưng đằng kia là do hạ nhầm, biểu tà chưa giải mà khí nghịch
lên gây suyễn, cho nên cách chữa phải giải biểu kiêm giáng khí cắt cơn suyễn. Còn
đằng này thì sau khi phát hãn nhiệt uất vào phế, phế mất chức năng giáng xuống cho
nên chú trọng việc tuyên thông thanh nhiệt ở phế. Chứng này nếu uống nhầm Quế
chi thang gia Hậu phác Hạnh nhân là dùng thuốc nhiệt giúp bệnh nhiệt tất chuyển
thành nguy chứng.

Lời chú chọn lọc: Vưu Tại Kinh nói: “Sau khi phát hãn, mồ hôi ra mà phát suyễn,
không có nóng dữ dội là tà không ở ngoài cơ biểu mà nhập vào phế, vì lúc tà khí bế
lại ở ngoài thì trong phế đã có nhiệt chứa chất. Sau khi phát hãn tà không theo mồ hôi
mà ra phần biểu thời sẽ theo trong mà lấn vào phế”.

Ma hoàng Hạnh nhân Cam thảo Thạch cao thang

Ma hoàng 4 lạng (bỏ mắt)

Hạnh nhân 50 hạt (bỏ vỏ và đầu nhọn)

Chích thảo 2 lạng

Thạch cao ½ cân (giã, túi vải bọc lại)

Bốn vị trên, nước 7 thăng, nấu vị Ma hoàng trước cạn còn 2 thăng, vớt bỏ bọt
rồi cho các vị kia vào, sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm mỗi lần 1 thăng.

Ý nghĩa phương thuốc: Ma hoàng cùng Thạch cao làm thành một đội ngũ tuyên
thông để thanh uất nhiệt ở phế, dùng Hạnh nhân làm tá để giáng phế khí, cắt cơn
suyễn, Cam thảo an vị hòa trung, hợp lại cùng góp sức đạt được công hiệu cùng tuyên
thông phế khí, cắt cơn suyễn.

64. Phát hãn nhiều quá, người tự chắp tay để lên ngực, tâm hồi hộp, muốn
được ấn tay vào, dùng Quế chi Cam thảo thang làm chủ.

84
Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp phát hãn nhiều quá mà tổn hại
tâm dương.

Thích nghĩa: Mồ hôi là chất dịch của tâm, hễ phát hãn nhiều quá thì tổn thương
tâm dương, gây cho tâm hồi hộp chẳng yên, thuộc hư nên muốn được ấn tay vào làm
cho bệnh nhân tự chắp tay ấn vào ngực, dùng Quế chi Cam thảo thang để khôi phục
tâm dương.

Lời chú chọn lọc: Từ Linh Thai nói: “Phát hãn thì không nhầm, mà nhầm ở chỗ
là phát hãn quá nhiều. Mồ hôi là dịch của tâm, ra mồ hôi nhiều thì tâm khí sẽ hư. Hai
vị này phù dương bổ trung, đấy là dương hư nhẹ. Nặng mà run rẩy, muốn ngã xuống
đất là chứng của Chân vũ thang. Một chứng mà nặng nhẹ khác nhau, dụng phương
cũng khác nhau, ý rất tinh vậy”.

Quế chi Cam thảo thang:

Quế chi 4 lạng (bỏ vỏ)

Cam thảo 2 lạng

Hai vị trên, nước 3 thăng, sắc còn 1 thăng, lọc bỏ bã, uống hết 1 lần

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này chủ yếu là để hồi phục tâm dương, cho nên
dùng Quế chi để trợ tâm dương, Cam thảo bổ trung ích khí, cay với ngọt dùng chung
thì dương khí sẽ sinh.

65. Sau khi phát hãn, người đó dưới rốn máy động bần bật, muốn phát lên
chứng bôn đồn(1) thì dùng Phục linh Quế chi Cam thảo Đại táo thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh dương hư sau khi phát hãn muốn phát
chứng bôn đồn.

1
Bôn đồn: Chứng tích khí thuộc thận, chứng trạng biểu hiện phát từ bụng dưới chạy lên dưới tâm
như con lợn chạy, khi trồi lên khi trụt xuống. Lâu ngày thì làm cho người suyễn nghịch kém khí.
85
Thích nghĩa: Khí từ bụng dưới xông lên đến ngực gọi là chứng bôn đồn. Đây là
trường hợp sau khi phát hãn muốn phát chứng bôn đồn, không phải đã thành bệnh
bôn đồn.

Đây là do sau khi phát hãn tâm dương không phấn chấn, thủy khí xông lên cho
nên dưới rốn máy động, muốn phát chứng bôn đồn. Phép chữa là dùng Phục linh Quế
chi Cam thảo Đại táo thang để lợi thủy cắt cơn máy giật.

Phục linh Quế chi Cam thảo Đại táo thang:

Phục linh ½ cân

Quế chi 4 lạng (bỏ vỏ)

Chích thảo 2 lạng

Đại táo 15 quả (xẻ ra)

Bốn vị trên cùng Cam lan thủy 1 đấu, nấu Phục linh trước cho cạn bớt 2 thăng
rồi cho các vị kia vào, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm mỗi lần 1 thăng, ngày uống
3 lần.

Cách làm nước Cam lan thủy: Lấy 2 đấu nước đổ vào trong cái chậu lớn, lấy
gáo múc lên dội xuống, khi thấy trên mặt nước nổi lên chừng 5-6 ngàn hạt bóng đuổi
nhau là đem dùng được.

Ý nghĩa phương thuốc: Đây là phương thuốc bồi thổ chế thủy. Trong phương
trọng dụng Phục linh để lợi thủy, nấu nó trước thì dược lực càng tập trung. Quế chi
để mạnh tâm khí, hợp với Cam thảo Đại táo để bồi bổ thổ, ức thế thủy, thủy khí lui
thì chứng máy giật dưới rốn tự hết.

66. Sau khi phát hãn mà bụng chướng đầy dùng Hậu phác Sinh khương
Bán hạ Cam thảo Nhân sâm thang làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa trường hợp sau khi phát hãn mà bụng chướng đầy.

86
Thích nghĩa: Bụng chướng đầy là do phát hãn làm Tỳ Vị bị tổn thương, mất
chức năng kiện vận, khí trệ không thông, tắc lại mà đầy, cho nên dùng Hậu phác Sinh
khương Bán hạ Cam thảo Nhân sâm thang, làm cho Tỳ Vị khỏe để trừ chứng trướng
đầy.

Lời chú chọn lọc. Trình giao thuyến nói: “Chứng bôn đồn do phát hãn rồi dương
hư ở trên mà làm cho âm thịnh ở dưới, sao không biết phát hãn làm cho dương hư ở
ngoài cũng làm cho âm thịnh ở trong. Tân dịch bị âm khí kết chặt lại, trong bụng
không có phần dương để hóa khí, bèn bế tắc lại mà thành chướng đầy. Chủ yếu là
dùng Hậu phác Sinh khương Cam thảo Bán hạ thang để bổ Vị hòa Tỳ để bồi bổ phần
dương, làm tan chất trệ, tẩy chất thủy ẩm, trừ bỏ chất vẩn đục. Bởi vì bệnh ở trong,
phải cho yên bên trong làm chủ. Khi Vị dương yên được thì khí vệ ngoại không củng
cố sẽ được củng cố, không được dùng Quế chi vậy”.

Nhận xét: Chứng bụng chướng đầy này là do dương khí ở trung tiêu không vận
hóa khỏe, khí trệ lại mà sinh chướng đầy, lời chú thích của họ Trình đã nói rõ.

Hậu phác Sinh khương Bán hạ Cam thảo Nhân sâm thang:

Hậu phác ½ cân (nướng bỏ vỏ)

Sinh khương ½ cân (thái mỏng)

Bán hạ ½ thăng (tẩy)

Cam thảo 2 lạng

Nhân sâm 1 lạng

Năm vị trên, nước 1 đấu, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm mỗi lần 1 thăng,
ngày uống 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này dùng Hậu phác để làm khoan khoái trung
tiêu trừ đầy, Sinh khương để tuyên thông dương khí, Bán hạ để phá kết đọng, giáng
nghịch, Cam thảo, Nhân sâm để bồi bổ tỳ vị, cho nên có thể chữa được chứng chướng
đầy của bệnh tỳ hư khí trệ sau khi phát hãn.

87
67. Thương hàn, sau khi cho thổ hoặc cho hạ mà vùng vị quản đầy ách lên
khí xung lên ngực, đứng dậy thì đầu choáng váng. Mạch trầm khẩn, phát hãn
thì động kinh, người run run lảo đảo, dùng Phục linh Quế chi Bạch truật Cam
thảo thang làm chủ.

Tóm tắt: chứng trạng cách chữa và kiêng khem đối với bệnh Thương hàn vì
dùng nhầm phép thổ phép hạ mà gây nên tỳ dương hư thủy khí nghịch lên.

Thích nghĩa: Tà ở Thái dương thì nên phát hãn, nếu dùng nhầm phép thổ phép
hạ làm tổn thương dương khí của tỳ vị gây nên trung tiêu hư, thủy khí nghịch lên mà
vùng vị quản đầy ách lên, thủy khí đình lại ở trong, che lấp khí thanh dương, cho nên
đứng dậy thì đầu choáng váng. Mạch trầm chủ lý, mạch khẩn chủ hàn đấy là bệnh
hàn chủ lý, chỉ nên dùng Linh Quế Truật Cam thang để ôn hòa thủy khí, nếu dùng
nhầm phép phát hãn thì chẳng những chứng thủy ẩm không hết mà dương khí càng
hư, làm cho kinh mạch mất sự nuôi dưỡng nên thân thể run rảy lảo đảo không thể
đứng vững được.

Lời chú chọn lọc. Vưu tại Kinh nói:” Đây là chứng thương hàn tà đã giải mà
thủy ẩm phát lên, thủy ẩm đình lại ở trung tiêu mà đầy, nghịch lên trên thì khí xung
lên mà đầu choáng váng, nhập vào kinh mạch thì người run lảo đảo”. Sách kim quỹ
nói :” Chứng chi ẩm thể hiện ở vùng cách mô, người suyễn đầy, vùng vị quản đầy rắn,
mạch trầm khẩn”. Lại nói: “ Vùng vị quản có đờm ẩm, thì ngực sườn tức tối, mắt mờ
choáng”. Lại nói:” Người run run mình máy động tất có chứng phục ẩm”. Phát hãn
thời động kinh là không có tà để phải mà trở lại làm động đến kinh khí. Cho nên dùng
Phục linh Bạch truật để trừ hết khí của thủy ẩm, Quế chi Cam thảo để sinh dương khí,
cho nên nói: “ Bệnh Đàm ẩm phải dùng thuốc ấm để điều hòa”.

Đơn ba Nguyên Kiên nói: “ Điều này chỉ có mạch trầm khẩn thì thang này là
sở chủ, là vì hoặc cho thổ cho hạ, làm cho vi hư động đến thủy ẩm mà gây nên. Nếu
lại phát hãn làm tổn thương phần dương ở biểu, biến thành chứng động kinh mà
người run lảo đảo thì cũng giống như trường hợp mình giật nảy, run run muốn ngã,
(chứng của Chân vũ thang ở điều 84 tức là chứng chủ yếu của Chân Vũ thang, nên
tách thành 2 đoạn mà xem xét, hơi tương tự như cách nói ngược lại. Về phương thuốc

88
là chuyên dùng lợi thuỷ để kiện vị, có khác với Cam táo thang đôi chút ,Cam táo
thang thì bệnh nhẹ mà thủy ẩm đọng ở hạ tiêu; Truật cam thang thì bệnh nặng, mà
thủy ẩm đọng ở trung tiêu”.

Nhận xét: Giải thích về đoạn “ phát hãn thời động kinh” trên đây, hai nhà chú
thích đều có lối nhìn khác nhau, nay cứ chép ra để tham khảo chung.

Phục Linh Quế Chi Bạch Truật Cam Thảo thang.

Phục linh 4 lạng

Quế chi 3 lạng( bỏ vỏ)

Bạch truật 2 lạng

Cam thảo 2 lạng

Bốn vị trên, nước 6 thăng, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, chia uống ấm ba lần.

Ý nghĩa phương thuốc: phương này là chữa chứng thủy ẩm đọng ở trung tiêu,
cho nên dùng Phục linh, vị nhạt, tính thấm thấp, để thông giáng chất thủy ẩm, Quế
chi cay ấm để trợ phần dương khí bị tổn thương. Bạch truật ngọt ấm để bổ tỳ trừ thấp,
Cam thảo ngọt, tính bình để hòa trung tiêu, cùng góp sức để đạt được công hiệu ôn
dương chế thủy.

68. Phát hãn rồi mà bệnh không giải, trái lại sợ lạnh là bệnh đã hư, dùng
Thược dược Cam thảo Phụ tử thang làm chủ.

Tóm Tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp phát hãn rồi chuyển thành hư .

Thích nghĩa: Phát hãn rồi mà bệnh không giải lại sợ lạnh, chứng sợ lạnh ấy
không phải do biểu tà không lui mà do phát hãn rồi chuyển thành hư gây nên. Cho
nên nói:” Bệnh đã hư”. Chứng này là dương hư, âm không đủ cho nên dùng Thược
dược Cam thảo Phụ tử thang làm chủ.

Thược dược Cam thảo Phụ tử thang:

89
Thược dược 3 lạng

Chích thảo 3 lạng

Phụ tử 1 củ (nướng cạo bỏ, xé ra làm 8 miếng)

Ba vị trên, nước 5 thăng, sắc lấy 1 thăng 5 cáp, lọc bỏ bã, chia uống ấm 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Trong phương này có Thược dược, Cam thảo đắng ngọt
để hóa ẩm, Phụ tử để ôn kinh phù dương, cùng gây nên tác dụng phù dương ích âm.

69. Phát hãn hoặc hạ rồi mà bệnh vẫn không giải buồn phiền vật vã, cho
uống Phục linh tứ nghịch thang làm chủ.

Tóm Tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp sau khi phát hãn hoặc cho hạ
mà âm dương đều hư.

Thích Nghĩa: Sau khi phát hãn hoặc hạ, bệnh vẫn không giải, lại tăng thêm
chứng buồn phiền vật vã là bệnh đã chuyển thuộc Thiếu âm, bởi vì phát hãn làm cho
dương khí hư ở ngoài, cho hạ là làm cho âm dịch hư ở trong , âm dương đều hư , thủy
hỏa không giúp nhau (vị tế ) cho nên sinh ra buồn phiền vật vã , chứng này với chứng
buồn phiền vật vã của điều 61 đều thuộc về diện chữa nhầm mà sinh ra, điều 61 là
nói sau khi hãn hạ, dương khí đại hư, ban ngày thì buồn phiền vật vã, chiều tối lại
yên tĩnh; điều này là nói sau khi hãn hạ, âm dương đều hư cả ngày lẫn đêm đều buồn
phiền vật vã. Bởi thế, trên phương diện trị liệu, một đằng chuyên về phù dương , một
đằng chuyên phù dương kiêm cứu âm dịch.

Phục linh tứ nghịch thang:

Phục linh 4 lạng

Nhân sâm 1 lạng

Phụ tử 1 củ (dùng sống, bóc bỏ vỏ, xẻ ra làm 8 miếng)

Chích thảo 2 lạng

90
Can khương 1,5 lạng

Năm vị trên, nước 5 thăng, sắc lấy ba thăng, lọc bỏ bã, uống ấm mỗi lần 7 cáp,
ngày uống hai lần.

Ý nghĩa phương thuốc: phương thuốc này để chữa chứng buồn phiền vật vã do
âm dương đều hư sau khi phát hãn và cho hạ, dùng Can khương, Phụ tử để hồi dương,
Nhân sâm, Phục linh để thêm khí làm hết buồn phiền vật vã, Cam thảo hòa trung phù
dương để cứu âm thì buồn phiền vật vã sẽ tự khỏi.

70. Sau khi phát hãn mà sợ lạnh là vì hư cho nên thế; không sợ lạnh, chỉ
nóng là thực, nên hòa vị khí, cho uống điều vị thừa khí thang.

Tóm Tắt : Sau khi phát hãn có hai thứ hư thực chuyển biến khác nhau .

Thích Nghĩa: Sau khi phát hãn có hai thứ hư thực chuyển biến khác nhau, nếu
sợ lạnh là do phát hãn chuyển thành hư dương hư âm cũng không đủ, cũng như chứng
Thược dược Cam thảo Phụ tử thang nếu không sợ lạnh mà chỉ nóng là do phát hãn
mà tân dịch trong vị bị tổn thương, do đó mà chuyển vào Dương minh, hóa ra táo ra
nhiệt, cho nên không sợ lạnh mà chỉ nóng. Cho uống Điều vị thừa khí thang để hòa
được vị khí một tí là khỏi.

71. Bệnh thái dương sau khi phát hãn ra mồ hôi nhiều khô trong trường vị,
buồn phiền, vật vã, không ngủ được, muốn được uống nước, nên cho uống dần
dần khiến cho vị khí hòa thì khỏi; nếu mạch phù, tiểu tiện không lợi, hơi sốt mà
tiêu khát, dùng Ngũ linh tán làm chủ .

Tóm tắt: Biện chứng khô trong dạ dày và dạ dày đọng nước.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương sau khi phát hãn ra mồ hôi nhiều quá làm cho
tân dịch trong dạ dày bị tổn thương, xuất hiện các chứng buồn phiền vật vã, không
ngủ được, muốn được uống nước, cho nên uống dần dần ít một, khiến cho vị khí điều
hòa thời khỏi. Nếu sau khi phát hãn thấy mạch phù, tiểu tiện không lợi, hơi sốt và tiêu
khát là do nước đọng không khí hóa được, biểu không giải được mà gây nên. Có biểu
tà cho nên mạch phù, hơi sốt, bên trong có chứng thủy ẩm không khí hóa được cho

91
nên sinh tiêu khát, tiểu tiện không lợi. Cho uống Ngũ linh tán để giải cả biểu lẫn lý,
tiểu tiện lợi được thì thủy ẩm hết, tiêu khát cũng hết; uống nhiều nước nóng trợ dược
lực để phát hãn thời mạch phù hơi sốt tự khỏi .

Ngũ linh tán.

Trư linh 18 thù ( bỏ vỏ)

Trạch tả 1 lạng 6 thù

Bạch truật 18 thù

Phục linh 18 thù

Quế chi ½ lạng ( bỏ vỏ )

Năm vị trên, tán nhỏ dùng nước cơm sôi hòa uống mỗi lần 1 phương thốn chủy,
ngày uống ba lần, uống nhiều nước ấm, đổ mồ hôi là khỏi. Sử dụng và theo dõi
kiêng khem y như trước.

Ý nghĩa phương thuốc. Phương này là hóa khí hành thủy, giải cả biểu lẫn lý.
Trư linh, Trạch tả làm lợi thủy ở phần dưới, Phục linh, Bạch truật kiện tỳ lợi thấp,
Quế chi thông dương hóa khí cùng góp sức để đạt được hiệu quả, hóa khí hành thủy
thì chứng khát với chứng tiểu tiện không lợi tự khỏi, hòa với nước cơm sôi mà uống,
uống nhiều nước nóng là giúp phần dương để phát hãn, cho nên sáu phương có
nói :”đổ mồ hôi là khỏi”

72. Phát hãn rồi mà mạch phù sác, phiền khát thì cho uống Ngũ linh thang
làm chủ.

Tóm tắt: Mạch và chứng của chứng súc thủy, phiền khát sau khi phát hãn.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương phát hãn rồi mà mạch phù sác là bên ngoài có
biểu tà, phiền khát là bên trong có nước đọng, dùng Ngũ linh tán để giải cả biểu và
lý.

92
Nhận xét: Chứng phiền khát chữa bằng phương này là do biểu tà chưa giải kiêm
có nước đọng. Nước với nhiệt cùng cản trở nhau cho nên phiền, tân dịch không rải
khắp được cho nên khát mà kiêm có chứng tiểu tiện không lợi, khác với chứng phiền
khát của Bạch hổ thang vì lý nhiệt quá thịnh, mồ hôi ra quá nhiều, mình nóng là do ở
lý nhiệt đạt ra biểu chứ không phải là biểu chứng, và lại mạch hồng đại hoặc phù hoạt,
phân biệt về hai chứng này không khó lắm.

73. Thương hàn đổ mồ hôi mà khát, dùng Ngũ linh tán làm chủ, không khát
dùng Phục linh Cam thảo thang làm chủ.

Tóm tắt: Biện về chứng của Ngũ linh tán và Phục linh Cam thảo thang.

Thích nghĩa: bệnh Thương hàn đổ mồ hôi ra mà khát là vì nước tích lại ở trong,
khí hóa không thông hành được cho nên khát, cần cho uống Ngũ linh tán làm chủ.
Nếu nước đọng ở trung tiêu không phải vì khí hóa không thông hành được cho nên
khát thì dùng Phục linh Cam thảo thang để ôn vị tán thủy.

Điều này lấy khát với không khát để phân biệt tác dụng của hai bài Ngũ linh tán
và Phục linh Cam thảo thang. Ngũ linh tán chữa chứng nước tích lại ở trong do khí
hóa không thông hành được, chứng trạng thể hiện là khát, tiểu tiện không lợi; Phục
linh Cam thảo thang là chữa chứng nước tích ở trong, phần dương của vị bị trở ngại,
chứng trạng thể hiện là không khát, tim hồi hộp. Tuy cũng là một bệnh thủy ẩm mà
cách chữa thì một bên phải hóa khí hành thủy, một bên lại phải ôn vị tán thủy

Nhận xét: Điều này cần phải có chứng tim hồi hộp, xem thiên Quyết âm, điều
355

Phục linh Cam thảo thang.

Phục linh 2 lạng

Quế chi 2 lạng ( bỏ vỏ )

Chích thảo 1 lạng

Sinh khương 3 lạng ( thái mỏng )

93
Bốn vị trên, nước 4 thăng, sắc còn 2 thăng, lọc bỏ bã, chia uống ấm 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này dùng Phục linh vị nhạt, thấm thấp lợi thủy,
Quế chi thông dương hóa khí, Sinh khương ôn vị tán thủy, Cam thảo hòa trung tiêu,
4 vị hợp lại cùng góp sức ôn vị tán thủy. Cho nên phương này có thể chữa chứng
nước tích ở trung tiêu, không khát mà dưới tâm hồi hộp.

74. Trúng phong phát sốt, 6-7 ngày không giải mà phiền, có biểu chứng và
lý chứng, khát muốn uống nước, uống nước vào thì mửa ra gọi là chứng thủy
nghịch dùng Ngũ linh tán làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa chứng trúng phong thủy nghịch.

Thích nghĩa: Bệnh trúng phong phát sốt, 6-7 ngày không giải mà phiền, biểu
chứng là có sốt, lý chứng là có phiền khát, cho nên nói “ có biểu chứng và lý chứng”.
Khát muốn uống nước, uống nước vào thì mửa ra là uống nước quá nhiều, không thể
chạy xuống được, uống vào bị ngáng trở cho nên nghịch lên mà mửa, do đó mà hình
thành chứng thủy nghịch, nước vào thì mửa ra, dùng Ngũ linh tán làm chủ.

75. Lúc chưa chẩn mạch, bệnh nhân tự chắp tay ôm ngực, thầy thuốc nhân
đó bảo đằng hắng thử xem, mà họ không đằng hắng, như thế là tai đã điếc không
nghe thấy gì, sở dĩ như vậy là vì phát hãn nhiều lần, dương khí hư mà gây nên.

Tóm tắt: hư chứng do phát hãn nhiều lần

Thích nghĩa: “ Lúc chưa chẩn mạch, bệnh nhân tự chắp tay ôm ngực đấy là theo
vọng chẩn mà biết chứng tâm dương hư”; “ thầy thuốc nhân bảo, đằng hắng thử xem
mà họ không đằng hắng, như thế là hai tai đã điếc không nghe thấy gì” đấy là theo
vấn chẩn mà biết, sau khi phát hãn dương đã hư. Tâm cũng khai khiếu ở tai, tâm
dương hư thì hai tai không nghe được. “ Sở dĩ như vậy là vì phát hãn nhiều lần dương
khí hư cho nên thế” là nói các chứng thể hiện trên là do phát hãn nhiều lần làm cho
dương khí hư. Đấy là có ý bảo người ta mỗi khi muốn phát hãn thì nên chú ý đừng
làm thái quá.

94
76. Sau khi phát hãn uống nước nhiều đưa đến suyễn, dội nước lạnh cũng
suyễn.

Tóm tắt: Đề phòng người bị lạnh và uống đồ lạnh làm hại phổi

Thích nghĩa: Sau khi phát hãn hại tân dịch, tân dịch bị hại thì mỗi lần cầu cứu
ở nước, muốn uống nước thì nên cho uống ít, bởi vì ra nhiều mồ hôi, chẳng những
hao tân dịch mà dương cũng kém. Nay sau khi ra mồ hôi uống nước nhiều, dương
kém không vận hành được nước nên đình tụ lại mà không hóa được, nước lạnh làm
ảnh hưởng phổi cho nên phát suyễn. Dội nước lạnh thì hàn ở ngoài uất bế lại làm cho
phế khí không tuyên thông cũng phát suyễn. Đấy là ý nghĩa để người lạnh uống đồ
lạnh thời hại phổi.

77.Sau khi phát hãn, nước và thuốc đều không nạp đó là nghịch chứng, nếu
lại phát hãn thì tất nhiên thành ra chứng thổ tả không cầm được.

Tóm tắt: Biện chứng sau khi phát hãn vị hư .

Thích nghĩa: Sau khi phát hãn, vị khí hư quá, làm cho nước cũng như thuốc đều
không nạp được, uống vào miệng thì mửa, đấy là nghịch chứng do chữa nhầm . Nếu
nhận là chứng nôn nghịch của Thương hàn rồi lại phát hãn, làm cho trung khí càng
hư, tỳ vị mất sự thăng giáng bình thường thì thổ tả không cầm được.

78. Sau khi phát hãn, thổ, hạ, hư phiền không ngủ được, nếu bệnh nặng thì
trở trăn điên đảo, trong tâm ảo não, cho uống Chi tử sị thang làm chủ, nếu thêm
chứng khí kém thì cho Chi tử Cam thảo sị thang làm chủ, nếu nôn thì cho dùng
Sinh khương sị thang làm chủ.

Tóm tắt: Biện chứng trạng và cách chữa trường hợp hư phiền ngủ không được
sau khi phát hãn .

Thích nghĩa: Sau khi phát hãn, cho thổ, cho hạ mà tâm phiền, không phải bởi
thực tà gây nên, cho nên nói: “hư phiền”. Hư phiền ngủ không được, nếu bệnh nặng
thì nằm ngủ không yên, vật vã luôn, đấy là do nhiệt còn lại quấy nhiễu trong ngực
cho nên dùng Chi tử sị thang để thanh nhiệt trừ phiền; nếu kiêm có chứng khí kém

95
trong ngực thì gia Cam thảo để thêm khí hòa trung tiêu; nếu kiêm có chứng nôn mửa
thì gia Sinh khương để giáng nghịch làm hết nôn mửa.

Chi tử sị thang:

Chi tử 14 quả (bổ ra)

Đậu sị 4 cáp( dùng vải đùm lại)

Hai vị trên, nước 4 thăng nấu Chi tử trước còn hai thăng rưỡi rồi cho Đậu sị vào
sắc lấy 1 thăng rưỡi lọc bỏ bã chia 2 lần uống, lần đầu uống ấm (mửa được thì thôi,
không uống lần sau).

Chi tử Cam thảo sị thang

Chi tử 14 quả ( xé ra)

Chích thảo 2 lạng

Đậu sị 4 cáp( dùng vải dùm lại)

Ba vị trên, nước 4 thăng, trước nấu Chi tử Cam thảo còn hai thăng rưỡi rồi cho
Đậu sị vào sắc lấy 1 thăng rưỡi lọc bỏ bã chia hai lần, lần đầu uống ấm ( uống lần đầu
mửa được thì thôi, không uống lần sau)

Chi tử Sinh khương sị thang.

Chi tử 14 quả( xé ra)

Sinh khương 5 lạng( thái mỏng)

Đậu sị 4 cáp( dùng vải đùm lại)

Ba vị trên, nước 4 thăng trước nấu Chi tử Sinh khương còn hai thang rưỡi rồi
cho Đậu sị vào sắc lấy 1 thăng rưỡi lọc bỏ bã chia hai lần, lần đầu uống ấm ( uống
lần đầu mửa được thì thôi, không uống lần sau)

96
Ý nghĩa phương thuốc : Chi tử vị đắng tính hàn, thanh nhiệt trừ phiền, Đậu sị vị
đắng tính ngọt, bình hòa giúp Chi tử để làm tuyên thấu nhiệt còn lại trong ngực cho
nên chữa được chứng ảo não trong tâm. Kém khí thì gia Cam thảo để bổ trung, nôn
mửa thì gia Sinh khương để cầm mửa đấy là phép biến hóa lý chứng trị liệu.

Lời chú chọn lọc . Trương Tích câu nói : “Mửa được thì thôi, không uống lần
sau’’ trong sách Bản thảo không có nói Chi tử hay làm cho mửa đấy là do trong bài
Qua để tán có dùng 2 cáp Đậu sị mà truyền nhầm vậy.

79. Phát hãn hoặc hạ mà phiền nóng, trong ngực vướng tức, dùng Chi tử sị
thang làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa trường hợp sau khi phát hãn hoặc hạ mà phiền nhiệt, trong
ngực vướng tắc.

Thích nghĩa: Phát hãn hoặc hạ, phiền nhiệt, vít lấp ở trong ngực vướng tắc không
thông, dùng Chi tử sị thang để thanh nhiệt ở trong ngực, khai uất ở thượng tiêu, làm
cho khí thông, tân dịch rải khắp mà khỏi.

Bài Chi tử sị thang thể hiện là sau khi phát hãn hoặc hạ, nhiệt uất ở ngực và
hoành cách mô, so với chứng hư phiền ngủ không được của điều 78, bộ vị tuy khác
nhau mà nguyên nhân bệnh thì giống nhau.

80. Bệnh Thương hàn 5-6 ngày, sau khi đã hạ, đi đồng rất nhiều, chứng
mình nóng vẫn không dứt mà trong tâm kết đau, là tà chưa chịu giải ra hết, cho
uống Chi tử sị thang làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh Thương hàn sau khi hạ mạnh rồi có chứng trong tâm
đau vì nhiệt tà kết lại.

Thích nghĩa: Thương hàn 5-6 ngày, phần nhiều là thời kỳ biểu tà truyền vào
trong; nếu bệnh đã truyền sang Dương minh mà đã cho hạ mạnh rồi, đáng lý bệnh
giải, nay sau khi hạ mạnh mà chứng mình nóng không lui là bệnh không phải ở Dương
minh, chỉ làm hư vị khí, nhiệt tà thừa hư mà kết lại ở trong tâm, nhân sự kết lại mà
gây ra cơn đau, so với các chứng tâm phiền vướng tắc trong ngực là nặng hơn. “Là

97
tà chưa chịu giải hết ra” là nói nhiệt không hạ mạnh mà giải, không phải biểu chứng
chưa muốn giải, cho nên dùng Chi tử sị thang để chữa chứng hư nhiệt trong ngực.

81. Thương hàn sau khi hạ, tâm phiền, bụng đầy, nằm ngồi không yên, cho
uống Chi tử Hậu phác thang làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh Thương hàn sau khi hạ mà tâm phiền bụng đầy.

Thích nghĩa: Bệnh Thương hàn sau khi hạ, tà nhiệt đọng ở ngực cho nên tâm
phiền, hạ rồi tà lấn vào, khí trệ ở bụng cho nên bụng đầy; ngực bụng ủng trệ cho nên
nằm ngồi chẳng yên. Vì thế, dùng Chi tử để chữa chứng hư phiền, Chỉ thực Hậu phác
để trừ chướng đầy, không dùng Đậu sị là để tập trung sức vào chữa chứng đầy bụng.

Tâm phiền bụng đầy mà chưa hạ bao giờ thì hạ đi là khỏi. Hạ rồi mà tâm phiền
bụng đầy thì không thể hạ. Loại chứng hậu này rất dễ nhận lầm là hạ chưa hết rồi cho
hạ nữa, hoặc nhận nhầm là sau khi hạ rồi hư ở trong mà dùng thuốc bổ, như thế là
chữa nhầm

Chi tử Hậu phác thang.

Chi tử 14 quả ( xé ra)

Hậu phác 4 lạng (nướng, bỏ vỏ)

Chỉ thực 4 quả (ngâm nước, nướng vàng)

Ba vị trên, nước ba thăng rưỡi, sắc lấy một thăng rưỡi, lọc bỏ bã, chia hai lần
uống, lần đầu uống ấm (mửa được thì thôi uống, uống lần sau)

Ý nghĩa phương thuốc: Chi tử đắng hàn hay làm tiết hết sự phiền nhiệt, Hậu
phác đắng ấm, hay làm tiêu hết chứng bụng đầy. Chỉ thực đắng lạnh, giải được chứng
nhiệt kết trong dạ dày. Đây là thang thuốc thanh nhiệt trừ phiền, khoan khoái trung
tiêu, làm hết chứng đầy.

82. Thương hàn , thầy thuốc đã cho uống thuốc hoàn hạ mạnh, chứng mình
nóng không rút mà hơi phiền, dùng Chi tử Can khương thang làm chủ.

98
Tóm tắt: Cách chữa bệnh Thương hàn do nhầm cho hạ bằng thuốc hoàn làm
mình nóng, hơi phiền.

Thích nghĩa: Bệnh Thương hàn, thầy thuốc cho uống thuốc hoàn hạ mạnh làm
hư trường vị, chứng mình nóng chưa dứt mà tăng thêm chứng hơi phiền, hơi phiền
này không phải vì nhiều dương khí để phát nhiều mà là do trong ngực và hoành cách
mô có nhiệt, trong bụng có hàn. Dùng Chi tử Can khương thang để thanh nhiệt trong
ngực mà làm ấm trường vị bị hàn.

Chi tử Can khương thang.

Chi tử 14 quả ( xé ra)

Can khương 2 lạng

Hai vị trên, nước 3 thăng rưỡi, sắc lấy một thăng rưỡi, lọc bỏ bã chia hai lần
uống, lần đầu uống ấm (mửa được thì thôi, không uống lần sau)

Ý nghĩa phương thuốc : Chi tử đắng lạnh, hay thanh nhiệt trừ phiền, Can khương
cay nóng , làm ấm tỳ và tan khí lạnh. Bởi vị chứng hơi phiền, cho nên vẫn dùng Chi
tử , bởi vì hạ mạnh trường vị tất lạnh cho nên dùng Can khương .Đây là bài thuốc hàn
nhiệt cùng dùng.

83. Phàm dùng Chi tử thang mà bệnh nhân trước vốn có chứng đi ngoài
phân hơi nhão thì không thể cho uống được .

Tóm tắt: Chứng cấm kị của Chi tử sị thang.

Thích nghĩa: Nói” Trước có chứng đi ngoài phân hơi nhão” là tỳ vị vốn hư hàn,
tuy có chứng phiền, nhưng không thể theo nhiệt chứng mà chữa. Bởi vì , Chi tử đắng
lạnh ,uống rồi lại tổn hại tỳ vị tất ỉa chảy không cầm được. Do đó lúc dùng Chi tử sị
thang phải giữ lấy lời răn này.

84. Bệnh Thái dương phát hãn đổ mồ hôi ra mà bệnh vẫn không giải người
vẫn phát sốt, dưới tâm máy động, đầu choáng váng, mình máy giật, run run
muốn ngã xuống đất dùng Chân vũ thang làm chủ.

99
Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh Thái dương bị phát hãn nhầm mà
dương hư chất nước tràn lên.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương vốn phải phát hãn, nếu phát hãn không kịp thời
hoặc không đúng cách đều có thể phát sinh nhiều biến chứng khác nhau. Trong điều
này nói do phát hãn nhầm mà thể hiện các chứng hậu dưới tâm máy động, đầu choáng
váng, mình mẩy gân thịt giật giật, run run muốn ngã xuống đất. Hình thành các chứng
hậu này là do dương hư không thể chế được thủy gây nên thủy tràn lên mà tâm động,
khí không đưa lên được cho nên đầu choáng váng, sau khi phát hãn, dương khí nổi
nên cho nên phát sốt. Về dương khí thì thứ tinh vi có thể dưỡng thần , thứ nhu hòa có
thể dưỡng gân, khi mà gân thịt mất sự nuôi dưỡng ấm áp, kinh mạch mất sự chủ trì,
nên hiện ra các chứng trạng gân thịt máy giật , toàn thân run rảy, đứng không vững.
Nay dùng Chân vũ thang để chữa là làm cho ấm phần dương, hóa phần thủy, các
chứng tự khỏi.

Chân vũ thang.

Phục linh 3 lạng

Thược dược 3 lạng

Sinh khương 3 lạng( thái mỏng)

Bạch truật 2 lạng

Phụ tử 1 củ( nướng, bóc bỏ vỏ, xé làm 8 miếng)

Năm vị trên, nước 8 thăng, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 7 cáp, ngày uống
ba lần

Ý nghĩa phương thuốc: phương này là thuốc ấm phần dương, hóa chất nước ,
dùng phụ tử cay nóng để ôn kinh tán hàn , Bạch truật ngọt ấm để kiện tỳ táo thấp,
Phục linh ngọt bình để thẩm thấp lợi thủy Sinh khương cay ấm để ôn vị tán hàn,
Thược dược đắng bình để hòa huyết bổ âm. Hợp lại để chữa chứng dương hư nước
tràn.

100
85. Cổ khô, họng ráo thì không nên phát hãn.

Tóm tắt: người cổ khô họng ráo cấm phát hãn.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương vốn phải phát hãn, nhưng người thiếu chất âm
dịch phải chú ý khi dùng phép phát hãn, cổ khô họng ráo là dấu hiệu âm dịch không
thể đưa lên trên, do đó tuy có biểu tà cũng không nên sử dụng các bài thuốc cay ấm
để phát hãn. Nếu nhầm dùng thuốc cay ấm để phát hãn thời âm dịch cũng bị tổn
thương tất sẽ phát sinh biến chứng nghiêm trọng.

86. Người vốn có bệnh lâm (1) không nên phát hãn , phát hãn sẽ sinh ỉa ra
máu.

Tóm tắt: Người vốn có bệnh lâm cấm phát hãn.

Thích nghĩa: Người vốn có chứng đái nhỏ giọt, gọi là người có bệnh lâm,
nguyên nhân phần nhiều là do ở hạ tiêu tích nhiệt, tân dịch vốn thiếu, tuy có ngoại
cảm cũng không thể dùng bừa phép phát hãn. Nếu nhầm cho phát hãn hại âm dịch
khiến tà nhiệt bùng lên chẳng những tân dịch càng hao, lại làm bức huyết chạy càn,
dẫn đến chứng ỉa ra máu.

87. Người vốn có bệnh sang lở, tuy mình mẩy đau nhức cũng không thể
phát hãn, phát hãn thì sinh chứng co cứng( kinh)

Tóm tắt: người vốn có bệnh sang lở cấm phát hãn.

Thích nghĩa: Người bị sang lở lâu ngày, khí huyết đã tổn thương, tuy có biểu
chứng cũng không thể phát hãn. Dùng nhầm phép phát hãn thì âm dịch càng bị tổn
thương, gân mạch mất sự nhu dưỡng, sẽ phát sinh chứng gân mạch cứng đờ chi thể
co quắp gọi là chứng co cứng( kinh chứng)

1
Bệnh lâm : Tổng danh cho các bệnh ở hệ tiết niệu như đái dắt, sỏi bàng quang, lậu
101
88. Người vốn có bệnh lục huyết không thể phát hãn, phát hãn thì động
mạch ở chỗ lõm hai bên trán căng thẳng, mắt trực thị, không thể chuyển động,
không ngủ được.

Tóm tắt: Người vốn có chứng nục huyết thì cấm phát hãn

Thích nghĩa: Người vốn có chứng nục huyết, âm dịch không đủ, tuy có biến
chứng cũng không thể phát hãn. Nếu phát hãn thì âm dịch lại bị tổn thương nữa, gân
mạch mất sự nhu dưỡng xuất hiện các chứng động mạch ở chỗ lõm hai bên trán căng
thẳng, mắt trực thị, không thể chuyển động, không ngủ được.

89.Người vốn có chứng vong huyết không thể phát hãn, phát hãn thì lạnh
rợn người mà run rẩy.

Tóm tắt: Người có chứng vong huyết thì cấm phát hãn.

Thích nghĩa: Người vốn có chứng vong huyết, bình thường âm huyết hao kém
cực độ nên không thể phát hãn, đấy là vì mồ hôi với máu cùng một nguồn, nếu phát
hãn mà không chiếu cố vào chỗ hư thì chẳng những huyết hư mà khí cũng không có
chỗ dựa. Khí huyết hư kém, gân mạch không thể nhu dưỡng, da dẻ không được ấm
áp nên thể hiện ra chứng trạng lạnh rợn người mà run rẩy.

Lời chú chọn lọc. Thành Vô Kỷ nói : “Sách Chấm kinh nói: Người mất máu thì
không có mồ hôi, người mất mồ hôi thì không có máu”. Mất máu lại phát hãn thì âm
dương đều hư, cho nên lạnh rợn người mà run rảy

90. Người vốn hay đổ mồ hôi mà phát hãn nữa thì sẽ sinh chứng hoảng hốt
tâm loạn, hễ đi đái xong là ngọc hành đau, cho dùng Vũ dư lương thang.

Tóm tắt: Người vốn hay đổ mồ hôi cấm phát hãn.

Thích nghĩa: Người bình thường hay đổ mồ hôi dương khí sẽ hư, bảo vệ dương
không kiên cố, nếu lại phát hãn nữa thì âm dương đều bị tổn hại tất gây cho tâm khí
mất sự nuôi dưỡng. Tâm khí hư ở trên thời tâm không tự chủ được, cho nên xuất hiện

102
trạng thái hoảng hốt tâm loạn chẳng an, âm dịch kiệt ở dưới thời khi đi đái xong thấy
đau ngọc hành, như vậy phải dùng Vũ dư lương thang để chữa.

Lời chú chọn lọc: Trần Tu Viên nói:” Người bình thường hay dễ đổ mồ hôi gọi
là “hãn gia”. Tâm chủ huyết, mồ hôi là chất dịch của tâm, người mắc phải bệnh này
là đủ biết tâm hư huyết kém. Nếu lại phát hãn nữa thời thời thần khí tâm chủ không
chỗ nương tựa, sẽ sinh hoảng hốt tâm loạn. Vả lại thần khí tâm chủ hư thì không thể
giao xuống thận mà thận cũng lẻ loi, cho nên đi đái xong mà đau ngọc hành”

Vũ dư lương hoàn (khuyết).

91. Người có chứng hàn lại phát hãn, trong dạ dày lạnh sẽ nôn ra giun.

Tóm tắt: Người vốn có chứng hàn cấm phát hãn.

Thích nghĩa: Bệnh nhân vốn có chứng hàn mà vị dương kém, tuy có bệnh thái
dương cũng không thể phát hãn, nếu phát hãn thời dương khí cũng tiêu mất, hàn khi
ở trong càng nặng mà gây ra chứng dạ dày hư lạnh, nôn ra giun, hoặc nôn ngược.

Nhận xét: Người bệnh có giun thì mửa ra giun, không thì nôn ngược.

Lời chú chọn lọc. Sách kim giám nói: “Vị hàn lại phát hãn, dương khí càng
kém trong dạ dày càng lạnh, giun ở không yên cho nên mửa ra giun, nên lấy lý
trung thang mà uống với Ô mai hoàn mới được.”

92.Vốn nên phát hãn mà lại cho hạ là chữa trái phép, nếu phát hãn trước
là chưa đúng phép; vốn nên hạ trước mà lại phát hãn là chữa trái phép, nếu hạ
trước là chữa đúng phép.

Tóm tắt: Nguyên tắc trị liệu theo thứ tự trước sau của phép hãn hạ.

Thích nghĩa: Phép tắc trị liệu tất cả bệnh ngoại cảm đều chữa biểu trước chữa
lý sau. Nhưng trong tình huống riêng biệt, cũng có phép chữa lý trước, chữa biểu sau,
đấy là thuộc về lý chứng gấp hơn, phải cứu chứng gấp trước, ngoài ra còn có phương
pháp chữa cả biểu lẫn lý.

103
Điều này nêu ra bệnh có hoãn cấp, chữa có trước sau, làm sai thứ tự trước sau
đó, thì bệnh tất không khỏi, cho nên bệnh hoãn hay cấp, chữa trước hay sau, cần phải
lắm chắc tinh thần lời văn trong điều này: “ vốn nên phát hãn” “vốn nên hạ trước”,
chính như Nội kinh đã nói “ bệnh có từ trong ra ngoài mà thịnh ở ngoài thì phải chữa
ở trong trước rồi mới chữa ngoài sau, bệnh từ ngoài vào trong mà thịnh ở trong thì
phải chữa ngoài trước chữa trong sau” , cũng đồng ý nghĩa với điều này vậy.

93. Bệnh thương hàn thầy thuốc cho hạ rồi đi ỉa sống phân không dứt, mình
mẩy đau nhức, phải kịp kíp cứu lý chứng, sau khi mình đau nhức, đại tiểu tiện
khôi phục bình thường thì kíp cứu biểu chứng; cứu lý nên dùng Tứ nghịch thang,
cứu biểu nên dùng Quế chi thang.

Tóm tắt: Biện về cách chữa biểu lý hoãn cấp trước sau đối với bệnh thương hàn
sau khi bị hạ nhầm.

Thích nghĩa: Bệnh thương hàn phải giải biểu trước, nếu kiêm có lý chứng phải
đợi giải hết biểu chứng rồi mới chữa lý chứng, đấy là phép thường. Nay nhầm cho
hạ, làm cho tỳ vị tổn thương, do đó mà ỉa sống phân không dứt. Lúc ấy tuy ngoại
chứng chưa giải trừ, nhưng lý chứng hư hàn đã nặng quá nên cần phải bảo vệ vị khí
trước, vị khí đầy đủ mới có thể giải biểu, cho nên nói “ kíp phải cứu lý” “ cứu lý nên
dùng Tứ nghịch thang”. Nếu sau này mình đau nhức, đại tiểu tiện khôi phục bình
thường là lý đã hòa mà biểu chưa giải, cho nên nói “kíp cứu biểu, cứu biểu nên dùng
Quế chi thang”

94.Bệnh phát sốt nhức đầu mạch lại trầm, nếu không khỏi, mình mẩy đau
nhức, cần phải cứu lý, nên dùng Tứ nghịch thang.

Tóm tắt: Biện về chứng trạng và cạch chữa bệnh thuộc biểu chứng mà mạch lại
trầm.

Thích nghĩa: Bệnh phát sốt nhức đầu là biểu chứng, mạch lại trầm là lý mạch.
Biểu chứng mà thấy lý mạch thì khi chữa phải chiếu cố đến chứng lý hư, phải vừa
phát hãn vừa ôn kinh. Nếu không khỏi là lý hư nặng hơn, tuy có biểu chứng là mình
mẩy đau nhức, nhưng phải cứu lý chứng trước, nên dùng Tứ nghịch thang.

104
95. Bệnh Thái dương, trước hạ mà không khỏi, nhân đó lại phát hãn vì thế
biểu lý đều hư, người bệnh do đó mà sinh ra chứng mắt xẩm tối. Chứng mắt
xẩm tối này hễ ra mồ hôi là tự khỏi, sở dĩ như vậy là vì ra mồ hôi thì phần biểu
được điều hòa, nếu phần lý chưa được điều hào thì sau lại cho hạ nữa.

Tóm tắt: cách chữa bệnh Thái dương vì trước đã hạ lại phát hãn làm cho mắt
xẩm tối.

Thích nghĩa: Thái dương biểu bệnh, phát hãn và hạ mất thứ tự, trước cho hạ làm
hư phần lý, lại phát hãn làm hư phần biểu, đến nỗi khí của biểu lẫn lý đều hư , tà thừa
hư lọt vào, dương khí do đó không được thư thái, đầu mắt tối sầm, vì thế mà sinh ra
choáng váng. Người có chứng tối sầm mắt, ra được mồ hôi làm cho dương khí thông
suốt. Khí của phần biểu khôi phục bình thường, tả uất cũng theo mồ hôi mà giải, cho
nên nói: “ Sở dĩ như vậy là vì ra mồ hôi thì phần biểu được điều hòa”, nếu sau khi ra
mồ hôi, biểu chứng giải rồi mà lý chứng thực chứng vẫn còn thì sau lại cho hạ nữa
để hòa phần lý.

Lời chú chọn lọc. Trần Lượng Sư nói: “ có trường hợp tà thịnh mà mắt tối xẩm
là chứng choáng váng xây xẩm của tính bệnh Thái dương + Thiếu dương”, có trường
hợp hư thoát mà mắt tối xẩm là bệnh Thiếu âm hết đi ngoài mà thường tự thấy mắt
tối xẩm. Chứng mắt tối xẩm nói trong điều này không bằng thực chứng của tính bệnh,
cũng không bằng nguy chứng của Thiếu âm, bởi vì biểu lý đều hư, cho nên tà trở ra
biểu mà không tan, khí uất ở lý mà khó giải ra được, nhưng dùng phép giải nhẹ thời
mồ hôi ra mà biểu tà tự hết”.

96. Bệnh Thái dương chưa giải mạch âm, mạch dương đều đình lại trước
run cầm cập rồi ra mồ hôi và giải, chỉ có mạch dương rất nhỏ thì trước ra mồ
hôi mà bệnh giải. Chỉ có mạch âm rất nhỏ thì cho hạ mà bệnh giải, nếu muốn
cho hạ thì nên dùng Điều vị thừa khí thang.

Tóm tắt: Bằng vào mạch để lường biết bệnh Thái dương run cầm cập, cho ra mồ
hôi thì giải.

105
Thích nghĩa: Bệnh Thái dương không giải, lúc này xuất hiện mạch âm mạch
dương đều đình chỉ. đấy là do người lúc bình thường hoặc có lúc chính khí hư, chính
và tà tranh nhau, khí huyết bị tắc trệ, kinh mạch không thông lợi, cho nên nhất thời
có hiện tượng mạch phục mà không thấy cùng với mạch tuyệt, rõ ràng có phân biệt.
Chính vì là mạch tượng nhất thời, cho nên biết bệnh có thể từ run rẩy đổ mồ hôi mà
được giải trừ. Từ câu: “ chỉ có mạch dương rất nhỏ trở xuống, ý nghĩa chưa rõ, ý kiến
và giải thích của người xưa cũng khác nhau, cần nghiên cứu thêm nữa, nay hãy lưu
lại không chú thích.

97. Bệnh Thái dương, phát sốt đổ mồ hôi, đấy là vì vinh yếu vệ khỏe cho
nên là cho ra mồ hôi muốn chữa phong tà nên cho uống Quế chi thang.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp vinh yếu vệ khỏe của bệnh Thái
dương trúng phong.

Thích nghĩa: Vinh vệ trong lúc bình thường là ăn nhịp với nhau một khi bị ngoại
tà xâm nhập, vệ khí cùng chống đối với nó mà phát sốt, vinh âm không thể gìn giữ
được ở trong, cho nên ra mồ hôi, làm cho tà khí thịnh ở ngoài mà vệ khí khỏe, chính
khí hư ở trong mà vinh khí yếu, yếu là nói chính khí hư, khỏe là nói tà khí thực, hư
là do đổ mồ hôi, khỏe là do tà ngáng trở, cho nên dùng Quế chi thang để cứu cho tà
phong làm hại, hễ phong tà lui thì vệ khì hòa, hết đổ mồ hôi thì vinh khí hồi phục.

98.Thương hàn 5-6 ngày trúng phong, nóng rét qua lại (1) ngực sườn đầy
tức (2) lịm lịm không muốn ăn uống, tâm phiền muốn nôn hoặc trong ngực phiền
mà không nôn, hoặc khát , hoặc đau trong bụng hoặc dưới sườn đầy cứng, hoặc
dưới tâm hồi hộp, tiểu tiện không thông lợi, hoặc không khát, mình có hơi nóng
hoặc ho, dùng Tiểu sài hồ thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng chủ trị của Tiểu sài hồ thang.

Thích nghĩa: Bệnh thương hàn đã 5-6 ngày, trúng phong có các chứng nóng rét
qua lại, ngực sườn đầy tức, lịm lịm không muốn ăn uống, tâm phiền muốn nôn, đó là

1
Nóng rét qua lại: nóng rét qua lại thay thế nhau, ớn lạnh rồi phát sốt, phát sốt rồi ớn lạnh
2
Ngực sườn đầy tức : từ vùng ngực đến sườn có cảm giác trướng đầy khó chịu.
106
chủ chứng của Tiểu sài hồ thang. Bởi tà khí cùng chính khí giao tranh với nhau ở
khoảng nửa biểu nửa lý cho nên nóng rét qua lại, khác với chứng vừa phát sốt vừa ớn
lạnh cũng thấy một lúc của bệnh Thiếu dương. Ngực sườn là bộ vị của Thiếu dương,
tà nhiệt ủng tắc ở Thiếu dương, cho nên ngực sườn đầy tức. Tà nhiệt uất tắc trong
ngực, khí cơ không tuyên thông, ảnh hưởng đến dạ dày, cho nên lịm lịm không muốn
ăn uống. Nhiệt uất thì phiền, vị khí nghịch lên thì nôn. Các chứng bất kỳ khác không
phải chỗ dựa chủ yếu để sử dụng phương này.

Tiểu sài hồ thang.

Sài hồ ½ cân,

Hoàng cầm 3 lạng

Nhân sâm 3 lạng

Bán hạ ½ thăng (tẩy)

Cam thảo

Sinh khương 3 lạng

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

Bảy vị trên, bước 1 đấu 2 thăng, sắc còn 6 thăng, lọc bỏ bã rồi sắc lại còn 3
thăng, uống ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần. Nếu trong ngực phiền mà không nôn thì bỏ
Ban hạ, Nhân sâm, gia Qua lâu thực 1 quả. Nếu khát bỏ Bán hạ gia Nhân sâm hợp
với trước thành 4,5 lạng. Qua lâu căn 4 lạng. Nếu đau bụng thì bỏ Đại táo, gia Mẫu
lệ 4 lạng. Nếu dưới tâm hồi hộp, tiểu tiện không lợi, thì bỏ Hoàng cầm, gia Phục linh
4 lạng. Nếu không khát, bên ngoài có sốt nhẹ thì bỏ Nhân sâm, gia Quế chi 3 lạng,
đắp chăn ấm cho ra chút mồ hôi là khỏi. Nếu ho thì bỏ Nhân sâm, Đại táo, Sinh
khương, gia Ngũ vị tử ½ thăng, Can khương 2 lạng

107
Ý nghĩa phương thuốc. Phương thuốc này chủ phương để hòa giải bệnh Thiếu
dương, Sài hồ khí chất khinh thanh, vị đắng, rất bạc, có thể sơ thông sự uất trệ ở Thiếu
dương thì tà có thể giải, Hoàng cầm đắng lạnh, khí vị hơi nặng có thể thanh nhiệt ở
bụng ngực, trừ chứng phiền đầy. Sách Thần nông bản thảo khen Sài hồ thay cũ đổi
mới( đại tạ), Hoàng cầm chủ trị các chứng nóng, Sài Cầm dùng chung có thể giải tà
ở nửa biểu nửa lý, Sinh khương, Bán hạ điều lý vị khí để làm hết mửa, Nhân sâm,
Táo, Thảo ích khí hòa trung để dưỡng chính. Phương này dùng thuốc hàn lẫn thuốc
nhiệt, thuốc bổ lẫn thuốc công, có công hiệu sơ thông khí cơ ở tam tiêu, điều đạt sự
thăng giáng trên dưới trong ngoài tuyên thông, vận hành khí huyết, cho nên gọi là
hòa tễ.

Lời chú chọn lọc. Vưu Tại Kinh nói: “ Trong ngực phiền mà không nôn là tà tụ
ở hoành cách mô mà không nghịch lên, nhiệt tụ lại thì không được dùng thuốc ngọt
để bổ, không nghịch lên thời không cần dùng thuốc cay để tán, cho nên bỏ Nhân sâm,
Bán hạ mà gia Qua lâu thực là thuốc hàn để trừ nhiệt tất chứng hạ là thuốc ôn táo mà
gia Nhân sâm ngọt nhuận. Qua lâu căn đắng mát để trừ nhiệt sinh tân dịch. Đau trong
bụng là do can khí làm hại tỳ khí, Hoàng cầm đắng lạnh không lợi cho tỳ dương,
Thược dược chua lạnh hay tả can khí trong tỳ, đuổi tà khí làm hết đau bụng dưới sườn
đầy cứng là tụ ở vùng Thiếu dương. Đại táo ngọt hay làm tăng chứng đầy, Mẫu lệ
mặn hay làm mềm chất rắn. Vương Hiếu Cổ nói: “Mẫu lệ dùng Sài hồ để dẫn, có thể
trừ chứng đầy dưới sườn”. Dưới tâm động, tiểu tiện không lợi là thủy ẩm đọng lại mà
không lưu hành, thủy ẩm hễ gặp lạnh thì dừng lại, gặp nhạt thì lưu lợi, cho nên bỏ
Hoàng cầm gia Phục linh. Không khát, bên ngoài có sốt nhẹ là phần lý hòa mà phần
biểu chưa giải, cho nên không dùng Nhân sâm bổ phần lý, mà dùng Quế chi giải phần
biểu. Ho là phế hàn mà khí nghịch. Kinh nói: “Phế bị khô vì khí nghịch lên thì kíp ăn
đồ chua để thu liễm lại”. Lại nói: “ Người lạnh uống của lạnh thì hại phổi”. Cho nên
gia Ngũ vị chua để thu liễm nghịch khí, Can khương ấm để trừ chứng phế hàn, Sâm,
Táo ngọt, nê trệ, không lợi cho trường hợp khí nghịch, Sinh khương cay cũng ghét
sự tản vậy”

108
99. Huyết khí suy nhược chân lông thớ thịt hở tà khí nhân đó mà xâm nhập,
cùng va chạm với chính khí kết ở dưới sườn. Chính khí tà khí phân tranh mà
thành chứng nóng rét qua lại lúc hết lúc phát có buổi lìm lịm không muốn ăn
uống, vì tạng phủ có liên quan với nhau, trên đau thì liên cập đến dưới tà ở trên
đau ở dưới cho nên thành ra chứng nôn, dùng Tiểu sài hồ thang làm chủ uống
thang này xong mà khát là chuyển thuộc chứng Dương minh rồi, nên theo phép
mà chữa.

Tóm tắt: Bệnh lý về chứng của Tiếu sài hồ thang và cách chữa khi bệnh chuyển
vào Dương minh.

Thích nghĩa: “Huyết khí suy nhược, chân lông thớ thịt hở, tà khí nhân đó mà
xâm nhập” là nói lúc khí huyết không đủ thì dương khí không thể gìn giữ chắc chắn
bên ngoài, chân lông thớ thịt không kín đáo, ngoại tà do đó mà xâm nhập. Tà khí vào
va chạm với chính khí, kết ở dưới sườn. Dưới sườn là bộ vị của Thiếu dương, khi
thiếu dương thụ tà thì tà khí cùng chính khí giao tranh mà xuất hiện các chứng của
Tiểu sài hồ thang như nóng rét qua lại, lúc hết lúc phát có khi lìm lịm không muốn
ăn.

Tỳ vị tương thông với nhau, can đởm tương liên với nhau, can bị bệnh thì ảnh
hưởng đến tỳ, cho nên đau ở dưới, đởm bị bệnh cũng ảnh hưởng đến vị cho nen nghịch
lên mà sinh ra nôn, đấy là ý nghĩa câu: “Tạng phủ có liên quan với nhau cho nên đau
thì liên cập đến dưới, tà ở trên đau ở dưới cho nên thành ra chứng nôn” là thuộc về
chứng Tiểu sài hồ thang, nếu uống xong thang Tiểu sài bệnh không khỏi mà lại khát
thì đấy là bệnh không còn ở thiếu dương mà đã thuộc về dương minh, phải dùng phép
chữa bệnh dương minh xử lý.

100. Mắc bệnh 6-7 ngày, mạch trì phù nhược, sợ gió rét chân tay ấm, thầy
thuốc cho dùng hạ 2-3 lần, không ăn được mà dưới sườn đầy đau, mặt mắt và
mình đều vàng, cổ gáy cứng, tiểu tiện khó, uống Sài hồ thang, sau có mót rặn,
vốn khát uống nước mà nôn thì không thể cho uống Sài hồ thang được, ăn cơm
thì ọe.

109
Tóm tắt: Bệnh nhân vốn hư vì hạ nhầm mà gây biến chứng giống như chứng
Sài hồ.

Thích nghĩa: Mắc bệnh 6-7 ngày, phần nhiều là lúc bệnh tật chuyển biến. Mạch
trì là hàn, phù là khí hư, nhược là huyết hư, sợ gió rét là tà còn ở biểu, mình không
nóng mà chân tay ấm là thuộc về thái âm. Đây là dấu hiệu vì người bệnh vốn hư, cảm
thụ phong hàn, tà đã nhập lý mà biểu chưa giải. Thầy thuốc thấy tà nhập vào lại hạ
nhầm hai ba lần, hạ rồi vị khí càng hư do đó mà không ăn được, lại vì hạ nhầm tà hãm
vào làm cho dưới sườn đầy đau, đấy là thuộc về tỳ hư khí trệ, mặt mắt và mình đều
phát vàng đấy là tà hãm vào Thái âm. Cổ gáy cứng là biểu chứng vẫn chưa giải, tiểu
tiện khó là do tỳ không chuyển vận, chất nước không chảy xuống dưới. Các chứng
thể hiện như thể là do sau khi hạ nhầm tỳ vị đã hư mà biểu chứng vẫn chưa giải, có
thể vận dụng phép “ Ôn trung giải biểu” để chữa.

Lúc ấy nếu vẫn cho uống Tiểu sài hồ thang, uống xong sẽ gây ra chứng tỳ hư
khí hãm mà thể hiện chứng mót rặn. Đoạn này là nêu lên nếu tỳ hư không thể co dùng
Tiểu sài hồ thang. Câu “ Vốn khát uống nước mà nôn” là nói về bệnh thủy ẩm, cũng
không thể ngộ nhận là chứng nôn của chứng Tiểu sài hồ. Bệnh thủy ẩm nếu nhầm
cho uống Tiểu sài hồ thang thì chẳng những uống nước sinh nôn, vả lại tỳ vị đã sắp
hỏng sẽ tiến tới chứng ăn cơm phát ọe. Đoạn này nêu lên dù bệnh thủy ẩm cũng không
thể cho uống Tiểu sài hồ thang.

101. Bệnh thương hàn 4-5 ngày, mình nóng, ghê gió, cổ gáy cứng dưới sườn
đầy, chân tay ấm mà khát, dùng Tiểu sài hồ thang làm chủ.

Tóm tắt: Xuất hiện chứng tam dương, phép chữa theo Thiếu dương.

Thích nghĩa: Bệnh Thương hàn 4-5 ngày xuất hiện các chứng ghê gió, cổ gáy
cứng là thuộc thái dương, dưới sườn đầy là thuộc Thiếu dương; mình nóng, chân tay
ấm mà khát là thuộc Dương minh. Thấy chứng tam dương thì phép chữa phải theo
Thiếu dương. Dùng Tiểu sài hồ thang để hòa giải làm cho tà ở Thái dương được giải
ra ngoài, nhiệt ở dương minh được thanh ở trong.

110
102. Bệnh thương hàn mạch dương sáp, mạch âm huyền, sẽ có chứng trong
đau bụng đau thắt , trước cho uống Tiểu kiến trung thang, nếu không khỏi thì
dùng Tiểu sài hồ thang làm chủ.

Tóm tắt: Bệnh Thiếu dương thuộc lý hư hàn, cách chữa là trước bổ sau hòa.

Thích nghĩa: Bệnh thương hàn mạch dương sáp, là chủ khí huyết hư, mạch âm
huyền là chủ bệnh ở thiếu dương. Đấy là bệnh thiếu dương kiêm lý chứng hư hàn,
dương khí của tỳ vị không thể lưu thông được cho nên trong bụng đau thắt, cho uống
Tiểu kiến trung thang để điều hòa khí huyết, xây dựng trung khí, cắt cơn đau. Uống
xong hết đau bụng mà chứng thiếu dương không khỏi thì cho uống Tiểu sài hồ thang
lần nữa để hòa giải chứng thiếu dương.

Tiểu kiến trung thang.

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

Chích thảo 2 __

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

Thược dược 6 lạng

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Mạch nha 1 thăng

Sáu vị trên, nước 7 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần. người vốn có bện
Kiến trung, vì nó ngọt.

Ý nghĩa phương thuốc. Phương này là thuốc ôn dưỡng trung khí tuy thuộc thang
Quế chi gia vị mà không phải là phương giải biểu. Trọng dụng Mạch nha ngọt ấm để
bổ trung, bội dụng có thể điều hòa khí huyết, bình bổ âm dương, ý nghĩa ở chỗ xây
dựng trung tiêu cho nên gọi là Tiểu kiến trung thang.

111
103. Bệnh thương hàn trúng phong, có chứng Sài hồ thì chỉ thấy một chứng
cũng là đủ, không cần phải có đủ cả.

Tóm tắt: Biện về cách sử dụng Sài hồ thang.

Thích nghĩa: Có chứng là chỉ vào chủ chứng của Tiểu sài hồ thang mà nói, nhứ
nóng rét qua lại, sườn đầy tức, lìm lịm không muốn ăn uống, tâm phiền hay nôn là
đúng nó. Còn như các chứng bất kỳ khác, hoặc khát hoặc nôn, hoặc đau trong
bụng .v.v.. là không cần phải có đủ cả.

104. Phàm có chứng Sài hồ thang mà dùng thuốc hạ, nhưng nếu chứng Sài
hồ vẫn tồn tại, thì lại cho dùng Sài hồ thang sẽ có chứng nóng hừng hực mà run,
bèn phát sốt đổ mồ hôi mà bệnh giải.

Tóm tắt: Biện về cơ chế chuyển biến sau khi hạ nhầm uống Sài hồ thang.

Thích nghĩa: Phàm thấy có chứng Sài hồ mà dùng nhầm phép hạ, nếu lúc mà
chứng Sài hồ vẫn tồn tại còn có thể dùng lại Sài hồ thang lần nữa. Chỉ sau khi hạ,
chính khí hơi yếu, sức chống đỡ với tà hơi sút được Sài hồ thang giúp vào làm cho
chính khí phấn chấn, do đó đang lúc chính khí và tà khí giao tranh với nhau, tà khí
còn chưa lui, sẽ thấy nóng hừng hực mà run, đến khi chính khí thắng tà khí bèn phát
sốt đổ mồ hôi mới giải.

105. Bệnh thương hàn 2-3 ngày, tim hồi hộp mà phiền, dùng Tiểu kiến
trung thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh Thương hàn tim hồi hộp mà phiền.

Thích nghĩa: Bệnh thương hàn 2-3 ngày, vì người bệnh trung khí không đủ kiêm
thấy chứng tim hồi hộp mà phiền, cho nên dùng Kiến trung thang để bồi bổ trung tiêu,
phù chính để khu tà, khi ở trong hòa thì ở ngoài tự giải.

Lời chú chọn lọc. Vưu Tại Kinh nói: “ Bệnh thương hàn lý hư thì hồi hộp, tà
quấy nhiễu thời phát phiền, hai ba ngày hồi hộp mà phát phiền là chính khí hư không

112
đủ mà tà khí muốn nhập vào trong. Đấy là không thể công tà, chỉ cho uống Tiểu kiến
trung thang để ôn dưỡng trung khí, trung khí kiến lập thì tà tự giải

106. Bệnh Thái dương quá kinh hờn 12 ngày, trái lại cho hạ 2-3 lần, sau 4-
5 ngày chứng Sài hồ vẫn còn, trước tiên cho Tiểu sài hồ thang, nôn không dứt,
dưới tâm cấp bức khó chịu, bứt rứt hơi phiền, là chưa giải, cho uống Đại sài hồ
thang để hạ thời giải.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh Thiếu dương kiêm có chứng lý thực.

Thích nghĩa: Bệnh thái dương truyền vào Thiếu dương gọi là “ quá kinh”, trong
mười mấy ngày 2-3 lần hạ nhầm, đã hạ 4-5 ngày mà chứng Sài hồ vẫn còn, vẫn phải
dùng Tiểu sài hồ thang mà có xuất hiện các chứng trạng như nôn không dứt, dưới tâm
cấp bức, khó chịu, bứt rứt hơi phiền, đấy là vì hạ nhiều mà bệnh đã kiêm thêm lý
chứng, tà khí lưu lại ở trong mà không lui, cho nên dùng Đại Sài hồ thang để giải,
thiếu dương kiêm thanh lý nhiệt.

Đại Sài hồ thang:

Sài hồ ½ cân

Hoàng cầm 3 lạng

Thược dược 3 ___

Bán hạ ½ thăng (tẩy)

Sinh khương 5 lạng (thái mỏng)

Chỉ thực 4 quả

Đại táo 12 quả

Bảy vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, sắc lấy 6 thăng, lọc bỏ bã, rồi sắc lại,
uống ấm mỗi lần 1 thăng, ngày uống 3 lần. Một phương gia Đại hoàng 2 lạng. Nếu
không gia Đại hoàng thì sợ không phải là Đại Sài hồ thang.
113
Ý nghĩa phương thuốc. Phương này Tiểu sài hồ thang bỏ Nhân sâm, Cam thảo,
gia Chỉ thực của bệnh Dương minh. Vì bệnh Thiếu dương chưa giải cho nên vẫn dùng
thang thuốc có Sài hồ, đã thấy có chứng lý thực, cho nên bỏ Nhân sâm, Cam thảo, để
làm hòa hoãn trung tiêu mà lưu tà ở lại, gia Chỉ thực, Đại hoàng, Thược dược để tẩy
trừ trệ nhiệt. Đây là bài thuốc lưỡng giải cả Thiếu dương lẫn Dương minh chứng.

107. Bệnh Thương hàn 13 ngày không giải , ngực sườn đầy mà nôn, về chiều
là có sốt cơn, đi ngoài hơi lỏng đấy vốn là chứng Sài hồ hạ đã không đi ỉa, nay
lại ỉa như vậy là biết thầy thuốc đã cho hạ bằng thuốc hoàn, đấy là chữa trái
phép. Sốt cơn là thực chứng, trước nên dùng Tiểu sài hồ thang để giải ngoại, sau
dùng Sài hồ gia Mang tiêu thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp có chứng Sài hồ thang, dùng
nhầm thuốc hoàn để hạ mà kiêm có chứng lý thực.

Thích nghĩa: Điều này có thể phân làm 3 đoạn: từ câu “ Bệnh thương hàn 13
ngày” đến câu “ có sốt cơn” là đoạn thứ nhất, nói rõ chứng trạng vốn là Thiếu dương
kiêm Dương minh. Từ câu “đi ngoài hơi lỏng” đến câu “lỗi chữa trái phép” là đoạn
thứ 2, nói thầy thuốc dùng nhầm thuốc hoàn để công hạ mà dẫn đến ỉa lỏng. Từ câu
“sốt cơn là thực chứng” đến câu cuối cùng là đoạn 3, nói biến chứng vì chữa nhầm
và cách dùng thuốc để cứu chữa.

1. Bệnh thương hàn 13 ngày không giải, có thể truyền biến vào lý, ngực sườn
đầy mà nôn, xế chiều có sốt cơn ... là dấu hiệu thiếu dương kiêm dương minh
lý thực.
2. Chứng trên đã kiêm lý thực, đại tiện thấy táo bón, nay lại ỉa lỏng, đấy là vì
dùng nhầm thuốc hoàn mà gây nên, thuốc hoàn không thể tẩy được thực tà
trong trường vị, sức thuốc đọng lại bên trong làm cho đi ỉa lỏng không dứt.
Tuy có hơi ỉa lỏng mà bệnh không giải, chứng Sài hồ vẫn còn y như thế.
3. Sốt cơn là chứng lý thực, nhưng vì tà thiếu dương chưa giải cho nên trước khi
dùng Tiểu sài hồ thang để giải chứng thiếu dương lại dùng Sài hồ gia Mang
tiêu thang để kiêm trị chứng lý thực.

114
Sài hồ gia mang tiêu thang.

Sài hồ 2 lạng 16 thủ

Hoàng cầm 1 lạng

Nhân sâm 1

Cam thảo 1

Sinh khương 1___ (thái mỏng)

Bán hạ 20 thủ

(Nguyên bản chép : 5 củ, tẩy)

Đại táo 4 quả (xẻ ra)

Mang tiêu 2 lạng

Tám vị trên, nước 4 thăng, sắc còn 2 thăng, lọc bỏ bã, cho Mang tiêu vào
rồi đun lại cho sôi lên, chia uống ấm hai lần, không giải lại cho uống nữa.

Ý nghĩa phương thuốc. Tiểu sài hồ gia Mang tiêu thang chữa Sài hồ thang kiêm
có thực nhiệt ở vị. Tuy có hơi ỉa chảy mà táo bón, vẫn còn đọng. Gia Mang tiêu là để
tiết nhiệt làm mềm chất rắn, có thể trị chứng vị thực, thì sốt cơn ỉa chảy sẽ tự khỏi,
lượng của bài này ít, dùng khính tễ hòa giải kiêm thanh lý.

108. Bệnh Thương hàn 13 ngày quá kinh nói sảng, bởi vì có nhiệt, nên
dùng thuốc thang để hạ, nếu tiểu tiện lợi đại tiện đáng lý rắn mà lại ỉa chảy,
mạch điều hòa, là thầy thuốc dùng nhầm thuốc hoàn để hạ là chữa trái phép,
nếu ỉa chảy thì mạch đáng lý vi quyết nay mạch lại điều hòa đấy là chứng lý thực
dùng Điều vị thừa khí thang làm chủ.

Tóm tắt: Biện về chứng trạng và cách chữa bệnh Thái dương chuyển thành
dương minh rồi chữa nhầm mà ỉa lỏng.

115
Thích nghĩa: Mắc bệnh Thương hàn đã mười mấy ngày, đã từ Thái dương qua
kinh chuyển vào Dương minh mà thấy nói sảng là dấu hiệu có thực nhiệt ở phần lý,
nên dùng thuốc thang để xổ. Nếu thấy tiểu tiện thông lợi thì đại tiện phải rắn, mạch
phải trầm thực, như thế là mạch và chứng ăn khớp với nhau. Nay lại tiện lỏng, mạch
lại điều hòa, đấy là do dùng nhầm thuốc hoàn để hạ, chữa không đúng phép gây nên.
Thuốc hoàn tính hoãn hay khu trú lại ở trong, không thể chống trừ hết chứng thực
nhiệt được, dược lực không hết, ỉa chảy không cầm được. Do đó có thể thấy phàm hạ
chứng thực nhiệt ở bệnh Dương minh thì phải chóng không được chậm, phải dùng
thuốc thang không được dùng thuốc hoàn, nếu tính thuốc hoàn mạnh mẽ lại càng
không nên.

Nếu là tự ỉa chảy thì mạch phải vi quyết, nay mạch không vi quyết mà lại điều
hòa là biến chứng tự ỉa chảy không phải vì hư hàn mà là do thuốc hoàn gây nên. Tuy
có ỉa chảy mà thực nhiệt chưa trừ hết, cho nên phải theo phép “thông nhân thông
dụng”, vẫn dùng Điều vị thừa khí thang làm chủ trị.

Nhận xét: Điều này nói về bệnh Dương minh sau khi chữa nhầm, mạch và chứng
đã biến đổi nhưng vẫn thuộc chứng lý thực, nên dùng Điều vị thừa khi thang làm chủ
trị. Trọng lời văn có câu: “ nếu tự ỉa chảy mạch vi quyết” là cùng nếu lên chứng ỉa
chảy thuộc hư của thái âm với chứng ỉa chảy mạch thuộc thực của Dương minh, hai
loại hư thực đối nhau để tiện so sánh. Câu “ biết thầy thuốc dùng nhầm thuốc hoàn
để hạ là chữa trái phép” là phải xét chứng trạng để tìm nguyên nhân. Hai chữ “ nếu”
là nêu lên giải thuyết để ví dụ; hai chữ “lại” là nói chứng biến đổi, mạch biến đổi.

109. Bệnh Thái dương không phải, nhiệt kết lại ở bàng quang, người như
cuồng huyết tự ra, ra thời khỏi, nếu ngoại chứng chưa giải thì chưa nên công,
phải giải ngoại chứng trước, ngoại chứng đã giải rồi, chỉ còn chứng đau quặn lại
ở bụng dưới, là có thể công được, nên dùng Đào hạch thừa khí thang.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh Thái dương không giải nhiệt kết lại ở
bàng quang sinh huyết đọng.

116
Thích nghĩa: Bệnh Thái dương không giải nhiệt uất kết lại ở vùng bàng quang,
người bệnh như cuồng là do nhiệt nhiều quá huyết ứ lại mà gây nên. Chỉ vì lúc ngoại
chứng chưa giải thì chưa nên công hạ, sẽ gây ra tình trạng ngoại tà hãm vào trong,
phải dùng phép chữa biểu trước, chữa lý sau. Khi ngoại chứng đã giải, thì thấy bụng
dưới đau quặn dùng Đào hạch thừa khí thang để hạ ứ nhiệt.

Lời chú chọn lọc. Trình Giao Thuyền nói: “ nhiệt kết ở bàng quang mà tiểu tiện
không lợi là phần khí thụ tà; tiểu tiện lợi là phần huyết thụ tà”. Điều này không nói
tới tiểu tiện là vì ba chữ “huyết tự ra”. Nhưng nói bụng dưới đau quặn là bao gồm cả
câu tiểu tiện tự lợi rồi. Đào hạch thừa khí thang với Ngũ linh tán tuy cùng là thuốc
chữa vào gốc của Thái dương, nhưng một đằng là theo trước mà cho lợi, một đằng lại
công hạ ra đằng sau, chủ trị khí phận và chủ trị huyết phận khác nhau.

110. Bệnh Thương hàn 8-9 ngày, dùng nhầm thuốc hạ sinh ra ngực đầy
phiền kinh, tiểu tiện không lợi, nói sảng, khắp mình đều nặng không trở trăn
được, dùng Sài hồ gia Long cốt ,Mẫu lệ thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh Thương hàn sau khi hạ sinh phiền kinh
nói sảng.

Thích nghĩa: Điều này trước khi chưa hạ là chứng Sài hồ, sau khi cho hạ nhầm
tà Thiếu dương chưa giải, nhiệt tà hãm vào trong, ngực đầy chưa khỏi lại tăng thêm
chứng phiền kinh tam tiêu mất chức năng, cho nên tiểu tiện không lợi. Tà nhiệt nhập
vào vị nên phát nói sảng. Nhiệt thịnh tổn thương khí nên khắp mình đều nặng không
thể trở trăn. Cho nên dùng Sài hồ gia Long cốt, Mẫu lệ thang để chữa.

Sài hồ gia Long cốt Mẫu lệ thang.

Sài hồ 4 lạng

Long cốt 1,5 ___

Hoàng cầm 1,5 ___

Sinh khương 1.5 ___ (thái mỏng)


117
Duyên đơn 1,5 ___

Nhân sâm 1,5 ___

Quế chi 1,5 ___ (bỏ vỏ)

Phục linh 1,5 ___

Bán hạ 2,5 cáp (tẩy)

Đại hoàng 2 lạng

Mẫu lệ 1,5 ___ (nướng)

Đại táo 6 quả (xẻ ra)

12 vị trên, nước 8 thăng, sắc lấy 4 thăng, Đại hoàng cắt vuông bằng quân cờ cho
vào nấu cho sôi hai dạo, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng. Nguyên bản chép: “Sài hồ thang,
nay gia Long cốt

Ý nghĩa phương thuốc. Biện pháp bài này là dùng Tiểu sài hồ thang gia Quế chi
phối với Sài hồ làm cho chứng tà hãm vào trong được giải ra ngoài gia Long cốt, Mẫu
lệ, Duyên đơn để trấn tĩnh làm dứt cơn phiền kinh, Đại hoàng hòa vị khí để hết nói
sảng. Phục linh thông lợi tiểu tiện, bỏ Cam thảo làm cho tà lui, để tập trung sức trừ
nhiệt, làm cho tà được giải từ trong ra ngoài.

111. Thương hàn bụng đầy nói sảng, thốn khẩu mạch phù mà khẩn, đấy là
can lấn tỳ, gọi là “túng” nên châm huyệt Kỳ môn.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp can tà lấn tỳ.

Thích nghĩa: Bụng đầy nói sảng tựa như chứng Dương minh, mạch phù mà khẩu
tựa như mạch Thái dương, chỉ bụng đầy nói sảng mà không sốt cơn, mạch phù mà
khẩn chỉ thấy ở bộ thốn là khác với chứng Thái dương Dương minh. Mạch kinh nói :
“phù mà khẩn gọi là huyền, huyền là mạch của can” Nội kinh nói: “tỳ chủ bụng”,
“các chứng bụng trướng to đều thuộc về nhiệt”. Lại nói: “Can chủ về nói”. Do đó
118
có thể suy biết bụng đầy nói sảng là do mộc vượng lấn thổ mà gây ra, nó lấn cái nó
thắng cho nên nói là “túng”. Phép chữa nên châm huyệt Kỳ môn là mộ huyệt của can,
cho nên châm nó để tả tà khí ở can.

Lời chú chọn lọc. Chương Hư Cốc nói: “Bụng đầy nói sảng là chứng Dương
minh thuộc lý, mạch phù mà khẩn là mạch thái dương phục biểu, mạch và chứng
không an khớp nhau thì phải tìm duyên cớ, đó là do can tà phạm vào tỳ mà bụng đầy,
thì không có sốt cơn, chân tay ra mồ hôi, vv… là chứng thực của dương minh. Bụng
tuy đầy ấn vào không rắn đau, đại tiện hoặc phân cũng không chặt, phải châm huyệt
kỳ môn để tả tà khí của can rồi mới giải biểu tà của thương hàn. Đấy là biện chứng
một cách tinh vi, vì can phong thịnh ở trong nên phát nói sảng, không chỉ vì thực mới
có nói sảng, nếu không giải. Đoán nhầm là vị thực mà dùng phép hạ, mộc đã khắc
thổ mà hạ làm tà hãm vào trong, thì chết không thể cứu được.

Nhận xét. Bệnh này trên lâm sàng nếu không dùng phép châm thích cũng có thể
tùy chứng mà dùng Tiểu sài hồ thang gia các thứ hành huyết trục ứ để chữa.

112.Thương hàn phát sốt, rợn rợn ớn lạnh, khát nhiều muốn uống nước,
bụng đầy tự đẩy mồ hôi, tiểu tiện lợi là bệnh sắp khỏi, đó là can lấn phế gọi là
“HOÀNH”, nên châm huyệt kỳ môn.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp can tà lấn phế.

Thích nghĩa: phát sốt ớn lạnh tựa như chứng thái dương, khát nhiều bụng đầy
tựa như chứng Dương minh, chỉ phát sốt ớn lạnh mà không thấy đầu gáy cứng đau,
khát nhiều bụng đầy mà có sốt cơn, bí đại tiện, khác với chứng thái dương, chứng
Dương minh mà có quan hệ với nhau, vì can tà lấn phế. Phế chủ lông da, phế bị can
tà lấn thì chỗ chân lông bế tắc, cho nên phát sốt, rợn rợn ớn lạnh; mộc hỏa làm hại
kim, tân dịch bị thiêu đốt, cho nên khát muốn uống nước; phế mất chức năng thông
điều thủy đạo cho nên tiểu tiện không lợi mà bụng đầy. Đổ mồ hôi, tiểu tiện lợi là
bệnh sắp khỏi, là lối nói đảo ngược, nên đặt sau câu châm huyệt kỳ môn. Bệnh này
do can tà lấn phế, khinh lởn chỗ nó không thắng cho nên nói là “Hoành”. Vẫn châm
huyệt kỳ môn để tả can tà. Thích huyệt Kỳ môn rồi, can tà được tiết ra là phế bị lấn,
119
lỗ chân lông thông suốt thời tự đổ mồ hôi, thủy đạo thông điều tiểu tiện lợi, cho nên
nói là bệnh sắp khỏi.

113. Bệnh Thái dương mới hai ngày mà có chứng vật vã, khi chườm nóng
vào lưng mà ra nhiều mồ hôi, hỏa nhiệt vào dạ dày, thủy dịch trong dạ dày kiệt
hết vật vã, sinh ra nói sảng quá mười mấy ngày rét run cầm cập, tự ỉa lỏng, đấy
là bệnh sắp khỏi cho nên mồ hôi từ thắt lưng trở xuống không có, muốn đi tiểu
mà không đi được, trái lại khi nôn thì muốn són đái, dưới chân sợ gió, đại tiện
rắn, tiểu tiện đáng lý đi luôn mà lại không đi luôn khi đi không nhiều đi đại tiện
xong trên đầu đột nhiên đau dữ dội, lúc đó lòng bàn chân nóng vì cốc khí thông
xuống dưới.

Tóm tắt: Hoại chứng của bệnh Thái dương do dùng nhầm phép chườm nóng
công và chứng hậu khi chính khí hồi phục muốn khỏi.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương dùng nhầm phép chườm nóng mà gây biến, có
thể phân làm hai đoạn: Từ câu: “bệnh Thái dương hai ngày” đến câu “bệnh sắp khỏi”
là đoạn thứ nhất, nêu lên giai đoạn kinh qua của bệnh Thái dương bị chữa nhầm và
cơ chế bệnh sắp khỏi. Từ câu “cho nên mồ hôi từ thắt lưng trở xuống” đến câu “lòng
bàn chân nóng” là đoạn thứ hai, trình bày thêm chứng trạng sau khi dùng nhầm phép
hỏa công và trước khi khỏi. Câu chót là nói bệnh lý.

Bệnh Thái dương hai ngày là nói tà còn ở phần biểu, tà ở biểu thì đáng lý không
vật vã, nay thấy vật vã, cho nên nói “lại có chứng vật vã”. Đã thấy chứng vật vã là
nhiệt nhiều ở phần lý, nên dùng thuốc tân lương mà không nên dùng phép chườm
nóng để chữa. Vì dùng nhầm phép chườm nóng ở lưng cho nên nói “trái lại”. Sức
nóng bức bách làm cho ra nhiều mồ hôi, hỏa tà thừa hư nhập vào dạ dày, trong dạ dày
nóng nhiều mà tân dịch khô hết, do đó thể hiện chứng bực dọc vật vã, phát chứng nói
sảng. Đấy là chứng hậu “Vị gia thực” của bệnh Dương minh, là hoại chứng hỏa
nghịch, về trị liệu chọn phép hạ để chữa thì có thể khỏi. Nếu chưa từng chữa, bệnh
đã mười mấy ngày, thế của hỏa tà yếu dần, tân dịch hồi phục được, bệnh sẽ rét run
cầm cập và tự ỉa lòng mà giải. Bởi vì chính khí với tà khí tranh nhau, chính khí còn

120
yếu nên rét run cầm cập, đó là ý nghĩa sự run rẩy đổ mồ hôi, cho nên nói: “đấy là
bệnh sắp khỏi”, câu “cho nên mồ hôi từ thắt lưng trở xuống không có” trở về sau, ý
nghĩa lời văn không được liên quan lắm, sợ có thiếu sót, tồn nghi để khảo cứu thêm.

114. Bệnh Thái dương trúng phong, thầy thuốc dùng phép chườm nóng để
cưỡng phát hãn, tà phong bị hỏa nhiệt huyết khí chảy tràn mất chừng mực, hai
thứ dương cùng xông đốt khiến cho mình mảy phát vàng, dương thịnh thời muốn
đổ máu cam, âm hư thời đi đái khó, âm dương đều hư kiệt thời mình mẩy khô
ráo chỉ đổ mồ hôi đầu, bụng đầy, hơi suyễn miệng khô họng loét, hoặc không đi
đồng. Lâu thì nói sảng, nặng lắm thì sinh ra chứng ọe, chân tay vật vã rối loạn,
mân áo sờ giường nếu tiểu tiện lợi thì có thể chữa được.

Tóm tắt: dùng cách chườm nóng trái phép huyết chỉ chảy tràn và ? lương của
nó.

Thích nghĩa: Thái dương trúng phong thuộc về biểu chứng phép chữa nên phát
hãn để giải dùng thuốc thang không nên dùng phép chườm nóng. Nay dùng nhầm
phép chườm để cưỡng phát hãn, phong tà bị hóa nhiệt cướp, huyết khí bị thương tống
huyết được nhiệt thì chảy, khí được nhiệt tràn, khí huyết sôi trào, sự vận hành mất
chừng mực, do đó mà bệnh xảy ra lung tung. Bởi vì phong là dương tà hỏa cũng là
dương nhiệt, hai thứ dương cùng hun đốt cho nên mình mảy phải vàng. Nếu người
dương thịnh hơn thì bức huyết đi lên, nhiệt làm hại dương lạc ở trên thì chảy máu
cam, âm hư hơn ở dưới, tân dịch lại bị nhiệt thiêu đốt nên đi tiêu khó; khí huyết đều
hư, âm dương đều kiệt thì mình mẩy khô ráo. Khi hỏa nhiệt bốc lên thời chỉ thấy đổ
mồ hôi ở đầu, vùng cổ trở xuống không có, nhiệt hạ hãm thời tụ vào trường vị mà
sinh ra bụng đầy, hơi suyễn. Hỏa ngấm vào trong thời miệng khô họng rát, hoặc gây
ra không đi đồng, lâu thời nói sảng, nặng lắm thời bị bại sinh ra ọe, làm cho chân tay
vật vã rối loạn, măn áo sờ giường là chứng âm kiệt dương bốc rất nguy. Bệnh đến lúc
này nếu tiểu tiện lợi là biết tân dịch chưa mất, nguồn sinh hóa chưa dứt, còn có thể
chữa được, cho nên nói: “tiểu tiện lợi thì có thể chữa được”. Đấy là bảo người ta chữa
bệnh nhiệt tính phải bảo tồn tân dịch.

121
115. Thương hàn mạch phù thầy thuốc dùng nhầm phép chườm nóng để
cưỡng bách cho ra mồ hôi, vong dương, nên phát cuồng, nằm ngồi không yên,
cho dùng Quế chi khử Thược dược gia Thục tất Long cốt Mẫu lệ cứu nghịch
thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp thương hàn thì dùng cách chườm
nóng để cưỡng ra mồ hôi làm vong dương.

Thích nghĩa: Thương hàn mạch phủ là bệnh ở biểu, phải phát hãn để giải, nếu
dùng nhầm phép chườm nóng để cưỡng cho ra mồ hôi làm cho dương khí tán loạn,
không dung cho chứng kinh cuồng, nằm ngồi không yên, cho nên dùng Quế chi khử
Thược dược gia Thục tất, Long cốt, Mẫu lệ cứu nghịch thang để cứu chữa.

Quế chi khử Thược dược gia Thục tất, Mẫu lệ, Long cốt cứu nghịch thang.

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

Chích thảo 2 lạng

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

Mẫu lệ 5 lạng (nướng)

Thục tất 3 lạng (tẩy bỏ mùi tanh)

Long cốt 4 lạng

Bẩy vị trên nước 1 đấu 2 thăng, trước nấu Thục tất cho cạn bớt 2 thăng rồi cho
các vị kia vào sắc còn 3 thăng, lọc bỏ bã uống ấm 1 thăng. Nguyên bản chép: “Quế
chi thang, nay khử Thược dược gia Thục tất, Mẫu lệ”.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là thuốc chữa chứng vong dương kinh cuồng.
Dùng Quế chi thang khử Thược dược là thuốc âm nhu để trợ dương, gia Long cốt,

122
Mẫu lệ để liễm chinh khi trấn kinh, gia Thục tất tiêu đờm để cắt cơn kinh cuồng. 7 vị
hợp lại để đạt được công hiệu liễm chinh trấn kinh, chỉ cuồng và cứu nghịch.

116. Hình thái là thương hàn nhưng mạch không huyền khẩn mà lại nhược,
mạch nhược có khát nước bị dùng nhầm cách dùng nóng nên sinh ra nói sảng,
mạch nhược mà phát sốt là mạch phù, giải biểu ra được mồ hôi thì khỏi.

Tóm tắt: chứng lý hư thì cấm dùng hỏa công và mạch phù thì nên phát hãn.

Thích nghĩa: hình thái là bệnh thương hàn, có các chứng sợ lạnh, nhức đầu,
mình nóng. Mạch không huyền khẩn mà nhược là không thấy mạch huyền khẩn của
bệnh thương hàn mà thấy mạch nhược. Mạch nhược là âm hư, tân dịch không đủ cho
nên nói “Mạch nhược thì có khát nước” nếu dùng nhầm phép chườm nóng là âm hư
bị hỏa làm cho tân dịch trong vị càng hư thêm, hỏa tà càng bùng lên, cho nên nói: “tất
sinh nói sảng” nên phát sốt mà trong mạch nhược thấy có mạch phù là biết chính khí
còn có thể đạt ra biểu, có thể đuổi tà ra ngoài, cho nên nói “giải biểu ra mồ hôi được
là khỏi”.

117. Bệnh Thái dương lấy lửa hun (hơ lửa) mà không ra mồ hôi được sinh
ra chứng vật vã đến thời kì truyền kinh vẫn không giải được tất đi đồng ra máu
như thế gọi là Hỏa tà.

Tóm tắt: Hỏa tà bức huyết đi xuống.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương dùng phép hun lửa để cho ra mồ hôi, làm cho
mồ hôi cũng do sức lửa bức bách mà lên, chữa như vậy là trái phép. Huống chi không
ra mồ hôi được thời nhiệt cũng không có chỗ ra, hỏa và nhiệt đốt tân dịch làm cho
bệnh nhân vật vã rối loạn chẳng yên. Hỏa vào trong kinh mạch không giải sẽ nhập lý
làm tổn thương kinh lạc sinh ỉa ra máu gọi là Hỏa tà, chứng này do dùng nhầm phép
hỏa công dẫn đến, lúc ỉa ra máu chỉ chữa hỏa không cần phải cầm máu, hỏa thanh
được thì bệnh tự khỏi.

123
118. Mạch phù nóng phát nhiều mà dùng phép cứu, đấy là thực chứng,
thực chứng mà theo phép chữa hư chứng, vì hỏa mà đông huyết thì sinh ra chứng
họng khô và thổ huyết.

Tóm tắt: Dùng nhầm phép cứu, bức huyết đi lên mà gây ra chứng họng khô thổ
huyết.

Thích nghĩa: Mạch phù sốt nhiều là chứng biểu thực, mà dùng phép cứu là chữa
chứng hư hàn ở phần lý để chữa chứng hư hàn ở phần biểu, làm cho chính khí càng
hư mà tà khí càng thịnh, hàn tà bó ở ngoài, hỏa công ở trong, nhiệt không tiết ra ngoài
được, hỏa khí bùng lên, tất nhiên gây ra chứng hầu khô họng ráo tổn hại đến dương
lạc mà thổ huyết.

Điều trên là nói chứng ỉa ra máu do hỏa tà hãm xuống, hỏa nhiệt
làm tổn thương âm lạc mà gây lên; điều này là nói chứng thổ huyết do hỏa tà bốc lên,
hỏa nhiệt làm tổn thương dương lạc mà gây nên.

119. Bệnh nhân mạch vi sác phải thận trọng không thể cứu
vì hỏa độc tác hại thì hay làm cho phiền nghịch theo cái hư dưới cái thực mà
huyết trong kinh mạch hao tán? Khí hỏa tuy bé mà giàu sức nội công, đốt xương
hại gân, huyết khó hồi phục được.

Tóm tắt: Mạch vi sác thì cấm dùng phép cứu.

Thích nghĩa: Mạch vi sác chủ âm hư hỏa thịnh, cách chữa phải
tư âm để trừ nhiệt, cẩn thận không thể dùng phép cứu, phép cứu cũng là hỏa công,
dùng nó không thỏa đáng thì thành ra hỏa tà, hỏa tà thịnh ở trong thời chứng phiền
muộn khí nghịch sẽ thể hiện ra. Nay nhầm dùng phép trục hàn thực để chữa cho người
âm huyết kém cái hại làm cho càng hư đến nỗi huyết tán trong kinh mạch, hỏa khí
tuy bé, mà có sức nội công. Người âm hư, gân cốt mất sự nuôi dưỡng nay lại bị lửa
đốt thời sẽ thấy ngay hình thể khô, tàn phế suốt đời, thật đáng lo ngại, cho nên nói:
“đốt xương hại gân, huyết khó hồi phục được”.

124
120. Mạch phù nên phát hãn để giải, dùng lửa để cứu, tà
không có lối ra, nhân gặp lửa mà thịnh lên thì ngang lưng trở xuống tất nặng
mà sinh tê dại gọi là hỏa nghịch, muốn khỏi phải có chứng phiền trước phiền rồi
mới ra mồ hôi mà bệnh giải. Tại sao mà biết? Vì thấy mạch phù cho nên biết ra
được mồ hôi mà bệnh giải.

Tóm tắt: Mạch phù hỏa nghịch với chứng tự giải.

Thích nghĩa: Mạch phù là bệnh ở biểu, nên phát hãn để giải,
nhầm dùng lửa để cứu đủ làm trở lại sự phát tiết của chính khí, khiến cho tà không
theo đâu mà ra. Hỏa khí trợ tà, nóng cháy càng thịnh, huyết nóng chạy lên tụ tập ở
trên, khí không chu lưu ở dưới cho nên từ eo lưng trở xuống khí hư mà nặng huyết
hư mà tê. Đấy là do hỏa làm bệnh, cho nên gọi là “hỏa nghịch”. Nếu người mà chính
khí đầy đủ, vẫn có sức khôi phục sự tuần hành của khí huyết, có thể tà ra theo đường
mồ hôi mà giải. Chỉ trước khi đổ ra mồ hôi sẽ có chứng phiền trước phiền thì mới có
ra mồ hôi thì bệnh giải. “Tại sao mà biết”, chỉ vì mạch phù là tà ở biểu, cho nên biết
ra mồ hôi ra thì bệnh giải.

121. Dùng phép thiêu châm cho ra mồ hôi khi châm bị hàn
tà nhiễm vào, nổi hạch mà đỏ lên, sẽ phát chứng bôn đồn, khí từ bụng dưới xông
lên tâm thì cứu trên hạch đó mỗi hạch một tráng, cho uống Quế chi gia Quế
thang, lại gia Quế hai lần.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp nhầm dùng phép
thiêu châm cho ra mồ hôi gây thành chứng bôn đồn.

Thích nghĩa: Dùng phép thiêu châm cho ra mồ hôi, biểu tà chưa
giải mà chỗ châm lại bị hàn tà nhiễm vào, tà trệ ở chỗ châm không sơ tán được mà
nổi u lên như hạch đỏ tấy nên sinh ra chứng bôn đồn. Đấy là do người bình thường
vốn có hàn, lại bị dùng thiêu châm cho ra mồ hôi làm tổn thương tâm dương, hàn tà
thừa chỗ hư mà lấn vào. Dùng Quế chi gia Quế thang để làm hết sung tâm mà giải
biểu. Cứu chỗ nổi hạch mỗi chỗ một tráng là để tán hàn tà chỗ ấy.

125
Quế chi gia Quế thang.

Quế chi 5 lạng (bỏ vỏ)

Thược dược 3 lạng

Sinh khương 3 lạng (Thái mỏng)

Chích thảo 2 lạng

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

Năm vị trên nước 7 thăng, sắc còn 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng.

Nguyên bản chép: “Quế chi thang, nay thêm Quế cho đủ 5 lạng. Sở dĩ thêm quế
là để tiếp cái khí bôn đồn ấy”.

Ý nghĩa phương thuốc. Bài này là chủ phương để chữa chứng Thái dương biểu
tà chưa giải phát thành chứng bôn đồn, tức là thang Quế chi gia thêm Quế hai lạng
nữa để giải ngoại tà, chặn chứng sung tâm để chữa chứng bôn đồn.

122. Chứng hỏa nghịch mà lại hạ, do thiêu châm mà buồn phiền vật vã,
dùng Quế chi Cam thảo Long cốt Mẫu lệ thang làm chủ.

Tóm tắt: chứng trạng và cách chữa trường hợp hỏa nghịch mà lại hạ do thiêu
châm mà xuất hiện chứng buồn phiền vật vã.

Thích nghĩa: Hỏa nghịch mà lại dùng phép hạ, vì thiêu châm gây nên tâm dương
bị thương mà thấy tình trạng buồn phiền vật vã chẳng an. Dùng Quế chi Cam thảo để
trợ dương, Mẫu lệ Long cốt để làm hết chứng buồn phiền vật vã.

Bài này với chứng Quế chi Cam thảo thang của bài 64 có khác nhau về chỗ nặng
nhẹ. Một đường thì do phát hãn nhầm mà gây nên, một đường thì do hỏa nghịch rồi
lại hạ mà thành. Cả hai trường hợp khác nhau mà tổn thương tâm dương là một.
Chứng Quế chi Cam thảo thang dưới tâm hồi hộp là do phát hãn nhầm làm tổn thương
tâm dương. Chứng của bài này cũng tổn thương tâm dương mà thấy buồn phiền vật
126
vã, không yên so với chứng dưới tâm hồi hộp là nặng hơn, cho nên trong thang Quế
chi Cam thảo lại gia Long cốt, Mẫu lệ để giảm dương chấn nghịch thu liễm tâm khí.

Quế chi Cam thảo Long cốt Mẫu lệ thang

Quế chi 1 lạng (bỏ vỏ)

Chích thảo 2 lạng

Mẫu lệ 2 lạng (nung)

Long cốt 2 lạng

Bốn vị trên, nước 5 thăng, sắc lấy 2 thăng rưỡi, lọc bỏ bã, uống ấm tám cáp,
ngày uống ba lần.

123. Bệnh Thái dương thương hàn, mà dùng phép ôn châm, nên sinh chứng
kinh.

Tóm tắt: Biến chứng của bệnh Thái dương thương hàn vì dùng phép ôn châm.

Thích nghĩa: Thái dương thương hàn là bệnh ở biểu, cần dùng phép phát hãn
nay lại dùng phép ôn châm để cưỡng bách cho ra mồ hôi, ôn châm cũng là loại hỏa
công, có thể làm tổn hại dinh huyết mà động tâm khí, cho nên nói “Tất sinh kinh”.

Lời chú chọn lọc. Trần Tu Viên nói: “Bệnh Thái dương thương hàn nếu ở kinh
mạch thì nên dùng phép châm thích, nếu ở ngoài cơ biểu thì nên phát hãn, nên giải
cơ, không nên châm thích; nếu lạnh dùng phép ôn châm làm tổn thương kinh mạch
thời thần khí bốc ra ngoài, cho nên tất sinh kinh vậy.

124. Bệnh Thái dương đáng lý sợ lạnh phát sốt, nay lại tự đổ mồ hôi mà
không sợ lạnh phát sốt? Trên bộ quan mạch đi tế sác là bởi thầy thuốc dùng
phép thổ sai; mửa một hai ngày thì trong bụng đói miệng ăn không được; mửa
ba bốn ngày thì chẳng thiết gì cháo, muốn ăn đồ nguội lạnh, sớm ăn thì chiều
mửa, là bởi thầy thuốc cho dùng phép thổ mà gây nên, đấy gọi là “TIÊU
NGHỊCH”.
127
Tóm tắt: Chứng hậu của bệnh thái dương do dùng nhầm phép thổ sai mà gây ra
tỳ vị khí hư.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương phát sốt sợ lạnh, là chứng ở biểu, phép chữa phải
phát hãn, đổ mồ hôi được, biểu hòa được thì chứng nóng rét hết mà bệnh khỏi. Bệnh
Thái dương tự đổ mồ hôi mà không sợ lạnh phát sốt là biểu đã giải mà lý chưa hòa.
Trên bộ quan là chỗ để xem mạch của tỳ vị. Mạch tế là huyết kém, mạch sác là có
sốt. Mạch thấy tế sác trên bộ quan là khí của tỳ vị bị tổn thương cho nên nói: “là bởi
thầy thuốc dùng phép thổ sai”. Dùng phép thổ để giải biểu, biểu tuy vì mửa, đổ mồ
hôi mà giải được, nhưng tỳ vị ở lý, thời vì mửa mà bị tổn thương, bị tổn tương mà
chưa hòa. Mửa 1-2 ngày, thế tà còn nông, mửa rồi thì biểu giải, chủ vị khí bị tổn
thương mà tỳ chưa bị tổn thương cho nên trong bụng đói, miệng ăn không được. Nếu
mửa ba bốn ngày là tà đã vào sâu, mửa rồi tỳ hư không kiện vận, vị dịch không đủ,
cho nên không thiết cháo, muốn ăn đồ nguội lạnh, sáng ăn chiều mửa, đấy toàn là do
lối cho thổ, nhưng tỳ vị tuy tổn thương nhất thời mà biểu chứng nhân đó mà giải được,
cho nên gọi là “tiểu nghịch”.

Nhận xét: Ăn rồi mửa ngày nhiệt, sáng ăn chiều mửa là hàn. Chứng này trên bộ
quan mạch tế sác, muốn ăn đồ nguội lạnh là tỳ vị bị tổn thương, không thể so với
chứng thực nhiệt.

125. Bệnh Thái dương cho mửa nhưng bệnh Thái dương đáng lý có sợ lạnh,
nay trái lại không sợ lạnh, không muốn mặc áo, đấy là vì cho mửa mà ở trong
sinh phiền.

Tóm tắt: Bệnh Thái dương nhầm cho mửa nên nóng bên trong mà sinh phiền.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương thuộc biểu nên phát hãn không nên cho mửa.
Mửa tuy có thể giải biểu, nhưng cho mửa có thể tổn thương vị dịch, vị dịch tổn thương
thì nóng bên trong bùng lên, cho nên thấy bệnh tình nội nhiệt nhưng không sợ lạnh,
không muốn mặc áo. Bởi vì tân dịch bị tổn thương nên nóng, nóng nên sinh phiền,
nóng bên trong là do mửa quá mà gây nên.

128
Lời chú chọn lọc. Sách Kim Giám nói: “Mửa rồi bên trong sinh phiền nóng đấy
là chứng hư phiền do khí dịch đã bị tổn thương chứ không phải chứng thực phiền
chưa trải qua hãn hạ. Chỉ nên dùng Trúc diệp Thạch cao thang, để thêm khí sinh tân
dịch có thể thanh nhiệt trừ phiền được”.

126. Bệnh nhân mạch sác, sác là nhiệt, đáng lý nên tiêu cơm chóng đói mà
trở lại mửa, đấy là do phát hãn làm cho dương khí suy, khí ở hoành cách mô hư,
nên mạch mới sác. Sác là khách nhiệt, không thể tiêu cơm bởi vì trong dạ dày
hư lạnh, cho nên mửa.

Tóm tắt: Mạch và chứng của trường hợp sau khi phát hãn làm cho lạnh dạ dày
mà phát sinh mửa.

Thích nghĩa: Mạch sác là nhiệt, nhiệt thì đáng lý phải tiêu cơm hay đói. Nay lại
không tiêu cơm mà mửa là do phát hãn làm cho dương khí ra ngoài biểu ra mồ hôi
mà suy kém, dương khí ở hông ngực cùng theo mồ hôi ra mà hư. Hư mà mạch sác
chẳng phải thật có nhiệt, cho nên gọi là “khách nhiệt”. Khách nhiệt không hay tiêu
cơm, là do phát hãn hại phần dương làm cho dạ dày hư lạnh, bởi vậy không thể tiêu
cơm mà lại mửa.

127. Bệnh Thái dương quá kinh mười mấy ngày, dưới tâm nôn nôn muốn
mửa mà đau trong ngực, đại tiện lại nhão, bụng hơi đầy uất uất hơi phiền, trước
lúc ấy có mửa nhiều cho uống Điều vị thừa khí thang, nếu không thế thì không
thể cho được. Chỉ muốn mửa, đau trong ngực, đại tiện hơi nhão, đấy không phải
là chứng của Sài hồ thang, bởi mửa, nên biết mửa ỉa nhiều làm vậy.

Tóm tắt: Cách sử dụng Điều vị thừa khí và Sài hồ thang, sau khi mửa biến diễn.

Thích nghĩa: Bệnh thái dương biểu chứng đã lui gọi là “quá kinh” sau mười
mấy ngày, dưới tâm nôn nôn muốn mửa, lúc muốn mửa vì khí nghịch mà đau trong
ngực, chứng này tương tự như đã chuyển vào thiếu dương, duy chứng thiếu dương
thì đại tiện không nhão mà đằng này đại tiện nhão kiêm thấy chứng bụng đầy hơi
giống chứng thái âm tỳ hư mà lại không có uất uất hơi phiền, cho nên nói “lại nhão”.

129
Đấy là vì sau khi cho mửa ỉa nhiều quá, vị bị tổn thương, tân dịch khô, bị kết thành
thực, trung khí bị trở cách, nghịch lên không giáng xuống được, cho nên muốn mửa,
sau khi hạ nhiều quá nhiệt tụ ở ruột, cơm nước không phân biệt cho nên đại tiện nhão,
kiêm thấy chứng bụng đầy hơi phiền. Cho uống Điều vị thừa khí thang để hạ thời các
chứng sẽ hết. Nếu không phải vì cho ỉa mửa nhiều thời tuy có muốn mửa, đau trong
ngực, tương tự như chứng Sài hồ của Thiếu dương mà hơi ỉa nhão, bụng đầy, thời
đấy là chứng hư, không phải chứng Sài hồ lại càng không nên cho uống Thừa khí
thang. Lấy gì để biện được như vậy? Do sự quan sát tổng hợp các chứng muốn mửa
về sau cho nên biết trước kia bị cho mửa ỉa nhiều quá mà gây nên.

128. Bệnh Thái dương 6-7 ngày biểu chứng vẫn còn, mạch vi mà trầm, lại
không có chứng kết hung, người bệnh phát cuồng là bởi nhiệt ở hạ tiêu, bụng
dưới tất nhiên rắn đầy; tiểu tiện lợi, sổ huyết đi thì khỏi, sở dĩ như thế là do Thái
dương theo kinh, ứ nhiệt ở bên trong, cho uống Để đương thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp huyết đọng do thái dương theo
kinh ứ nhiệt ở bên trong gây nên.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương đến 6-7 ngày là thời kì biểu tà nhập lý, nếu biểu
bệnh vẫn còn, mạch thấy phù, nay mạch vi mà trầm, “Mạch vi mà trầm là trạng thái
trầm trệ không phấn khởi, do khí huyết ủng trệ gây nên tất nhiên trầm trệ mà có lực”
tuy có biểu chứng băng vào mạch thì biết tà đã hãm vào trong. Tà tuy hãm vào bởi
không ở thượng tiêu cho nên không có chứng kế hung. Người bệnh phát cuồng là
nhiệt ở hạ tiêu kết lại với huyết mà gây nên. Tà thái dương theo kinh nhập vào lý,
huyết khí trở trệ cho nên mạch vi mà trầm, ứ nhiệt kết ở bụng dưới cho nên bụng dưới
rắn đầy. Duy chứng bụng dưới rắn đầy có hai chứng súc huyết và súc thủy khác nhau.
Nếu thấy tiểu tiện lợi là thuộc chứng súc huyết, tiểu tiện không lợi là thuộc chứng súc
thủy. Thuộc chứng súc huyết thì hạ huyết đi là khỏi. Chứng súc huyết này so với
chứng Đào hạch thừa khí thang thì lâu hơn, nặng hơn, cho nên dùng Để đương thang
làm chủ trị. “Sở dĩ là như thể” là lời chú thích của tác giả, nói thái dương mới mắc
bệnh, biểu tà sẽ theo kinh mà hãm vào hạ tiêu, huyết với nhiệt kết nhau cho nên nói
“Thái dương theo kinh ứ nhiệt ở bên trong”.
130
Để đương thang.

Thủy điệp (đỉa trâu) 30 con (rang)

Manh trùng 30 con (bỏ cánh, chân, rang)

Đào nhân 20 hạt (bỏ vỏ và đầu nhọn)

Đại hoàng 3 lạng (tẩy rượu)

Bốn vị trên, 5 thang, sắc còn 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm một
thăng. Không sổ được thì uống lần nữa.

Ý nghĩa phương thuốc. Phương này là thuốc hành ứ trục huyết


mạch. (Tuấn tễ), dược lực mạnh hơn Đào nhân thừa khí thang. Trong phương trừ vị
Đào nhân, Đại hoàng ra có Thủy điệp, Manh trùng, đi thẳng vào huyết lạc để hành ứ
phá kết.

129. Bệnh Thái dương mình vàng mạch trầm kết, bụng dưới
rắn, tiểu tiện không lợi là không có sức, tiểu tiện lợi người như cuồng là huyết
chứng, dùng Để đương thang làm chủ.

Tóm tắt: Lấy tiểu tiện hơi lợi hay không lợi để biện chứng súc
huyết.

Thích nghĩa: Điều này tiếp theo điều trên biện chứng súc huyết
và súc thủy. Bệnh Thái dương là nói bệnh phát từ Thái dương truyền đến. Chứng
mình vàng da có thấp nhiệt và chứng súc huyết khác nhau, hai bệnh đều thuộc về ứ,
nhiệt ở lý cho nên mạch ứng theo mà thấy trầm kết. Nếu bụng dưới rắn mà tiểu tiện
không lợi là chứng vàng không lối thoát thời thuộc thấp nhiệt. Nếu bụng dưới rắn,
tiểu tiện lợi, người như cuồng, đấy không phải là vàng da do bàng quang súc thủy mà
là vàng da do súc huyết, dùng Để đương thang cho hạ thời khỏi.

131
130. Bệnh thương hàn có sốt, bụng dưới đầy đáng lý chứng, tiểu tiện không
lợi, nay lại lợi là có chứng súc huyết, cho nên hạ đi, không cần dùng thuốc khác,
nên dùng Để đương hoàn.

Tóm tắt: Cách hoãn trị đối với bệnh súc huyết.

Thích nghĩa: Bệnh thương hàn có sốt, bụng dưới đầy là tà ở hạ tiêu. Nếu là
chứng bàng quang súc thủy thì tiểu tiện không lợi nay tiểu tiện lại lợi biết là có súc
huyết. Câu “nên cho hạ đi không cần dùng thuốc khác, nên dùng Để đương hoàn” là
nói bệnh phải công theo lối hoãn, nên dùng thuốc hoàn không nên dùng thuốc thang
phải dùng phương này không thể dùng thuốc khác.

Để đương hoàn.

Thủy điệp 20 con (rang)

Manh trùng 20 con (bỏ cánh, chân, rang)

Đào nhân 20 hạt (bỏ vỏ và đầu nhọn)

Đại hoàng 3 lạng

Bốn vị trên, quết chung viên làm 4 hoàn. Dùng 1 thang nước nấu
1 hoàn còn 7 cáp cho uống, 1 giờ sau sẽ sổ ra máu, bằng không sổ được thì uống lần
nữa.

Nhận xét: Dược vật của bài này y như Để đương thang nhưng
dược lực so với thuốc thang thì hơi chậm.

131. Bệnh Thái dương tiểu tiện lợi, bởi uống nhiều nước, nên
dưới tâm hồi hộp, tiểu tiện ít, tất khổ vì chứng mót rặn.

Tóm tắt: Xem tiểu tiện lợi hay không lợi để đoán biết chỗ nước
đọng.

132
Thích nghĩa: Bệnh Thái dương uống nhiều nước, nếu tiểu tiện
lợi là nước không ở dưới mà ở trên, thấy dưới tâm hồi hộp; nếu tiểu tiện ít là chất
nước đọng ở bàng quang, nên thấy chứng mót rặn chướng đầy ở bụng dưới.

IV. BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THÁI


DƯƠNG

132. HỎI: Bệnh có chứng kết hung, có chứng tạng kết, chứng
trạng như thế nào? ĐÁP: Ấn vào thì đau, mạch thốn thấy phù, mạch quan thấy
trầm, gọi là kết hung. – Thế nào là tạng kết? ĐÁP: Tương tự như kết hung mà
ăn uống như thường, thỉnh thoảng đi ỉa lỏng, mạch thốn thấy phù, mạch quan
thấy tiểu, tế, trầm, khẩn, gọi là tạng kết. Trên lưỡi có rêu trắng mà trơn là khó
chữa.

133
Tóm tắt: Biện mạch và chứng chủ yếu của chứng kết hung và
chứng tạng kết.

Thích nghĩa: Điều này tự đặt ra cách hỏi đáp để biện mạch và
chứng của chứng kết hung với chứng tạng kết. Tạng kết với kết hung tuy đều có hình
chứng rắn đầy tương tự với nhau, nhưng có phân biệt về âm dương hàn nhiệt. Kết
hung là chất nước cùng nhiệt tà kết đọng ở vùng ngực, thuộc dương, thuộc thực, cho
nên ấn vào thấy đau, mạch thốn là biểu hiện cho vùng trên, mạch thốn thấy phù là có
nhiệt tà ở vùng trên ngực; mạch quan là biểu hiện cho vùng giữa, mạch quan thấy
trầm là chủ về nước kết đọng ở trung tiêu, chỗ dưới tâm chứng tạng kết là thuộc âm,
thuộc hư, tà kết ở phần âm, dạ dày không có thực tà làm vít lấp, ăn uống như thường
mà tỳ vị hư hàn, không thể tiêu hóa cơm nước được, cho nên thỉnh thoảng đi ỉa lỏng;
mạch thốn phù là chủ về dương hư ở phần trên, tất phù mà vô lực; mạch quan tiểu,
tế, trầm, khẩn, là chủ về hàn thực, ở phần lý, tà kết ở nội tạng, cho nên gọi là “tạng
kết”. Nếu thấy trên lưỡi có rêu trắng mà trơn là phần dương ở giữa suy bại, hư hàn
càng nhiều chính khí hư, tà khí thực, công hay bổ đều khó cả, cho nên nói “khó chữa”.

133. Chứng tạng kết không có dương chứng, không có nóng


rét qua lại, người yên tĩnh mà trên lưỡi có rêu trên thì không nên công.

Tóm tắt: Chứng tạng kết không thể công.

Thích nghĩa: Câu đầu nói: “Chứng tạng kết không có dương
chứng, không có nóng rét qua lại” là nói kết ở nội tạng, thuộc âm, thuộc hàn, nên
không biểu hiện ra dương chứng, câu sau nói rắn đầy kết ở vị quản mà không phải
chứng Thiếu dương, cho nên không có nóng rét qua lại. Bệnh âm kết mà không có
thể hiện ra dấu hiệu vật vã, cho nên nói “người lại yên tĩnh”. Nếu trên lưỡi có rêu trơn
là dương khí hư suy, hàn thấp ngưng tụ, cho nên việc trị liệu không thể dùng phép
công hạ. Bệnh này vốn là hư chứng tuy chưa đề xuất phương thuốc để chữa, nhưng
theo lời văn là có thể biết nên dùng các phép ôn bổ, vận hóa để chữa.

Lời chú chọn lọc. Kha Vận Bá nói “Chứng kết hung là dương tà hãm xuống
dưới vì thế có dương chứng thể hiện ở dưới, cho nên mạch tuy trầm mà khẩn, cũng
134
có lí do để hạ; chứng tạng kết tích lại dần dần, ngưng kết mà thành âm chứng, dương
khí của ngũ tạng đã kiệt, bên ngoài không có dương chứng như buồn phiền, vật vã,
sốt cơn, lưỡi không có rêu vàng, rêu đen hoặc nổi gai, tuy có chứng rắn đầy cũng
phải cẩn thận không nên công”

134. Bệnh phát ở dương mà lại hạ làm nhiệt nhập vào, nhân đó
mà sinh chứng kết hung, bệnh phát ở âm mà lại hạ, do đó mà sinh chứng bĩ đầy
tức. Sở dĩ gây thành chứng kết hung là do hạ sớm quá.

Tóm tắt: Nguyên nhân gây thành chứng kết hung và chứng bĩ

Thích nghĩa: Nguyên nhân gây thành chứng kết hung và chứng bĩ, đều là do
bệnh Thái dương mà hạ nhầm mà biến chứng có khác là do ở thể chất con người có
khác nhau. Nói “bệnh phát ở dương mà lại hạ” là nói người vị dương vốn thịnh vả
lại bên trong có đàm ẩm kết lại mà thành chứng kết hung; nói “bệnh phát ở âm mà
lại hạ” là nói người bệnh vị dương không đủ, bên trong không có đàm ẩm hạ nhầm
nên vị khí càng bị tổn thương, làm cho khách khí kết lại ở dưới tâm do đó mà thành
chứng bĩ. Điều này tuy nói là do chứng bĩ với chứng kết hung đều do hạ nhầm mà
nên, bởi vì đây chỉ nói theo lẽ thường mà chưa nói theo lẽ biến. Chứng kết hung thì
nói nhiệt nhập vào mà chứng bĩ thì không nói đến, vì chứng kết hung là do tà ở ngoài
đến mà chứng bĩ là do tâm khí kết lại. Nói về chứng kết hung thì răn sự hạ quá sớm
mà chứng bĩ thì không nói đến, vì rằng chứng kết hung hạ nhầm là lúc biểu tà chưa
giải mà đã vội hạ ngay, sai ở chỗ hạ quá sớm, còn chứng bĩ thời trước sau đều không
nên hạ, không quan hệ gì đến sớm muộn. Điều này bảo người ta khi biện chứng lâm
sàng phải tìm đến cái riêng trong cái chung, biết lẽ thường, thông điều biến, thì việc
điều trị mới không đưa đến sai lầm.

135. Chứng kết hung gáy cũng cứng, trạng thái giống như chứng
nhu kinh, hạ đi thời hoà, nên dùng Đại hãm hung hoàn.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa của bài Đại hãm hung hoàn

135
Thích nghĩa: Chứng kết hung có đại có tiểu, tà kết có cao có thấp. Chứng này
là thuộc về Đại kết hung, tà thiên về vị trí cao, tà kết ở vị trí cao thì ngẩng lên được
mà cúi xuống không được, cho nên nói “trạng thái giống như chứng nhu kinh” 1.
Phép chữa là tà thiên về trên cho nên dùng thuốc hoàn không nên dùng thuốc thang,
dùng Đại hãm hung hoàn để xổ đi thì hoà.

Đại hãm hung hoàn.

Đại hoàng ½ cân

Hạt đình lịch ½ thăng (sao)

Mang tiêu ½ thăng

Hạnh nhân ½ thăng (bỏ vỏ và đầu nhọn, sao hắc)

Bốn vị trên, giã nát rây kỹ 2 vị Hạnh nhân, Mang tiêu, nghiền nát như mơ rồi
hoà thuốc tán vào làm một viên bằng hòn đạn, giã riêng bột Cam toại 1 thìa con, mật
ong 2 cáp, nước 2 thăng, sắc lấy 1 thăng, uống hết một lần.

Một đêm sẽ xổ, nếu không xổ được thì uống lần nữa, hễ xổ được thì uống lần
nữa, hễ xổ được là có hiệu quả . Kiêng khem và theo dõi như cách trước.

Ý nghĩa phương thuốc: Chứng này là tà vị trí ở trên cao, phế khí không tuyên
thông được, cho nên dùng Hạnh nhân để khai cho khí kết ở trong ngực giáng xuống;
lại gia Đình lịch để thanh tiết nhiệt kết trong phế, làm cho khí giáng, Cam toại để trực
tiếp trục đàm thuỷ, Phác tiêu Đại hoàng để tả nhiệt kết và chế thành tiểu tễ mà làm
hoàn hoà với mật ong ngọt hoãn là bài thuốc hạ mạnh mà cho đi từ từ là phép lấy
công làm hoà.

136. Chứng kết hung, mạch phù đại không thể hạ, hạ thì chết

1
Chứng ở bệnh Thái dương thường phát sốt đổ mồ hôi mà không ghê gió, không co cứng chân tay.

136
Tóm tắt: Chứng kết hung mạch phù đại thì cấm dùng phép hạ.

Thích nghĩa: Chống kết hung, nếu mạch thấy phù đại vô lực là chính khí đã hư,
hạ thì chính khí không chống chọi nổi, tất hư thoát mà chết. Nếu mạch phù đại hữu
lực là biểu tà chưa hết, thì nên giải biểu, mà không nên hạ, hạ thì biểu tà hãm vào
trong, tình trạng kết lại càng sâu. Cho nên mạch phù đại thì cấm hạ, đồng nghĩa với
trong sách này là “biểu chứng chưa giải thì không thể hạ”

137. Chứng kết hung đầy đủ, buồn phiền vật vã, cũng chết.

Tóm tắt: Dấu hiệu nguy hiểm của chứng kết hung

Thích nghĩa: “chứng kết hung đầy đủ” là chỉ dưới tâm đau, ấn vào rắn như đá,
hoặc gáy cứng giống như trạng thái chứng nhu kinh, hoặc xuất hiện các chứng trạng
không đi đồng, trên lưỡi ráo mà khát, xế chiều có chút sốt cơn, từ dưới tâm đến bụng
dưới rắn đầy mà đau, không thể ấn (khám) được, nếu lại thấy buồn phiền vật vã là
chính khí không thắng tà khí, chân khí tán loạn, hạ thì chính khí hư không chống chọi
nổi, không hạ thì tà thực không lui, cho nên chẩn đoán cho là dấu hiệu rất nguy.

Lời chú chọn lọc Vưu Tại Kinh nói: “Thương hàn tà muốn nhập vào mà buồn
phiền vật vã là chính khí với tà khí giao tranh, tà đã kết rồi mà buồn phiền vật vã là
chính khí không thể thắng được mà muốn tán loạn vậy”

138. Bệnh Thái dương mạch phù mà động sác, phù là phong, sác
là nhiệt, động là đau, sác là hư, đau đầu phát sốt, hơi đổ mồ hôi trộm, mà lại sợ
lạnh là biểu chưa giải. Thầy thuốc lại cho hạ, mạch động sác biến thành mạch
trì, trong hoành cách mô đau không cho sờ, trong dạ dày rỗng không, khách khí
động ở hoành cách mô, hơi thở đoản, buồn phiền vật vã, trong tâm ảo não, dương
khí hãm vào trong, dưới tâm nhân đó mà rắn nên thành chứng kết hung, chỉ đổ
mồ hôi đầu, các chỗ khác không đổ mồ hôi, đến cổ thì hết, tiểu tiện không lợi,
mình tất phát vàng.

Tóm tắt: Biện về chứng Thái dương vì hạ nhầm mà thành chứng kết hung và
bệnh biến phát vàng.
137
Thích nghĩa: Bệnh Thái dương biểu chứng chưa giải mà đã lại cho hạ, biểu tà
hãm và trong gây thành hai thứ bệnh biến, một là chứng Đại hãm hung thang, hai là
chứng phát vàng. Bệnh Thái dương mạch phù động mà sác, phù là mạch của bệnh
Thái dương, chủ biểu, động là âm dương va chạm vào nhau, chủ đau, tà ở biểu, bên
trong không có thực tà, cho nên nói: ”Mạch sác là hư”. Đau đầu phát sốt là biểu
chứng, hơi đổ mồ hôi trộm là tà đã nhập lý, tà nhập vào lý đáng lẽ không sợ lạnh mà
lại sợ lạnh là biểu chứng vẫn chưa giải. Từ câu “thầy thuốc lại cho hạ” về sau có thể
phân làm hai đoạn để xem. Nếu biểu chứng chưa giải, thầy thuốc lại cho hạ, mạch
động sác biến thành mạch trì, mạch trì là lý hư, biểu tà thừa hư hãm vào trong, chính
khí và tà khí giao tranh với nhau, chống nhau ở vùng hoành cách mô, cho nên trong
hoành cách mô đau không cho sờ; sau khi hạ trong dạ dày trống không khách khí thừa
hư mà nhiễu động trong hoành cách mô, hoành cách mô bị tà chiếm đóng, thăng giáng
bị ngăn trở, cho nên hơi thở đoản, buồn phiền vật vã, trong tâm ảo não, đấy đều là
dấu hiệu dương tà hãm vào trong. Dương nhiệt cùng kết với thủy nhiệt, dưới tâm
nhân đó xuất hiện chứng rắn đầy mà đau, vì thế mà thành chứng kết hung, cho nên
phải dùng Đại hãm hung thang để hạ nhiệt kết đi, đấy là đoạn thứ nhất.

Nếu sau khi hạ mà không có chứng kết hung, chỉ thấy đổ mồ hôi đầu đến cổ thì
hết các chỗ khác không có mồ hôi, tiểu tiện không lợi, đấy là sau khi hạ, nhiệt nhập
vào trong dạ dày cùng kết tụ với thấp. Thấp và nhiệt uất bốc lên trên thời chỉ đổ mồ
hôi đầu, thấp nhiệt không bốc ra ngoài được thời mình không có mồ hôi, thấp nhiệt
không tiết được xuống dưới nên tiểu tiện không lợi. Đấy là vì hạ làm tổn thương tỳ
vị, thấp nhiệt không thể vận hoá được, uất bốc ở trong, mình tất phát vàng, đấy là giai
đoạn thứ hai.

Nhận xét: Chứng này tuỳ chưa đề ra phương thuốc chữa, nhưng ý nghĩa thanh
nhiệt lợi thấp tự có ở trong ấy rồi.

139.Thương hàn 6-7 ngày, kết hung nhiệt thực,mạch trầm mà khẩn, ấn vào rắn
đau như đá, dùng Đại hãm hung thang làm chủ.

138
Tóm tắt: Chứng Đại hãm hung thang về trường hợp không vì hạ nhầm mà gây
nên thuỳ nhiệt kết thực.

Thích nghĩa: Thương hàn 6-7 ngày, phần nhiều là thời kì biểu tà truyền vào lý
do tà khí truyền vào, tà cùng thuỷ tà kết chặt ở trong ngực, tuy không phải vì hạ nhầm,
cũng có thể thành chứng kết hung. Mạch trầm chủ bệnh ở lý, trầm và khẩn đều thấy
là chủ thuỷ bệnh, chủ đau. Dưới tâm đau, ấn vào rắn như là đá là thuỷ tà với nhiệt tà
kết ở dưới tâm là chứng của Đại hãm hung thang.

Đại hãm hung thang :

Đại hoàng 6 lạng(bỏ vỏ)

Mang tiêu 1 thăng

Cam toại 1 thìa con

Ba vị trên, nước 6 thăng, trước nấu Đại hoàng còn 2 thăng, lọc bỏ bã rồi cho
Mang tiêu vào, sắc sôi 1-2 dạo thì cho bột Cam toại vào, uống ấm 1 thăng. Đại tiện
được thông lợi thì thôi, không uống lần sau.

Ý nghĩa phương thuốc: Thuỷ tà và nhiệt tà cấu kết với nhau tích tụ ở vùng trên
thì thành ra chứng kết hung. Trong phương, Cam toại cay đắng mà lạnh, đã tiết nhiệt
lại trục thuỷ phá kết, Mang tiêu mặn lạnh, làm mềm chất rắn; Đại hoàng đắng lạnh,
tẩy rửa được thực tà, xua hết cái cũ, gây nên cái mới. Bệnh thế gấp cho nên phương
cũng mạnh, cuối phương nói: “Đại tiện thông lợi thì thôi, không uống lần sau” là sợ
uống nhiều quá tổn hại chính khí của người, lúc dùng phải chú ý.

139. Thương hàn mười mấy ngày, nhiệt kết ở bên trong, lại thấy
nóng rét qua lại, cho uống Đại sài hồ thang; chỉ có chứng kết hung mà không
nóng dữ đấy là thuỷ tà kết ở ngực sườn vậy, chỉ thấy đầu hơi đổ mồ hôi thì cho
uống Đại hãm hung thang làm chủ.

Tóm tắt: Biện về chứng của Đại sài hồ thang với Đại hãm hung thang.

139
Thích nghĩa: Thương hàn mười mấy ngày, phần nhiều là giai đoạn biểu tà truyền
vào lý, nhiệt tà kết ở trong, tất có các chứng trạng, đại tiện bón, rêu lưỡi khô ráo, khát
muốn uống nước lạnh. Nếu thấy nóng rét qua lại là thuộc về kiêm bệnh Dương minh
và Thiếu dương nên cho uống Đại sài hồ thang; chỉ có chứng kết hung mình không
nóng dữ là nhiệt tà không ở biểu mà ở lý, nhiệt tà nhập lý cùng thuỷ tà kết tụ ở ngực
sườn nên thành chứng kết hung, cho nên nói “đấy là chứng thuỷ tà kết tụ ở ngực
sườn”. Chỉ hơi đổ mồ hôi đầu là thuỷ nhiệt kết ở trong ngực, không tiết ra ngoài được;
uất bốc lên trên, cho nên chỉ hơi đổ mồ hôi đầu, dùng Đại hãm hung thang để trục
thuỷ nhiệt kết tụ.

Nhận xét: Điều trên nói chỉ hơi đổ mồ hôi đầu là thấp nhiệt uất kết ở phần lý
tiểu tiện không thông lợi, điều này nói chỉ hơi đổ mồ hôi đầu là do thuỷ nhiệt kết ở vị
trí cao, nên tiểu tiện tự lợi, khi chữa bệnh cần chú ý phân biệt.

140. Bệnh thái dương phát hãn hai lần mà lại hạ nữa, không đi
đồng 5-6 ngày, trên lưỡi khô mà khát xế chiều hơi có sốt cơn, từ dưới tâm đến
bụng dưới rắn đầy mà đau không thể sờ được, dùng Đại hãm hung thang làm
chủ.

Tóm tắt: Biện chứng về bệnh dương minh với bệnh kết hung.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương dùng thuốc phát hãn vốn là thuộc về phương
pháp “chính trị”, nay phát hãn không khỏi, lại phát hãn lần nữa, phát hãn lần thứ hai
cũng không khỏi, lại công hạ nữa, làm cho tân dịch bị tổn thương nhiều lần, biểu tà
hãm vào trong. Cho nên 5-6 ngày không đi ngoài được, trên lưỡi ráo mà khát, xế
chiều hơi có sốt cơn giống như chứng Dương minh phủ thực, chỉ từ dưới tâm trở
xuống bụng rắn đầy mà đau không thể sờ được, thì không phải chứng dương minh
mà là chứng kết hung, cho nên dùng Đại hãm hung thang làm chủ.

Điều này là phân biệt chứng kết hung với chứng Dương minh phủ thực, chứng
thực mãn của Dương minh là ở bụng, chứng này là từ dưới tâm đến bụng dưới rắn
đầy mà đau không thể sờ được, dương minh phủ chứng thì sốt cơn nặng, thường kiêm
cả nói sảng, chứng này là sốt cơn nhẹ mà không nói sảng.
140
Nhận xét: Điều này là chứng hãm hung kiêm tổn thương tân dịch.

141. Bệnh Tiểu kết hung chính ở dưới tâm, ấn vào thì đau, mạch
phù hoạt, dùng Tiểu hãm hung thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh tiểu kết hung.

Thích nghĩa: Sự kết tụ của chứng tiểu kết hung, vị trí của bệnh so với chứng
Đại kết hung thang là nhỏ, thế của bệnh cũng nhẹ hơn cho nên nói: “chính ở giữa
tâm ấn vào thì đau”. Mạch phù hoạt là đờm với nhiệt kết lại tương đối nông, cho nên
dùng Tiểu hãm hung thang là chủ trị.

Lời chú chọn lọc: Trương kiêm Thiên: Từ dưới tâm đến bụng dưới rắn mà đau
không thể sờ được là chứng Đại kết hung, chính dưới tâm chưa đến hông sườn ấn vào
đau không rắn như đá là chứng Tiểu kết hung hình thái chứng trạng chia ra như vậy
vì chứng Đại kết hung là thuỷ tà kết tụ ở ngực bụng cho nên mạch trầm khẩn; chứng
Tiểu kết hung là do đàm kết tụ ở dưới tâm, cho nên mạch phù hoạt, thuỷ tà kết tụ là
phải hạ, cho nên dùng Cam toại, Đình lịch, Hạnh nhân, Phác tiêu, Đại hoàng… Đờm
kết tụ thì nên tiêu, cho nên dùng Qua lâu, Bán hạ,…

Tiểu hãm hung thang

Hoàng liên 1lạng

Bán hạ ½ thăng (tẩy)

Qua lâu thực to thì 1 quả

Ba vị trên, nước 6 thăng, trước nấu vị Qua lâu cạn còn ba thăng, lọc bỏ bã rồi
cho các vị kia vào sắc còn 2 thăng, lọc bỏ bã, chia uống ấm 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này có tác dụng thanh nhiệt khai kết, giáng đờm,
Hoàng liên đắng lạnh, Bán hạ cay đưa xuống, đắng và cay cùng dùng chung, thanh
nhiệt mà kiêm khử đờm, Qua lâu thực ngọt lạnh hoạt nhuận, giỏi nhất về khai kết trừ
đờm. Nấu Qua lâu trước thì sức tập trung mà chịu đựng được gánh nặng để khai kết

141
tụ ở trung tiêu. Phương này so với Đại hãm hung thang là hoãn, chứng có khinh trọng,
phương có đại tiểu, cho nên gọi là Tiểu hãm hung thang.

142. Bệnh Thái dương 2-3 ngày, không thể nằm được, chỉ muốn
dậy, dưới tâm tất có kết, mạch vi nhược, đấy vốn có hàn phận, lại cho hạ, nếu
hết đi ngoài tất có chứng kết hung, chưa hết đi ngoài thì tất kết hung chưa hết
chưa hết bốn ngày sau lại hạ đấy là ghé nhiệt lợi vậy.

Tóm tắt: Bệnh Thái dương nhầm cho hạ biến thành chứng kết hung hoặc chứng
ghé nhiệt lợi .

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương 2-3 ngày là tà còn ở biểu, đồng thời lại thấy
chứng không nằm được, chỉ muốn dậy tất nhiên là dưới tâm có tà kết tụ. Nếu tà kết ở
phần lý mạch trầm thực, nay mạch vi nhược, biết người vốn có chứng hàn ẩm tích ở
dưới tâm chính là vì tà làm trở cách, chữa nên giải biểu kiêm ôn hoá đờm ẩm là thuộc
phương pháp chính trị. Thầy thuốc thấy vùng vị quản có kết tụ, nhầm dùng phép hạ,
hạ rồi biểu tà hãm vào trong hông ngực, cùng thuỷ tà kết lại nên thành chứng kết
hung. Cho nên nói : “hết đi ngoài tất có chứng kết hung”. Nếu thầy thuốc thấy đi
ngoài chưa hết mà dưới tâm rắn đầy cho là tà chưa lui hết, lại dùng phép hạ thì phần
dương của tỳ vị bị tổn thương, ngoại nhiệt hợp với lý hàn, nên tạo thành chứng lý hư
ghé nhiệt lợi. Chứng này tuy chưa đề ra phương để điều trị, nhưng cũng đồng nghĩa
với chứng của bài Quế chi Nhân sâm thang, có thể tham khảo lẫn nhau.

143. Bệnh Thái dương cho hạ, mạch xúc mà không kết hung, đấy
là muốn giải, mạch phù thì tất kết hung, mạch khẩn thì đau họng, mạch huyền
thì hai mạn sườn co thắt, mạch tế sác thì đau đầu chưa hết, mạch trầm khẩn thì
muốn nôn, mạch trầm hoạt thì chế nhiệt lợi, mạch phù hoạt là ỉa ra máu.

Nhận xét: Điều này lấy mạch để nói chứng, trong sách này ít thấy có lối ấy, vả
lại trên lâm sàng cũng ít thấy, cho nên tồn nghi chờ nghiên cứu thêm.

144. Bệnh ở dương đáng lý phải phát hãn để giảm, lại dùng nước
lạnh phun vào, dội vào, nhiệt tà bị bức không lui được, lại càng thêm phiền trên

142
thịt nổi da gà (sởn, gai ốc), muốn uống nước, lại không khát, cho uống Văn cáp
tán, nếu không đỡ cho uống Ngũ linh tán.

Tóm tắt: Phép chữa biểu chứng về trường hợp biểu chứng dùng nhầm nước lạnh
phun dội vào mà dẫn đến.

Thích nghĩa: Bệnh ở biểu, cho phát hãn để giải là thuộc về phương pháp chính
trị, lại dùng nước lạnh để phun dội vào bức hiếp nhiệt, biểu nhiệt bị ngăn cách không
thể bốc ra được cho nên lại càng thêm phiền, da dẻ lạnh co lại, thịt nổi da gà, ý muốn
uống nước mà lại không khát, đấy là biểu tà không giải, phần dương uất ở lý, có thể
dần dần hoá nhiệt, nên dùng Văn cáp thang để thanh nhiệt giải biểu. Uống phương
này mà bệnh không khỏi, vẫn thấy khát nước, tiểu tiện không thông lợi là nước đình
tụ không hoà, phải dùng Ngũ linh tán để giải biểu lợi thuỷ.

Văn cáp tán

Văn cáp 5 lạng

Tán nhỏ, hoà với 1 thìa con nước sôi mà uống, mỗi lần uống 5 cáp.

Mình nóng nổi da gà không đỡ, muốn kéo áo tự đắp, nếu dùng nước để phun để
rưới càng làm cho nhiệt bị bức hiếp không bốc ra được, đáng lý ra mồ hôi mà ra
không được thời phiền, nếu như ra mồ hôi rồi mà trong bụng đau thì cho dùng ba lạng
Thược dược như cách trên.

Nhận xét: Văn cáp tức là loại hến có hoa (vân). Văn cáp độc vị tán nhỏ, chỉ có
tác dụng giải khát, thanh nhiệt, lợi tiểu, không có công năng giải biểu, vả lại sức thanh
nhiệt rất ít, dùng với chứng này không được thích hợp. Phải dùng Kim quĩ Văn cáp
thang mới đúng, phụ phương sau đây:

Kim quĩ văn cáp thang:

Văn cáp 5 lạng

Ma hoàng 3 lạng

143
Cam thảo 3 lạng

Sinh khương 3 lạng

Thạch cao 5 lạng

Hạnh nhân 50 hạt

Đại táo 12 quả

Bảy vị trên, nước sáu thăng, sắc lấy hai thăng, uống ấm 1 thăng, đổ mồ hôi thời
khỏi.

Phương này tức là Đại thanh long thang bỏ Quế chi gia Văn cáp, Văn cáp mặn,
bình, không độc, hay làm hết chứng phiền khát, lợi tiểu tiện, cho nên phương này là
phương giải biểu thanh lý.

145. Chứng hàn thực kết hung không có chứng sốt cho uống Tam
vật tiểu hãm hung thang, bạch tán cũng dùng được.

Tóm tắt: Biện về cách chữa trường hợp hàn thực kết hung.

Thích nghĩa: Chứng này là do đàm ẩm kết tụ ở trong ngực thành ngực, không
có các dấu hiệu nhiệt như ráo miệng, phiền khát, cho nên gọi là hàn thực kết hung,
cách chữa khác với chứng nhiệt thực kết hung cho nên dùng Tam vật tiểu bạch tán để
ôn tán hàn kết.

Nhận xét: Sách Ngọc hàm kinh, sách Thiên kim dực phương đều có 6 chữ “Hãm
hung thang cũng dùng được”. Nay cứ theo đó mà giải thích.

Tam vật tiểu bạch tán

Cát cánh 3 phần

Ba đậu 1 phần

(bỏ vỏ và ruột, sao đen, nghiền nát như mỡ)


144
Bối mẫu 3 phần

Ba vị trên, tán nhỏ cùng cho Ba đậu vào cối nghiền nhừ, hoà với nước lã đun
sôi mà uống. Người khoẻ uống ½ đồng tiền xúc, người gầy thì giảm bớt. Bệnh ở trên
ngực thì mửa, ở dưới ngực thì ỉa, không ỉa thì uống nước cháo nóng 1 bát, ỉa quá
không cầm được thời cho uống 1 bát cháo nguội.

Ý nghĩa phương thuốc. Phương này có công năng trừ đờm khai kết, công hàn,
trục thuỷ. Cát cánh, Bối mẫu khai kết tiêu đờm, Ba đậu khí vị cay hăng dùng để công
hàn trục thuỷ. Bởi vì kết hung do hàn thực ngưng tụ và không có thuốc nóng nên
không đủ để khu trừ thuỷ hàn, không có thuốc mạnh thì không đủ để phá kết, dược
vật chế ra màu sắc đều trắng, cho nên gọi là Tam vật tiểu bạch tán.

146. Tính bệnh Thái dương + thiếu dương, đầu gáy cứng đau
hoặc choáng váng xây xẩm có lúc làm như kết hung, dưới tâm rắn đầy nên châm
huyệt Đại chuỳ ở khoảng đốt xương thứ nhất, huyệt Phế du, Can du, cẩn thận
không được phát hãn, phát hãn thời sinh chứng nói sảng, mạch huyền, năm ngày
nói sảng không dứt thì nên châm huyệt Kỳ môn.

Tóm tắt: Cách chữa tính bệnh Thái thiếu bằng cách châm thích

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương chưa hết mà xuất hiện cả bệnh Thiếu dương
gọi là tính bệnh Thái + Thiếu. Đầu gáy cứng đau là thuộc Thái dương, choáng váng
xây xẩm là thuộc Thiếu dương, có lúc làm như kết hung, dưới tâm rắn đầy là do tà
khí kết ở trong, kinh khí không thư thái. Chứng này không phải phát hãn mà giải được,
phải chọn dùng phép châm thích, châm huyệt Đại chuỳ ở khoảng đốt xương thứ nhất,
huyệt Phế du, để điều hoà tà khí Thái dương ở biểu, vì mạch Đốc thống quản các kinh
mạch dương, cho nên châm huyệt Đại chuỳ, Phế với bì mao là hợp với nhau cho nên
châm huyệt Phế du, châm huyệt Can du là để điều hoà tà khí Thiếu dương ở khoảng
bán biểu bán lý, bởi vì can với đởm hợp với nhau cho nên châm huyệt Can du. Nếu
nhầm phát hãn; nhiệt tà nhập vào Can kinh mà nói sảng, mạch huyền, năm ngày nói
sảng không dứt, phải châm huyệt Kỳ môn để tiết bớt can tà. Tà nhiệt ở can lui thì
chứng nói sảng sẽ hết.
145
147. Phụ nữ trúng phong phát sốt sợ lạnh lại vừa thấy kinh, cảm
bệnh 7-8 ngày, sốt hết mà mạch trì, mình mát, dưới ngực sườn đầy, như trạng
thái chứng kết hung, nói sảng, đấy là chứng nhiệt nhập huyết thất, nên châm
huyệt Kỳ môn, tuỳ chứng thực mà châm.

Tóm tắt: Cách châm thích đối với chứng nhiệt nhập huyết thất.

Thích nghĩa: Phụ nữ trúng phong, phát sốt ớn lạnh là biểu chứng, lại vừa
thấy kinh làm cho chứng biểu nhiệt có cơ hội thừa hư mà hãm vào trong huyết thất.
Cảm bệnh 7 – 8 ngày, hết sốt mà mạch trì, mình mát, là biểu chứng đã hết, cho nên
biểu nhiệt hết mà mình mát. Bệnh đã nhập lý cho nên mạch biến thành trì. Dưới ngực
sườn đầy như trạng thái chứng kết hung là huyết đọng lại không lưu hành. Nói sảng
là uất nhiệt lấn lên, đấy là chứng nhiệt nhập huyết thất. Châm huyệt Kỳ môn là huyệt
mộ của Can kinh để tả cái thực của can huyết, sốt lui, huyết thất mát được thì các
chứng tự khỏi.

Lời chú chọn lọc. Phương trung Hành nói: “ Huyết thất cũng gọi là chỗ dinh
huyết lưu lại, chỗ kinh mạch tụ tập lại, tức là mạch xung, gọi là huyết hải. Mạch ấy
khởi đầu từ huyệt Khí nhai, cùng với kinh Túc thiếu âm, theo ven rốn đi lên, đến trong
ngực thì tán ra. Cho nên nhiệt nhập vào mà gây bệnh, chứng trạng thì như vậy. Kỳ
môn là mộ huyệt của can, can thu nạp huyết cho nên châm huyệt Kỳ môn để tả thực
nhiệt của huyết phận vậy”

148. Phụ nữ trúng phong 7 – 8 ngày, tiếp đó bị nóng phát lên có


định kỳ, lại vừa dứt kinh đấy là chứng nhiệt nhập huyết thất, huyết tất kết cho
nên giống như sốt rét phát lên cơn nhất định cho dùng Tiểu sài hồ thang làm
chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh nhiệt nhập huyết thất.

Thích nghĩa: Phụ nữ trúng phong đã đến 7 - 8 ngày, tiếp đó lại bị phát sốt sợ lạnh có
định kỳ, đó là khí mới mắc bệnh thì đã thấy kinh, sau khi mắc bệnh 7 – 8 ngày, là lúc
bệnh truyền vào trong thì vừa dứt kinh là chứng nhiệt nhập huyết thất, cùng huyết kết

146
lại với nhau. Tà làm ngăn trở đường huyết, chính khí không lưu thông được, chính
khí và tà khí chống cự nhau cho nên như sốt rét, phát lên có định kỳ, dùng Tiểu sài
hồ thang để giải nhiệt tán tà, hễ tà lui được thì chứng huyết kết ấy tự tan.

149. Phụ nữ thương hàn phát sốt, lại vừa thấy kinh, ban ngày thời
tỉnh táo, ban đêm lại mê nói sảng, đấy là chứng nhiệt nhập huyết thất, đừng
phạm vị khí và thượng trung tiêu (1) sẽ tự khỏi.

Tóm tắt: Chứng tự khỏi của nhiệt nhập huyết thất.

Thích nghĩa: Phụ nữ bị thương hàn phát sốt lại vừa thấy kinh, ban ngày tỉnh táo,
ban đêm lại mê nói sảng, đấy không phải là nói sảng của chứng dương minh nên
không thể dùng Thừa khí thang phạm đến vị khí, cũng không thể dùng các phép hãn
thổ để chữa ở thượng tiêu và trung tiêu, chỉ cần được thấy kinh không dứt thời nhiệt
sẽ theo huyết mà đi, sẽ có thể tự khỏi, nếu như chưa khỏi thì có thể châm huyệt Kỳ
môn và cũng có thể dùng Tiểu Sài hồ thang gia giảm như trước.

151. Thương hàn 6 - 7 ngày, phát sốt hơi sợ lạnh chân tay khớp
xương đau phiền, hơi nôn, dưới tâm tức nhói ngoại chứng chưa khỏi thì dùng
Sài hồ quế chi thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa chứng Thái dương kiêm Thiếu dương.

Thích nghĩa: Thương hàn 6 – 7 ngày, thế bệnh đã từ ngoài vào trong, phát sốt,
hơi sợ lạnh, chân tay khớp xương đau phiền, là chứng của Quế chi thang, hơi nôn,
dưới làm tức nhói là chứng của Sài hồ thang và Quế chi thang hợp lại mà chữa.

Sài hồ quế chi thang

Quế chi 1/5 lạng ( bỏ vỏ)

Thược dược 1/5 lạng

Hoàng cầm 1/5 lạng

Nhâm sâm 1/5 lạng


147
Chích thảo 1 lạng

Bán hạ 2/5 cáp ( tẩy)

Đại táo 6 quả ( xẻ ra)

Sinh khương 1.5 lạng ( thái mỏng)

Sài hồ 4 lạng.

Chín vị trên, nước sắc 7 thăng, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng.
Nguyên bản chép : “Nhân sâm thang uống như cách uống Quế chi thang gia Bán hạ,
Sài hồ, Hoàng cầm” lại như cách uống Sài hồ thang nay dùng Nhân sâm, làm ½ thang.

Ý nghĩa phương thuốc. Phương thuốc này là Tiểu sài hồ thang và Quế chi thang,
mỗi thang nửa tễ hợp lại mà thành, để giải tà Thái dương Thiếu dương. Dùng Quế chi
thang để hoà biểu tà thời phát sốt, hơi sợ lạnh chân tay khớp xương đau phiền sẽ khỏi;
dùng Sài hồ thang để hoà tà Thiếu dương ở bán biểu bán lý thì chứng hơi nôn, dưới
tâm tức nhói tự khỏi.

150. Thương hàn 5 – 6 ngày đã phát hãn mà lại hạ, ngực sườn
đầy hơi kết, tiểu tiện không lợi, khát mà không nôn chỉ đổ mồ hôi đầu, nóng rét
qua lại, tâm phiền, đấy là tà chưa giải, dùng Sài hồ Quế chi Can khương thang
làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp sau khi chữa nhầm chứng Thiếu
dương chưa giải kiêm có chứng thuỷ ẩm, hơi kết.

Thích nghĩa: Thương hàn 5 – 6 ngày, đã phát hãn lại hạ, ngực sườn đầy, hơi kết,
tiểu tiện không lợi, khát mà không nôn, ỉa chảy thuỷ ẩm trở ngại, ở trong ngực sườn
mà vị khí còn điều hoà, chỉ đổ mồ hôi đầu là uất nhiệt bốc lên, bệnh tà chưa rời Thiếu
dương, vì thế mà tâm phiền, nóng rét qua lại, cho nên dùng Sài hồ Quế chi Can
khương thang, để hoà giải thiếu dương kiêm chữa chứng Thuỷ ẩm.

Sài hồ Quế chi Can khương thang.


148
Sài hồ ½ cân

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

Can khương 2 lạng

Qua lâu căn 4 lạng

Hoàng cầm 3 lạng

Mẫu lệ 2 lạng (nướng)

Chích thảo 2 lạng

Bảy vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, sắc lấy 6 thăng, lọc bỏ bã lại sắc lấy 3 thăng,
chia uống ấm 3 lần. Mới uống thấy khó chịu, cứ uống nữa đổ mồ hôi thì lại khỏi

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là Tiểu Sài hồ thang cải biến mà nên, Sài
hồ, Hoàng cầm hợp lại mà dùng để hoà giải tà Thiếu dương, Qua lâu, Mẫu lệ dùng
chung hay trục được thuỷ ẩm, khai được kết. Quế chi, Can khương, Cam thảo dùng
chung hay ôn hoá thuỷ ẩm, vì không nôn cho nên bỏ vị Bán hạ; vị khí không hư lại
còn bị thuỷ ẩm trở ngại bên trong, cho nên bỏ Nhân sâm, Đại táo là thuốc bổ mà nê
trệ. Đấy cũng là phương thuốc sơ lợi thiếu dương ở bán biểu bán lý, cho nên lúc mới
uống tà chính tranh nhau mà thấy hơi khó chịu, mà uống nữa thời dương khí của biểu
và lý thông nhau đổ mồ hôi mà khỏi.

Nhận xét: Cách ứng dụng của bài này rất rộng, hay chữa chứng sốt rét lạnh
nhiều nóng ít, hoặc chỉ lạnh không nóng và hay dùng vào chứng Sài hồ thang kiêm
có tân dịch suy kém mà có đờm ẩm kết ở trong, xông nghịch gây đau, vô luận có
ngoại cảm hay không, dùng nó đều có nhiều hiệu quả.

153. Thương hàn 5 – 6 ngày đổ mồ hôi đầu, hơi sợ lạnh, chân tay
lạnh dưới tâm đầy, miệng không muốn ăn, đại tiện rắn, mạch tế, đấy là phần
dương kém mà kết, tất có biểu chứng lại có lý chứng, mạch trầm cũng ở lý vậy,
đổ mồ hôi là phần dương kém. Giả sử đơn thuần phần âm kết thì không thể lại
149
có ngoại chứng hoàn toàn ở lý cả, đấy là nửa ở lý nửa ở biểu vậy. Mạch tuy trầm
khẩn không được cho là bệnh thiếu âm. Sở dĩ như thế là vì âm chứng thì không
có mồ hôi, nay đổ mồ hôi đầu cho nên biết không phải là chứng Thiếu âm, có thể
cho dùng Tiểu Sài hồ thang. Giả thiết không tỉnh táo, cho thông đại tiện được
thì khỏi.

Tóm tắt: Biện về mạch và chứng của phần dương kém mà kết, với chứng thuần
phần âm kết.

Thích nghĩa: Điều này là biện về mạch và chứng của phần dương kém mà kết,
và phần thuần âm kết chia làm ba đoạn để giải thích: Từ câu “ Thương hàn 5 – 6
ngày” đến câu “ Tất có biểu chứng, lại có lý chứng” là đoạn thứ nhất, nói về mạch
và chứng của phần dương kém mà kết. Từ câu “mạch trầm cũng là ở lý vậy” đến câu
“cho nên biết không phải chứng thiếu âm” là đoạn thứ hai, phân biệt chứng dương
kém mà kết với chứng thuần âm kết. Từ câu “có thể cho dùng Tiểu Sài Hồ Thang”
đến câu “ thông đại tiện được thì khỏi” là đoạn thứ ba, trình bày cách chữa chứng
dương kém mà kết.

Đoạn thứ nhất trình bày mạch và chứng của chứng dương kém mà kết, Thương
hàn 5 - 6 ngày đổ mồ hôi đầu là nhiệt bốc lên trên hơi sợ lạnh ( không nói phát sốt là
lược bớt đi), là biểu chứng vẫn còn; chân tay lạnh, dưới tâm đầy, miệng không muốn
ăn, đại tiện rắn là nhiệt kết ở trong mà không phát được ra ngoài; mạch tế ( đáng lý
trầm khẩn mà tế) là do huyết lưu hành không thông sướng. Các chứng trên đều bởi
cái dương kém mà kết, khí huyết không thể vận hành bình thường, chứng thể hiện là
đã có biểu chứng lại có lý chứng.

Đoạn thứ hai là biện chỗ khác nhau giữa dương kém mà kết với chứng thuần
âm kết, vì chứng này mạch trầm tế, đổ mồ hôi, ( mồ hôi đầu) chân tay lạnh, có giống
chứng thuần âm kết của bệnh Thiếu âm, cho nên cần phải phân biệt. Điểm phân biệt
là ở chỗ:

1. Bệnh Thiếu âm không được có ngoại chứng, hoàn toàn ở vào lý


cả, nay chứng này còn tồn tại ngoại chứng, nửa ở trong, nửa ở ngoài.
150
2. Bệnh Thiếu âm là âm hàn thịnh ở trong, không thể có mồ hôi,
chứng này thấy đổ mồ hôi đầu, do phần dương bốc lên, ( nhận xét: Bệnh thiếu âm
cũng có lúc đổ mồ hôi đầu, nhưng với chứng này có hư thực khác nhau) cho nên nói
mạch tuy trầm khẩn không được cho là bệnh Thiếu âm.
Đoạn thứ 3 là cách chữa chứng này. Chứng này nửa ở ngoài nửa ở trong, có thể
cho uống Tiểu sài hồ thang, làm cho thượng tiêu được thông, tân dịch được dồn xuống,
vị khí nhận đó mà hòa được, thì các chứng tự khỏi.
Giả thiết lý khi không hòa, bệnh nhân còn chưa tỉnh táo thì nên làm cho hơi
thông đại tiện, cho nên nói “ Thông đại tiện được thì khỏi”.

154. Thương hàn 5-6 ngày, nôn mà phát sốt chứng của sài hồ thang đầy đủ
mà dùng thuốc khác để hạ, chứng Sài hồ thang vẫn còn thì lại uống Sài hồ thang,
đấy tuy đã cho hạ mà không phải là trái tất bừng bừng mà rung, rồi phát sốt, đổ
mồ hôi mà giải, nếu dưới tâm đầy mà rắn đau, đấy là chứng kết hung vậy, dùng
Đại hãm hung thang làm chủ chỉ đầy mà không đau đấy là chứng đầy tức thì
cho uống Sài hồ thang không trúng nữa nên cho uống Bán hạ tả tâm thang.

Tóm tắt: Biện về chứng trạng và cách chữa của Sài hồ thang, Hãm hung thang
và Tả tâm thang.

Thích nghĩa: Chứng sài hồ thang sau khi hạ nhầm có ba loại biến chứng: Thứ
nhất là nói nôn mà phát sốt là chứng của sài hồ thang chưa đầy đủ, tuy nhầm cho hạ
mà chúng chưa biến, cho nên vẫn dùng nguyên phương Sài hồ để chữa; Thứ hai là
nói chứng trạng và cách chữa bệnh đã chuyển thành chứng kết hung; Thứ ba là nói
chứng trạng và cách chữa trường hợp đã chuyển thành chứng bĩ mãn.

Thương hàn 5-6 ngày nếu thấy chứng Sài hồ thang – nôn mà phát sốt- thì dùng
ngay sài hồ thang để chữa. Nếu dùng nhầm thuốc khác để hạ, hạ rồi chứng Sài hồ vẫn
còn là tuy hạ nhưng bệnh thế chưa biến, có thể cho uống sài hồ thang lần nữa, sau khi
uống thuốc thang rồi thấy bừng bừng mà rung, rồi phát sốt đổ mồ hôi mà giải. Nếu
hạ rồi, nhiệt tà theo vào, cùng thủy ẩm kết lại thấy dưới tâm đầy mà rắn đau là đã
thành chứng kết hung, nên cho uống Đại hãm hung thang làm chủ. Nếu hạ rồi khí trệ
151
ở trong, thấy chứng bĩ là dưới tâm đầy mà không đau thời nên dùng Bán hạ tả tâm
thang để chữa, không phải Sài hồ thang có thể đảm nhiệm nổi, cho nên nói “ uống
Sài hồ thang không trúng nữa”.

Bán hạ tả tâm thang.

Bán hạ ½ thăng (tẩy)

Hoàng cầm 3 lạng

Can khương 3 lạng

Nhân sâm 3 lạng

Chích thảo 3 lạng

Hoàng liên 1 lạng

Đại táo 12 quả ( bổ ra)

Bảy vị trên, nước 1 đầu sắc còn 6 thăng, lọc bỏ bã rồi lại sắc còn 3 thăng,
uống ấm 1 thăng, ngày uống ba lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là chủ trị chứng bĩ thăng giáng mất bình
thường mà lấy triệu chứng làm chủ, cho nên dùng bán hạ để giáng nghịch chỉ ẩu.
Chứng bĩ do nóng và lạnh kết với nhau mà nên, cho nên dùng hoàng cầm, hoàng liên
đắng lạnh, bán hạ, can khương cay ấm. Lạnh với ấm hợp lại mà dùng để tiêu chứng
đầy. Lại dùng nhân sâm, cam thảo, đại táo để bổ trung khí, vừa bồi bổ, vừa sơ tiết,
cho nên có thể thu được công hiệu hàn nhiệt đều hết. Chứng bĩ tiêu, chính khí khôi
phục.

154. Tính bệnh thái dương + Thiếu dương mà lại hạ, thành
chứng kết hung, dưới tâm rắn, ỉa chảy không dứt, hồ cháo không xuống, người
bệnh tâm phiền.

Tóm tắt: Tính bệnh Thái + Thiếu vì hạ nhầm mà thành chứng kết hung.
152
Thích nghĩa: Tính bệnh Thái dương, Thiếu dương vốn không nên hạ mà lại hạ,
khí của tam tiêu bị ngăn trở, thủy đạo không lưu hành, cùng chất nước kết nhau mà
thành chứng kết hung, do đó mà dưới tâm rắn. Chính khí hư ở dưới nên ỉa chảy không
dứt, tà nghịch lên trên nên hồ cháo không xuống, khí kết ở giữa nên người bệnh tâm
phiền.

Nhận xét: Điều này thuộc về tính bệnh Thái Thiếu, sau khi cho hạ nhầm mà
thành chứng kết hung, khi lâm sàng gặp chứng này mà khó chữa.

156. Mạch phù khẩn mà lại hạ, hàn tà ở ngoài mà trở lại nhập lý thời thành
chứng bĩ, ấn vào thấy mềm đấy chỉ là chứng no hơi.

Tóm tắt: Nguyên nhân và chứng trạng trường hợp no hơi.

Thích nghĩa: Mạch thấy phù khẩn là bệnh ở biểu, chữa nên phát hãn, nay lại hạ
làm cho ngoại tà hãm vào trong mà thành chứng no hơi. Chứng trạng ấn vào thấy
mềm nhũn cũng không đau đớn, đấy là chứng khí kết vô hình, cho nên nói “ no hơi”.

Lời chú chọn lọc. Tiên Thiên Lai nói: “ Mạch phù khẩn là mạch và chứng của
phần hàn tà ở phần biểu tức chứng Ma hoàng thang vậy, mà lại hạ là nói không dùng
phép phát hãn để giải mà lại nhầm cho hạ. Hàn tà ở ngoài trở lại nhập lý là nói hàn tà
của mạch khẩn, thấy trướng đầy nhân chỗ hư do hạ nhầm, hãm vào lý mà phát ra
chứng no hơi. Đấy chẳng qua là do biểu tà chưa giải, nhầm hạ mà lý hư rồi tà khí vô
hình hãm vào trong phần lý mà thành chứng no hơi vậy”.

157. Bệnh Thái dương trúng phong ỉa chảy, nôn ngược biểu chứng giải rồi
thì có thể công được, người bệnh ra mồ hôi dâm dấp, phát lên có lúc đau đầu,
dưới tâm rắn đầy hơi đau lan xuống dưới sườn nôn khan, khí đoản ra mồ hôi,
không ớn lạnh, đấy là biểu tà giải, lý chưa hòa dùng Thập táo thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp thủy ẩm đình tụ ở ngực sườn.

153
Thích nghĩa: Điều này là trình bày chứng bên ngoài có phong tà bên trong có
chứng huyền ẩm1. Vì thủy tà kết tụ ở ngực sườn làm trở ngại khí cơ, sự thăng giáng
mất bình thường, cho nên nghịch lên mà sinh ra nôn khan, bức xuống mà sinh đi ỉa
lỏng, phép chữa là phải trước chữa biểu sau chữa lý, cho nên nói: “biểu chứng đã giải
mới có thể công được”. Nay người bệnh ra mồ hôi dâm dấp phát lên có lúc là chính
khí và tà khí tranh nhau cùng có tiến có thoái, thủy tà đình tụ ở trong, dương khí
không tuyên thông, vệ khí không giữ được bên ngoài mà gây nên. Đặc trung của
chứng huyền ẩm là dưới tâm tức rắn đầy đau ran xuống dưới sườn, khác với chứng
kết hung là dưới tâm rắn đầy, đau không thể sờ được. Còn về chứng đau đầu, nôn
khan khí đoản. v.v.... là thủy ẩm nó công phá suốt, trên dưới đều đầy, trong ngoài đều
tràn mà gây nên. Nhưng tất phải ra mồ hôi không sợ lạnh là biểu chứng đã khỏi mới
có thể công, dùng Thập táo thang làm chủ trị.

Thập táo thang.

Nguyên hoa (nướng)

Cam toại

Đại kích

Ba vị trên phân lượng bằng nhau và đều nghiền riêng thành bột. Dùng nước 1,5
thăng, Đại táo nấu trước ( to mập) 10 quả còn 8 cáp, lọc bỏ bã rồi cho thuốc bột vào.
Người khỏe uống 1 thìa con, người yếu uống 1/2 đồng cân, uống ấm, vào lúc ban
sáng. Nếu hạ rồi mà bệnh không khỏi thì hôm sau lại uống thêm 1/2 đồng cân, đi
ngoài được khoái hoạt thì cho ăn cháo để bồi bổ.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là bài thuốc trục thủy mạnh. Trong phương
có nguyên hoa, Đại kích, cam toại đều hay lợi thủy và tính rất mạnh, ba vị hợp lại mà
dùng thì sức càng mạnh. Chủ yếu dùng đại táo để kiện tỳ hòa trung kiêm chế thủy,
làm cho tà lui mà không hại chính khí. Sau bài có nói: “ uống ban sáng” là uống lúc

1
Huyền ẩm : Một chứng trong bệnh đàm ẩm: nước đọng dưới sườn
154
đói bụng làm cho sức thuốc chạy nhanh “ cho ăn cháo để bồi bổ” là ý bảo sau khi đi
ngoài khí hoạt rồi thì mượn hơi cơm cháo để bổ dưỡng chính khí.

158. Bệnh Thái dương, thầy thuốc cho phát hãn bèn phát sốt sợ lạnh nhân
đó lại cho hạ mà dưới tâm đầy tức, biểu lý đều hư khí âm khí dương đều kiệt
hết, không có dương thời âm cô độc, lại thiếu âm nữa, nhân đó mà ngực buồn
bực sắc mặt xanh vàng, da máy giật là khó chữa nay sắc hơi vàng, chân tay ấm
là dễ khỏi.

Tóm tắt: Biến chứng và tiên lượng trường hợp sau khi dùng phép hãn, hạ và tiêu
châm mà gây nên hư.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương nhân phát hãn mà phát sốt sợ lạnh là phát hãn
chỉ làm hư phần biểu dương mà bệnh cũng không giải. Thầy thuốc thấy bệnh không
giải lại dùng phép hạ, hạ thời hư phần lý, biểu tà theo xuống mà hãm vào trong để
gây nên chứng dưới tâm đầy tức đó là thuộc chứng hư bĩ. Phát hãn cho hạ làm cho
biểu lý đều hư, biểu là dương, lý là âm, cho nên nói “ khí âm khí dương đều kiệt”.
Phát hãn cho hạ, dương hư, âm tà thịnh một mình, cho nên nói “ không có dương thời
âm cô độc”. Thầy thuốc không biết đã hư, lại dùng phép thiêu châm để cho ra mồ hôi,
hỏa tà bức vào trong, nhân đó thấy chứng trong ngực phiền, ra mồ hôi, dương khí đại
hư, nhân đó thấy sắc mặc xanh vàng. Da máy giật là dấu hiệu thổ hư mộc lấn, chân
tay lạnh, ấy là trung thổ đã hư cho nên nói “khó chữa”. Nếu bệnh nhân sắc mặt hơi
vàng, vàng là bản sắc của thổ, vả lại chân tay ấm là khí của tỳ vị còn có thể tỏa khắp
ra tứ chi, tỳ vị chưa hư cho nên nói “dễ khỏi”.

159. Dưới tâm đầy tức ấn vào thấy mềm, mạch trên bộ quan phù, dùng đại
hoàng, hoàng liên tả tâm thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa chứng nhiệt bĩ.

Thích nghĩa: Dưới tâm đầy tức ấn vào thấy mềm, là nhiệt tà vô hình, tụ ở đó mà
gây nên, cho nên bộ quan mạch phù, nên dùng Đại hoàng, hoàng liên tả tâm thang để
tiết nhiệt làm chủ trị.

155
Chứng này là bộ phận dưới tâm đầy tức, ấn vào thì mềm, chỉ thấy ở đó. Nếu
toàn bộ vách bụng mềm yếu là thuộc hư chứng phải kiêng sự tiết lợi.

Đại hoàng Hoàng liên tả tâm thang.

Đại hoàng 2 lạng

Hoàng liên 1 lạng

Hai vị trên dùng 2 thăng ma phí thang ( tức nước sôi trăm đạo) ngâm một lát,
vắt bỏ bã, chia uống hai lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Trong phương này, Đại hoàng, hoàng liên đều là thuốc
đắng lạnh, để tả tâm hỏa kiêm thanh vị nhiệt thời chứng bĩ tự trừ. Cái hay là ở chỗ
nấu và uống, không sắc mà chỉ dùng ma phí thang để ngâm giây lâu rồi vắt lấy nước
uống, lấy cái nhẹ nhàng thanh đạm để tả tâm tiêu bĩ, nếu sắc lâu lấy nước tất chạy
vào trường vị là không thể phát huy tác dụng của nó.

160. Dưới tâm tức đầy mà lại sợ lạnh, đổ mồ hôi, dùng Phụ tử tả tâm thang
làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp nhiệt tích kiêm phần dương
ngoài biểu hư.

Thích nghĩa: Dưới tâm đầy mà lại sợ lạnh, đổ mồ hôi. Chứng dưới tâm tức đầy
này cùng ý nghĩa với chứng ở điều 169, sợ lạnh đổ mồ hôi là phần dương ở ngoài
biểu hư. Chứng này nếu chuyên công chứng tích thời dương càng hư, chuyên bổ
dương thời chứng tích càng nặng, cho nên dùng Phụ tử tả tâm thang hàn nhiệt bổ tả
cho thích hợp, cùng đi với nhau mà không trái.

Lời chú chọn lọc. Sách kim giám nói: “Dưới tâm đầy tức mà lại sợ lạnh đổ mồ
hôi, là không phải biểu chứng không giải mà chứng dương ở biểu hư, cho nên dùng
đại hoàng, hoàng cầm, hoàng liên để tả nhiệt của chứng tích, phụ tử để ấm phần dương
ở biểu, hợp trong nhiệt ngoài hàn lại mà chữa. Cái hay là ở chỗ dùng ma phí thang

156
ngâm ba vị trên giây lát rồi vắt lấy nước, bỏ bã, hòa vào nước phụ tử( đã nấu riêng)
vào, ý là ở chỗ tả chứng tích nhẹ, mà phù dương là trọng hơn”.

Lý Trung Tử nói: “ Dùng sức đắng lạnh của ba vị trên để thanh trung tế âm,
dùng sức cay nóng của phụ tử để ôn kinh phù dương, hàn nhiệt dùng lẫn nhau, công
bổ cùng dùng mà không trái là diệu dụng của Trọng Cảnh”.

Phụ tử tả tâm thang.

Đại hoàng 2 lạng

Hoàng liên 1 lạng

Hoàng cầm 1 lạng

Phụ tử 1 lạng ( nướng bóc bỏ vỏ, xẻ ra, nấu riêng lấy nước).

Bốn vị trên thái mỏng ba vị dùng Ma phí thang 2 thăng ngâm giây lát rồi
vắt lấy nước bỏ bã, cho nước phụ tử vào, chia uống hai lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Đại hoàng, Hoàng cầm, Hoàng liên vị đắng hay
tẩy rửa, không sắc mà ngâm nước sôi là muốn lấy vị bạc khí nhẹ để thanh nhiệt,
nấu riêng phụ tử lấy nước là lấy vị hậu để trọng về sức phù dương, hợp dùng
với tả tâm thang thì vừa bổ vừa tả đều đạt công hiệu.

161. Vì hạ cho nên dưới tâm đầy tức, cho dùng tả tâm thang chứng
đầy tức không giải, người bệnh khát mà miệng ráo, buồn phiền, tiểu tiện
không lợi dùng Ngũ linh tán làm chủ.

Tóm tắt: Chứng đầy tức và cách chữa nước tụ dưới tâm.

Thích nghĩa: Chứng bĩ do hạ nhầm mà nên, nói: “ vì hạ cho nên dưới tâm
đầy tức” nhưng chứng tích của điều này là do thủy ẩm tụ ở bên trong, tân dịch
không lưu hành mà gây nên, cho nên có các chứng khát nước mà miệng ráo,
buồn phiền, tiểu tiện không lợi dùng Ngũ linh tán để hóa khí hành thủy thì tự
khỏi. Vả chăng chứng đầy tức này là thủy tà hữu hình định tụ chứ không phải
157
nhiệt tà vô hình kết lại, cho nên dùng Tả tâm thang chữa chứng bĩ mà không
thể giải.

162. Thương hàn đổ mồ hôi sau khi giải vị khí không hòa, dưới tâm
rắn đầy ợ khan ra mùi đồ ăn, dưới sườn có thủy khí, trong bụng sôi lụp
bụp, ỉa chảy dùng Sinh khương tả tâm thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng của Sinh khương tả tâm thang.

Thích nghĩa: Thương hàn đổ mồ hôi giải rồi là nói bên ngoài không có
biểu chứng nữa, vị khí chưa hòa là nói lý chứng chưa khỏi. Nhân khí trệ ở dưới
tâm cho nên dưới tâm đầy rắn, ợ ra mùi đồ ăn là ăn không tiêu, vị khí nghịch
lên. Dưới sườn có thủy khí là nước đọng không lưu hành, trong ruột có nước
cản trở, khi kích động lên nên sôi lụp bụp, có lúc thủy khí xuôi xuống mà sinh
ỉa chảy. Dùng sinh khương tả tâm thang để tán thủy, chỉ lợi, hòa vị tiêu đầy
tức.

Sinh khương tả tâm thang.

Sinh khương 4 lạng (thái mỏng)

Chích thảo 3 lạng

Nhân sâm 3 lạng

Can khương 1 lạng

Hoàng cầm 3 lạng

Bán hạ 1/2 thang (tây )

Hoàng liên 1 lạng

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

158
8 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 6 thăng, lọc bỏ bã rồi sắc còn 3 thăng, uống ấm 1
thăng ngày ba lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này so với Bán hạ tả tâm thang thì tăng Sinh
khương 4 lạng, giảm can khương đi 2 lạng, phương kia trọng ở chỗ ôn vận giáng
nghịch, phương này trọng ở chỗ tuyên tán thủy khí.

163. Thương hàn trúng phong thầy thuốc lại cho hạ, người bệnh đi ỉa chảy
ngày đến mấy mươi lần, cơm nước không tiêu hóa, trọng bụng sôi lụp bụp dưới
tâm, tức rắn mà đầy nôn khan, tâm phiền không yên được, thầy thuốc thấy dưới
tâm đầy tức cho là bệnh nhân không hết lại còn hạ nữa, chứng đầy tức càng
thêm nặng, đấy không phải là chứng kết nhiệt chỉ vì trong vị hư, khách khí
nghịch lên cho nên làm cho rắn, dùng cam thảo tả tâm thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng của cảm thảo tả tâm thang.

Thích nghĩa: Thương hàn hoặc trúng phong vốn nên phải hãn để giải, thầy thuốc
nhầm dùng phép hạ là cho biểu tà thừa hư mà hãm vào trong trường vị cách trở ở
dưới tâm, nhân đó mà thành chứng đầy tức. Hàn thủy chảy xuống không có hỏa giúp
đỡ cho nên ỉa chảy ngày đến mấy mươi lần, cơm nước không tiêu hóa, trong bụng sôi
lụp bụp, hỏa bốc lên không có thủy chế lại gây ra nôn khan, tâm phiền không yên
được. Thầy thuốc thấy dưới tâm đầy rắn, nhầm cho là thủy và nhiệt kết lại với nhau
cho là hạ chưa hết rồi lại hạ nữa, làm cho vị khí hư thêm đầy tức căng nặng. Lời văn
nói: “Đấy không phải là chứng kết nhiệt, chỉ vì trong vị hư, khách khí nghịch lên, cho
nên làm cho rắn” là câu tự chú thích. Nói chứng bĩ đầy tuy thấy dưới tâm đầy rắn,
vẫn thuộc chứng hư bĩ, không phải chứng thực bĩ kết nhiệt, dùng cam thảo tả tâm
thang làm chủ.

Cam thảo tả tâm thang.

Chích thảo 4 lạng

Hoàng cầm 3 lạng

159
Bán hạ 1/2 thăng (tẩy)

Đại Táo 12 quả (xẻ ra)

Hoàng liên 1 lạng

5 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 6 thăng, lọc bỏ bã rồi sắc lại còn 3 thăng uống ấm
1 thăng, ngày uống 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này so với bán hạ tả tâm thang, trọng dụng cam
thảo là để hòa hoãn trung tiêu, bổ hư còn ý nghĩa khác thì cũng giống nhau.

Nhận xét: Phương này vẫn cần có nhân sâm.

164. Thương hàn uống thuốc thang ỉa chảy không dứt dưới tâm đầy rắn,
uống tả tâm thang rồi lại dùng thuốc khác để hạ, ỉa chảy không dứt, thầy thuốc
lại cho dùng thuốc Lý trung ỉa càng hơn. Thang lý trung là chữa ở trung tiêu, ỉa
chảy đây là ở hạ tiêu, dùng Xích thạch chỉ vũ dư lương thang làm chủ. Lại không
dứt, nên lợi tiểu tiện.

Tóm tắt: Biện về cách chữa trường hợp ỉa chảy không dứt.

Thích nghĩa: điều này là lập pháp để ngừa biến, nhân biến mà đặt ra phương, vì
trường hợp thương hàn nhầm cho hạ mà gây ra ỉa chảy không dứt rất nhiều, có khi bị
hàn nhiệt giao kết với nhau, nên dùng tả tâm thang; có khi vì tỳ vị hư hàn, nên dùng
lý trung thang, lại có khi vì hạ tiêu hoạt thoát, nên dùng cách cố sáp. Lại có khi vì
mất chức năng gạn lọc, nên dùng cách thấm lợi, biện chứng khác nhau, nên cách chữa
cũng khác nhau.

Lời chú chọn lọc: Kha Vận Bá nói : “ Cam thảo, can khương, nhân sâm, bạch
truật, có thể bổ sự hư tổn của đại khí ở trung tiêu, mà không đủ để củng cố chất mỡ
đã thoát ở hạ tiêu, cho nên ỉa chảy ở hạ tiêu thì không dùng Lý trung thang để thu kết
quả được. Phàm đại trường không giữ chặt được vốn trách ở vị; thận (quan môn)
không đóng kín được vốn trách ở tỳ. Hai vị này đều do tinh khí của đất kết lại , có thể
làm cho chặt ruột tuy dùng để chữa ngọn ở hạ tiêu, thực ra là để bù đắp cái gốc ở
160
trung cung vậy. Tóm lại, chứng này là thổ hư không phải hỏa hư, cho nên không nên
dùng khương phụ. Còn như nước không thông lợi, thấp khi nặng mà ỉa chảy không
dứt thời lại nên lợi tiểu tiện.

Xích thạch vũ dư lương thang.

Xích thạch chỉ 1 cân

Thái nhất vũ dư lương 1 cân (giã nát)

Hai vị trên, nước 6 thăng, sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bã, chia uống 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Xích thạch chỉ ngọt ấm, hay chữa chứng tả lỵ, vũ dư
lương vị ngọt, không độc hay chữa chứng ỉa ra máu lẫn mủ. Hai vị này chẳng những
có công năng thu liễm cố sáp, mà đem dùng chữa ỉa chảy, cũng có nghĩa vào lý, phù
chính, hợp lại mà thành phương, sự tương đắc càng thấy rõ.

165. Thương hàn cho thổ cho hạ rồi phát hãn, hư phiền, mạch rất vi, 8-9
ngày, dưới tâm đầy rắn, đau dưới sườn, khí xông lên cổ họng, choáng váng xây
xẩm kinh mạch rung động lâu ngày sẽ thành chứng nuy.

Tóm tắt: Bệnh thương hàn vì nhầm cho thổ, cho hạ, cho phát hãn mà gây nên
hư, và chữa không đúng mà gây thành chứng nuy (bại).

Thích nghĩa: Chứng hư phiền thấy ở bệnh thương hàn, sau khi cho thổ, cho hạ,
cho phát hãn, đấy là dấu hiệu tân dịch không đủ, mạch rất vi là biểu hiện dương khí
suy vi, kinh qua 8-9 ngày, chính khí tự hồi phục, bệnh đáng lý khỏi. Nay thấy các
chứng dưới tâm rắn đầy đau dưới sườn, khí xông lên cổ họng, choáng váng xây xẩm
là dương khí hư mà thủy ẩm động, sau khi cho phát hãn, cho thổ, cho hạ rồi khí huyết
đã suy kém, thủy ẩm tụ tập lại, chính khí khó hồi phục, kinh mạch mất sự nuôi dưỡng,
tất rung động chẳng an, lâu ngày không được điều trị thì chi thể bại liệt, không thể cử
động được.

166. Thương hàn phát hãn cho thổ cho hạ, bệnh giải rồi, dưới tâm rắn đầy,
ợ hơi không hết, dùng Toàn phúc đại giả thang làm chủ.
161
Tóm tắt: Cách chữa bệnh thương hàn cho phát hãn cho thổ cho hạ rồi mà chứng
ợ hơi không hết.

Thích nghĩa: Thương hàn cho phát hãn, cho thổ cho hạ rồi, biểu chứng giải mà
dương khí ở trung cung hư, đàm ẩm tụ lại bên trong, làm cho dưới tâm rắn đầy, vị khí
nghịch lên mà ợ hơi không hết. Cho nên dùng toàn phúc giả thang để bổ hư trấn
nghịch.

Toàn phúc đại giả thang

Toàn phúc hoa 3 lạng

Nhân sâm 2 lạng

Sinh khương 5 lạng

Đại giả 1 lạng

Chích thảo 3 lạng

Bán hạ ½ thăng (tẩy)

Đại Táo 12 quả (xẻ ra)

Bảy vị trên nước 1 đấu, nấu còn 6 thăng, lọc bỏ bã rồi sắc lại lấy 3 thăng, uống
ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Toàn phúc hoa tuyên khí, tẩy đàm ẩm. Đại giả thạch
giáng khí trấn nghịch. Nhân sâm bổ chính khí, giúp Sinh khương, Bán hạ để trừ đàm
ẩm, giáng trọc khí. Cam thảo, đại táo để bồi bổ thổ, ích khí, phương này là phương
thuốc bổ trung giáng trọc trừ đàm, trấn nghịch.

167. Cho hạ rồi không thể cho uống quế chi thang, nếu đổ mồ hôi mà suyễn,
không tốt lắm, có thể cho uống Ma hoàng hạnh tử cam thảo, thạch cao thang.

162
Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp cho hạ rồi nhiệt là bức lên phế
gây cơn suyễn.

Thích nghĩa: Chứng trạng và cách chữa trong điều này giống như điều 63. Duy
điều trước là sau khi phát hãn, điều này là sau khi cho hạ, chứng thể hiện ra giống
nhau, phép chữa cũng không khác. Cách biện chứng điều trị phải dựa đấy làm tiêu
chuẩn nguyên tắc, quyết không phải câu nệ vào một bệnh danh nào đó mà dùng công
thức cứng đờ của thuốc này hay phương nọ.

168. Bệnh thái dương ngoại chứng chưa giải mà cho hạ nhiều lần bèn hợp
với nhiệt mà ỉa chảy, ỉa chảy không dứt được, dưới tâm đầy rắn, biểu lý không
giải, dùng Quế chi nhân sâm thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp ỉa chảy do lý hàn ghé biểu nhiệt.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương ngoại chứng chưa giải mà hạ nhiều lần, hạ rồi
biểu là hãm vào trong, ngoại tà hợp với lý hư mà ỉa chảy không dứt, làm cho dưới
tâm đầy rắn, chứng đầy hơi ấy thuộc hư, cho nên dùng Quế chi Nhân sâm thang để
ôn lý giải biểu thì các chứng tự khỏi.

Lời chú chọn lọc: Hoàng Khôn Tải nói: “ Bệnh thái dương ngoại chứng chưa
giải mà cho hạ nhiều lần, ngoại nhiệt không lui mà ngoại hàn cũng tăng, bèn hợp với
ngoại nhiệt mà thành ỉa chảy, ỉa chảy mà không dứt. Khí thanh dương đã tụt xuống
thời khí trọc âm nghịch lên lấp ở cửa dạ dày mà làm cho dưới tâm đầy rắn. Do trung
khí hư hỏng không phân rành âm dương, thăng giáng lộn ngược, khí thanh khí trọc
thay đổi vị trí là lý chứng không giải mà ngoại nhiệt không lui, theo phép nên chữa
cả trong lẫn ngoài, Quế chi thông kinh mà giải biểu nhiệt, điều lý và làm ấm trung
cung mà chuyển được cơ năng thăng giáng”.

Quế chi nhân sâm thang.

Quế chi 4 lạng ( thái riêng)

Chích thảo 4 lạng

163
Bạch truật 3 lạng

Nhân sâm 3 lạng

Can khương 3 lạng

Năm vị trên, nước 9 thăng, trước nấu 4 vị kia lấy 5 thăng rồi cho quế chi vào,
lại sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng, ngày uống 2 lần, tối uống 1 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Nhân sâm bổ chính khí, Can khương ôn trung tán hàn,
Bạch truật kiện tỳ táo thấp, Cam thảo bổ trung, 4 vị này cùng đạt được công năng ôn
trung chỉ lợi, lại gia Quế chi để hành dương giải biểu.

169. Thương hàn hạ mạnh rồi lại phát hãn dưới tâm đầy tức, sợ lạnh, là
biểu chứng chưa giải, không thể công chứng đầy tức, phải giải biểu trước, biểu
giải rồi mới có thể công chứng đầy tức, giải biểu dùng quế chi thang, công chứng
đầy tức nên dùng Đại hoàng Hoàng liên tả tam thang.

Tóm tắt: Cách chữa chứng đầy tức kiêm có biểu chứng.

Thích nghĩa: Thương hàn biểu chứng chưa giả, phải giải biểu trước. Nay lại hạ
mạnh, hạ rồi lại phát hãn, biểu tà thừa hư hãm vào trong mà thành chứng đầy tức. Lúc
ấy vẫn có chứng sợ lạnh là biểu tà chưa giải thì không thể công chứng đầy tức, phải
giải biểu trước. Chờ cho biểu chứng giải rồi mới có thể công chứng đầy tức. Giải biểu
dùng Quế chi thang để phát hãn nhẹ, công chứng đầy tức dùng Đại hoàng Hoàng liên
tả tâm thang để thanh nhiệt tiêu đầy tức.

170. Thương hàn phát sốt đổ mồ hôi không giải dưới tâm đầy rắn nôn mửa
mà ỉa chảy dùng Đại sài hồ thang làm chủ

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa của Đại sài hồ thang.

Thích nghĩa: Thương hàn phát sốt, tuy đổ mồ hôi mà sốt không giải, chỉ vì dưới
tâm đầy rắn, khi cơ bị trở ngại, khí trệ ở giữa, thăng giáng không lưu lợi, cho nên

164
nghịch lên mà nôn mửa, bức xuống mà ỉa chảy, nên dùng Đại sài hồ thang để tuyên
thông khí cơ kiêm tán kết trệ.

So sánh giữa chứng Tiểu sài với chứng Đại sài:

- Chứng của Tiểu Sài là: nóng rét qua lại, ngực sườn đầy tức, lịm lim không
muốn ăn, tâm phiền hay nôn, là chứng căn bản của Thiếu dương.

- Chứng của Đại sài hồ là: nóng rét qua lại, nôn không dứt, dưới tâm căng gấp,
uất hơi phiền, giữa tâm đầy rắn nôn mửa ỉa chảy là chứng sài hồ kiêm lý thực.

171. Bệnh như chứng Quế chi, đầu không đau, gáy không cứng, mạch thốn
hơi phù, giữa ngực đầy rắn khí xông lên cổ họng, thở không được, đấy là chứng
ở ngực có hàn, nên cho mửa đi, dùng Qua đế tán.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa của Qua đế tán.

Thích nghĩa: Bệnh như chứng Quế chi là nói có các chứng phát sốt đổ mồ hôi.
Chỉ đầu không đau, gáy không cứng là biết không phải biểu chứng. Mạch thốn hơi
phù, chủ bệnh ở trên, giữa ngực đầy rắn là tà tắc ở ngực. Khí xông lên cổ họng không
thở được là tà thực làm trở ngại khí cơ, nhưng tà có cái thế vượt lên, cho nên nói
“giữa ngực có hàn”. Nội kinh nói: “Tà còn ở trên thì nhân đó mà làm cho mửa ra”
cho nên dùng phép thổ, nên uống Qua đế tán.

Nhận xét: Chữ “hàn” trong câu giữa ngực có hàn nên giải nghĩa như chữ “ Đàm”.
Phàm bệnh thực tích, hàn đàm cước khí đều hay làm cho người ta sợ lạnh phát sốt,
tình trạng giống như bệnh thương hàn, duy đầu không đau, gáy không cứng là có thể
phân biệt. Chứng này tức là do đàm ẩm gây nên, không phải do ngoại cảm dẫn đến,
cho nên xếp vào đây để so sánh với chứng kết hung ở phần trên.

Qua đế tán.

Qua đế 1 phân (sao vàng)

Xích tiểu đậu 1 phân (sao vàng)

165
Hai vị trên đều giã rây riêng thành bột, hợp lại để chữa, lấy 1 thìa con. Dùng
hương Sị 1 cát, nước sôi 7 cát, nấu thành cháo loãng lọc bỏ bã, lấy nước cốt hợp với
thuốc bột, uống ấm cả 1 lần, không mửa thì uống thêm ít ít, mửa được thì thôi không
uống nữa. Những người bị các chứng mất máu, hư yếu, thì không thể cho dùng Qua
đế tán.

Ý nghĩa phương thuốc: Qua đế vị rất đắng, tính đưa lên mà làm cho mửa. Xích
tiểu đậu vị đắng, chua, công năng lợi thủy tiêu thũng. Hai vị phối hợp lại, có công
năng chua đắng làm cho mửa tháo. Hương sị tính nhẹ mát, tuyên tiết, lại hay tăng
thêm sức mửa tháo. Phương này sức mạnh, làm mửa nhiều quá sẽ làm hại đến vị khí,
cho nên người thể hư hoặc mất máu là khi dùng phải thận trọng.

172. Bệnh dưới sườn vốn có đầy tức liền lên đến bên rốn, đau rắn đến bụng
dưới, vào bộ phận sinh dục, như thế gọi là tạng kết, chết.

Tóm tắt: Chứng đầy tức tạng kết thuộc trường hợp rất nguy.

Thích nghĩa: Dưới sườn, bên rốn, và bụng dưới là bộ phận của tam âm. Bệnh
dưới sườn vốn có đầy tức liền đến bên rốn, đau ran đến bụng dưới vào bộ phận sinh
dục, mạch khí âm dương bất hòa, tích lũy lâu ngày, khí âm dương kết ở tạng là chứng
tạng kết rất nguy kịch.

173. Thương hàn sau khi cho thổ và hạ rồi, 7-8 ngày không giải nhiệt kết ở
phần lý, biểu lý đều nhiệt cả, thỉnh thoảng ghê gió, khát lắm, trên lưỡi khô ráo
mà phiền, muốn uống nước đến mấy thăng, dùng Bạch hổ gia Nhân sâm thang
làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh thương hàn sau khi cho thổ cho hạ rồi,
lý nhiệt thấu ra biểu.

Thích nghĩa: Bệnh thương hàn sau khi cho thổ cho hạ rồi, tân dịch bị đoạt hết,
qua 7-8 ngày bệnh thế dần dần tăng thêm chuyển thành chứng nhiệt kết ở phần lý.
Nhiệt ở lý dữ lắm cho nên biểu lý đều nhiệt cả, thỉnh thoảng ghê gió, khát lắm, trên
lưỡi khô ráo mà phiền, muốn uống nước đến mấy thăng mà nhiệt kết ở lý, đấy là kinh
166
dương minh tổn hại tân dịch tương đối nặng, dùng Bạch hổ gia Nhân sâm thang để
thanh tiết lý nhiệt kiêm sinh tân dịch.

174. Thương hàn không nóng miệng ráo khát, tâm phiền, lưng hơi lạnh,
dùng Bạch hổ gia Nhân sâm thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh Thương hàn biểu không nóng dữ.

Thích nghĩa: Thương hàn không nóng dữ là biết nhiệt đã từ biểu vào lý, miệng
ráo khát, tâm phiền, là biết lý nhiệt đã thịnh lắm, cho nên thấy là nhiệt chứng do khí
dịch tổn thương cả hai. Lưng hơi sợ lạnh là nhiệt bốc mà đổ mồ hôi, không phải biểu
tà chưa giải, vì sợ lạnh chỉ ở lưng mà không phải ở cả người. Miệng ráo khát là không
phải trong miệng hòa, đã khác với biểu chứng sợ lạnh của bệnh Thái dương, lại khác
xa với chứng lưng sợ lạnh của bệnh Thiếu âm.

175. Thương hàn mạch phù phát sốt, không mồ hôi, chứng biểu không giải,
không thể cho uống Bạch hổ thang, khát muốn uống nước mà không biểu chứng
thì dùng Bạch bổ gia Nhân sâm thang làm chủ.

Tóm tắt: Lẽ cấm kỵ của chứng Bạch hổ gia Nhân sâm thang.

Thích nghĩa: Cách dùng Bạch hổ thang tất phải ở sau biểu giải rồi, nhiệt bên
trong thịnh mới có thể sử dụng. Nếu bệnh Thương hàn mạch phù, phát sốt, không mồ
hôi, là chứng Ma hoàng thang của Thương hàn, biểu còn chưa giải thời không thể
dùng Bạch hổ thang, trái lại dùng nó thì biểu tà không giải được mà biến chứng nổi
lên lung tung. Nếu khát muốn uống nước, không có biểu chứng là sợ lạnh đã hết, lý
nhiệt đã bốc mạnh, nhiệt thịnh đủ làm cho tổn thương tân dịch, cho nên dùng Bạch
hổ gia Nhân sâm thang để bài tiết nhiệt cứu âm.

176. Tính bệnh Thái dương Thiếu dương, dưới tâm rắn, cố gáy cứng mà
choáng váng, nên châm huyệt Đại chùy, Phế du, Can du, cẩn thận đừng hạ.

Tóm tắt: Tính bệnh Thái dương Thiếu dương nên dùng phép châm không nên
dùng phép hạ.

167
Thích nghĩa: Điều này cùng một bệnh lý với điều 147, dùng phép châm chích
để chữa cũng giống nhau. Điều này nói cẩn thận đừng hạ, điều trước nói không thể
phát hãn phải biết phép hãn, thổ, hạ đều là điều cấm kị của bệnh Thiếu dương. Tính
bệnh Thái dương Thiếu dương cũng chung một lệ ấy, cho nên dùng phép châm.

177. Hợp bệnh Thái dương Thiếu dương, tự ỉa chảy, thì dùng Hoàng cầm
thang, nếu nôn thì dùng Hoàng cầm gia Bán hạ Sinh khương thang.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh Thái dương Thiếu dương ỉa chảy hoặc nôn.

Thích nghĩa: Hợp bệnh Thái dương Thiếu dương là tà Thái dương ở biểu nhập
cả vào Thiếu dương bức bách vào phần lý mà ỉa chảy. Đấy là tà ở dưới mà không ở
trên, nhiệt ở trong mà không ở ngoài, cho nên dùng Hoàng cầm thang để thanh lý
nhiệt làm chủ. Nếu vị khí nghịch lên mà nôn thì có thể gia Bán hạ Sinh khương để
giáng nghịch chỉ ẩu.

Hoàng cầm thang

Hoàng cầm 3 lạng

Thược dược 2 lạng

Chích thảo 2 lạng

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

Bốn vị trên, nước 1 đấu, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng, ngày uống
2 lần, đêm uống 1 lần.

Nếu nôn thì gia Bán hạ ½ thăng (tẩy), Sinh khương 1.5 lạng (thái lát, 1 phương
3 lạng)

Ý nghĩa phương thuốc: Hoàng cầm, Thược dược vị đắng để dứt nóng hỏa phần
âm, Cam thảo, Đại táo vị ngọt để điều hòa trung cung, đời sau dùng làm chủ phương
để chữa chứng nhiệt lợi, nên nghĩa đắng ngọt hợp lại để thanh nhiệt bảo tồn chân âm.

168
Nôn là khí nghịch, gia Bán hạ vị cay tính giáng xuống, Sinh khương cay tán, thời khí
nghịch giáng xuống được, chứng nôn cũng tự khỏi.

178. Thương hàn trong ngực có nhiệt, trong dạ dày có tà khí, trong bụng
đau, muốn nôn mửa, dùng Hoàng liên thang làm chủ.

Tóm tắt: Biện về phép chữa chứng thượng nhiệt hạ hàn, đau bụng nôn mửa.

Thích nghĩa: Thương hàn dương khí uất vào trong ngực, trong dạ dày có tà khí,
làm cho tỳ vị thăng giáng thất thường. Vị khí không giáng xuống được nên không có
nhiệt mà muốn nôn mửa. Tỳ khí không thăng được nên trung tiêu có hàn mà đau bụng.
Tà khí trở trệ ở giữa, hàn nhiệt chia cắt trên dưới cho nên dùng Hoàng liên thang để
chủ trị.

Hoàng liên thang.

Hoàng liên 3 lạng

Chích thảo 3 lạng

Can khương 3 lạng

Quế chi 3 lạng

Nhân sâm 2 lạng

Bán hạ ½ thăng (tẩy)

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

Bảy vị trên dùng nước 1 đấu, nấu lấy 6 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm, ngày uống
ba lần, đêm uống 2 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là thuốc hàn thuốc nhiệt dùng chung, chủ
trị ở vị, Hoàng liên để thanh giải nhiệt ở lồng ngực, Can khương ôn lý hàn của tỳ vị,

169
Quế chi tuyên thông dương khí trên dưới, Nhân sâm, Cam thảo, Đại táo hòa vị an
trung, Bán hạ giáng nghịch chỉ ẩu, vị khí hòa thời nôn mửa và đau bụng tự khỏi.

179. Thương hàn 8 -9 ngày, phong thấp va chạm nhau, mình mảy đau phiền
không thể tự trở trăn được, không nôn, không khát, mạch phù hư mà sáp, dùng
Quế chi Phụ tử thang làm chủ nếu người bệnh đại tiện rắn tiểu tiện lợi thì khử
Quế gia Truật thang làm chủ.

Tóm tắt: Biện về chứng trạng và cách chữa trường hợp phong thấp va chạm
nhau.

Thích nghĩa: Thương hàn kinh qua 8 -9 ngày, phong và thấp va chạm nhau, làm
cho mình mẩy đau phiền không trở trăn được, không nôn, không khát là biết không
phải là chứng Thiếu dương, Dương minh là bệnh không ở lý. Mạch phù hư là chủ
phong, sáp là chủ thấp trệ, cho nên dùng Quế chi Phụ tử thang làm chủ để ôn kinh trừ
thấp, nếu người ấy đại tiện rắn, tiểu tiện lợi là khí Thái dương đã hòa mà khí Thái âm
bị thấp tà làm khốn, tỳ mất sự kiện vận, cho nên gia Bạch truật để kiện tỳ táo thấp
làm cho tỳ khí được kiện vận mà tân dịch tự trở về trong trường vị, khử Quế là để
tránh tình trạng tân dịch bị tổn hại lần nữa, cho nên dùng Quế chi khử Quế gia bạch
truật thang để chữa.

Đoạn trước là phong thấp va chạm nhau. Đoạn sau là phong lui mà thấp còn.
Nói chung bệnh thấp thì đại tiện phần nhiều nhão mà tiểu tiện không lợi, kiêm thấy
mình mẩy đau nhiều không trở trăn được là do tỳ bị khốn mà cơ nhục bị thấp trệ, khác
với chứng thấp tà đơn thuần ở lý.

Quế chi Phụ tử thang.

Quế chi 4 lạng (bỏ vỏ)

Phụ tử 3 củ (nướng bóc vỏ hở, xẻ ra)

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Đại táo 12 quả (xé ra)


170
Chích thảo 2 lạng

Năm vị trên nước 6 thăng, sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bã, chia uống 3 lần.

Khử Quế gia Bạch truật thang.

Phụ tử 3 củ ( nướng, bóc bỏ vỏ, xé ra)

Bạch truật 4 lạng

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Chích thảo 2 lạng

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

Năm vị trên, nước 6 thăng, nấu lấy 2 thăng, lọc bỏ bã, chia uống 3 lần, uống lần
đầu người thấy như tê tê, chừng nửa ngày lại uống lần nữa, uống 3 lần đầu người thấy
như choáng váng thì đừng sợ, vì đó là do Phụ tử Bạch truật chạy trong da, trục chưa
hết thủy khí, cho nên gây ra thế, theo phép phải gia Quế 4 lạng. Đây là một phương
hai pháp. Vốn đại tiện rắn tiểu tiện lợi thì bỏ Quế lấy đại tiện không rắn tiểu tiện
không lợi thì nên gia Quế, Phụ tử 3 củ, sợ có nhiều chăng? Người hư yếu hoặc sản
phụ thì nên uống ít hơn.

Ý nghĩa phương thang: Quế chi Phụ tử thang tức là Quế chi khử Thược dược gia
Phụ tử thang mà liều lượng khác nhau, chủ trị đều khác, phương này dùng Quế chi
để trừ phong ở phần biểu, phối hợp với Phụ tử cay nóng để hành dương trừ thấp, Cam
thảo, Khương, Táo để hòa trung tiêu làm cho tà khí phong thấp đắng giải ra ngoài.

Khử Quế gia Truật tức trong Quế chi Phụ tử thang khử Quế gia Truật chủ trị của
nó đại khái giống nhau, duy chứng này do phong tà đã lui, không cần thông dương
nữa, cho nên khử Quế, gia Bạch truật chuyên chủ vào kiện lý hành thấp.

180. Phong thấp va chạm nhau, xương và khớp xương đau phiền, đau siết
không co duỗi được, động đến thì đau dữ dội, đổ mồ hôi, khí đoản, tiểu tiện

171
không lợi, ghê gió, không muốn cởi áo, hoặc mình sưng nhẹ, dùng Cam thảo Phụ
tử thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh phong thấp chứa đọng ở khớp xương.

Thích nghĩa: Phong thấp va chạm với nhau xâm phạm vào khoảng gân cốt, cho
nên khớp xương đau, đau giằng lại không co duỗi được, động đến thì đau dữ dội. Nay
đổ mồ hôi, ghê gió, không muốn cởi áo, hoặc mình hơi sưng là phong thấp trệ ở ngoài,
khí đoản, tiểu tiện không lợi là phong thấp đọng ở trong. Tóm lại là chứng phong thấp
thịnh mà dương khí kém cho nên dùng phương này làm chủ.

Cam thảo Phụ tử thang

Chích thảo 2 lạng

Phụ tử 2 củ (thui, gọt bỏ vỏ, xẻ ra)

Bạch truật 2 lạng

Quế chi 4 lạng (bỏ vỏ)

Bốn vị trên, nước 6 thăng, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã chia uống
ấm ba lần. Uống lần đầu ra được chút mồ hôi thì giải. Nếu ăn được, mồ hôi không ra
nữa mà lại phiền thì uống 5 cáp, sợ 1 thăng nhiều thì lúc đầu cho uống 6-7 cáp.

Ý nghĩa phương thuốc. Phương này chủ trị phong thấp đọng ở
khớp xương, dùng Phụ tử để ôn kinh, tán hàn, định thống; Bạch truật kiện tỳ thắng
thấp; Quế chi, cam thảo tán phong tà mà trợ tâm dương; vì bệnh tà đã vào sâu trong
khớp xương, ý muốn thông hành từ từ, cho nên dùng Cam thảo làm chủ dược.

Lời chú chọn lọc. Châu Vũ Tải nói: “Chứng này so với điều trước là nặng hơn,
nhưng phần lý đã thụ thương sao mà giảm bớt Phụ tử được? Điều trước là phong thấp,
còn ở ngoài, ở ngoài mà muốn cho nó hết nhanh, điều này là phong thấp đã vào nửa
phần lý, vào phần lý thì công từ từ mới hay. Chính Trọng Cảnh sợ dùng nhiều Phụ tử
vào thời tính mạnh lại gấp, các khiếu ở gân, khớp xương vị tất đã mở ra được ngay,

172
tà khí phong thấp làm sao mà đẩy ra được, như thế chỉ làm cho mồ hôi ra nhiều mà
tà khí không hết được. Lấy Cam thảo làm vị quân là muốn hòa hoãn, sức hòa trung ít
mà tác dụng của thuốc lại nhiều. Đấy sở dĩ Trọng Cảnh dùng Phụ tử 3 củ chia uống
ba lần như điều trước, còn điều này chỉ dùng 2 củ “Uống lần đầu 5 cáp, sợ một thăng
là nhiều thì lúc đầu cho uống 6-7 cáp” toàn là có ý không muốn uống hết thang. Học
giả đối với sách Trọng Cảnh có chỗ chưa hiểu được thì suy tìm trong lời văn này sẽ
tự hiểu được”.

181. Thương hàn mạch phù hoạt, đây là phần biểu có nhiệt, phần lý có hàn,
dùng Bạch hổ thang làm chủ.

Tóm tắt: Biện về mạch và chứng của Bạch hổ thang.

Thích nghĩa: Thương hàn mạch phù hoạt, phù là nhiệt thịnh ở ngoài, hoạt là
nhiệt thịnh ở trong, đấy là biểu lý đều nhiệt cả, là chỉ về Thái dương hóa nhiệt đã
chuyển thành mạch Dương minh. Bệnh Dương minh nhiệt thịnh thì sẽ xuất hiện các
chứng đổ nhiều mồ hôi, phiền khát v.v…, cho nên dùng Bạch hổ thang để thanh tiết
nhiệt tà. Điều này nói rõ mạch mà lược bỏ chứng, vả lại câu “Biểu có nhiệt lý có hàn”
nghi có lầm lẫn, các nhà chú thích có người nói chữ “Biểu hàn lý nhiệt” lại có kẻ cho
là lầm chữ “Bạch thông” sang chữ “Bạch hổ”, đều là những lời giải thích cưỡng ép,
nên tồn nghi chờ khảo cứu.

Bạch hổ thang

Tri mẫu 6 lạng

Thạch cao 1 cân (giã)

Chích thảo 2 lạng

Gạo tẻ 6 cáp

Bốn vị trên, nước 1 đấu, nấu gạo chín là được, lọc bỏ bã, uống
ấm 1 thăng, ngày uống ba lần.

173
Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là phương thuốc thanh nhiệt
ích khí, bảo vị dưỡng âm.

182. Thương hàn, mạch kết đại, tâm động hồi hộp, dùng
Chích Cam thảo thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp tâm huyết không đủ, tâm dương
không phấn chấn.

Thích nghĩa: Mạch kết đại đều có dịp ngừng. Mạch kết đại là sau khi ngừng rồi
trở lại hơi sác, mạch đại là sau khi ngừng rồi, trở lại hơi trì, đều thuộc về chứng lý hư.
Tâm động hồi hộp là tâm huyết không đủ tâm dương không phấn chấn, cho nên dùng
Chích Cam thảo thang làm chủ.

Chích Cam thảo thang

Chích thảo 4 lạng

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Nhân sâm 2 lạng

Sinh địa 1 cân

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

A giao 2 lạng

Mạch môn 1/2 cân (bỏ tim)

Ma nhân 1/2 thăng

Đại táo 30 quả (xẻ ra)

Chín vị trên, dùng rượu trắng 7 thăng, nước 8 thăng nấu trước 8
vị lấy ba thăng, lọc bỏ bã, cho A giao vào quấy cho tan hết, uống ấm 1 thăng, ngày
uống ba lần. Còn gọi là Phục mạch thang.
174
Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là thang thuốc thông dương
phục mạch, tư âm bổ huyết, dùng Chích cam thảo làm đầu vị, để dưỡng tỳ vị, bổ trung
khí, Nhân sâm, Sinh địa, A giao, Mạch môn, Ma nhân để tư âm bổ huyết, Sinh khương,
Đại táo để điều hòa tỳ vị, thuốc ngọt lạnh tất được khí dương ấm, mới có thể hóa dục
được, cho nên dùng Quế chi để thông tâm dương; lấy rượu trắng để thông kinh lạc
thời mạch thông lợi, chứng tim hồi hộp tự hết, cho nên phương này lại gọi là Phục
mạch thang.

183. Chẩn mạch thấy mạch đều hoãn, có lúc ngừng lại một
lần rồi lại có, gọi là mạch kết, lại như mạch đến nhảy động mà giữa chừng lại
ngừng lại rồi lại hơi sác, trong khi hơi sác đó lại trở lại nhảy động gọi là mạch
kết, âm mạch đến nhảy động mà giữa chừng ngừng không tự trở lại được nhân
đó lại nhảy động gọi là mạch đại âm gặp thứ mạch ấy tất khó chữa.

Tóm tắt: Điều này tiếp theo điều trên nói về đặc trưng của mạch
kết, mạch đại và tiên lượng của nó.

Thích nghĩa: Mạch đến 1 hơi thở 4 chi là đúng nếu mạch đi từ
hoãn mà giữa chừng ngừng 1 cái, ngừng rồi lại đến, là mạch kết, mạch đại. Nếu mạch
đến tiếp mà thấy hơi sác, trong khi ngừng lại rồi lại đến hơi sác, tức có thể tự trở lại
nhảy động, đấy là tà kết ở huyết phận, kinh mạch bị trở ngại không lưu hành, gọi là
“Kết âm”. Nếu mạch tiếp theo đó không thấy sác cho đến mạch sau đã đến mới thấy
tiếp tục nhảy động, đấy là mạch âm không thể tự trở lại, nên mạch dương thay thế đó
để động, gọi là mạch “Đại âm”.

Mạch đập là nhờ tác dụng của nhịp điệu của âm dương vinh vệ, nên âm dương
mất điều hòa, khí huyết vì hư mà không vận hành bình thường được, đều thuộc trường
hợp khó chữa.

Nhận xét: Chứng này, mạch kết đại là dấu hiệu âm dương khí huyết mất điều
hòa, cho nên nói là chứng khó chữa. Ngoài ra còn trường hợp té ngã, đàn bà có mang,
sau cơn xuất huyết, hoặc đàm ẩm kết tụ ở trong, cũng thường thấy mạch này thời

175
không phải là khó chữa. Cũng có người suốt đời thấy mạch mà vô bệnh, thì đấy là
hiện tượng sinh lý mà không phải là mạch bệnh.

176
BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH DƯƠNG MINH

184. Hỏi: bệnh có Thái dương Dương minh, có Chính dương Dương minh,
có Thiếu dương Dương minh là nói thế nào?

Đáp : Thái dương Dương minh là chứng tỳ ước, Chính dương Dương minh
là chứng vị gia thực, Thiếu dương Dương minh sau khi phát hãn lợi tiểu tiện rồi
thì trong vị táo, phiền thực, đại tiện khó đi.

Tóm tắt: bệnh Dương mình theo nguyên nhân gây bệnh khác nhau mà phân làm
ba loại.

Thích nghĩa: điều này tự đặt ra câu hỏi đáp để thuyết minh về nguyên nhân gây
bệnh khác nhau, nặng nhẹ khác nhau của bệnh dương minh, nói tóm lại có thể phân
làm ba loại tức là Thái dương Dương minh, Chính dương Dương minh và Thiếu
dương Dương minh. Ba loại ấy về nguyên nhân gây bệnh tuy có khác nhau, nhưng
đều là do nhiệt thịnh trong mà làm trường vị trở nên thực (đầy chắc) chỉ có một lý do
mà thôi.

Thái dương Dương minh là vì bệnh ở Thái dương thể chất người bệnh vốn là vị
mạnh tỳ yếu, tỳ không chuyển vận được, trở trệ tân dịch làm cho trường vị trở nên
táo nhiệt, đại tiện táo bón gọi là chứng “Tỳ ước”.

Chính dương Dương minh là trường vị vốn đã có nhiệt, tà nhập vào hóa ra táo,
nhân táo nhiệt đó mà thành ra thực, gọi là chứng “vị gia thực”.

Thiếu dương Dương minh là vì bệnh Thiếu dương sau khi phát hãn lợi tiểu tiện
rồi, trường vị do tân dịch bị tổn thương mà táo, nhân táo đó mà phiền thực, gây ra đại
tiện khó đi.

185. Sinh Dương minh bệnh là vị gia thực vậy.

Tóm tắt: Đề cương bệnh Dương minh.

177
Thích nghĩa: Bệnh Dương minh là do vị gia thực mà hình thành. Vị gia thực là
nói bao quát cả trường vị, thiên Bản thâu sách Linh khu nói: “Tiểu trường Đại trường
đều thuộc về vị” vị là cái bể chứa cơm nước, khi nhiệt tà vào vị nếu là nhiệt tà vô
hình thì sẽ tràn lan trong toàn thân, gọi là Dương minh kinh chứng, nếu nhiệt tà vào
vị cùng chất cặn bã kết chặt ở khoảng ruột gây ra không đi đại tiện được hoặc thành
phân táo thì gọi là Dương minh phủ chứng.

186. Hỏi: Vì Sao mà bệnh Dương minh?

Đáp: Bệnh Thái Dương nếu phát hãn, nếu hạ, nếu lợi tiểu tiện làm mất hết
tân dịch thì trong vị bị khô táo, do đó mà chuyên thuộc chứng Dương minh,
không đi đại tiện mà kết chặt lại ở trong rồi đại tiện khó, đấy gọi là bệnh Dương
minh.

Tóm tắt: bệnh Thái dương chữa nhầm mất tân dịch chuyển thành Dương minh.

Thích nghĩa: nguyên nhân gây thành bệnh Dương minh không phải có một mối,
điều này là bệnh Thái Dương vì quá phát hãn, hoặc hạ, hoặc lợi tiểu tiện làm cho tân
dịch hao tổn, trong vị khô táo, nhiệt thực ở lý mà chuyển thuộc Dương minh, nhiệt
thực ở lý là táo nhiệt kết ở trong mà thành thực, đại tiện khó là đi ngoài khó khăn. Ba
điều ấy tuy có phân chia nặng nhẹ khác nhau nhưng đều là do trường vị nhân táo mà
thành nhiệt, nhân nhiệt mà thành thực, tức là vị gia thực, cho nên nói “ Đấy là bệnh
Dương minh”.

Lời chú chọn lọc: Chương Hư Cốc nói : “ Đấy gọi là chứng Thái Dương Dương
minh do điều trị không tốt từ ban đầu làm tổn thương tân dịch, vì mồ hôi với nước
tiểu đều do cốc khí hóa ra, cốc khí bị tiết ra hết thì kiệt tân dịch, nếu cho hạ thì trong
dạ dày trống rỗng, tà lại thừa hư mà chuyển thuộc chứng Dương minh, trở thành
chứng nội thực khô táo nên đại tiện đi khó”.

187. Hỏi: Dấu hiệu bên ngoài của bệnh Dương minh thế nào? Đáp: Mình
nóng, tự đổ mồ hôi, không sợ lạnh mà sợ nóng.

Tóm tắt: Dấu hiệu bên ngoài của bệnh Dương minh.
178
Thích nghĩa: Minh nóng, tự đổ mồ hôi, không sợ lạnh mà lại sợ nóng là chứng
thể hiện bên ngoài của bệnh Dương minh. Nhiệt bên trong quá thịnh bốc ra ngoài,
cho nên thể hiện ra chứng mình nóng tự đổ mồ hôi, không sợ lạnh là nói không có
biểu tà, lại sợ nóng là nói có lý nhiệt. Bởi vì gia thực là bệnh căn, mình nóng tự đổ
mồ hôi là ngoại chứng, không sợ lạnh mà lại sợ nóng, đấy là chứng tất yếu của bệnh
Dương minh cần phải hiện rõ.

188. Hỏi: Có khi bệnh mới mắc một ngày, không phát sốt mà sợ lạnh là sao
vậy? Đáp: Tuy thế nhưng được một ngày thì chứng sợ lạnh tự hết và sẽ tự đổ
mồ hôi mà sợ nóng.

Tóm tắt: Chứng thể hiện ra lúc mới cảm ngoại tà của bệnh Dương minh.

Thích nghĩa: Điều này tự đặt ra hỏi đáp để bổ sung cho lời văn trên, Hỏi: Đặc
điểm của bệnh Dương minh là không phải sợ lạnh nhưng lúc Dương minh mới cảm
ngoại tà tức là mới mắc một ngày, cũng có khi không phát sốt mà sợ lạnh, đấy là vì
sao? Đáp: bệnh Dương minh mà không phải sốt là lúc mới cảm dương khí còn uất
vào trong, nhiệt chưa thịnh lắm, nhưng không bao lâu nhiệt tà bốc ra thì chứng sợ
lạnh tự hết, thời gian sợ lạnh rất ngắn liền thấy phát sốt, cùng một lúc với phát sốt là
thấy ngay các chứng tự đổ mồ hôi, sợ nóng.

Lời chú chọn lọc: Kha Vận Bá nói: “ Kinh này lúc mới thụ bệnh, chứng sợ lạnh
tuy giống với bệnh Thái Dương, nhưng không có chứng đau đầu cứng gáy là có thể
phân biệt, Chứng phát sốt đổ mồ hôi cũng giống với chứng của Quế chi thang ở bệnh
Thái dương, nhưng bệnh tình không sợ lạnh mà lại sợ nóng là mấu chốt của kinh
Dương minh.

189. Hỏi : Chứng sợ lạnh vì sao tự hết ? Đáp : Dương minh ở giữa chủ hành
thổ, vạn vật đều quy về đó, không truyền đi đâu nữa, ban đầu tuy sợ lạnh, hai
ngày tự hết, đấy là bệnh Dương minh.

Tóm tắt : Nguyên nhân của chứng sợ lạnh tự hết.

179
Thích nghĩa : Điều này tiếp theo điều trên, tự đặt ra câu hỏi đáp. Hỏi : Chứng
sợ lạnh vì sao tự hết ? Trước khi chưa trả lời vì sao mà chứng sợ lạnh tự hết, đã trình
bày về bộ vị công năng tính chất bệnh lý và ngụ có phép chữa của bệnh Dương minh,
nói tỳ vị đều thuộc về trung thổ, vị phủ ở chính giữa nhân thể, có công năng thu nạp
cơm nước, tính nó chủ táo, hễ vị táo, nhân táo đó mà thành thực, tà sẽ lưu ở trong mà
chẳng chịu lui, tất chờ hạ đi mà sau mới khỏi. Cho nên nói : “Dương minh ở giữa,
chủ hành thổ, vạn vật đều quy về đó, không truyền đi đâu nữa”, tức là nghĩa ấy không
phải bàn phiếm rằng bệnh Dương minh là nhất thiết không truyền biến.

Một chứng sợ lạnh, tuy có thấy từ lúc mới mắc bệnh, nhưng đến khi hai ngày
sau khi tà theo táo hóa tồi tất nhiên sẽ tự hết, đấy là lý do của chứng sợ lạnh tự hết
trong bệnh Dương minh.

190. Vốn bệnh Thái dương lúc mới mắc cho phát hãn, mồ hôi ra trước
không được thấu suốt, nhân đó mà chuyển thuộc vào Dương minh, thương hàn
phát sốt không có mồ hôi, nôn, ăn không được mà trái lại mồ hôi ra dâm dấp là
tà chuyển thuộc vào Dương minh.

Tóm tắt : Bệnh Thái dương phát hãn không đúng cách hoặc nhiệt tà thịnh quá
đều có thể chuyển thành bệnh Dương minh.

Thích nghĩa : Điều này chia làm hai đoạn : Đoạn I nói bệnh Thái dương lúc mới
mắc, vốn phải phát hãn, vì phát hãn không đúng cách làm cho tà chưa lui vào phần lý
hóa thành nhiệt, nhân đó mà chuyển thành bệnh Dương minh. Đoạn II nói bệnh
Thương hàn phát sốt không có mồ hôi là chứng Thái dương chưa khỏi, nôn, ăn không
được là nhiệt làm trở ngại trong dạ dày mà thể hiện chứng trạng ra mồ hôi đâm dấp,
đấy cũng là chuyển thành bệnh Dương minh.

Trần Tu Viên nói : “Các điều trên nói về bản thân kinh Dương minh tự gây bệnh,
ở đây lại nói rõ thêm bệnh Thái dương chuyển thành bệnh Dương minh, ngoài sự vì
phát hãn nhiều quá làm mất tân dịch ra, còn có khi vì mồ hôi mà không được thấu
suốt mà chuyển thành, và có khi không phải vì phát hãn mà chuyển thành, đó là gồm
cả lúc thường và lúc biến mà nói như vậy”.
180
191. Thương hàn 3 ngày bệnh Dương minh mạch Đại.

Tóm tắt : Mạch chủ yếu của bệnh Dương minh.

Thích nghĩa : Bệnh Dương minh là chứng lý nhiệt, chính tà đều thịnh cả, tà nhập
vào lý hóa thành nhiệt, lý nhiệt đã thịnh, khí bốc ra ngoài cho nên mạch ứng theo đó
mà thấy đại.

Lời chú chọn lọc. Sách Kim Giám nói : “Thương hàn 1 ngày là Thái dương, 2
ngày là Dương minh, 3 ngày là Thiếu dương, đó là sách nội kinh nói về thứ tự truyền
kinh, nhưng không cần phải câu nệ vào số ngày. Đây nói 3 ngày, bệnh Dương minh
mạch đại là nói không kiêm mạch phù đại của bệnh Thái dương Dương minh, cũng
không kiêm mạch huyền đại của bệnh Thiếu dương Dương minh mà thấy chính mạch
đại của chứng chính dương Dương minh, vì từ biểu truyền vào lý, tà nhiệt nhập vào
vị mà thành chứng nội thực, cho nên mạch mới thấy như thế ’’.

192. Thương hàn mạch phù mà hoãn, chân tay tự ấm đấy là thuộc về
bệnh Thái âm, bệnh Thái âm thì mình phát vàng, nếu tiểu tiện tự lợi thì không
sinh ra phát vàng, đến 7-8 ngày đại tiện rắn lại là bệnh Dương minh.

Tóm tắt: Chứng Thái âm chuyển thuộc vào Dương minh.

Thích nghĩa: Mạch phù hoãn tuy giống mạch Thái dương trúng phong, nhưng
mình không nóng mà chân tay tự ấm thì không phải chứng trúng phong; cho nên nói :
“thuộc về Thái âm” Bệnh Thái âm thấp thịnh dương kém không thể ôn vận được, nếu
hàn thấp ứ trệ thì mình phát vàng, nếu tiểu tiện thông lợi, thấp tiết theo xuống dưới
thì không thể phát vàng được. Đó là trình bày bệnh lý của Thái âm hàn thấp phát vàng.
Nếu 7-8 ngày đại tiện rắn là thấp đã hóa táo, là chứng trạng chuyển thuộc Dương
minh.

193. Thương hàn chuyển vào Dương minh thì người bệnh hơi đổ mồ hôi
dâm dấp.

Tóm tắt: Dấu hiệu thương hàn chuyển vào Dương minh.

181
Thích nghĩa: Điều này tiếp theo điều trên mà nói, do thương hàn chuyển
thành Dương minh, trừ chứng đại tiện rắn ra, còn có chứng hơi ra mồ hôi dâm dấp có
thể làm bằng chứng.

194. Dương minh trúng phong, miệng đắng họng khô, bụng đầy hơi
suyễn, phát sốt sợ lạnh, mạch phù mà khẩn, nếu cho hạ thì bụng đầy, tiểu tiện
khó.

Tóm tắt: bệnh Dương minh biểu là chưa giải, phải cẩn thận đừng dùng phép
hạ.

Thích nghĩa: Dương minh trúng phong hiện chứng thấy miệng đắng họng
khô là chứng của Thiếu dương, bụng đầy hơi suyễn là chứng của Dương minh, phát
sốt sợ lạnh, mạch phù mà khẩn là chứng của Thái dương. Chứng này tuy thuộc về
Dương minh trúng phong, nhưng vì không có chứng sốt cơn nói sảng là nhiệt chưa
thành thực, vì còn có chứng Thái dương, Thiếu dương, cho nên không hạ được, nếu
hạ sẽ dẫn đến tà hãm vào trong mà bụng càng đầy nặng, tổn thương tân dịch, cho nên
tiểu tiện khó.

Lời chú chọn lọc. Trinh Tri nói: “ Đây là nói Dương minh kiêm có tà của
Thái dương Thiếu dương thì không thể công được, Dương minh trúng phong là nhiệt
tà, bụng đầy mà suyễn là nhiệt tà nhập lý, nhưng suyễn mà ít thì chưa phải hoàn toàn
nhập lý. Phát sốt sợ lạnh mạch phù mà khẩn đều là chứng Thái dương chưa trừ hết.
Miệng đắng họng khô là còn có chứng bán biểu bán lý của Thiếu dương. Nếu nhầm
cho hạ thời biểu tà chưa hư hãm vào trong mà bụng càng đầy thêm, kiêm có mất nhiều
tân dịch cho nên tiểu tiện khó”.

195. Bệnh Dương minh nếu ăn được gọi là trúng phong, không ăn được
gọi là trúng hàn.

Nhận xét: Bệnh Dương minh ăn được hay không ăn được là có quan hệ nhất
định với vị trí khỏe hay yếu. Đây lấy ăn được hay không để biện trúng phong hay
trúng hàn, ý nghĩa chưa rõ, nên tồn nghi chờ khảo cứu.

182
196. Bệnh Dương minh nếu trúng hàn không ăn được, tiểu tiện không
lợi, tay chân ra mồ hôi dâm dấp, đấy là muốn thành bệnh cố hà (1) tất đi ngoài
đầu rắn sau nhão, sở dĩ như vậy là vì trong dạ dày lạnh, cơm nước không phân
biệt(2) cho nên như thế.

Tóm tắt: Dương minh trúng hàn muốn phát bệnh cố hà.

Thích nghĩa: Người bình thường vị dương không đủ, lại cảm hàn tà dương ở
trung tiêu kém, làm cho công năng hóa khí hành thủy bị trở ngại, cho nên xuất hiện
chứng trạng ăn không được với tiểu tiện không lợi, chân tay dâm dấp mồ hôi, có
giống như chứng Dương minh lý thực, nhưng đằng kia thì táo nhiệt thịnh ở trong, tân
dịch bị bốc mà ra ngoài, đằng này thì âm hàn thịnh ở trong, dương khí không vững
chắc mà tiết ra ngoài, bởi vì chân tay bẩm khí ở tỳ vị cho nên ra mồ hôi phần nhiều
thấy ở tay chân, vẫn phải chú ý tiểu tiện lợi hay không lợi, nếu tiểu tiện lợi thì thuộc
Dương minh, không lợi thì thuộc Thái âm, đây tức là ý nghĩa câu “ Thực thời Dương
minh, hư thời Thái âm”.

Các chứng kể trên tự nhiên hình thành chứng tỳ vị trên thấp dưới táo, gây nên
đại tiện đầu rắn sau nhão, có cái thế muốn gây nên bệnh “cố hà”. Nguyên nhân chủ
yếu gây nên là do cái cớ trong dạ dày lạnh, đi ngoài đồ ăn chưa tiêu còn lẫn với nước.

197. Bệnh Dương minh ban đầu muốn ăn mà tiểu tiện lại không lợi, đại
tiện đi điều hòa, người bệnh đau trong đốt xương, hâm hấp như có sốt, bỗng
nhiên phát cuồng, mồ hôi ra dâm dấp mà giải, đây là nước không thắng được
cốc khí, cùng chung với mồ hôi, mạch khẩn thời khỏi.

Tóm tắt: Chứng Dương minh trúng phong thủy thấp theo ra biểu mà tự khỏi.

Giải thích chữ khó:


1
Cố hà. Là một thứ bệnh do ấm lạnh không thích đáng, thủy cốc không tiêu, cùng với khí của tạng
va chạm nhau, kết ở trong bụng.
2
Cơm nước không phân biệt. Trong khi đi ngoài đồ ăn còn nguyên không hóa, cùng hỗn hợp với
chất nước mà ra.
183
Thích nghĩa: Bệnh Dương minh ban đầu muốn ăn mà đại tiện tự điều hòa,
đủ thấy Dương minh vị khí còn khỏe, đấy là thuộc chứng Dương minh trúng phong.
Nay tiểu tiện không lợi và còn đau trong đốt xương hâm hấp như có sốt, đấy là thủy
thấp uất trệ không ra theo đường tiểu tiện được, chảy vào khớp xương, lâu ngày hóa
thành nhiệt mà gây nên. Bởi vì người bệnh vị khí còn khỏe, chính khí có thể chống
đỡ với tà khí, thấp khí uất đã lâu, không thể hóa ngay được cho nên trong khi chính
khí và tà khí giao tranh, bệnh nhân có chứng trạng bỗng dưng phát cuồng liền theo
đổ mồ hôi mà giải. Đấy là chính khí thắng được tà khí thủy thấp, nhân đó thấp tà cùng
hợp với mồ hôi bài tiết ra ngoài thân thể. Trong lúc chính khí đang phấn chấn, sinh
ra sức chống tà khí, nếu thấy mạch khẩn là biết chính khí đang đuổi tà khí ra ngoài,
cho nên bệnh tự khỏi. Điều này với điều 196 đều có chứng tiểu tiện không lợi, nhưng
đằng kia là lạnh ở trung tiêu không ăn được, đằng này là vị khí bình thường mà ăn
được, đằng kia là đại tiện đầu rắn sau nhão, đằng này là đại tiện tự điều hoà, như vậy
chứng tiểu tiện không lợi tuy giống nhau mà về hư thực biểu lý thì khác nhau.

198. Bệnh Dương minh thời giờ muốn khỏi là từ giờ thân đến trước giờ
tuất.

Tóm tắt: Dự đoán thời giờ muốn khỏi của bệnh Dương minh.

Thích nghĩa: Khí của Dương minh vượng ở giờ thân, dậu, tuất, lúc ấy là
chính khí được giúp sức, chính khí có thể thắng tà khí, cho nên bệnh tự giải.

Nhận xét: Trong 6 kinh đều có 1 điều nói về giờ muốn khỏi, vì chưa có thể
chỉ đạo lâm sàng được, nên tồn nghi chờ khảo cứu.

Lời chú chọn lọc: Vua Tại Kinh nói: “ Giờ thân, dậu, tuất là lúc xế chiều, sốt
cơn của bệnh Dương minh là phát về chiều, bệnh Dương minh giải cũng về xế chiều
thì thân, dậu, tuất là giờ của Dương minh, cảm bệnh thì tà khí phát vào lúc ấy, lành
bệnh thì chính khí hồi phục cũng vào lúc ấy”.

184
199. Bệnh Dương minh không ăn được, nếu nhiệt sẽ sinh chứng ọe, sở dĩ
như thế là do trong dạ dày hư lạnh? Bởi vì người bệnh vốn hư cho nên công
nhiệt sẽ sinh chứng ọe.

Tóm tắt: trong dạ dày hư lạnh, không ăn được thì không thể công hạ.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh trong dạ dày lạnh không ăn được là thuộc
về vị hàn, nếu nhận chứng không ăn được là thuộc về vị gia thực mà công nhiệt, thì
sẽ làm cho vị bại, khí nghịch mà sinh ra chứng ọe, bởi vì người bệnh vốn hư công
thời phạm cái tệ “ đã hư lại làm cho hư thêm”.

200. Bệnh Dương minh mạch trì, không ăn no được, no thời hơi phiền
đầu choáng váng, tiểu tiện khó, đấy là muốn thành chứng cốc đản (1) tuy cho hạ
mà bụng đầy vẫn y nguyên, sở dĩ như vậy là vì mạch trì.

Tóm tắt: Bệnh Dương minh mạch trì muốn thành chứng cốc đản.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh đáng lý mạch hồng đại hoặc trầm thực, nay
mạch lại trì là chứng vị dương hư yếu là dương minh hàn ở trung tiêu. Chứng này
không thể cho ăn uống nhiều, nếu cố ăn no quá làm khí cơ của tỳ vị bị trở trệ thì cơm
nước không hóa được, uất ở trung tiêu, tất nhiên là vì đồ ăn uất ở trung tiêu mà dẫn
đến chứng hơi phiền, khí thanh dương không thăng lên thì xuất hiện chứng đầu
choáng, khí trung tiêu không hòa, chất nước không tiết xuống dưới cho nên nói “ tiểu
tiện đi khó”. Nếu không chạy chữa kịp thời và thích đáng sẽ vì cơm nước không tiêu,
thấp tà uất lại bên trong lâu ngày mà thành chứng cốc đản. Lúc ấy nên tùy chứng
dùng phép ôn trung trừ thấp để chữa, nếu nhầm dùng phép hạ thì chứng đầy bụng sẽ
không bớt mà vẫn y nguyên, thậm chí có thể làm cho thể bệnh càng nặng thêm, nếu
mạch trì là không thể hạ.

201. Bệnh Dương minh đáng lý nhiều mồ hôi nhưng lại không có mồ hôi,
mình mẩy như có sâu bò trong da, đấy là vì hư đã lâu rồi.

1
Cốc đản: dân gian gọi là chứng “phậy cơm”. Người bệnh mới dậy ăn trả bữa, không tiêu hóa kịp mà
phát phù, vàng da, không phải chữa, chỉ giảm lượng ăn dần thì hết (N.D)
185
Tóm tắt: Ngoại chứng của người hư đã lâu mà cảm của bệnh Dương minh.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh vì nóng bên trong xông bốc, tân dịch bị bức
bách, đáng lẽ có nhiều mồ hôi, nay lại không có mồ hôi, như thế chẳng những âm suy
dương kém, tân dịch không đủ mà lại kiêm dương hư mất sức ôn hòa, không làm cho
mồ hôi thoát ra ngoài được, cho nên có cảm giác mình mẩy ngứa như có sâu bò trong
da. Điều này với điều 23 cùng có chứng mình ngứa, nhưng chứng kia là do tà uất ở
cơ biểu không phát ra được, phép chữa nên phát hãn nhẹ để đuổi tà, chứng này là
chứng chính khí hư tân dịch kém, không thể làm cho mồ hôi phát ra biểu được, phép
chữa phải dưỡng tân dịch để phù chính khí.

202. Bệnh Dương minh không có mồ hôi mà tiểu tiện lợi, 2 -3 ngày nôn mà
ho, chân tay quyết lạnh tất khổ vì đau đầu, nếu không ho không nôn, chân tay
không quyết lạnh thì đầu không đau.

Nhận xét: Ý nghĩa điều văn này chưa thuần, sợ có thuyết văn, nên tồn nghi
chờ khảo cứu.

203. Bệnh Dương minh chỉ đầu choáng không sợ lạnh, cho nên ăn được mà
ho, người bệnh đau họng , nếu không ho thì họng không đau.

Tóm tắt: Chứng trạng Dương minh trúng phong, nhiệt tà nghịch lên.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh trúng phong do cảm tà rồi nhập vào lý, hóa
thành nhiệt, nhiệt tà phạm lên đầu cho nên đầu choáng, nghịch lên phế nên ho, vị
nhiệt tiêu cơm cho nên ăn được. Họng là cửa của bệnh hô hấp, quan hệ với phế, phế
bị nhiệt xâm phạm thời họng đau, nếu không ho thời họng cũng không đau, nghĩa là
họng đau do ho dẫn đến.

204. Bệnh Dương minh không có mồ hôi, tiểu tiện không lợi, trong tâm ảo
não, mình phát vàng.

Tóm tắt: Chứng phát vàng do thấp nhiệt uất át của bệnh Dương minh.

186
Thích nghĩa: Bệnh Dương minh phần nhiều có mồ hôi, tiểu tiện tự lợi. Nếu
như Bệnh Dương minh không đổ mồ hôi là thấp nhiệt không thể tán ra ngoài, tiểu
tiện không lợi là thủy thấp không thể chạy xuống dưới được. Thấp và nhiệt bốc ở bên
trong thời mình mẩy phát vàng. Do đó có thể thấy không có mồ hôi và tiểu tiện không
lợi là nhân tố chủ yếu của bệnh Dương minh phát vàng, thấp nhiệt uất bốc quấy rối
tâm hung cho nên trong tâm ảo não.

205. Bệnh Dương minh bị dùng cách chườm nóng, trên trán có đổ mồ hôi
chút ít mà tiểu tiện không lợi, phát vàng.

Tóm tắt: Bệnh Dương minh bị dùng cách chườm nóng mà sinh chứng phát vàng.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh thầy thuốc nhầm dùng cách chườm nóng để
chữa, hòa hợp với nhiệt, hai thứ ấy cùng xông đốt, làm cho dương tà càng thịnh lại
kiêm có chứng mình không đổ mồ hôi mà tiểu tiện không lợi nên thấp nhiệt không
lối thoát, thấp nhiệt xông lẫn nhau, thấp uất ở trong, nhiệt không lối thoát thì chỉ có
thể bốc lên trên, cho nên chỉ hơi đổ mồ hôi trên trán là bộ vị của Dương minh.

Lời chú chọn lọc: Thành Vô Kỷ nói: “ Bệnh Dương minh là nội nhiệt, dùng
phép chườm nóng, hỏa và nhiệt hợp với nhau mà càng dữ thêm. Nếu khắp mình đổ
mồ hôi mà tiểu tiện tự lợi, nhiệt tiết được ra ngoài thì không hay phát vàng. Nay trên
trán đổ mồ hôi mà tiểu tiện không lợi thời nhiệt không thoát ra được, uất bốc ở dạ
dày, nên phát vàng”.

206. Bệnh Dương minh mạch phù mà khẩn, sốt cơn phát lên đúng lúc, nếu
chỉ mạch phù thì đổ mồ hôi trộm.

Tóm tắt: Biện chứng về bệnh Dương minh mạch phù khẩn và mạch chỉ có phù.

Thích nghĩa: Mạch phù khẩn, phát sốt sợ lạnh là bệnh Thái dương, nếu bệnh
Dương minh mạch phù khẩn mà thấy sốt cơn là nhiệt bốc ở ngoài, tà thực ở trong cho
nên sốt cơn phát lên có lúc, mạch chỉ phù mà không khẩn là nhiệt bốc ở ngoài cho
nên đổ mồ hôi trộm.

187
Nhận xét: Điều này lấy mạch để suy chứng, nên tồn nghi chờ khảo cứu.

207. Bệnh Dương minh, miệng ráo chỉ muốn súc miệng không muốn nuốt,
đấy tất sinh nục huyết.

Tóm tắt: biện chứng về bệnh Dương minh nhiệt ở huyết phận gây chứng chảy
máu cam ( nục huyết).

Thích nghĩa: Dương minh kinh chứng khát mà hay uống là nhiệt ở khí phận.
Nay miệng khô là Dương minh có nhiệt, không phiền khát muốn uống mà chỉ súc
miệng không muốn nuốt là nhiệt không ở khí phận mà ở huyết phận, nhiệt vào huyết
phận đốt hại dương lạc sẽ gây nên nục huyết.

208. Bệnh Dương minh vốn tự đổ mồ hôi, thầy thuốc lại phát hãn nữa bệnh
đã đỡ, còn hơi phiền, không tỉnh táo đấy là do cớ đại tiện rắn bởi mất tân dịch,
trong trường vị khô ráo, nên làm cho đại tiện rắn nên hỏi đi tiểu tiện ngày mấy
lần, nếu tiểu tiện ngày vốn đi 3 - 4 lần mà nay chỉ đi 2 lần, cho nên biết không
bao lâu sẽ đi được, nay vì tiểu tiện đi ít lần bởi tân dịch phải nhập lại trong
trường vị, cho nên biết không bao lâu sẽ đi đại tiện được.

Tóm tắt: Căn cứ tiểu tiện nhiều hay ít để suy biết mức độ rắn của đại tiện.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh về nguyên nhân không đi đại tiện được có hai
loại: nhiệt kết và tân dịch kiệt. Nhiệt kết thì có thể hạ bằng thuốc hàn, tân dịch kiệt
thì chờ tân dịch khôi phục lại, khô ráo hết thì sau đó đại tiện mới thông. Chứng này
là do thầy thuốc cho phát hãn làm hại tân dịch, bệnh tà tuy lui nhưng vì tân dịch bị
tổn thương trường vị táo, đại tiện rắn, cho nên có hiện tượng hơi phiền không tỉnh
táo. Để suy lường coi tân dịch trong dạ dày đã khôi phục hay chưa thì nên hỏi số lần
đi tiểu tiện, như tiểu tiện vốn đi 3 -4 lần mỗi ngày mà nay giảm còn 1-2 lần mỗi ngày
thì biết tân dịch trong trường vị không còn mà bị ngấm hết xuống bàng quang thời
bệnh táo sẽ được nhuận, kết sẽ được thông, cho nên nói: “ không bao lâu sẽ đi đại
tiện được”. Trong lời nói đã hàm ý nghĩa không thể công hạ rồi.

188
209. Thương hàn nôn nhiều, tuy có chứng Dương minh cũng không thể
công được.

Tóm tắt: Thương hàn nôn nhiều tuy có chứng Dương minh cũng không thể công
được.

Thích nghĩa: Thương hàn nôn nhiều, vùng ngực nóng dữ, vị khí nghịch lên cho
nên phát nôn, tuy có chứng Dương minh, là vì nhiệt tụ trên ngực, chưa kết lại ở bụng,
cho nên không thể công hạ trái ngược được.

Bệnh Thiếu dương hay nôn, là tà tụ ở ngực sườn, khác với Dương minh nhiệt
kết ở bụng. Bệnh Thiếu dương thì các phép hãn, thổ, hạ đều không thể dùng. Nay vì
nôn nhiều, tà còn chưa rời kinh Thiếu dương, hễ công thì sợ tà hãm vào phần lý, cho
nên nói “không thể công”.

210. Bệnh Dương minh dưới tâm rắn đầy thì không thể công, hễ công mà
ỉa chảy không cầm được thì chết.

Tóm tắt: Dưới tâm rắn đầy mà công nhầm thì gây nên biến.

Thích nghĩa: bệnh Dương minh rắn đầy ở dưới tâm mà không ở bụng là có thể
biết bệnh tà ở lệch về phần trên, khác với chứng kết hung ở dưới tâm rắn đầy mà đau
không thể sờ vào được. Chứng kết hung nên phải công, hạ; ở đây dưới tâm rắn đầy
mà không đau là vị khí không thực, khách khí nghịch lên mà gây ra, cho nên không
thể công. Nếu công thời tỳ vị bị tổn thương, tà khí hãm vào trong, hình thành chứng
ỉa chảy không cầm được, thậm chí vị khí hư hỏng mà chết. Nếu ỉa chảy có thể tự cầm
được là vị khí đã hồi phục dần, bệnh có cơ sắp khỏi.

211. Bệnh Dương minh toàn mặt sắc đỏ thì không thể công, tất phát sốt, sắc
vàng thì tiểu tiện không lợi.

Tóm tắt: Bệnh Dương minh mặt đỏ hễ công nhầm thì gây biến.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh cả mặt đều sắc đỏ là nhiệt tà uất lại ở kinh mạch
không thông suốt được mà gây nên, tuy lý nhiệt thịnh quá, không có các chứng bụng
189
đầy, sốt cơn, không đi đồng được, thì không thể công, hạ, hễ công hạ thì tồn tại vị
khí, tỳ hư thời thủy thấp không lưu hành, nhiệt tà thừa hư nhập vào lý cùng thấp tà
hợp lại, thấp nhiệt cùng bốc lên, tất thấy các chứng phát sốt, mình vàng tiểu tiện
không lợi.

212. Bệnh Dương minh không cho thổ không cho hạ, tâm phiền có thể cho
dùng Điều vị thừa khí thang.

Tóm tắt: cách chữa trường hợp vị thực nhiệt uất và tâm phiền.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh chưa hề cho thổ cho hạ mà tâm phiền là tà ngăn
trở ở vị mà gây nên tâm phiền, đấy là thuộc về chứng vị thực nhiệt uất cho nên có thể
dùng Điều vị thừa khí thang. Nói “ có thể cho” là ý bảo người ta khi chữa bệnh phải
biết châm trước. Nếu sau khi cho thổ cho hạ mà phiền là chứng hư phiền nên cho
uống Chi tử sị thang; ở đây là thuộc về chứng thực phiền, nên dùng phương này.

213. Bệnh Dương minh mạch trì tuy ra mồ hôi không sợ lạnh, mình nặng,
khí đoản, bụng đầy mà suyễn có sốt cơn đấy là ngoại chứng muốn khỏi, có thể
công lý được, chân tay dâm dấp ra mồ hôi, đấy lại đại tiện đã rắn, dùng Đại thừa
khí thang làm chủ; nếu nhiều mồ hôi phát sốt sợ lạnh là ngoại chứng chưa giải,
sốt không có cơn thì chưa thể cho dùng Thừa khí thang; nếu bụng đầy lắm không
thông có thể cho dùng Tiểu thừa khí thang để hơi hòa vị khí, đừng cho xổ mạnh.

Tóm tắt: biện chứng trạng và cách chữa bệnh Dương minh như thế nào là có thể
công và như thế nào là không thể công.

Thích nghĩa: Điều này chia làm ba đoạn để giải thích: đoạn 1 từ “ Bệnh Dương
minh mạch trì” đến “ Đại thừa khí thang làm chủ” là biện rõ cái lẽ mạch trì mà dùng
Đại thừa khí thang. Ở đây mạch trì mà hữu lực, vì có khí ở phủ không vận hành,
đường mạch uất trệ không lưu lợi. Tuy ra mồ hôi mà lại không sợ lạnh, có thể biết
ngoại chứng đã giải. Thấy một số chứng trạng mình nặng khí đoản, bụng đầy mà
suyễn, có sốt cơn...là có thể biết bệnh đã dần dần nhập lý, nếu lại thấy chân tay dâm
dấp ra mồ hôi thì đã biết chứng lý thực đã hình thành, cho nên có thể dùng Đại thừa

190
khí thang để công hạ. Đoạn hai từ câu “ nếu nhiều mồ hôi, phát sốt, sợ lạnh, là biểu
chứng chưa giải”, nên cẩn thận khi dùng phép hạ, sốt không có cơn là nhiệt chưa
nhập lý, không những kiêng dùng Đại thừa khí thang mà cả ba thang Thừa khí đều
không thể dùng. Đoạn ba từ câu “ nếu bụng đầy lắm không thông” đến câu “ đừng
cho xổ mạnh” là hỏi rõ nguyên do không dùng Đại thừa khí thang mà chỉ dùng Tiểu
thừa khí thang. Giả như biểu chứng đã giải cần phải công hạ, nhưng chỉ có bụng đầy
lắm không thông, chưa đến chân tay dâm dấp ra mồ hôi là bên trong tuy thực tuy đầy
mà táo kết chưa nặng lắm do đó chỉ nên dùng Tiểu thừa khí thang để hơi hòa vị khí.

Đại thừa khí thang.

Đại hoàng 4 lạng ( tẩy rượu)

Hậu phác ½ cân ( nướng, bỏ vỏ)

Chỉ thực 5 quả ( nướng)

Mang tiêu 3 cáp

Bốn vị trên, nước 1 đấu, trước nấu 2 vị lấy 5 thăng, lọc bỏ bã rồi cho Đại
hoàng vào, lại sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bã rồi cho Mang tiêu vào, lại bắc lên lửa nhỏ
cho sôi vài dạo, chia uống ấm hai lần, xổ được thời thôi, không uống lần sau.

Ý nghĩa phương thuốc. Trường vị táo kết thành chứng thực, chính khí uất trệ
không thông, phương này hay tiếp theo chiều thuận của vị khí mà đi xuống, làm cho
chứng tắc sẽ thông được, chứng bế mở được, cho nên gọi là “thừa khí”. Trong phương
dùng chỉ thực đắng lạnh để tán chứng kết, trừ chứng đầy, hậu phác đắng ấm để thông
khí, tiết chứng đầy, mang tiêu mặn lạnh để nhuận chứng táo, mềm chất rắn. Đại hoàng
đắng lạnh để tẩy tháo tích nhiệt, cho nên nó là một bài thuốc mạnh để trừ thực nhiệt,
thông tích trệ và trừ phân táo.

Tiểu thừa khí thang.

Đại hoàng 4 lạng ( tẩy rượu)

191
Hậu phác 2 lạng ( nướng, cạo bỏ vỏ )

Chỉ thực 3 quả ( dùng thứ to quả, nướng)

Ba vị trên, nước 4 thăng, nấu lấy 1 thăng 2 cáp, lọc bỏ bã chia uống ấm hai lần.
Uống lần đầu đáng lý đi ngoài được, nếu chưa đi được thì uống hết nước sau, nếu đi
ngoài được thì thôi không uống nước sau.

Ý nghĩa phương thuốc: phương này so với phương Đại thừa khí thang thì bỏ
mang tiêu, dung lượng của chỉ thực, hậu phác cũng ít, dược lực so với thang Đại thừa
khí thang là nhẹ hơn, chủ yếu là dùng để tuyên thông phần khí, trừ chứng trệ, thanh
nhiệt thông đại tiện.

214. Bệnh Dương minh sốt cơn đại tiện phân hơi rắn, có thể cho dùng Đại
thừa khí thang, phân không rắn thì không thể cho dùng; nếu không đi ngoài 6-
7 ngày, sợ có phân táo, muốn biết có phân táo hay không thì cho uống một ít
Tiểu thừa khí thang, uống vào bụng thấy trung tiện được là có phân táo, vậy thì
có thể uống được; nếu không trung tiện thì đấy chỉ là phân đầu rắn sau nhão thì
không thể công được, công thời sẽ đầy trướng không ăn được, muốn uống nước
mà cho nước vào thời ọe; sau phát sốt tất đại tiện lại rắn mà ít, dùng Tiểu thừa
khí thang để hòa, không trung tiện thì cẩn thận không thể công.

Tóm tắt: biện về cách sử dụng hai thang Đại Tiểu thừa khí.

Thích nghĩa: điều này nên chia làm 4 đoạn: Đoạn 1 từ câu “ Bệnh Dương minh
sốt cơn” đến câu “ không rắn thì không thể cho dùng” trọng điểm là nêu lên bệnh
Dương minh mà đại tiện không rắn thì kiêng dùng thang Đại thừa khí thang, để biện
rõ phạm vi ứng dụng Đại thừa khí thang.

Đoạn II từ câu “ nếu không đi ngoài” đến câu “ có thể uống” là đặt giả thuyết
nói muốn biết bệnh nhân trước khi uống Đại thừa khí thang có phân táo hay không
thì có thể dùng Tiểu thừa khí thang để thử.

192
Đoạn III từ câu “ nếu không trung tiện” đến câu “ cho nước vào thời ọe” là nói
rõ phân táo chưa thành mà dùng nhầm Đại thừa khí thang thì làm tổn thương vị khí,
bởi vì thang này không phải là 1 phương chung để thông đại tiện.

Đoạn IV, từ câu “ sau phát sốt” đến câu “ dùng Tiểu thừa khí thang để hòa” là
nói rõ sổ mạnh làm tổn thương tân dịch rồi đại tiện phân kết rắn là chứng Tiểu thừa
khí thang, câu chót là lời dặn nói thêm.

Bệnh Dương minh có sốt cơn, đại tiện đã thể hiện ra hơi rắn, đấy là dấu hiệu
phân táo đã kết chặt ở trong trường vị, có thể dùng Đại thừa khí thang để tẩy tháo
chứng táo kết. Nếu tuy có chứng sốt cơn mà đại tiện phân không rắn thì không thể
dùng Đại thừa khí thang để công hạ bậy bạ, nếu 6-7 ngày không đi ngoài, sợ có phân
táo, muốn biết có hay không thì trước cho uống Tiểu thừa khí thang phân lượng ít để
thử. Nếu thuốc uống vào bụng rồi hay trung tiện là biết có phân táo, là dấu hiệu có
thể công. Nếu không trung tiện thì trường vị tuy có nhiệt mà chưa đến nỗi có phân
táo, đấy là mới rắn lúc đầu sau tất nhão, không thể công, công thời tổn thương vị khí
mà chướng đầy ăn không được. Có trường hợp do cho hạ làm tổn thương âm, muốn
uống nước tất nước vào cổ thời ọe. Sau phát sốt là nói đã xổ mạnh tổn thương âm rồi
đại tiện phân lại rắn mà ít, bấy giờ có thể dùng Tiểu thừa khí thang để hòa thời được.
Câu chót vẫn thuộc về sự biện bạch thang Đại Tiểu thừa khí.

Nhận xét: Điều này, câu “ Bệnh Dương minh sốt cơn, đại tiện phân hơi rắn, có
thể cho dùng Đại thừa khí thang” ý nghĩa của nó đối với việc chỉ đạo lâm sàng không
quan trọng lắm, nên tồn nghi chờ khảo cứu.

215. Bệnh hễ thực thời nói sảng, hư thời nói lắp. Nói lắp là nói lặp đi lặp lại,
mắt trực thị, nói sảng, suyễn đầy thì chết, ỉa chảy cũng chết.

Tóm tắt: Biện về chứng nói sảng, nói lắp và dấu hiệu chết.

Thích nghĩa: Nói sảng là nói càn nói bậy, là chứng thực nhiệt; nói lắp là tiếng
nói nhỏ thấp mà cứ lặp đi lặp lại, là chứng chính khí hư suy. Trực thị là mắt không
thể liếc được, là tà nhiệt làm tổn thương tân dịch, huyết khí không thể tư nhuận lên

193
đến mắt, mắt trực thị, nói sảng nếu lại thấy suyễn đầy thời âm tuyệt mà dương không
có chỗ dựa là dấu hiệu chính khí sắp thoát lên trên, cho nên đoán là dấu hiệu chết,
mắt trực thị, nói sảng, nếu kiêm có ỉa chảy là âm thoát tiết xuống dưới cho nên cũng
chết.

216. Phát hãn nhiều, nếu phát hãn lần nữa làm vong dương nói sảng, mạch
đoản là chết, mạch tự hòa được là không chết.

Tóm tắt: chứng vong dương nói sảng dựa vào mạch mà biện lành hay dữ.

Thích nghĩa: điều này nói nguyên nhân gây ra nói sảng là phát hãn nhiều hoặc
phát hãn trùng làm tổn thương tân dịch quá nhiều, hư dương mất hết ra ngoài, âm tà
thịnh ở trong làm cho tâm khí loạn ở trong mà phát sinh nói sảng. Lúc bấy giờ mạch
là quan hệ rất lớn. Mạch đoản là chủ khí huyết hư tân dịch kiệt cho nên nguy; mạch
không đoản mà tự hòa thì âm sinh dương trưởng còn có thể cứu vãn được, cho nên
nói “ không chết”.

217. Thương hàn, nếu cho thổ cho hạ rồi bệnh vẫn không giải không đi
ngoài 5 -6 ngày, khoảng mười mấy ngày, về chiều phát sốt cơn không sợ lạnh nói
một mình như thấy quỷ. Nếu nặng thời phát ra không biết người, mân áo sờ
giường sợ sệt không yên, hơi suyễn, mắt trực thị, mạch huyền thời sống, mạch
sáp thời chết; nếu nhẹ thời chỉ phát sốt, nói sảng, dùng Đại thừa khí thang làm
chủ. Nếu uống một lần mà đi ngoài được thì thôi không uống lần sau.

Tóm tắt: cách chữa và tiên lượng về trường hợp nguy kịch chính khí hư tà khí
thực của Dương minh phủ chứng.

Thích nghĩa: Thương hàn hoặc cho thổ cho hạ rồi, bệnh vẫn không giải, tân dịch
thụ thương, gây ra các chứng 5-6 ngày, đến mười mấy ngày không đi ngoài được, lúc
xế chiều phát sốt cơn, không sợ lạnh, nói một mình như thấy quỷ, đấy là biểu chứng
đã khỏi, táo nhiệt kết ở trong, vị đã thực lắm, nên dùng Đại thừa khí thang để công
hạ, nếu để vậy không chữa bệnh thế càng nặng thêm, phát ra sốt cơn thì mắt không
biết người, mân áo sờ giường, kinh sợ không yên, hơi suyễn mắt trực thị, đấy là triệu

194
chứng nguy kịch vì nhiệt thịnh tân dịch khô. Như mạch thấy huyền là chính khí còn,
còn có cơ sống; mạch sáp là chính khí hư tà khí thực, chính khí hư thì không thể hạ
nữa, tà khí thực thì lại không thể không hạ, vô phương chạy chữa, cho nên rất nguy.
Nếu chứng trạng tương đối nhẹ, chỉ phát sốt cơn nói sảng thì có thể dùng Đại thừa
khí thang. Nhưng khi dùng phải xét rất cẩn thận rồi hãy làm, nếu uống lần đầu mà đi
ngoài được thì thôi không phải uống lần sau, vì mửa ỉa rồi, tân dịch bị tổn thương nên
không thể uống hết thang.

218. Bệnh Dương minh người bệnh ra nhiều mồ hôi bởi tân dịch ra ngoài,
trong trường vị táo, đại tiện rắn, rắn thời nói sảng dùng Tiểu thừa khí thang làm
chủ, nếu uống một lần mà hết nói sảng thì thôi đừng uống lần sau.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh Dương minh nhiều mồ hôi hại tân dịch gây đại tiện
rắn, nói sảng.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh ra nhiều mồ hôi thời tân dịch tiết ra ngoài, bên
trong thiếu, bởi thế đại tiện chuyển thành phân rắn, nhưng táo kết chưa nặng lắm, cho
nên chỉ dùng Tiểu thừa khí thang để hòa vị khí mà không dùng Đại thừa khí thang để
xổ mạnh. Uống xong chừng nói sảng hết được, nên thôi đừng uống nước sau để tránh
uống quá mức tổn thương chính khí.

Lời chú chọn lọc: Thành Vô Kỷ nói: “ Mất tân dịch, vị táo, đại tiện rắn mà nói
sảng, tuy không có đại nhiệt kết ở trong, cũng cần cho uống Tiểu thừa khí thang để
hòa vị khí.

219. Bệnh Dương minh nói sảng, phát sốt cơn, mạch hoạt mà thanh, dùng
Tiểu thừa khí thang làm chủ, cho uống Thừa khí thang một thang mà bụng
chuyển trung tiện được nên cho uống một thang nữa, nếu không trung tiện thì
chớ cho uống nữa. Hôm sau cũng không đi ngoài mà mạch trái lại vi sáp là lý
hư, khó chữa, không thể cho uống thừa khí thang nữa.

Tóm tắt: Biện về mạch chứng và cách sử dụng Tiểu thừa khí thang.

195
Thích nghĩa: Bệnh Dương minh nói sảng, sốt cơn, là thuộc về chứng lý nhiệt,
có thể công, mạch hòa là nhiệt thực, thanh thời táo kết chưa nặng lắm, cho nên dùng
Tiểu thừa khí thang làm chủ. Từ câu “ cho uống Thừa khí thang” về sau là lời văn tự
chú thích. Uống một thang rồi trong bụng chuyển trung tiện được là có phân táo, có
thể cho uống một thang nữa, nếu không trung tiện là không có phân táo, không thể
cho uống nữa. Hôm sau nếu vẫn không đi ngoài được, mạch lại không hoạt mà sáp,
không thanh (tật) mà nhỏ (vi) là dấu hiệu khi huyết hư ở trong, đại tiện phân rắn nên
hạ mà chứng lý hư lại không nên hạ chạy chữa rất khó xoay trở.

220. Bệnh Dương minh nói sảng có sốt cơn lại không ăn được mà trong
trường vị có phân táo 5-6 cục rồi, nếu ăn được là chỉ phân rắn mà thôi, nên dùng
Đại thừa khí thang để hạ.

Tóm tắt: lấy tình trạng ăn được hay không ăn được để biện sự táo kết nặng hay
nhẹ.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh nói sảng, sốt cao, đều do trong vị nóng quá gây
nên, trong vị nóng thì đáng lý hay tiêu cơm nay lại không ăn được đấy là do nóng làm
tổn thương dịch vị. Khí trệ không thể đi xuống, phân táo kết ở trường vị, nên dùng
Đại thừa khí thang để hạ gấp táo nhiệt, để cứu chân âm cấp.

Nguy, giả sử chỉ thấy chứng nói sảng, sốt cơn, mà ăn uống còn khá, thời biết
đấy chỉ là đại tiện rắn, chưa đến trình độ táo kết, không cần phải dùng Đại Thừa Khí
Thang để công mạnh, chỉ dùng Tiểu Thừa khí thang để hợi hòa vị khí là được. Câu
chót “ Nên dùng Đại thừa khí thang để hạ” đáng lý đặt sau câu “ có phân táo 5-6 cục
rồi”.

Không ăn được trong chứng này với không ăn được trong câu “ không ăn được
là trúng hàn” của điều 195 là không giống nhau. Chứng này là do phủ thực quá lắm,
làm cho vị khí không lưu hành, chứng kia thì do vị hàn không tiêu hóa cơm nước
được cho nên chứng này nên công hạ mà chứng kia thì nên ôn bổ. Nếu bị lạnh không
ăn được mà nhầm công hạ sẽ gây biến chứng như điều 199 nói “ bệnh Dương minh

196
không ăn được, công chứng nhiệt thời ọc” là do trung tiêu hư hàn, nhầm dùng thuốc
khổ hàn mà gây nên.

221. Bệnh Dương minh, ỉa ra máu, nói sảng, đấy là chứng nhiệt nhập huyết
thất, chỉ đổ mồ hôi đầu, châm huyệt Kỳ Môn, tùy thực chứng mà ỉa, ra mồ hôi
dâm dấp được thời khỏi.

Tóm tắt : Đề ra nguyên tắc trị liệu khi có chứng trạng nhiệt nhập huyết thất vận
dụng phương pháp châm thích.

Thích nghĩa: Chứng nói sảng của Dương minh ở khí phận là chứng phủ thực,
chứng này là nhiệt trong huyết phận, vì Dương minh nhiệt thịnh xâm phạm đến huyết
thất, huyết thất không giữ lại được nên ỉa ra máu. Ỉa ra máu rồi tà thừa hư mà vào hợp
với huyết, nhiệt tà xông bốc lên trên, cho nên phát ra nói sảng và chỉ ra mồ hôi đầu.
Bệnh này là nhiệt nhập huyết thất gây nên, huyết thất lệ thuộc vào can mạch, do đó
châm huyệt Kỳ Môn để tả Can thực, làm cho nhiệt theo đó mà tiết ra ngoài, mồ hôi
ra dâm dấp mà khỏi.

222. Ra mồ hôi mà nói sảng là bởi có phân táo trong trường vị, đấy là do
phong, cần cho hạ, quá kinh mà có thể hạ, nếu hạ sớm thì nói năng lộn xộn vì là
biểu hư lý thực, hạ đi thời khỏi, nên dùng Đại Thừa khí thang.

Tóm tắt : chứng biểu hư lý thực không nên hạ.

Thích nghĩa : Ra mồ hôi nói sảng là dấu hiệu có phân táo ở trường vị, cho hạ
thời khỏi, nên dùng Đại thừa khí thang là chữa theo phép chính trị. Từ câu “ Đây là
do phong” đến câu “vì biểu hư, lý thực cho nên thế” là 1 đoạn, nói tuy có chứng
Dương minh nên hạ, nếu kiêm có chứng phong tà biểu hư, phải chờ biểu chứng Thái
dương kinh để giải, rồi mới có thể hạ, nếu hạ sớm thời biểu tà thừa cơ mà hãm vào
trong, tà theo nhiệt hóa, nói năng lộn xộn, vì chứng biểu hư, lý thực là nhất thiết
không thể hạ.

223. Thương hàn 4-5 ngày , mạch trầm mà suyễn đầy, trầm là bệnh ở lý mà
lại phát hãn, tân dịch bốc ra, đi ngoài khó, biểu hư lý thực lâu ngày thì nói sảng.
197
Tóm tắt : Lý thực mà phát hãn nhầm thành ra chứng đi ngoài khó, nói sảng.

Thích nghĩa : Mạch trầm là tà kết ở phần lý, suyễn đầy cũng do lý thực. Bệnh ở
lý lại phát hãn làm cho tân dịch bốc ra, trong trường vị khô táo, đại tiện khó. Đấy là
do phát hãn nhầm mà thành chứng biểu hư lý thực. Lâu ngày tân dịch càng thiếu, lý
nhiệt càng nhiều cho nên sinh ra nói sảng.

Nhận xét : Điều này với điều trên đều có câu : “ biểu hư lý thực” chứng biểu hư
của điều trên là nói phong tà, mà biểu hư của điều này là nói chính khí hư.

224. Hợp bệnh tam dương, bụng đầy mình nặng khó xoay trở, miệng
không có cảm giác (1) mặt bẩn (2), nói sảng, đái són. Phát hãn thời nói sảng, cho
hạ thời trên trán đổ mồ hôi, chân tay quyết lạnh. Nếu tự đổ mồ hôi thì dùng
Bạch hổ thang làm chủ.

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa hợp bệnh tam dương.

Thích nghĩa : Hợp bệnh tam dương do nhiệt tà thịnh bên trong vị khí không
thông sướng, cho nên bụng đầy mình nặng khó xoay trở, trường vị nóng lắm, tân dịch
bị đốt nên miệng không cảm giác, mặt bẩn, nhiệt quấy rối thần minh cho nên nói sảng,
đái són, đấy vì nhiệt tà nhiều cả trên dưới trong ngoài mà thấy tự đổ mồ hôi, chỉ nên
thanh nhiệt ở Dương minh, dùng Bạch hổ thang làm chủ. Nếu phát hãn bậy bạ thời
tân dịch tiết hết ra ngoài, nhiệt ở trong càng mạnh lên, nói sảng càng nặng, nếu cho
hạ nhầm thời âm kiệt mà dương không có chỗ dựa cho nên trên trán đổ mồ hôi, chân
tay quyết lạnh.

Nhận xét: Sách Ngọc hàm kinh sau câu “ phát hãn thời nói sảng” có chữ “ nặng”
thuyết này có thể theo.

Giải thích chữ khó:


1
Miệng không cảm giác: Nói năng ngượng nghịu, ăn không biết mùi vị.
2
Mặt bẩn: Vùng mặt như mờ vì bụi bẩn.
198
225. Tính bệnh nhị dương, chứng Thái dương đã khỏi chỉ phát sốt cơn,
chân tay dâm dấp ra mồ hôi, đại tiện khó mà nói sảng, cho hạ thời khỏi nên dùng
Đại thừa khí thang.

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa chứng Thái dương chuyển thành chứng
Dương minh vị thực.

Thích nghĩa : Tính bệnh nhị dương mà biểu chứng của Thái dương đã khỏi,
chuyển vào Dương minh, hàn đã nhập vào lý mà hóa táo, khí của đại trường táo nên
chỉ phát sốt cơn, vị khí táo, chân tay dâm dấp mồ hôi, táo kết đã thành thực, cho nên
đại tiện khó mà sinh ra nói sảng, hạ được thực nhiệt thời khỏi, nên dùng Đại thừa khí
thang.

226. Bệnh Dương minh mạch phù mà khẩn họng khô miệng đắng, bụng
đầy mà suyễn phát sốt đổ mồ hôi, không sợ lạnh lại sợ nóng, mình nặng, nếu
phát hãn thời táo , trong lòng bối rối(1), nói sảng, nếu dùng phép ôn châm thời
sinh kinh sợ, buồn phiền vật vã không ngủ được, nếu cho hạ thời trong trường
vị trống rỗng, khách khí động lên ngực, trong lòng ảo não, trên lưỡi đóng rêu,
dùng Chi tử sị thang làm chủ, nếu khát muốn uống nước, miệng khô lưỡi ráo,
dùng Bạch hổ gia Nhân sâm thang làm chủ, nếu mạch phù phát sốt, khát muốn
uống nước, tiểu tiện không lợi, dùng Trư linh thang làm chủ.

Tóm tắt : kinh chứng của Dương minh và chữa nhầm mà sinh biến chứng.

Thích nghĩa : Chứng thái dương thương hàn mạch phù khẩn, thuộc chứng biểu
thực. Chứng dương minh mạch phù khẩn, phù là lý nhiệt phát ra ngoài, khẩn là tà đã
thành thực, cho nên đó là chứng lý thực của bệnh dương minh, lý nhiệt xông lên, nhân
đó mà cổ khô miệng đắng. Nhiệt phạm vào trường vị khí cơ bị trở ngại, do đó mà thể
hiện chứng trạng bùng đầy mà suyễn. Nhiệt bốc ra ngoài cho nên phát sốt đổ mồ hôi,
tà không ở biểu mà ở lý có nhiệt cho nên không sợ lạnh lại sợ nóng, nhiệt thịnh tổn
thương khí cho nên mình nặng.

Bối rối : Hình dung trạng thái trong lòng rối rắm không yên
1

199
Nhầm dùng thuốc tân ôn để phát hãn thời tân dịch càng tổn thương mà nhiệt
càng bừng lên, xuất hiện chứng buồn phiền vật vã lòng bối rối, đến lúc nhiệt kết thành
thực mà thấy nói sảng. Nếu nhầm dùng phép ôn châm để phát hãn đấy là lấy nhiệt
giúp nhiệt, nhiệt quấy rối tâm thần thời kinh sợ, buồn phiền vật vã không ngủ được.
Nếu cho rằng bụng đầy là vị thực mà dùng thuốc hạ, thời sau khi hạ vị hư, khách khí
thừa hư nhiễu loạn trong khoảng hung cách xuất hiện chứng nhiệt uất ở hung cách,
trong lòng ảo não không yên, trên lưỡi đóng rêu, dùng Chi tử sị thang để thanh nhiệt
ở Thượng tiêu. Nếu thấy khát muốn uống nước, miệng khô lưỡi ráo là Dương minh
nhiệt thịnh hại tân dịch. Dùng Bạch hổ gia nhân sâm thang để thanh nhiệt sinh tân
dịch. Nếu mạch phù phát sốt khát muốn uống nước, không có chứng lưỡi khô miệng
ráo mà có chứng tiểu tiện không lợi, đấy là chứng tân dịch tổn hại kiêm có thủy nhiệt
tích ở trong, dùng Trư Linh thang để lợi thủy dưỡng âm.

Lời chú chọn lọc :

Kha Vận bá nói : “ Dùng liên tục chữ nếu 5 lần là thấy cách đặt phép ngừa bệnh
của Trọng cảnh rất rõ ràng, Chi tử sị thang không giải quyết nổi thì Bạch hổ thang
tiếp theo, Bạch hổ thang không nổi thì Trư Linh thang tiếp theo, đấy là 3 cách xử lý
bệnh dương minh. Sở dĩ như thế đều là tiếc tân dịch cho trường vị, đã không muốn
làm khô trường vị, cũng không muốn làm cho nước ngấm vào trường vị.”

Trư Linh thang :

Trư linh 1 lạng ( bỏ vỏ)

Phục linh 1 lạng

Trạch tả 1 lạng

A giao 1 lạng

200
Hoạt thạch 1 lạng ( giã nát)

Năm vị trên, nước bốn thăng, trước nấu vị kia lấy hai thăng lọc bỏ bã rồi
cho A giao vào quấy cho tan, uống ấm bảy cáp, ngày uống ba lần.

Ý nghĩa phương thuốc : A giao tư âm nhuận táo, hoạt thạch trừ nhiệt, Nhị linh,
Trạch tả thấm thấp lợi thủy, là phương thuốc tư âm lợi thủy.

227. Bệnh Dương minh đổ nhiều mồ hôi mà khát là không thể cho dùng
Trư linh thang bởi vì nhiều mồ hôi thì trong trường vị ráo, Trư linh thang lại lợi
tiểu tiện cho nên thế.

Tóm tắt : Cấm dùng Trư linh thang

Thích nghĩa : Trư linh thang tuy gồm có tư âm, nhưng cứu cánh là lợi tiểu tiện.
Nếu đổ nhiều mồ hôi mà khát nước, là hại tân dịch, tân dịch đã hại thì phải đòi nước
để tự cứu, không thể nhận là chứng Súc thủy được. Đổ nhiều mồ hôi trong trường vị
đã tự ráo, lúc ấy tuy tiểu tiện không lợi cũng không thể cho Trư linh thang để lợi tiểu
tiện nữa mà làm cho tân dịch bị hại thêm.

Lời chú chọn lọc : Dụ Gia Ngôn : “ Dương minh chủ tân dịch, hễ tân dịch đầy
đủ thì không khát, tân dịch thiếu thời khát, cho nên nhiệt tà vào Dương minh sẽ hao
tân dịch trước, thế mà còn phát hãn nhiều để đưa nó ra ngoài lại lợi tiểu tiện để cho
nó xuống dưới thì tân dịch chỉ có mất hết ngay mà thôi, vậy nên đề phòng.”

228. Mạch phù mà trì biểu nhiệt lý hàn ỉa ra toàn nước lẫn cái, dùng Tứ
nghịch thang làm chủ.

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa chứng biểu nhiệt lý hàn.

Thích nghĩa : Mạch phù mà trì, phù là biểu nhiệt, Trì là lý hàn, vì lý có chân hàn
cho nên ỉa ra toàn nước lẫn cái, vì âm thịnh cách dương ra ngoài cho nên biểu có giả
nhiệt. Dùng Tứ nghịch thang để ôn lý tán hàn làm cho lý chứng trừ mà biểu chứng tự
giải.
201
229. Nếu trong trường vị hư lạnh, ăn không được, uống nước thời ọe.

Tóm tắt : Trong trường vị hư lạnh, uống nước gây ra chứng ọe.

Thích nghĩa : Vị dương đã hư hàn tà lẻn đến, cho nên trong trường vị hư lạnh,
chẳng những ăn uống sút kém hoặc rút cục không ăn được, nếu uống nước vào thì
nước đọng lại, trong trường vị không hóa được, nước với lạnh kết hợp lại, vị khí
không giáng được nghịch lên mà sinh chứng ọe.

230. Mạch phù phát sốt, miệng khô mũi ráo, ăn được thì chảy máu cam.

Tóm tắt : Nhiệt thịnh ở khí phận bức huyết làm chảy máu cam.

Thích nghĩa : Mạch phù phát sốt là nhiệt ở khí phận, nhiệt thịnh ở trên cho nên
miệng khô mũi ráo, vị nhiệt thì ăn được, nhiệt thịnh từ khí đến huyết, tổn thương đến
dương lạc thì chảy máu cam.

231. Bệnh Dương minh cho hạ bên ngoài có sốt, chân tay ấm không kết
hung, trong tâm ảo não, đói mà không ăn được, chỉ đổ mồ hôi đầu, dùng Chi tử
sị thang làm chủ.

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa bệnh Dương minh sau khi hạ mà sốt không
hết.

Thích nghĩa : Bệnh dương minh thuộc chứng lý thực, cho hạ đáng lý khỏi, nay
hạ rồi mà sốt không lui, nhiệt lưu lại ở hung cách, cho nên xuất hiện các chứng trong
lòng ảo não, đói mà không ăn được. Hạ rồi trong ngực chưa trở thành hàn thực cho
nên chân tay ấm, chưa kết nhiệt cho nên không kết hung. Chỉ đổ mồ hôi đấy là nóng
ở hung cách bốc lên mà gây ra, dùng Chi tử sị thang để thanh dư nhiệt ở hung cách.

232. Bệnh Dương minh phát sốt cơn đại tiện phân nhão, tiểu tiện bình
thường, ngực sườn đầy không khỏi, cho dùng Tiều Sài hồ thang.

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa bệnh Dương minh mà chứng Sài hồ chưa
khỏi.

202
Thích nghĩa: Bệnh Dương minh có chứng sốt cơn, đại tiện đáng lý rắn, tiểu tiện
đáng lý đi luôn, nay đại tiện nhão, tiểu tiện bình thường lại có chứng ngực sườn đầy
không khỏi là thuộc chứng thiếu dương chưa khỏi, tuy có sốt cơn cũng nên cho dùng
Tiểu Sài hồ thang để hòa giải tà ở thiếu dương.

233. Bệnh Dương minh dưới sườn rắn đầy, không đi ngoài mà nôn, trên
lưỡi đóng rêu trắng, có thể cho dùng Tiểu Sài hồ thang. Khí thượng tiêu thông
được, tân dịch hạ được thì vị khí sẽ điều hòa, sẽ ra mồ hôi dâm dấp mà giải.

Tóm tắt : Chứng Tiều Sài hồ trong bệnh Dương minh.

Thích nghĩa : bệnh Dương minh nếu tà uất ở Thiếu dương làm cho vị khí bất
hòa, chứng trạng thể hiện dưới sườn đầy rắn, không đi ngoài mà nôn, lưỡi đóng rêu
trắng vẫn phải theo chứng thiếu dương mà chữa, cho nên Tiểu sài hồ thang làm cho
thượng tiêu thông được thời chứng dưới sườn đầy rắn có thể khỏi, tân dịch hạ được
thời đại tiện tự điều hòa, vị khí hòa thời nôn tự khỏi, tam tiêu thông sướng, khí cơ
không trở ngại thì tự ra mồ hôi dâm dấp mà khỏi.

234. Bệnh Dương minh trúng phong, mạch huyền phù đại mà khí đoản,
bụng đầy, dưới sườn đau đến tâm ấn vào lâu thì khí không thông, mũi khô không
ra mồ hôi được, ham nằm, cả người và mắt đều vàng, tiểu tiện khó có sốt cơn,
thỉnh thoảng ọe, trước sau tai đều sưng, thích vào thì đỡ một ít mà ngoại chứng
không giải, bệnh quá mười ngày mạch tiếp tục phù, cho dùng Tiểu Sài hồ thang,
mạch chỉ phù không có chứng nào khác, cho dùng Ma hoàng thang, nếu không
đái được bụng đầy lại ọe nữa là không chữa được.

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa bệnh dương minh trúng phong.

Thích nghĩa : Tình hình chứng trạng của điều này tương đối phức tạp, tuy mệnh
danh là Dương minh trúng phong, kỳ thực là hợp bệnh tam dương. Mạch huyền, phù,
đại, huyền là thiếu dương, phù là thái dương, đại là dương minh, đấy là mạch của hợp
bệnh tam dương. Các chứng khí đoản, bụng đầy, mũi khô, mặt mắt đều vàng, có sốt
cơn, ham nằm, thỉnh thoảng ọe… là tà nhiệt uất bế ở Dương minh mà gây nên; Các

203
chứng dưới sườn và tâm đau, ấn lâu thì khí không thông, tiểu tiện khó, trước và sau
tai sưng là do tà nhiệt uất bế không thông ở kinh thiếu dương mà gây nên, không ra
mồ hôi được là dấu hiệu thái dương cơ biểu bế tắc. Trong thời cơ hợp bệnh tam dương
này, việc làm tuyên thông phát tiết nhiệt tà của phần dương thực là vấn đề cấp bách
không thể trì hoãn được, nhưng giải biểu hay công lý đều không làm được. Cho nên
trước hết dùng phép châm, khiến cây kim vận hành dương khí để tiết hết nhiệt tà bất
bế trong kinh lạc, châm vào hơi đỡ mà ngoại chứng không giải là biết từ khi châm
kim về sau mạch chứng hơi bình thường mà ngoại tà vẫn chưa lui. Bệnh quá mười
ngày, mạch tiếp tục phù là tà còn lại có chiều hướng giải ra ngoài được, cho nên dùng
Tiểu Sài hồ thang để giải ngoại chứng lấy thuốc để dò chứng, dùng Tiểu Sài hồ thang
là phải có các chứng dưới sườn và tâm đau, trước và sau tai sưng nhiều hơn. Nếu đơn
thuần thấy mạch phù mà không có chứng khác thì có thể dùng Ma hoàng thang để
phát hãn. Dùng Ma hoàng thang làm người bệnh chưa ra mồ hôi được, biểu chứng
Bế lại tương đối nặng. Nếu thấy không đi đái, bụng đầy còn thêm ọe là tình hình
chuyển thêm nặng. Không đi đái nặng hơn đi đái khó, bụng đầy thêm chứng ọe, nặng
hơn thỉnh thoảng ọe, đấy là vị khí đã kiệt, tam dương không lưu thông trở lại, khí cơ
tắc trở tà không lối thoát, cho nên đoán là dấu hiệu bất trị.

235. Bệnh Dương minh tự đổ mồ hôi, nếu phát hãn, tiểu tiện tự lợi đấy là
tân dịch kiệt ở trong, tuy phân rắn cũng không thể công, cần phải tự mót đi
ngoài, nên thông khoan bằng mật thắng cũng như thổ qua căn với nước mật lợn
đều có thể dùng được cả.

Tóm tắt : Cách thông khoan đối với bệnh Dương minh.

Thích nghĩa : Bệnh Dương minh đã tự đổ mồ hôi lại phát hãn nữa, thời tân dịch
tổn thương nặng. Nếu tiểu tiện tự lợi đấy là tân dịch kiệt ở trong. Đại tiện tuy rắn
cùng chứng táo kết của bệnh Dương minh nhiệt thực khác nhau, cho nên không thể
công, phải chờ bệnh nhân mót đi ngoài, lúc phân rắn xuống gần đến hậu môn, nhân
đó dùng phép thông khoan bằng mật thắng để nhuận táo, hoặc dùng nước cốt Thổ qua
căn với nước mật lợn để thanh nhiệt thông lợi làm cho đường ruột không trở ngại thì
tự nhiên đi ngoài được.
204
Chứng đại tiện rắn ở điều này là tân dịch ở trong ruột đã khô kiệt so với chứng
tỳ ước do tân dịch không lưu hành và chứng Thừa khí thang táo nhiệt kết thực ở điều
249 đều khác nhau, cần phải phân biệt rõ.

Mật tiễn đạo phương ( phép thông khoan bằng mật )

Mật ong : 7 cáp

Cho vào nồi đồng đun nhỏ lửa, sắc đặc như keo mạch nha, cần quấy luôn tay
không thì bén đít chảo. Đến khi có thể làm hoàn thì bắt lên tay nặn thành thỏi lớn
bằng ngón tay đầu hơi nhọn, dài chừng hai tấc, phải làm nhanh lúc đang nóng, vì
nguội nó rắn đi. Đem nhét vào hậu môn, dùng tay giữ lại, khi mót đi ngoài thì bỏ đi.

Thổ qua căn phương ( đã thất lạc)

Trư đởm trắc phương

Mật lợn một cái to, chích cho chảy nước ra, hòa với ít dấm đem rót vào trong
hậu môn, trong khoảng ăn xong bữa cơm thì đi ngoài ra thức ăn không tiêu và các
chất độc, rất hay.

236. Bệnh Dương minh mạch trì ra nhiều mồ hôi, hơi sợ lạnh là biểu chứng
chưa giải có thể phát hãn, nên dùng Quế chi thang.

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa bệnh Dương minh kiêm chứng biểu hư của
Bệnh Thái Dương.

Thích nghĩa : Bệnh Dương minh mạch trì là tà ở lý thành chứng thực, mồ hôi ra
nhiều là chứng biểu hư, đấy vốn là chứng biểu hư lý thực của Dương minh. Nếu hơi
sợ lạnh là biểu chứng chưa giải cho nên phải dùng Quế chi thang để phát hãn.

237. Bệnh Dương minh mạch phù không mồ hôi mà suyễn, phát hãn thời
khỏi nên dùng Ma hoàng thang

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa bệnh Dương minh kiêm biểu thực của bệnh
Thái dương.
205
Thích nghĩa : Bệnh Dương minh đáng lý phải có chứng lý nhiệt nay lại mạch
phù là thấy mạch của bệnh Thái dương không đổ mồ hôi mà suyễn là dấu hiệu của
chứng Thái dương biểu thực, việc biện chứng chữa bệnh phải phát hãn giải biểu trước.
Nên dùng Ma hoàng thang.

238. Bệnh Dương minh phát sốt đổ mồ hôi, đấy là nhiệt bốc ra không thể
phát vàng, chỉ đổ mồ hôi đầu, mình không có mồ hôi, đến cổ thì hết, tiểu tiện
không lợi khát muốn uống nước, đấy là ứ nhiệt ở phần lý mình phát vàng, dùng
Nhân trần cao thang làm chủ.

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa bệnh Dương minh ứ nhiệt ở phần lý mình
phát vàng.

Thích nghĩa : Bệnh Dương minh phát sốt đổ mồ hôi, nhiệt bốc được ra ngoài thì
không thể phát vàng, Nếu chỉ đổ mồ hôi đầu, từ cổ trở xuống cả người không mồ hôi,
thấp nhiệt bốc lên mà không tán ra ngoài, tiểu tiện không lợi, thấp nhiệt tích ở trong
nên không chạy xuống dưới được, khát uống nước thì càng tăng thêm chứng thấp,
thấp và nhiệt cùng bốc mà mình phát vàng, cho nên dùng Nhân trần cao thang làm
chủ trị.

Nhân trần cao thang :

Nhân trần cao 6 lạng

Chi tử 14 quả (xẻ ra)

Đại hoàng 2 lạng

Ba vị trên, nước một đấu 2 thăng, trước nấu nhân trần cho cạn còn 6 thăng rồi
cho các vị kia vào sắc lấy ba thăng, lọc bỏ bã, chia uống ba lần. Tiểu tiện phải lợi,
nước tiểu đỏ như nước bồ kết, một đêm thì bụng xẹp, vàng theo nước tiểu mà lui.

Ý nghĩa phương thuốc : Thấp nhiệt ứ ở trong, bốc ra mà thấy sắc vàng ở ngoài,
dùng Nhân trần cao đắng lạnh để thanh thấp mà giải uất nhiệt, dùng Chi tử làm tá để
thanh lợi tam tiêu mà thông đường tiểu, dùng Đại hoàng trừ vị nhiệt, dẫn hỏa đi xuống
206
dưới kiêm thanh nhiệt ở phần huyết. Ba vị hợp lại mà dùng làm cho ứ nhiệt thấp trọc
theo đường tiểu mà ra, thấp nhiệt một khi bài tiết được thời chứng vàng da tự khỏi.

239. Chứng Dương minh người bệnh hay quên sẽ có súc huyết, sở dĩ như
vậy là vốn có ứ huyết lâu ngày, cho nên khiến hay quên, phân tuy rắn mà đại
tiện lại dễ đi, sắc phân sẽ đen, nên dùng Để đương thang cho hạ.

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa chứng Dương minh súc huyết.

Thích nghĩa : Có chứng Dương minh mà trí nhớ kém là người ấy bình thường
có chứng súc huyết, vì người có ứ huyết lâu ngày có chứng hay quên. Nói chung
chứng Dương minh lý nhiệt tân dịch hao tổn, trường vị táo kết, đại tiện khó khăn, nay
người bệnh phân tuy rắn, mà đi ngoài lại dễ, màu phân đen đấy là thể hiện chứng súc
huyết. Nên dùng Để đương thang để hạ chứng súc huyết.

Chứng Thái dương súc huyết có các chứng như cuồng, phát cuồng, chứng
Dương minh súc huyết là do bình thường có ứ huyết, cùng nhiệt tà kết lại cho nên
hay quên, hai trường hợp ấy chứng trạng khác nhau mà do súc huyết làm rối thần chí
thì là một. Biện chứng Thái dương súc huyết là ở tiểu tiện lợi hay không lợi, biện
chứng Dương minh súc huyết là ở phân đen hay không đen, đại tiện khó hay không
khó.

Lời chú chọn lọc : Vương Khẳng Đường nói “Tà nhiệt táo kết màu phân không
đen, nhưng ứ huyết thời phân nhão mà đen nhầy như sơn, táo kết thời phân rắn mà
đen như than mỏ, đấy là biện rõ”.

240. Bệnh Dương minh cho hạ trong lòng ảo não mà phiền là trong trường
vị có phân táo, có thể công; bụng hơi đầy, phân đầu rắn sau nhão là không thể
công. Nếu có phân táo nên dùng Đại thừa khí thang.

Tóm tắt: Bệnh Dương minh hạ rồi trong lòng ảo não, có phân táo, có thể công.

Thích nghĩa : Bệnh Dương minh vị thực cho hạ thì đáng lý khỏi, chứng này hạ
rồi thì trong lòng ảo não mà phiền là dấu hiệu trong trường vị, còn có phân táo, chứng

207
trong lòng ảo não mà phiền, đó không phải là chứng hư phiền của nhiệt còn lại mà là
do phân táo chưa hết gây ra, nên dùng Đại thừa khí thang để công, nếu bụng không
đầy lắm thì biết nhiệt còn chưa kết chặt, đại tiện ra lúc đầu rắn sau nhão thì nhất thiết
không được công. Cho nên biết bệnh Dương minh cho hạ rồi trong lòng ảo não mà
phiền có kèm chứng bụng đầy rất chặt (thực) thì mới có thể hạ.

241. Bệnh nhân không đi ngoài 5 -6 ngày, đau quanh rốn, phiền táo, phát
lên từng lúc, đấy là có phân táo làm cho không đại tiện được.

Tóm tắt : Biện về chứng phân táo.

Thích nghĩa : Bệnh nhân không đi ngoài 5 - 6 ngày, nhiệt tà ở lý, đau quanh rốn
là biết dấu hiệu trong ruột có táo kết trở trệ, làm cho khí không đi xuống được, phiền
táo phát ra có lúc là dấu hiệu trường vị thành thực, cho nên nói “ đấy là phân táo làm
cho không đại tiện được”.

242. Bệnh nhân phiền nóng mồ hôi ra thời giải, giống như sốt rét, xế chiều
mà sốt cơn là thuộc bệnh Dương minh, mạch thực thì nên hạ, mạch phù hư thì
nên phát hãn, hạ thì dùng Đại thừa khí thang, phát hãn thì dùng Quế chi thang.

Tóm tắt : Phát hãn hạ để trừ nhiệt có hoãn cấp trước sau khác nhau.

Thích nghĩa : Bệnh nhân có chứng phiền nhiệt, nếu bệnh ở thái dương thì ra mồ
hôi là khỏi, nay ra mồ hôi rồi lại thấy nóng rét như chứng sốt rét là biết biểu tà chưa
hết; Xế chiều lại phát sốt là chứng lý thực đã thành. Chứng biểu lý đều thấy như thế,
phép chữa phải biết cái nào trước cái nào sau. Nếu mạch thực thời nên hạ, nếu mạch
phù hư thời nên phát hãn. Hạ thời cho dùng Đại thừa khí thang, phát hãn thời dùng
Quế chi thang.

243. Hạ mạnh mà 6-7 ngày không đi đại tiện, chứng phiền không giải, bụng
đầy đau, đấy là có phân táo sở dĩ như thế là do vốn có thức ăn cũ không tiêu cho
nên thế, nên dùng Đại thừa khí thang.

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa trường hợp sau khi hạ phân táo lại kết lại.

208
Thích nghĩa : Chứng hậu Dương minh phủ thực, mỗi lần sau khi hạ mạnh thì
không mấy ngày nhiệt tà lại tụ lại, phân táo kết lại. Nay lại hạ rồi 6-7 ngày mà tụ lại,
không đi đại tiện, hiện ra các chứng phiền không giải, vùng bụng đầy đau, đấy là dấu
hiệu có phân táo, vì vốn có thức ăn cũ không tiêu hết, làm cho phân táo kết lại, nên
dùng Đại thừa khí thang để hạ thức ăn cho tiêu đi được thời phân táo có thể trừ hết.

244. Bệnh nhân tiểu tiện không lợi đại tiện khi khó khi dễ thỉnh thoảng có
sốt nhẹ, suyễn, choáng váng không thể nằm được là có phân táo nên dùng Đại
thừa khí thang.

Tóm tắt : Chứng trạng và cách chữa trường hợp suyễn, choáng váng không thể
nằm được, bên trong có phân táo.

Thích nghĩa : Bệnh nhân tiểu tiện không lợi, đại tiện khi khó khi dễ là tà khí
thấp nhiệt uất ở bên trong, thấp nhiệt làm tổn khí cho nên thỉnh thoảng có sốt nhẹ,
suyễn, choáng váng không thể nằm được là phủ khí dần dần bít lấp không thông. Tà
nhập lý hóa táo thành thực, cho nên nói “có phân táo”. Dùng Đại thừa khí thang để
hạ phân táo.

245. Ăn cơm muốn nôn là thuộc Dương minh, dùng Ngô thù du thang làm
chủ, uống thuốc vào lại nặng hơn là thuộc thượng tiêu.

Tóm tắt : Biện hàn nhiệt của chứng nôn.

Thích nghĩa : Ăn cơm muốn nôn có chia ra thượng tiêu, trung tiêu, có hàn có
nhiệt khác nhau. Ăn cơm muốn nôn là chứng Dương minh trúng hàn, nên dùng Ngô
thù du thang để ôn trung giáng nghịch, nếu uống thuốc rồi lại nôn nặng hơn là nhiệt
tà ở thượng tiêu chưa khỏi lại nên dùng bài thuốc khác.

Nhận xét : Chứng này không phải là chữa hàn mà bỏ sót nhiệt, mà có nghĩa là
đặt ra lời biện chứng để nhấn mạnh thêm lời nói.

Ngô thù du thang

209
Ngô thù du 1 thăng (tẩy)

Nhân sâm 3 lạng

Sinh Khương 6 – (thái mỏng)

Đại táo 12 quả ( xẻ ra)

Bốn vị trên, nước 7 thăng, sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm mỗi lần 7 cáp,
ngày uống 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc : Ngô thù du thang, dùng Ngô thù du thang để ôn trung
tán hàn, giáng nghịch hạ khí. Sinh khương tán hàn chi ẩu, Nhân sâm đại táo bổ hư
hòa trung. Phương này có công dụng ôn vị tán hàn, bổ trung, bài tiết chất đục, giáng
nghịch cầm mửa.

246. Bệnh Thái dương mạch thốn hoãn, quan phù, xích nhược, người bệnh
phát sốt đổ mồ hôi, lại sợ rét không nôn, chỉ dưới tâm đầy tức, đó là vì thầy thuốc
cho hạ, nếu như không hạ bệnh nhân không sợ lạnh mà khát, đấy là chuyển
thuộc Dương minh, tiểu tiện đi luôn, đại tiện rắn không đi ngoài 10 ngày mà
không khó chịu gì, nếu khát muốn uống nước thì cho uống từng ít một, chỉ nên
dùng phép cứu, nếu khát thì cho uống Ngũ linh tán.

Tóm tắt : Biện về bệnh Thái Dương vì hạ nhầm sinh biến chứng và chuyển thuộc
Dương minh.

Thích nghĩa : Bệnh Thái dương mạch thấy thốn hoãn, quan phù, xích nhược là
mạch phù hoãn của chứng trúng phong, phát sốt, đổ mồ hôi sợ lạnh là chứng trúng
phong, không nôn là biết tà chưa truyền vào trong nên dùng Quế chi thang để chữa,
chỉ đầy tức dưới tâm đó không phải là chứng trúng phong mà là do thầy thuốc cho hạ
nhầm, biểu tà thừa hư nhập vào lý tụ lại ở dưới tâm mà gây nên, chứng này tuy đã hạ

210
nhầm mà biểu chứng vẫn còn cần tuân theo Điều 169 ở Thiên Thái dương mà chữa,
phải giải biểu trước, công chứng đầy tức sau.

Nếu chưa bị hạ nhầm, tự nhiên truyền biến từ sợ lạnh biến thành không sợ lạnh,
từ không khát biến thành có khát, đó là chứng Thái dương đã chuyển thành chứng
Dương minh, nếu không có các chứng nên hạ như nói sảng, sốt cơn, bụng đầy thì có
thể biết bệnh tuy chuyển thuộc Dương Minh mà vị phủ chưa thành thực, đấy là thuộc
Dương minh kinh bệnh. Nếu tiểu tiện lợi, thì đại tiện sẽ rắn, loại đại tiện rắn này tuy
10 ngày không đi ngoài được, cũng không khó chịu gì, hai chứng đều không thể dùng
Thừa khí thang để công hạ.

Nếu vì vị táo mà miệng khát muốn uống nước thì nên cho uống từng ít một,
uống nhiều sợ gây ra nước đọng lại không hóa, nếu khát vẫn không dứt, kiêm có
chứng tiểu tiện không lợi, đấy là thuộc chứng đình âm, nên dùng Ngũ linh tán để hóa
khí lợi thủy. Chứng súc thủy lui được thì khát nước tự hết.

Nhận xét : Nội dung của điều này trọng ở chỗ biểu chứng:

1) Biện vì biểu chứng vì hạ nhầm mà thành chứng đầy tức và chưa


chuyển thành chứng Dương minh.
2) Biện về Dương minh kinh bệnh với tân dịch suy kém, đại tiện
rắn đều không phải là chứng thừa khí thang.
3) Biện về chứng vị táo mà khát nước với chứng súc thủy mà
khát, nhưng lời văn có sai sót, độc giả phải lĩnh hội lấy mới được.

247. Mạch Dương vi mà mồ hôi ít là tự hòa vậy, mồ hôi ra nhiều là thái quá,
mạch dương thực nhân phát hãn, ra nhiều mồ hôi, cũng là thái quá, thái quá là
phần dương tuyệt ở trong, mất tân dịch, đại tiện do đó mà rắn.

Tóm tắt : Ra nhiều mồ hôi, hại tân dịch dẫn đến đại tiện rắn.

Thích nghĩa : Mạch dương là chỉ mạch phù, chủ biểu. Mạch dương vi ấn nhẹ
tay mà thấy mạch vi là biểu khí hư mà tà không nặng lắm. Ra ít mồ hôi là chính khí
ở trong đang ở tình thế chính thắng tà suy, tà lui được mà chính khí không tổn thương
211
đấy là tự hòa. Nếu mồ hôi ra nhiều là tà thực ở trong đấy là thái quá, mạch dương
thực là ấn nhẹ tay mà thấy mạch thực, đấy là biểu thực, nên phát hãn để giải. Chỉ sau
khi phát hãn ra nhiều mồ hôi cũng là thái quá, không kể lý thực biểu thực, nếu mồ
hôi ra nhiều quá là chứng tân dịch mất ở ngoài, dương kiệt ở trong, cho nên nói “Đại
tiện do đó mà rắn”.

248. Mạch phù mà khâu, phù là dương, khâu là âm, phù khâu kết hợp với
nhau, vị khí sinh nhiệt phần dương sẽ tuyệt.

Tóm tắt: biện về mạch chứng của Dương minh vị nhiệt, tân dịch hao kém.

Thích nghĩa: Phù là dương khí thịnh, khâu là âm huyết hư, dương thịnh thời khí
có dư mà sinh nhiệt, âm huyết hư thời âm không đủ để hòa với dương, dương thịnh
thời tổn thương tân dịch trong vị, âm không thể hòa với dương thời dương gắng một
mình mà huyết càng hư. Dương thịnh âm hư như thế mãi cho nên nói “Vị khí sinh
nhiệt phần dương sẽ tuyệt”.

249. Mạch phù dương phù mà sáp, phù thời vị khí khỏe, sáp thời tiểu tiện
đi luôn, phù sáp cùng kết hợp nhau thì đại tiện rắn, sẽ thành chứng tỳ ước, dùng
Ma tử nhân hoàn làm chủ.

Tóm tắt: chứng trạng và cách chữa trường hợp tỳ ước.

Thích nghĩa: Mạch phù dương là mạch của vị, phù thời vị dương khỏe, sáp thời
tỳ ước, không thể làm cho tân dịch tỏa khắp, chỉ chuyển vận xuống bàng quang mà
thôi, do đó mà tiểu tiện đi luôn, đại tiện rắn, dùng thuốc nhuận tràng thông tiện là Ma
nhân hoàn để chữa chứng tỳ ước.

Ma tử nhân hoàn.

Ma tử nhân 2 thăng

Thược dược ½ cân

Chỉ thực ½ cân (nướng)

212
Đại hoàng 1 cân (bỏ vỏ)

Hậu phác 1 thước (nướng, bỏ vỏ)

Hạnh nhân 1 thăng (bỏ vỏ và đầu nhọn, rang nghiền nát bét).

6 vị trên, luyện mật làm viên bằng hột ngô đồng (0,03g), mỗi lần uống 10 viên,
ngày uống 3 lần, dần dần tăng thêm, lấy nhuận tràng làm chuẩn.

Ý nghĩa phương thuốc. Phương này là Tiểu thừa khí thang gia Ma nhân, Hạnh
nhân, Thược dược mà tổ chức thành, dùng Ma nhân nhuận tràng nhuận táo làm chủ,
Hạnh nhân nhuận phế giáng khí, Thược dược dưỡng âm hòa huyết, Tiểu thừa khí
hành khí phá trệ, dùng mật làm viên là lấy cái ý nhuận hạ từ từ.

250. Bệnh Thái dương ba ngày phát hãn không giải bừng bừng phát sốt là
thuộc vị, vậy dùng Điều vị thừa khí thang làm chủ.

Tóm tắt: chứng trạng và cách chữa trường hợp bệnh Thái dương sau khi phát
hãn chuyển thành Dương minh.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương tuy đã kinh qua phát hãn mà nhiệt vẫn không
giải chuyển thuộc Dương minh, chứng phát sốt này không phải hâm hấp phát sốt của
bệnh Thái dương mà là bừng bừng phát sốt do nhiệt tụ ở trong sôi bốc ra ngoài, là
dấu hiệu táo thịnh ở trong, cho nên nói “thuộc vị”. Nhiệt tuy tụ ở vị mà còn chưa xuất
hiện các chứng sốt cơn, nói sảng v.v… cho nên chỉ dùng Điều vị thừa khí thang để
tiết nhiệt hòa vị.

251. Thương hàn sau khi cho thổ bụng trướng đầy cho uống Điều vị thừa
khí thang.

Tóm tắt: cách chữa trường hợp bụng trướng đầy sau khi cho thổ.

Thích nghĩa: Thương hàn sau khi cho thổ mà thấy bụng trướng đầy là vì vốn có
thực nhiệt ở lý, mửa rồi mà thực nhiệt không giải được, cho nên bụng vẫn trướng đầy,

213
nhưng vì sau khi muốn mửa thì vị khí đã hư, nên tuy có nhiệt tà tụ ở trong vẫn không
nên hạ mạnh, cho nên dùng Điều vị thừa khí thang để trừ thực nhiệt kiêm hòa vị khí.

252. Bệnh Thái dương nếu cho thổ, cho hạ, cho phát hãn rồi hơi phiền, tiểu
tiện đi luôn, đại tiện vì đó mà rắn cho dùng Tiểu thừa khí thang để hòa thì khỏi.

Tóm tắt: chứng trạng và cách chữa bệnh Thái dương chữa nhầm tổn thương tân
dịch mà thành chứng lý nhiệt, đại tiện rắn.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương hoặc cho thổ, hoặc cho hạ, hoặc cho phát hãn
làm cho tân dịch bị tổn thương, nhiệt tà nhập vào lý, quấy rối bên trong nên hơi phiền,
tiểu tiện đi luôn, đại tiện rắn, chứng này kinh qua chữa nhầm, tân dịch bị tổn thương,
khí trệ nhiệt kết, cho nên dùng Tiểu thừa khí thang để hòa, để thông vị khí mà trừ
nhiệt, nhiệt hết, tân dịch hồi phục thì tự khỏi.

Biểu chứng của điều này vì điều trị không đúng, tà nhiệt nhập lý mà hiện ra các
chứng tâm phiền, tiểu tiện đi luôn, đại tiện rắn là khác với chứng của Điều vị thừa khí
thang là táo nhiệt tân dịch bị tổn thương, chủ chứng của Tiểu thừa khí thang là khí
trệ, tân dịch bị tổn thương.

253. Mắc bệnh 2-3 ngày, mạch nhược không có chứng Thái dương chứng
Sài hồ, buồn phiền vật vã, dưới tâm rắn. Đến 4-5 ngày tuy hay ăn dùng Tiểu
thừa khí thang cho uống một ít để cho hơi hòa, làm cho đỡ một ít, đến 6 ngày
cho dùng một thang Thừa khí. Nếu không đại tiện 6-7 ngày, tiểu tiện ít, tuy
không ăn được, nhưng phân đầu rắn, sau nhão, chưa chắc đã rắn được, công thì
tất nhão, phải có chứng tiểu tiện lợi, phân đã rắn thì mới có thể công, nên dùng
Đại thừa khí thang.

Tóm tắt: cách sử dụng Tiểu thừa khí thang.

Thích nghĩa: Mắc bệnh 2-3 ngày mạch nhược mà không thực, đã không có biểu
chứng của Thái dương, lại không có chứng bán biểu bán lý của Sài hồ thang; buồn
phiền vật vã, dưới tâm rắn là có dấu hiệu táo nhiệt ở lý của chứng Dương minh. Đến
4-5 ngày, tuy ăn được, biết vị còn chưa hư, ruột chưa kết thực, cho Tiểu thừa khí
214
thang uống ít để hòa. Đến 6 ngày, vẫn buồn phiền vật vã, không đại tiện, có thể cho
uống Tiểu thừa khí đến 1 tháng, làm cho đi ngoài được mới thôi. Câu “ Nếu không đi
đại tiện” là tiếp với câu trên “buồn phiền vật vã, dưới tâm rắn”. Ở trên là nói đến 6-7
ngày không đi ngoài tuy thấy tiểu tiện ít, không ăn được, cũng vẫn chưa nên hạ, hạ
thì phân lúc đầu rắn, sau sẽ nhão. Bởi vì chưa chắc đã rắn mà công, công thì phân
nhão. Cần chú ý tiểu tiện lợi, đại tiện thật rắn mới có thể công. Muốn biết đại tiện đã
rắn hay chưa, phải xét tình trạng ăn được hay không được, lại nên xét tiểu tiện lợi hay
không lợi, đấy là bảo người ta cẩn thận khi dùng Đại thừa khí thang.

254. Thương hàn 6-7 ngày trong mắt thấy không rõ, tròng mắt không hòa,
không có chứng biểu lý, đi đại tiện khó, mình hơi nóng, đấy là chứng thực, kíp
hạ ngay, nên dùng Đại thừa khí thang.

Tóm tắt: Trong mắt thấy không rõ, tròng mắt không hòa là trong các chứng phải
hạ gấp để bảo tồn chân âm.

Thích nghĩa: Bệnh thương hàn kinh qua 6-7 ngày, không có biểu chứng đau đầu
sợ lạnh, lại không có lý chứng sốt cơn nói sảng, chỉ thấy đại tiện khó, mình hơi nóng.
Bệnh tựa hồ không gấp lắm, nhưng trong mắt không thấy rõ, tròng mắt không hòa là
dấu hiệu nhiệt tà nấp ở lý, thiêu đốt hết tân dịch. Kinh nói: “Tinh ba của ngũ tạng lục
phủ đều dồn lên con mắt”, cho nên mắt thấy không rõ là dấu hiệu chân âm sắp kiệt.
Trong lúc bệnh tình nghiêm trọng, bệnh thế nguy cấp này để chậm thời không thể
cứu, cho nên dùng phép hạ gấp để bảo tồn chân âm mà cứu chữa.

255. Bệnh Dương minh phát sốt, ra nhiều mồ hôi, kíp hạ đi, dùng Đại thừa
khí thang.

Tóm tắt: phát sốt, ra nhiều mồ hôi là chứng thứ hai phải hạ gấp để bảo tồn chân
âm.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh phát sốt ra nhiều mồ hôi là nhiệt tà nung bốc
bức bách trường vị, tân dịch có xu thế không hết thì không dứt là phủ chứng của

215
Dương minh, cho nên dùng phép hạ gấp làm cho tà nhiệt thực lui nhanh mà trường
vị được yên, cũng là ý nghĩa hạ gấp để bảo tồn chân âm.

256. Bệnh Dương minh phát sốt, ra nhiều mồ hôi, kíp hạ đi, nên dùng Đại
thừa khí thang.

Tóm tắt: phát sốt, ra nhiều mồ hôi là chứng thứ hai phải hạ gấp để bảo tồn chân
âm.

Thích nghĩa: Bệnh Dương minh phát sốt ra nhiều mồ hôi là nhiệt tà nung bốc
bức bách trường vị, tân dịch có xu thế không hết thì không dứt là phủ chứng của
Dương minh, cho nên dùng phép hạ gấp làm cho tà khí thực nhiệt chóng hết mà
trường vị được yên, cũng là ý nghĩa hạ gấp để bảo tồn chân âm.

257. Phát hãn tà không giải, bụng đầy đau, cần phải hạ gấp, nên dùng Đại
thừa khí thang.

Tóm tắt: phát hãn tà không giải, bụng đầy đau là chứng thứ ba cần phải hạ gấp
để bảo tồn chân âm.

Thích nghĩa: phát hãn mà bệnh không giải là tân dịch đã mất hết ra ngoài, bụng
đầy đau là nhiệt tà ở lý lại hóa táo nhanh mà kết thành thực, nếu không hạ gấp để trừ
cái thực ấy thì sẽ hao thêm tân dịch cho nên cần hạ gấp để thông trường vị là ý nghĩa
ở chỗ bảo tồn chân âm.

258. Bụng đầy không bớt, bớt không đáng kể, phải hạ đi, nên dùng Đại
thừa khí thang.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa chứng bụng đầy không bớt.

Thích nghĩa: Nguyên nhân sinh ra bụng đầy có hư có thực khác nhau, đầy mà
có lúc đỡ là hư, đầy mà không đỡ là thực. Nay bụng đầy không đỡ, nếu đỡ cũng rất ít
không đáng kể là chứng kết thực đã nặng cần phải hạ đi, nên dùng Đại thừa khí thang.

216
259. Hợp bệnh Dương minh Thiếu dương ỉa chảy, mạch không trái nhau là
thuận, trái là lỗi, khắc hại lẫn nhau gọi là thái. Mạch hoạt mà sác là có thức ăn
không tiêu cần hạ đi, nên dùng Đại thừa khí thang.

Tóm tắt: chứng trạng và cách chữa trường hợp, hợp bệnh Dương minh Thiếu
dương nên hạ.

Thích nghĩa: Hợp bệnh Dương minh Thiếu dương, tà khí hơi thịnh, nhiệt cũng
hơi nặng, ảnh hưởng đến trường vị mà gây ỉa chảy. Dương minh chủ vị, Thiếu dương
chủ đởm, tỳ và vị hợp nhau, can và tỳ thuộc về tạng mộc tạng thổ, có cái nghĩa khắc
chế lẫn nhau. Luận theo mạch, thì mạch Dương minh đáng lý thực, đại; mạch Thiếu
dương đáng lý huyền; nay bệnh ỉa chảy, nếu thấy mạch của Dương minh thì hạ đi là
khỏi, làm như thế là không trái; nếu thấy mạch Thiếu dương thời không thể hạ tà
không theo đâu mà ra thì bệnh không giải được tức là trái, trái là lỗi, mộc tất khắc
thổ, làm cho mất chính khí. Nay mạch hoạt mà sác, là mạch chỉ về trường vị có thức
ăn không tiêu, mạch không huyền là thuận, cần hạ đi là khỏi, nên dùng Đại thừa khí
thang.

Nhận xét: Chứng ỉa chảy này do nhiệt kết chặt mà nước len chảy ra (nhiệt kết
bàng lưu), dùng Đại thừa khí thang cũng là cách chữa “thông nhân thông dụng”.

Trong điều 32, hợp bệnh Thái dương Dương minh mà ỉa chảy là bệnh thiên về
phía Thái dương biểu chứng, cho nên dùng Cát căn thang; trong điều 177 hợp bệnh
Thái dương Thiếu dương mà ỉa chảy là tà thiên về phía bán biểu bán lý của Thiếu
dương, cho nên dùng Hoàng cầm thang; mà trong điều này thì chứng ỉa chảy của hợp
bệnh Dương minh Thiếu dương là thiên về phía Dương minh lý chứng cho nên dùng
Đại thừa khí thang.

260. Bệnh nhân không có chứng biểu, chứng lý, phát sốt 7-8 ngày, tuy mạch
phù sác cũng có thể hạ, giá như đã hạ rồi, mạch sác không giải, hợp nhiệt lại thời
tiêu cơm chóng đói, đến 6-7 ngày không đi đồng được là có ứ huyết, nên dùng
Để đương thang. Nếu mạch sác không giải mà ỉa chảy không dứt sẽ hợp với nhiệt
mà đi ngoài có máu mủ.
217
Tóm tắt: Luận về biến chứng của bệnh Dương minh ứ huyết với đi ngoài ra máu
mủ.

Thích nghĩa: Bệnh nhân không có chứng biểu chứng lý là không có đau đầu sợ
lạnh của Thái dương biểu chứng, lại không có đầy bụng nói sảng của Dương minh lý
chứng. Mà phát sốt kinh qua 7-8 ngày không giải, nhân không có biểu chứng, tuy
mạch phù sác, có thể dùng phép hạ để tiết nhiệt. Nếu hạ rồi, mạch phù đã lui mà mạch
sác không giảm là nhiệt ở khí phận đã lui, nhiệt ở huyết phận chưa giải, cho nên mạch
vẫn sác. Nếu nhiệt của huyết phận ảnh hưởng đến vị, hợp với nhiệt ở vị thời tiêu cơm
chóng đói. Đến 6-7 ngày không đi ngoài là nhiệt của huyết phận đã bốc vào vị cho
nên biết là có ứ huyết, nên dùng Để đương thang để khử cái ứ ấy. Nếu mạch sác
không giải mà ỉa chảy không dứt là nhiệt của huyết phận đốt hại âm lạc, cho nên nói
“sẽ hợp với nhiệt mà đi ngoài có máu mủ”.

Trên đây là hai loại biến chứng sau khi hạ:

1. Huyết nhiệt hợp vào vị mà táo khí thịnh sẽ gây nên đại tiện táo
kết, ứ huyết ngưng trệ.
2. Huyết nhiệt hợp vào vị mà nhiệt tà thịnh sẽ gây nên chứng ỉa
chảy không dứt, đốt hại âm lạc mà ỉa ra máu mủ.

261. Thương hàn phát hãn rồi mình và mắt đều vàng, sở dĩ như vậy là vì
hàn thấp ở lý không giải cho nên thế. Bệnh như thế thì không hạ được, phải tìm
trong khâu hàn thấp mà chữa.

Tóm tắt: biện về chứng phát vàng do có hàn thấp ở trong.

Thích nghĩa: Chứng phát vàng do hàn thấp đời sau gọi là “âm hoàng”. Do người
bệnh tỳ dương không kiện vận mà làm hàn thấp gây nên bệnh. Uống thuốc phát hãn
làm cho trung khí càng hư, tỳ dương càng khốn đốn, tỳ hư thấp trệ cho nên mình và
mắt phát vàng. Lúc bấy giờ việc trị liệu không thể công hạ mà chỉ nên ôn trung, tán
hàn, trừ thấp, dựa vào khâu trừ hàn thấp mà tìm phép chữa.

218
Phát vàng do hàn thấp ở trong là bệnh thuộc Thái âm; phát vàng do ứ nhiệt ở
trong là bệnh thuộc Dương minh. Mạch và chứng của bệnh Dương hoàng là sắc vàng
tươi sáng, mạch hoạt sác hoặc nhu sác, tất có chứng đại tiện bí kết hoặc không thông
sướng, tiểu tiện vàng đỏ không lợi, bụng đầy, phiền muộn, nôn mửa, rêu lưỡi vàng
nhầy. Mạch và chứng của bệnh Âm hoàng là sắc vàng tối tăm, đại tiện lỏng loãng,
miệng nhạt, rêu lưỡi trơn nhuận, mình không nóng lắm, miệng không khát, lúc khát
ham uống nước nóng, mạch trầm hoặc trì.

262. Thương hàn 7-8 ngày, mình vàng như màu quả quít, tiểu tiện không
lợi, bụng hơi đầy, dùng Nhân trần cao thang làm chủ.

Tóm tắt: chứng trạng và cách chữa trường hợp uất nhiệt phát vàng.

Thích nghĩa: Thương hàn 7-8 ngày, mình vàng như màu quả quít là phát vàng
thuộc thấp nhiệt, đời sau gọi là Dương hoàng. Tiểu tiện không lợi, thấp tà không có
lối thoát, bụng hơi đầy là thấp nhiệt uất ở lý, cho nên dùng Nhân trần cao thang là
thuốc tiết nhiệt thấp làm chủ trị. Điều này có thể tham khảo với điều 238, điều kia
chú trọng trình bày về nguyên nhân của bệnh, điều này chú trọng về trình bày chứng
trạng của bệnh.

263. Thương hàn mình vàng phát sốt dùng Chi tử bá bì thang làm chủ.

Tóm tắt: cách chữa chứng Thương hàn mình vàng phát sốt.

Thích nghĩa: bệnh Thương hàn do thấp nhiệt cùng bốc lên mà phát vàng cả
người và có chứng phát sốt. Đấy là thấp nhiệt uất ở tam tiêu, thế nhiệt tương đối nặng,
chỉ nói mình vàng phát sốt, đã không có lý chứng, bụng hơi đầy lại không có biểu
chứng, mình đau, sợ lạnh, cho nên dùng Chi tử bá bì thang để thanh nhiệt tiết thấp
mà chữa.

Chi tử bá bì thang.

Phì Chi tử 15 quả (xé ra)

Chích thảo 1 lạng


219
Hoàng bá 2 lạng

Ba vị trên, nước 4 thăng, nấu lất 1,5 thăng, lọc bỏ bã, chia uống ấm 2 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Chi tử đắng lạnh, hay thanh nhiệt ở trong trị chứng uất
nhiệt kết khí, tả hỏa của tam tiêu theo phương tiểu tiện mà bài tiết. Hoàng bá đắng
lạnh thanh nhiệt lại hay hóa thấp, hai vị ấy hợp lại mà dùng thì sự tương đắc càng
thấy rõ, Cam thảo hòa trung kiện tỳ, hoãn sự đắng lạnh của 2 vị Chi tử Hoàng bá, làm
cho thấp nhiệt lui mà tỳ vị không bị tổn hại. Phương này là bài thuốc thanh nhiệt trừ
thấp, làm cho tà theo đường tiểu mà bài xuất, thấp nhiệt trừ được mà chứng phát vàng
tự tiêu.

264. Thương hàn ứ nhiệt ở trong mình vàng, dùng Ma hoàng Liên kiều
Xích tiểu đậu thang làm chủ.

Tóm tắt: chữa bệnh Thương hàn phát vàng bằng cách làm mát và thông đạt phần
biểu.

Thích nghĩa: bệnh Thương hàn biểu tà không giải, nhiệt không tiết ra ngoài được,
bởi vì người bệnh vốn có thấp nhiệt chất chứa ở trong, cho nên nói “ứ nhiệt”. Lại do
cảm thụ ngoại tà làm cho thấp nhiệt uất bốc ra ngoài mà phát ra chứng mình vàng,
đấy là chứng ngoài có biểu tà trong có thấp nhiệt, cho nên dùng Ma hoàng, Liên kiều,
Xích tiểu đậu thang để giải biểu tà ở ngoài thanh thấp nhiệt ở trong.

Ma hoàng Liên kiều Xích tiểu đậu thang.

Ma hoàng 2 lạng (bỏ mắt)

Liên kiều căn 2 lạng

Hạnh nhân 10 hạt (bỏ vỏ và đầu nhọn)

Xích tiểu đậu 1 thăng

Đại táo 12 quả (xé ra)

220
Sinh tử bạch bì 1 thăng (thái mỏng)

Sinh khương 2 lạng (thái mỏng)

Chích thảo 2 lạng

8 vị trên, dùng nước lã 1 đấu, nấu vị Ma hoàng trước sôi 2 dạo, vớt bỏ bọt rồi
cho các vị kia vào sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã chia uống ấm 3 lần, uống hết trong nửa
ngày.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này dùng Ma hoàng Hạnh nhân để tuyên phế lợi
khí, giải biểu tán hàn; Liên kiều Xích tiểu đậu Tử bì để thanh nhiệt lợi thấp; Khương-
Táo cay ngọt hợp nhau để kiện tỳ hòa trung; là bài thuốc giải cả biểu lý, chữa chứng
thấp nhiệt uất bốc sinh phát vàng và kiêm có biểu tà.

221
BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THIẾU DƯƠNG

265. Thiếu dương sinh bệnh, miệng đắng, họng khô, mắt choáng.

Tóm tắt: đề cương bệnh Thiếu dương.

Thích nghĩa: Bệnh ở Thiếu dương là tà ở bán biểu bán lý. Đởm hỏa bốc lên đốt
hại tân dịch, cho nên thấy miệng đắng, họng khô. Đởm hợp với Can, can dương thăng
lên nên thấy mắt choáng. Đấy đều là dấu hiệu nhiệt tà ở khoảng ngực sườn, theo
đường kinh mà quấy rối lên. Xét bệnh Thiếu dương trừ chứng miệng đắng, họng khô,
mắt choáng ra, còn có bệnh chứng Thiếu dương, vì tà ở ngực sườn mà dùng Tiểu sài
hồ thang làm chủ, như các chứng nóng rét qua lại, ngực sườn đầy tức, lịm lịm không
muốn ăn uống, tâm phiền hay nôn v.v… cũng đều là chứng rất trọng yếu của bệnh
Thiếu dương.

266. Thiếu dương trúng phong, hai tai không nghe được, mắt đỏ, trong
ngực đầy mà phiền thì không thể cho thổ cho hạ, cho thổ cho hạ thì sinh chứng
hồi hộp mà kinh sợ.

Tóm tắt: Thiếu dương trúng phong cấm dùng phép thổ phép hạ để chữa.

Thích nghĩa: Thiếu dương trúng phong là nhiệt tà ở bộ phận ngực sườn, nhiệt tà
quấy nhiễu lên thì chẳng những hiện ra các chứng miệng đắng, họng khô, mắt choáng
mà còn kiêm thấy các chứng tai điếc, mắt đỏ, trong ngực phiền đầy, phép chữa phải
hòa giải. Nếu nhận là trường vị tích trệ mà dùng nhầm phép thổ phép hạ làm tổn
thương khí huyết thì tất nhiên sẽ dẫn đến chứng kinh sợ hồi hộp, cho nên bệnh Thiếu
dương cấm dùng phép thổ phép hạ.

Uông Linh Hữu nói: “Bệnh Thiếu dương có sự cấm thổ và hạ là chỉ vì có chứng
phiền đầy, cho nên mới để dùng nhầm phép thổ và phép hạ. Thanh Vô Kỷ cho rằng:
“Cho thổ thời hại khí, khí hư thời hồi hộp; cho hạ thời vong huyết, huyết hư thời kinh
sợ”. Họ không biết rằng hồi hộp kinh sợ đều chủ ở tâm, nhầm cho thổ lại cho hạ thời

222
khí huyết suy kém mà thần minh không có chủ cho nên bàng hoàng mà hồi hộp, nơm
nớp mà kinh sợ”.

267. Thương hàn mạch huyền tế, đau đầu, phát sốt là thuộc Thiếu dương,
Thiếu dương thì không thể phát hãn, phát hãn thời sinh nói sảng, đây là thuộc
vị, vị hòa thời khỏi, vị bất hòa thời phiền mà hồi hộp.

Tóm tắt: Bệnh Thiếu dương cấm dùng phép phát hãn.

Thích nghĩa: Thương hàn 3 kinh dương đều có chứng đau đầu phát sốt, nay
mạch huyền tế là biết bệnh thuộc Thiếu dương. Bệnh Thiếu dương không ở biểu cho
nên không thể phát hãn, nhầm phát hãn thời tân dịch ra hết, trong vị khô ráo, tân dịch
tổn thương, nhiệt thịnh tất thấy chứng nói sảng. Nói sảng là có thực nhiệt ở vị, cho
nên nói: “đây là thuộc vị”, nên hòa vị khí thời khỏi. Nếu vị khí bất hòa thời sẽ thấy
biến chứng, tâm phiền mà hồi hộp đều là do bệnh Thiếu dương nhầm phát hãn gây
nên cho nên bệnh Thiếu dương cấm dùng phép phát hãn.

268. Vốn bệnh Thái dương không giải, chuyển vào Thiếu dương, dưới sườn
rắn đầy, nôn khan, ăn không được, nóng rét qua lại, còn chưa cho thổ cho hạ,
mạch trầm khẩn, cho dùng Tiểu sài hồ thang. Nếu đã cho thổ, cho hạ, cho phát
hãn, cho ôn châm mà nói sảng là chứng Sài hồ thang hết rồi, đấy là hoại bệnh.
Tìm xem sai phạm chỗ nào để chữa.

Tóm tắt: chứng Thái dương chuyển thành Thiếu dương và cách cứu nghịch đối
với trường hợp chữa nhầm.

Thích nghĩa: vốn bệnh Thái dương không giải, thấy các chứng dưới sườn rắn
đầy, nôn khan, ăn không được, nóng rét qua lại là bệnh đã chuyển vào Thiếu dương.
Nếu chưa cho thổ cho hạ là nói chưa trải qua chữa nhầm, mạch thấy trầm khẩn là
bệnh đã rời phần biểu, nhân vì mạch trầm khẩn cũng thuộc về mạch huyền, chủ bệnh
ở Thiếu dương, cho nên dùng Tiểu sài hồ thang để hòa giải. Nếu đã kinh qua chữa
nhầm (như thổ, hạ, phát hãn, ôn châm…) rồi mà gây nên nói sảng, chứng Sài hồ đã
hết gọi là hoại bệnh, phải biện biệt sai phạm chỗ nào để chữa.

223
269. Hợp bệnh tam dương, mạch phù đại lên trên bộ quan, chỉ muốn ngủ,
nhắm mắt lại thì đổ mồ hôi.

Tóm tắt: Hợp bệnh tam dương hiện ra chứng của Thiếu dương.

Thích nghĩa: Mạch phù đại lên trên bộ quan là mạch hợp bệnh tam dương. Phù
là mạch Thái dương, Đại là mạch Dương minh, lên trên bộ quan là mạch Thiếu dương.
Mạch phù đại lên trên bộ quan là 3 kinh dương đồng thời thụ tà mà chứng Thiếu
dương là nặng hơn. Chỉ muốn ngủ là do nhiệt thịnh quá, tổn thương tân dịch mà gây
nên, nhắm mắt thời đổ mồ hôi tức là mồ hôi trộm, bởi vì bộ vị của Thiếu dương là ở
bán biểu bán lý mà chủ sơ tiết, nhắm mắt thì dương nhập vào âm, khí vệ dương giảm
yếu, nhiệt bên trong thịnh hơn làm cho mồ hôi ra ngoài đấy là hợp bệnh 3 kinh dương
mà thấy chứng Thiếu dương.

270. Thương hàn 6-7 ngày, không sốt nặng, người bệnh vật vã phiền muộn,
đấy là dương nhập vào âm cho nên thế.

Tóm tắt: biện về chứng biểu tà truyền vào lý.

Thích nghĩa: Thương hàn 6-7 ngày là lúc dương nhập vào âm, không sốt nặng,
người bệnh phiền muộn vật vã, không thấy sốt nặng ở biểu mà lý nhiệt chuyển nặng
hơn, cho nên người bệnh vật vã không yên. Nói “dương nhập vào âm” là nói rõ ý
nghĩa biểu tà đã lui, bệnh đã truyền vào lý.

271. Thương hàn 3 ngày là hết giai đoạn tam dương, đáng lý tam âm phải
thụ tà, nếu người bệnh ăn được mà không nôn, đấy là tam âm không thụ tà.

Tóm tắt: biện về chứng hậu Thiếu dương không truyền tam âm.

Thích nghĩa: “Thương hàn 3 ngày là hết giai đoạn tam dương, đáng lý tam âm
phải thụ tà” là lời nói ước lược. Nay người bệnh lại ăn được mà không nôn là biết vị
khí còn điều hòa, lại không thấy các chứng: bụng đầy mà mửa là chứng của Thái âm;
ăn không xuống muốn mửa, không mửa được là chứng của Thiếu âm; đói mà không

224
muốn ăn, ăn thì mửa ra giun đũa là chứng của Quyết âm… mà biết 3 kinh âm không
thụ tà.

273. Thương hàn 3 ngày, mạch của Thiếu dương tiểu là muốn khỏi.

Tóm tắt: Mạch của chứng Thiếu dương muốn khỏi.

Thích nghĩa: Thương hàn 3 ngày phần nhiều là thời kỳ mà biểu tà truyền vào
trong. Nay bệnh Thiếu dương thấy mạch tiểu là tà khí đã lui. Thiên Ly hợp chân tà
luận sách Tố vấn nói: “Mạch đại là bệnh tà đang đến, mạch tiểu là bệnh tà đã ngừng”
cho nên biết là bệnh muốn khỏi.

274. Bệnh Thiếu dương, thời gian muốn khỏi là từ giờ Dần đến trước giờ
Thìn.

Tóm tắt: Tiên lượng về thời gian sắp khỏi của bệnh Thiếu dương.

Thích nghĩa: Thiếu dương là Thiếu dương trong âm, thông với khí mùa xuân,
khí mùa xuân thuộc Mộc, giờ Dần giờ Mão là lúc mà mộc khí của Thiếu dương thịnh
vượng, bệnh Thiếu dương được khí của Can mộc cùng giúp, tức là ý nghĩa “âm sinh
dương trưởng” của Nội kinh, cho nên bệnh có cơ sắp khỏi.

Nhận xét: Trong 6 kinh đều có một điều nói về thời giờ muốn khỏi, nhưng vì
không chỉ đạo lâm sàng được, nên tồn nghi chờ khảo cứu.

225
BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THÁI ÂM

274. Thái âm sinh ra bệnh, bụng đầy mà mửa, ăn không xuống, ỉa chảy
càng tăng, thỉnh thoảng bụng đau, nếu cho hạ thì tất nhiên dưới ngực sẽ kết rắn.

Tóm tắt: đề cương của bệnh Thái âm.

Thích nghĩa: bệnh Thái âm chủ yếu là tỳ hư thấp thịnh. Hoặc do truyền biến mà
đến, hoặc do bản thân kinh ấy tự sinh bệnh mà phát. Tỳ chủ việc vận hóa, tỳ hư tà
xâm nhập thời chức năng vận hóa mất tác dụng, cho nên bệnh Thái âm phần nhiều
thấy các chứng đau bụng mà mửa, ăn không xuống. Tỳ chủ về bụng, do Thái âm hư
hàn, hàn thấp trở trệ cho nên bụng đầy; hàn phạm vào trung tiêu, vị khí nghịch lên
cho nên mửa; tỳ mất chức năng kiện vận cho nên ăn không xuống; hàn thấp dồn
xuống dưới cho nên ỉa chảy càng tăng; vùng bụng thỉnh thoảng đau… đấy đều là dấu
hiệu Thái âm hư hàn, cho nên chữa phải lấy ôn vận làm chủ, nếu nhầm dùng phép hạ
thời trung tiêu càng hư, khách khí thừa hư mà kết lại ở khoảng hoành cách mô dẫn
đến dưới ngực kết rắn.

275. Thái âm trúng phong, tứ chi phiền đau, mạch dương vi, mạch âm sáp
mà trường là muốn khỏi.

Tóm tắt: Mạch chứng của bệnh Thái âm trúng phong muốn khỏi.

Thích nghĩa: Thái âm trúng phong là bệnh do tỳ vị hư hàn mà cảm thụ phong tà,
vì chính khí không thể đạt ra biểu để chống tà khí cho nên khí mới cảm, phần nhiều
thấy lý chứng Thái âm. Tỳ chủ chân tay, cho nên thấy chân tay phiền đau; mạch của
phong tà vốn là phù, nay chỉ thấy dương vi là biết phong tà bên ngoài không thịnh; tỳ
chủ bệnh thấp, nay mạch chỉ thấy âm sáp là biết thấp tà ở lý chưa thịnh, và lại mạch
âm thấy trường là chủ về khí ở trong còn đầy đủ. Ở đây mạch dương vi, mạch âm sáp
mà trường là tà khí không thịnh, chính khí đầy đủ, cho nên nó là dấu hiệu muốn khỏi.

226
Nhận xét: Mạch sáp phần nhiều cùng thấy với mạch đoản, nay mạch sáp mà
trường cho nên biết bệnh muốn khỏi.

276. Bệnh Thái âm, thời gian muốn khỏi là từ giờ Hợi đến trước giờ Sửu.

Tóm tắt: tiên lượng về thời gian muốn khỏi của bệnh Thái âm.

Thích nghĩa: Nội kinh nói: “Tỳ là tạng Chí âm trong phần âm, các giờ Hợi, Tý,
Sửu là giờ âm tiêu dương trưởng”, cho nên bệnh Thái âm muốn khỏi cũng ở giờ ấy.

Lời chú chọn lọc: Trần Tu Viên nói: “Thái âm là chí âm ở trong âm, âm tột độ
là ở giờ hợi, dương sinh ở giờ tý, đến giờ sửu mà dương khí đã tăng, âm được cái khí
dương sinh mà giải vậy”.

Nhận xét: Trong sáu kinh đều nói về thời gian muốn khỏi vậy, nhưng vì không
chỉ đạo lâm sàng được nên tồn nghi chờ khảo cứu.

277. Bệnh Thái âm mạch phù thì có thể phát hãn, nên dùng Quế chi thang.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh Thái âm theo ngoài mà giải ra.

Thích nghĩa: Mạch của Thái âm vốn là nhược, nay không nhược lại phù là do
âm chuyển thành dương, làm cho tà khí phát ra ngoài cơ biểu, xuất hiện các chứng
trạng mình mẩy phiền đau cho nên dùng Quế chi thang để điều hòa vinh vệ, làm cho
mồ hôi theo tà khí mà giải.

278. Ỉa chảy không khát là thuộc bệnh Thái âm vì nội tạng có hàn (tạng hư
hàn) cho nên thế, phải gây ấm, nên dùng loại thuốc Tứ nghịch(1) .

Tóm tắt: Biện về chứng trạng và cách chữa bệnh Thái âm ỉa chảy.

Giải thích chữ khó:


1
Loại Tứ nghịch: chỉ một loại phương tễ như Tứ nghịch, bao quát có Lý trung thang trong đó.

227
Thích nghĩa: Tự ỉa chảy không khát là Tỳ hư hàn lắm, cho nên nói “thuộc thái
âm”. Thái âm hư hàn dùng loại Lý trung, Tứ nghịch để ôn bổ làm chủ, tức là ý nghĩa
“hàn thời gây ấm, hư thời bổ” của Nội Kinh vậy.

279. Thương hàn mạch phù mà hoãn, chân tay tự ấm là thuộc Thái âm.
Bệnh Thái âm đáng lý mình phải phát vàng, nếu tiểu tiện tự lui thì không thể
phát vàng, 7-8 ngày tuy đột nhiên phát phiền, ỉa chảy, ngày mười mấy lần lượt
tự hết, bởi Tỳ gia thực, vật thời nát phải ra hết cho nên thế.

Tóm tắt: Luận chứng phát vàng do Thái âm thấp uất và chứng tự khỏi do Tỳ gia
thực khí dương hồi phục.

Thích nghĩa: Một đoạn trong điều này từ “không thể phát vàng” trở lên là giống
với điều 192 trong thiên Dương minh, còn điều này nói đến 7-8 ngày đột nhiên phát
phiền, ỉa chảy là thuộc Thái âm. Nếu chính khí khôi phục, Tỳ khí chuyển thâu được
thì vật thối nát có thể theo ỉa chảy mà ra hết, cho nên nói “tuy đột nhiên phát phiền,
ỉa chảy ngày mười mấy lần tự hết, bởi Tỳ gia thực, vật thối nát phải ra hết”. Đây là ý
nghĩa Tỳ dương khôi phục, tà lui, ỉa chảy tự hết vậy.

280. Vốn bệnh Thái dương thầy thuốc lại cho hạ, vì thế mà bụng đầy có lúc
đau, thuộc về Thái âm, dùng Quế chi gia Thược thang làm chủ, nếu rất thực mà
đau, dùng Quế chi gia Đại hoàng thang làm chủ.

Tóm tắt: Bệnh Thái dương hạ nhầm rồi chuyển thuộc Thái âm mà có biến chứng
hư thực.

Thích nghĩa: Bệnh Thái dương không nên hạ mà hạ nhầm, cho nên nói “lại”.
Bệnh Thái dương cho hạ nhầm rồi thấy bụng đầy có lúc đau là tà hãm vào lý, bệnh
thuộc về Thái âm nhưng có biến chứng của hai loại hư thực khác nhau.

Hạ rồi bụng đầy lúc đau lúc không, và lại ưa nắn là thuộc chứng hư hàn, dùng
Quế chi gia Thược dược thang để hòa; nếu hạ rồi rất thực mà đau là do đồ thối nát
tích trệ ở trường vị không ra, đau ấy thuộc thực, tái thì tổn hại đến tạng khí cho nên
dùng Quế chi gia Đại hoàng thang, trừ vật thối nát ấy để làm hết đau.
228
Lời chú chọn lọc: Hứa Hoành nói: “Biểu tà chưa giải, nếu hạ thì làm rỗng trung
tiêu, tà khí trở lại nhập lý. Nếu mạch hư nhược do đó mà bụng đầy, có lúc đau là Tỳ
hư, không thể hạ lần nữa, cho nên dùng Quế chi thang để hòa biểu, gia Đại hoàng
để công lý”.

Quế chi gia Thược dược thang:

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

Thược dược 6 lạng

Đại táo 12 quả (xẻ ra)

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Ba vị trên, nước 7 thăng, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã chia uống ấm 3 lần. Nguyên
bản chép: “Quế chi thang nay gia Thược dược”.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là phép dùng âm để hòa dương, vì Thái
dương cho hạ nhầm, tà hãm vào Thái âm mà thấy chứng bụng đầy có lúc đau, dùng
Quế chi thang bội Thược dược để điều Tỳ hòa trung tiêu mà hết chứng đau bụng.

Quế chi gia Đại hoàng thang:

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

Đại hoàng 2 lạng

Thược dược 6 lạng

Sinh khương 3 lạng (thái mỏng)

Chích thảo 2 lạng

Đại táo 12 lạng (xẻ ra)

229
Sáu vị trên, nước 7 thăng, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng, ngày
uống 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này tức là phương trên gia Đại hoàng để trừ các
vật thối nát.

281. Thái âm sinh bệnh, mạch nhược, người bênh liên tục ỉa chảy, giả thiết
phải dùng Đại hoàng, Thược dược thì nên giảm bớt, bởi vì người ấy vị khí yếu
dễ động cho nên thế.

Tóm tắt: Tiếp theo điều trên, nói người vị khí yếu, theo phép phải nên thận trọng
khi dùng Đại hoàng và Thược dược.

Thích nghĩa: Bệnh Thái âm mạch nhược người đi ỉa chảy liên tục là chủ vị khí
yếu, tuy thấy tỳ gia thực thì khi phải dùng Đại hoàng Thược dược cũng nên giảm bớt
liều lượng vì vị khí yếu, tích trệ dễ động, dùng ít thì được, nếu không giảm bớt liều
lượng tất gây tổn thương vị khí mà tạo thành chứng ỉa chảy kéo dài.

230
BIỆN VỀ MẠCH, CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THIẾU ÂM

282. Thiếu âm sinh bệnh, mạch vi tế, chỉ muốn ngủ.

Tóm tắt: Đề cương của bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm thuộc tâm, thận. Khi tâm, thận hư suy, khí huyết
không đủ, thủy hỏa hư lệch lại cảm phải phong hàn là nguyên nhân chủ yếu gây ra
bệnh Thiếu âm. Thiếu âm sinh bệnh, mạch vi tế là khí huyết hư kém, chỉ muốn ngủ
là âm dương không điều hòa, chính khí không đủ, trở lại bị tà làm khốn. Chỉ một
mạch một chứng này làm đề cương của bệnh Thiếu âm, dạy người ta hễ thấy mạch
này chứng này thì phải đề phòng cho sớm, bỏ qua không chữa thì có thể chuyển thành
các chứng nguy khốn như vong dương, kiệt âm.

Lời chú chọn lọc: Vận Thiết Tiều nói: “Người âm hư hỏa vượng thường khổ vì
suốt đêm không ngủ được, người âm thịnh dương suy thì chỉ muốn ngủ, bất kể ngày
đêm. Chứng âm hư hỏa vượng không phải vì tinh thần có dư mà không ngủ, mà vì
ngũ tạng rối loạn không yên, tuy mệt mỏi lắm mà khổ vì không thể thành giấc ngủ.
Chứng chỉ muốn ngủ vì âm thịnh dương suy không phải như người béo nhiều máu mà
mới đặt đầu đến gối đã ngáy như sấm đâu, đây là vì ngoại cảm, khí hàn nhiều, bản
thân dương khí đã suy rồi, thần chí như tỏ như mờ, gọi đến thì tinh thần hơi phấn
chấn một tí, giây lát lại bàng hoàng không tỉnh táo, đấy gọi là chứng chỉ muốn ngủ.
Khi bệnh đã chuyển vào Thiếu âm, không bệnh nào là không có chứng như thế ấy”.

283. Bệnh Thiếu âm, muốn mửa mà không mửa làm phiền chỉ muốn ngủ,
5-6 ngày tự ỉa chảy mà khát là thuộc Thiếu âm, hư cho nên tự đòi nước để cứu.
Nếu tiểu tiện sắc trắng là hình thái bệnh Thiếu âm đầy đủ do hạ tiêu hư có hàn
không thể chế thủy, cho nên làm cho sắc trắng vậy.

Tóm tắt: Bệnh Thiếu âm thủy hỏa không giao tế nhau.

231
Thích nghĩa: Chứng muốn mửa mà không mửa được, tâm phiền miệng khát
trong điều này giống như có nhiệt, duy chỉ có chứng chỉ muốn ngủ, nước tiểu sắc
trắng là thuộc hư hàn. Vì bệnh Thiếu âm hàn là mới cảm tà nhập vào trong ngày,
chính khí và tà khí giao tranh cho nên muốn mửa mà không mửa được, tâm phiền.
Chính khí bị tà khí làm khốn cho nên chỉ muốn ngủ. Đến 5-6 ngày, tà nhập vào trong
đã sâu, thận chủ thủy, tâm chủ hỏa, thủy ở dưới không được dương khí làm ấm thời
tự ỉa chảy, hỏa ở trên thời không được âm khí giúp đỡ thời miệng khát. Tân dịch
không tiếp tế lên trên cho nên đòi nước để tự cứu, dương khí ở hạ tiêu hư không thể
chế thủy, cho nên sắc trắng.

Bệnh Thái âm ỉa chảy không khát nước là hàn ở trung tiêu. Bệnh Thái âm khát
nước là hàn ở hạ tiêu. Sách nói “ỉa chảy muốn uống nước là bởi có nhiệt vậy”, nước
tiểu rất đỏ, điều này nói ỉa chảy mà khát nước, nước tiểu sắc trắng, tuy khát nước
cũng không hay uống nhiều, vả lại ham uống nóng thì biết là hạ tiêu hư có hàn.

284. Bệnh nhân mạch âm mạch dương đều khẩn lại đổ mồ hôi là vong
dương vậy, đây là thuộc Thiếu âm, đáng lý phải đau họng mà lại mửa ỉa.

Tóm tắt: Biện mạch và chứng Thiếu âm vong dương.

Thích nghĩa: Mạch âm mạch dương đều khẩn là hàn tà trúng thẳng vào Thiếu
âm. Bệnh Thái dương thương hàn mạch âm mạch dương đều khẩn là phù mà khẩn,
mạch âm mạch dương đều khẩn của điều này là trầm mà khẩn, cho nên nói “đây là
thuộc Thiếu âm”. Âm chứng mà có mạch khẩn nói chung không nên có mồ hôi, nay
lại thấy mồ hôi, đấy là âm hàn quá lắm, dương hư không thể giữ vững bên ngoài mà
gây nên. Vả lại đồng thời xuất hiện chứng hư dương bốc lên trên mà làm ra đau họng,
thoát ra ngoài mà làm nên mửa ỉa, cho nên nói “đó là vong dương”.

285. Bệnh Thiếu âm, ho mà ỉa chảy, nói sảng, là bị hỏa khí bức hiếp cho
nên thế, tiểu tiện rất khó, bởi vì bệnh Thiếu âm mà cưỡng phát hãn vậy.

Tóm tắt: Biến chứng của bệnh Thiếu âm vì dùng lửa cưỡng phát hãn.

232
Thích nghĩa: Thiếu âm cảm tà nên dùng thuốc ấm để phù dương và khu tà, thì
tà khí tự lui mà chính khí hồi phục thì bệnh tự khỏi. Nếu lấy lửa bức hiếp cưỡng phát
hãn thì dương chưa hồi phục mà âm đã tổn thương đến nỗi thận hư, khí nghịch mà
ho, dương khí kém ở dưới mà ỉa chảy, hỏa bốc lên trên, thần chí rối loạn mà nói sảng.
Đó đều vì cái lỗi Thiếu âm bị hỏa. Tân dịch thiếu thì tiểu tiện rất khó, cho nên bệnh
Thiếu âm trước hết cấm cưỡng phát hãn.

286. Bệnh Thiếu âm mạch tế, trầm, sác là bệnh ở lý, không thể phát hãn.

Tóm tắt: Mạch cấm phát hãn của Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm mạch tế, trầm, sác. Tế là huyết hư, trầm là bệnh ở
lý. Mạch sác cùng thấy với mạch trầm tế mà lại không phát sốt, không nên nhận nhầm
mạch sác là có nhiệt mà nhầm dùng phép phát hãn để giải. Thường thấy chứng âm
hàn, có khi một hơi thở (tức) 7-8 lần (chỉ), nhưng ấn mạnh mà tan hết mà vô lực. Nay
bệnh Thiếu âm mạch tế, trầm, sác, đáng lý cũng vô lực. Nói chung bệnh ở lý là không
thể phát hãn, huống chi bệnh Thiếu âm thuộc lý, phải nhớ lời răn ấy.

287. Bệnh Thiếu âm, mạch vi, không thể phát hãn, sợ vong dương cho nên
thế. Dương đã hư, mạch xích nhược sáp lại càng không thể hạ.

Tóm tắt: Bệnh không thể phát hãn, không thể hạ của bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm mạch vi là dương hư, mạch xích nhược sáp là huyết
kém. Dương khí hư thì không thể phát hãn, phát hãn thì vong dương. Âm huyết kém
thì không thể hạ, hạ thời vong âm. Phàm người dương khí đã hư mà lại thấy mạch
xích nhược sáp thì đã không thể phát hãn lại không thể hạ, nếu không thế thời biến
chứng vong âm vong dương có thể thấy ngay.

288. Bệnh Thiếu âm mạch khẩn, đến 7-8 ngày tự ỉa chảy đột nhiên thấy
mạch vi, chân tay lại ấm, mạch khẩn lại hết là muốn khỏi vậy. Tuy có phiền, ỉa
chảy tất tự khỏi.

233
Tóm tắt: Chứng ỉa chảy tự khỏi của mạch Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm mạch khẩn là lý hàn nhiều lắm, đến 7-8 ngày xuất
hiện chứng ỉa chảy tựa hồ như thế bệnh thêm nặng. Sau khi ỉa chảy rồi, mạch từ khẩn
đột nhiên biến thành vi là tà khí đã lui, đồng thời tay chân từ lạnh mà chuyển thành
ấm là dương khí khôi phục, tà khí lui, bệnh có cơ sắp khỏi. Tuy có chứng phiền mà
ỉa chảy tất có thể tự khỏi.

289. Bệnh Thiếu âm ỉa chảy, nếu ỉa chảy tự hết, sợ lạnh mà nằm co(1) , chân
tay ấm là có thể chữa.

Tóm tắt: Bệnh Thiếu âm, dương khí khôi phục là có thể chữa.

Thích nghĩa: ỉa chảy là dấu hiệu dương hư của bệnh Thiếu âm, nếu ỉa chảy tự
khỏi được mà chân tay chuyển thành ấm, đấy là dương khí khôi phục, âm hàn đã lui
dần, tuy chứng sợ lạnh nằm co vẫn còn nhưng cũng còn có thể chữa được.

Điều này là dương khí hồi phục, ỉa chảy tự dứt, cho nên chân tay chuyển thành
ấm, nếu là ỉa chảy dứt do dương khí hết, dương khí lạnh thời chân tay tất nhiên quyết
lạnh.

Có thể thấy chân tay chuyển thành ấm là do âm chứng hồi dương, dấu hiệu
dương khí đã tỏa đến chân tay.

290. Bệnh Thiếu âm sợ lạnh mà nằm co, thỉnh thoảng thấy tự phiền muộn,
cởi áo chăn thì có thể chữa được.

Tóm tắt: Bệnh Thiếu âm, dương khí muốn khôi phục là có thể chữa.

Thích nghĩa: Người bị bệnh Thiếu âm, dương hư âm thịnh, phần nhiều thấy sợ
lạnh nằm co. Nội Kinh nói: “các chứng hàn co rút đều thuộc về thận”. Thận dương
hư cho nên sợ lạnh, sợ lạnh lắm cho nên nằm co. Trước là sợ lạnh nằm co, kế đó có
lúc thấy phát phiền muốn tung chăn cởi áo mà lại không có chứng nguy khác, đủ
chứng tỏ dương khí có cơ hồi phục trở lại cho nên thuộc loại bệnh có thể chữa.

234
291. Thiếu âm trúng phong, mạch dương vi, mạch âm phù là muốn khỏi.

Tóm tắt: Mạch của Thiếu âm muốn khỏi.

Thích nghĩa: Mạch chủ yếu của bệnh Thiếu âm là vi tế, nó biểu hiện lý khí hư
suy. Nay bệnh Thiếu âm trúng phong thấy mạch dương vi là biết tà không nặng lắm,
mạch âm không trầm mà phù là biết chính khí không hư là dấu hiệu chính khí đuổi tà
ra ngoài, cho nên nó là dấu hiệu sắp khỏi.

292. Bệnh Thiếu âm, thời gian muốn khỏi là từ giờ tý đến trước giờ dần.

Tóm tắt: Tiên lượng thời gian sắp khỏi của bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Dương sinh ở giờ tý, dương tiến thời âm thoái, dương lớn thời âm
tiêu. Bệnh Thiếu âm muốn khỏi ở giờ tý đến giờ dần đúng như đã nói là “âm được
dương thời bệnh khỏi”. Do đó càng có thể biết bệnh Thiếu âm trọng ở chân dương,
sự còn mất của dương khí có quan hệ đến sự tiến thoái của bệnh.

Nhận xét: Trong 6 kinh đều có 1 điều nói về thời gian sắp khỏi. Nhưng không
thể chỉ đạo lâm sàng, nên tồn nghi chờ khảo cứu.

293. Bệnh Thiếu âm mửa ỉa, chân tay không quyết lạnh lại phát sốt là không
chết. Mạch không đến cứu huyệt Thiếu âm(1) 7 tráng.

Tóm tắt: Bệnh Thiếu âm, dương khôi phục là có thể chữa, mạch không đến thì
có thể cứu.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm ỉa mửa là âm thịnh dương hư, đáng lý thấy hàn
chứng. Nay chân tay không quyết lạnh mà lại phát sốt có thể thấy dương khí hồi phục,
âm hàn lui dần cho nên không đến nỗi chết. Nếu mạch không đến là do mửa ỉa lung
tung, chính khí đột nhiên hư làm cho mạch ngừng đi một lúc mà không tiếp tục được,
có thể cứu huyệt Thái khê của kinh mạch Thiếu âm 7 tráng để thông dương hồi phục

Giải thích chữ khó:


1
Cứu huyệt Thiếu âm: Là huyệt Thái khê ở kinh mạch Thiếu âm, ở giữa chỗ lõm có động mạch nơi
xương gót sau mắt cá trong.
235
mạch. Phàm các chứng trên cả uống thuốc trong cả cứu ngoài đều có thể dùng cùng
mà không trái nhau.

Điều này nói bệnh Thiếu âm mửa ỉa, chân tay không quyết lạnh mà lại phát sốt
là có thể không chết, đồng nghĩa với điều 287, 288.

Lời chú chọn lọc: Đào Tiết Am nói: “Bệnh Thương hàn trúng phong thẳng vào
âm kinh chứng chân hàn nặng lắm mà không có mạch, hoặc vì thổ tả rồi bặt đi mà
không có mạch, đem rượu ngon, nước cốt gừng, đều ½ chén cho bệnh nhân uống,
mạch đến là có thể chữa.

294. Bệnh Thiếu âm 8-9 ngày, chân tay cả người đều nóng, là vì nhiệt ở
bàng quang, sẽ ỉa ra máu vậy.

Tóm tắt: Biện chứng dương nhiệt thái quá của bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh tại Thiếu âm nói chung là không phát sốt. Nay bệnh thiếu
âm đến 8-9 ngày, không thấy chứng hư hàn của Thiếu âm mà thấy chân tay cả người
đều nóng, hàn tà đã hóa thành nhiệt, đấy là bệnh từ âm đã chuyển thành dương, thận
di nhiệt đến bàng quang, bệnh khi liên cập đến huyết, dẫn đến bức huyết chạy càn mà
thấy ỉa ra máu, đấy là hiện tượng hồi dương thái quá.

Lời chú chọn lọc: Kha Vận Bá nói: “Bệnh Thiếu âm chuyển thành dương chứng
có hai:

- 6-7 ngày bụng chướng không đi đồng là bệnh truyền đến dương
minh
- 8-9 ngày chân tay cả người đều nóng là bệnh truyền đến Thái
dương, nhẹ thời Trư linh thang, nặng thời Hoàng liên A giao thang có thể chữa được”.

236
295. Bệnh Thiếu âm chỉ quyết lạnh không ra mồ hôi mà cưỡng phát hãn tất
động đến huyết chưa biết sẽ ra theo lối nào, hoặc theo đường miệng mũi, hoặc
theo đường mắt, đó gọi là “hạ huyết thượng kiệt”(1) là khó chữa.

Tóm tắt: Bệnh Thiếu âm cưỡng phát hãn gây nên nguy chứng “hạ quyết thượng
kiệt”.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm, do chỗ dương khí suy vi, đã không thể làm ấm áp
chân tay, lại không hun bốc ra mồ hôi, cho nên chỉ quyết lạnh không có mồ hôi. Nếu
nhân vì không có mồ hôi mà cưỡng phát hãn thì đã hại phần dương lại kiệt hết phần
âm, thế tất quyết nghịch không khỏi lại càng động đến huyết, bức huyết ra đằng trên,
hoặc theo đằng miệng mũi, hoặc theo đằng mắt mà ra, làm cho phần dương mất hết
ở dưới mà quyết lạnh, âm khô ở trên mà kiệt hết, hạ quyết thượng kiệt là chứng nguy
do chữa nhầm, cho nên nói “khó chữa”.

Nhận xét: Cảnh Nhạc có bài Lục vị hồi dương ẩm, tác dụng có thể tư âm và hồi
dương, có thể bắt chước dùng được.

296. Bệnh Thiếu âm sợ lạnh mình co mà ỉa chảy, chân tay quyết lạnh là
không chữa được.

Tóm tắt: Thuần âm không có dương nguy chứng của bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm thuần âm không có dương là không thể chữa được.
Sợ lạnh là dương không đủ, mình co ỉa chảy là sợ lạnh nặng lắm, cũng là hiện tượng
thuần âm vậy, dương không đủ mà âm hàn thịnh lắm như vậy, nếu quyết lạnh đến
chân tay là biết chân dương đã bại cho nên “không thể chữa”.

Giải thích chữ khó


1
Hạ quyết thượng kiệt: là dương mất ở dưới, chứng quyết lạnh bắt đầu từ dưới lên, nên gọi
là “dương quyết”, âm kiệt ở trên, huyết ra theo đằng trên cho nên gọi là “thượng kiệt”.

237
Lời chú chọn lọc: Thư Tri Viên nói: “Chứng này còn chưa đến nỗi đổ mồ hôi
thở dốc là còn có thể chữa được, kịp cho uống Tứ nghịch thang gia Nhân sâm có lẽ
không chết”.

297. Bệnh Thiếu âm, mửa ỉa vật vã, chân tay quyết nghịch là chết.

Tóm tắt: Bệnh Thiếu âm, âm hàn thịnh một mình, hư dương muốn thoát là
trường hợp rất nguy.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm đã mửa lại ỉa là âm hàn nặng lắm, dương khí đã
hư. Nếu thêm chứng vật vã chân tay quyết nghịch thời hư dương có cái thế muốn
thoát, cho nên thuộc chứng rất nguy.

298. Bệnh Thiếu âm ỉa chảy hết mà đầu choáng váng, thỉnh thoảng xây xẩm
là chết.

Tóm tắt: Trường hợp “hạ kiệt thượng thoát” rất nguy của bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm ỉa chảy tự khỏi đáng lý thuộc về dấu hiệu hồi
dương. Nay ỉa chảy hết mà đầu choáng váng, thỉnh thoảng xây xẩm là âm kiệt ở dưới
(hạ kiệt), dương thoát lên trên (thượng thoát), cho nên thuộc về chứng bất trị.

Nhận xét: Điều 288 là dương khí hồi phục mà ỉa chảy tự hết, cho nên có thể
chữa được. Điều này là dương mất mà tân dịch không kế tục được là âm dịch kiệt hết,
ỉa chảy không ngừng cho nên chứng rất nguy hiểm, chết.

299. Bệnh Thiếu âm chân tay quyết nghịch sợ lạnh mà mình co, mạch
không đến không phiền mà vật vã là chết.

Tóm tắt: Trường hợp âm thịnh dương tuyệt rất nguy hiểm của Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm chân tay quyết nghịch mà mình co lại là âm hàn
thịnh lắm. Mạch không đến không phiền mà vật vã là dương khí đã tuyệt, có âm
không dương cho nên thuộc về diện rất nguy. Bệnh Thiếu âm đến như thế, trừ chứng
ỉa mửa ra, chứng nguy đủ cả, khác với các điều 288, 289 và 292 chỉ thấy 1-2 chứng

238
nguy, cho nên các điều trước đó nói có thể chữa được mà điều này nói là chết. Lại
như điều 292 nói mạch không đến là do mửa ỉa lung tung, mạch khí gián đoạn một
lúc mà gây nên, lại cũng khác với điều này nói mạch không đến là do chân dương đã
bại tuyệt.

300. Bệnh Thiếu âm 6-7 ngày thở dốc lên là chết.

Tóm tắt: Trường hợp phế khí và thận khí đều thoát hết rất nguy của bệnh Thiếu
âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm đến 6-7 ngày, xuất hiện chứng thở dốc lên, thuộc
về dấu hiệu thận khí tuyệt ở dưới, phế khí thoát lên trên. Đấy là thuộc về hiện tượng
trên dưới đều tan lìa, cho nên là dấu hiệu cực nguy.

Lời chú chọn lọc: Trình Giao Thuyến nói: “Phế chủ khí mà thận là nguồn sinh
ra khí, là cửa ngõ của hô hấp, có quan hệ đến sự sống chết của người ta rất lớn. Thở
dốc lên là sinh khí đã tuyệt ở dưới mà không nạp trở lại, cho nên chỉ thở phều phào
ra lên trên mà không hít vào được. Tuy chưa chết mà triệu chứng chết đã hiện ra
trước 6-7 ngày, đã gặp trường hợp mắc bệnh thiếu âm sao không tiên liệu mà giữ
cho vững chắc trước, để đến nay chân dương đã tan tác, chạy mà không đuổi kịp, ai
gánh lấy cái tội giết người ấy?”

301. Bệnh Thiếu âm mạch vi tế trầm, chỉ muốn nằm, đổ mồ hôi không phiền,
tự muốn mửa, đến 5-6 ngày. Đến 5-6 ngày tự ỉa chảy, lại buồn phiền vật vã không
nằm được là chết.

Tóm tắt: Trường hợp âm thịnh dương thoát cực nguy của bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Mạch vi tế trầm, chỉ muốn nằm là bản chứng của Thiếu âm, ra mồ
hôi không phiền là dương khí mất ở ngoài, tự muốn mửa là âm tà nghịch lên trên. Lúc
bấy giờ việc chính là phải làm cho ấm ngay, nếu bỏ qua không chữa, đến 5-6 ngày

239
mà thấy ỉa chảy qua lại thêm buồn phiền vật vã không nằm ngủ được, rõ ràng là âm
thịnh dương thoát, chính không thắng được tà cho nên thuộc về trường hợp cực nguy.

Điều này với điều trên đều nói chữa bệnh phải biết dự phòng cho sớm, vẫn cứu
kịp thời, nếu đợi lúc hiện tượng nguy cấp đã rõ ra thì dù có kiến thức, có gan dạ cũng
e khó cứu kịp. Cho nên thầy thuốc chủ yếu là thấy được cái nhỏ mà biết được rõ ràng,
đừng để mất cơ hội chữa bệnh.

Lời chú chọn lọc: Trình Giao Thuyến nói: “Theo quan niệm ngày nay mà nói
thì bệnh mà chưa đến tình trạng sợ lạnh nằm co, chân tay quyết lạnh lần lượt xuất
hiện ra thời không dám dùng thuốc ôn. Than ôi! Chứng đã đến như thế thì ôn làm
sao cho kịp! Huống gì các chứng có khi đến chết không thấy lần nào thời sao không
đem yếu chỉ trong sách này để nghiền ngẫm từng ý thêm cho rõ. Mạch của bệnh Thiếu
âm phải trầm mà vi tế, trong sách này đã nêu lên hàng đầu là để bảo người ta rằng
mạch nên ôn. Bệnh Thiếu âm chỉ muốn ngủ, sách này lại bảo cho người ta là chứng
có thể ôn; mồ hôi ra ở kinh dương thì không tahể ôn, ở kinh thiếu âm thì nên kịp ôn,
trong sách này là bảo cho người ta cái cớ vong dương đó, huống lại có trường hợp
không phiền tự muốn mửa để xen lẫn vào thời Chân vũ, Tứ nghịch thang thật là khác
nào mồi ngải quý lâu năm nữa vậy. Không lo lắng như vậy, dây dưa đến 6-7 ngày là
ở kinh đã nhập vào tạng, trước muốn mửa nay lại cả ỉa, trước không phiền nay đã
phiền lại vật vã, trước muốn nằm nay lại nằm chẳng được, dương hư đã thoát, âm
thịnh càng thêm, người tất chết vậy thôi”.

302. Bệnh Thiếu âm mới mắc lại phát sốt, mạch trầm, dùng Ma hoàng Phụ
tử Tế tân thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp Thiếu âm cảm hàn.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm không đáng có sốt nay lại phát sốt, nay phát sốt,
cho nên nói “lại”. Phát sốt là ngoại cảm hàn tà, mạch trầm là bệnh thuộc Thiếu âm,
Thiếu âm cảm hàn cho nên dùng Ma hoàng Phụ tử Tế tân thang làm chủ trị.

240
Phàm người chính khí vốn suy nhược, tuy là ngoại cảm phát sốt, mạch bắt không
phù mà trầm, điều này so với điều 94 trong thiên Thái dương nói về bệnh phát sốt,
nhức đầu mạch lại trầm, tham khảo lẫn nhau cho rõ nghĩa. Đằng kia lấy Thái dương
làm chủ, cho nên nói “mạch lại trầm”, đằng này lấy Thiếu âm làm chủ cho nên nói
“lại phát sốt”.

Ma hoàng Tế tân Phụ tử thang:

Ma hoàng 2 lạng (bỏ mắt)

Tế tân 2 lạng

Phụ tử 1 củ (nướng, bóc bỏ vỏ, xé ra làm 8 miếng)

Ba vị trên, nước 1 đấu, trước nấu Ma hoàng cho cạn bớt 2 thăng vớt bỏ bọt rồi
cho các vị kia vào sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này dùng Ma hoàng để phát hãn giải biểu hàn,
Phụ tử để ôn kinh phò dương, Tế tân để tán hàn trục hàn ở trong, dương khí một khi
được phấn chấn lên thời hàn tà phát ra ngoài. Phương này là phương vừa bồi bổ vừa
phát hãn.

303. Bệnh Thiếu âm mắc đã 2-3 ngày, dùng Ma hoàng Phụ tử Cam thảo
thang để phát hãn nhẹ, bởi vì 2-3 ngày không có lý chứng, cho nên phát hãn nhẹ
thôi.

Tóm tắt: Phép phát hãn nhẹ đối với trường hợp thiếu âm cảm hàn.

Thích nghĩa: Điều này nên xem chung với điều trên, điều trên nói lại phát sốt,
mạch trầm, điều này nói không có lý chứng, đáng lý cũng có phát sốt kiêm thấy các
chứng sợ lạnh, không có mồ hôi…biết tà chưa nhập lý, vì chính khí hư cho nên dùng
Ma hoàng Cam thảo thang để ôn kinh phát hãn.

Ma hoàng Phụ tử Cam thảo thang:

Ma hoàng 2 lạng( bỏ mắt)


241
Chích thảo 2 lạng

Phụ tử 1 củ (nướng, bóc bỏ vỏ, xẻ làm 8 miếng)

Ba vị trên, nước 7 thăng trước nấu Ma hoàng sôi 1-2 đạo, vớt bỏ bọt rồi cho
các vị kia vào sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng ngày uống 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc : Phương này tức là phương Ma hoàng Tế tân Phụ tử
thang trước đây, bỏ Tế tân cay tán, gia Cam thảo ngọt hoãn, đấy là phương phát hãn
nhẹ đối với bệnh Thiếu âm cảm hàn.

304. Mắc bệnh Thiếu âm đã 2-3 ngày trở lên, trong tâm phiền không ngủ
được, dùng Hoàng liên A giao thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa Thiếu âm cảm hàn nhập lý tà theo nhiệt
hóa.

Thích nghĩa: Mắc bệnh Thiếu âm đã 2-3 ngày trở lên, do thận âm không đủ,
không thể lên điều hòa với tâm, khi ấy tâm hỏa càng thịnh mà xuất hiện các chứng
phiền trong tâm, không nằm được là tà theo nhiệt hóa, cho nên dùng Hoàng liên a
giao thang để tư âm dưỡng huyết mà thanh tâm hỏa làm bài thuốc chữa chứng Thiếu
âm nhiệt hóa.

Chứng này trong tâm phiền không nằm được, khác với chứng hư phiền không
nằm được của chứng Chi tử sị thang. Chứng Chi tử sị thang là tà còn lại làm rối trong
vùng ngực, trên lưỡi có rêu vàng trắng, chữa nên thanh thấu uất nhiệt; còn chứng này
là âm hư dương thịnh, trừ chứng phiền trong tâm không nằm ra được, chất lưỡi tất đỏ
sẫm mà khô sáp ít tân dịch, mạch tế sác hoàn toàn là dấu hiệu thủy khô hỏa bốc, chữa
phải tư âm giáng hỏa.

Hoàng liên a giao thang.

Hoàng liên 4 lạng

Hoàng cầm 2 lạng

242
Thược dược 2 lạng

Lòng đỏ trứng gà 2 quả

A giao 3 lạng ( một thuyết nói 3 thỏi)

5 vị trên, nước 6 thăng, trước nấu 3 vị lấy 2 thăng, lọc bỏ bã rồi cho A giao
vào, quấy tan hết thì nước thuốc nguội, cho lòng đỏ trứng gà vào, quấy cho hòa tan
nhau, uống ấm 7 cáp, ngày uống 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc : phương này lấy Hoàng liên Hoàng cầm để thanh tâm
hỏa, Thược dược, A giao, lòng đỏ trứng gà để tư âm huyết, tâm thận giao nhau được,
thủy hỏa giúp nhau thời chứng phiền trong tâm không nằm được tự khỏi.

305. Bệnh Thiếu âm mới mắc 1-2 ngày, trong miệng hòa, lưng sợ lạnh nên
cứu đi, dùng Phụ tử thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa Thiếu âm cảm hàn nhập lý tà theo hàn hóa.

Thích nghĩa: Thiếu âm cảm hàn rồi chứng trạng thấy trong miệng bình thường
không táo không khát là không có chứng lý nhiệt. Lưng thuộc mạch đốc, tổng quản
các kinh dương, dương hư cho nên lưng sợ lạnh đấy là tà theo hàn hóa. Trong cho
uống Phụ tử thang ngoài dùng phép cứu để ôn kinh phù dương, vừa cứu vừa dùng
thuốc thì kiến hiệu càng nhanh.

Nhận xét: Điều này với điều 174 đều có chứng lưng sợ lạnh, nhưng điều kia
thì chứng sợ lạnh tương đối nhẹ, vả lại có các chứng miệng ráo khát tâm phiền, bệnh
tình khác nhau, cho nên cách chữa cũng khác. Điều này về chứng trạng không đầy đủ
nên xem chung với điều dưới.

Lời chú chọn lọc, Trần Tu Viên nói: “ Cứu 2 huyệt Cách quan để cứu hàn của
Thái dương; cứu 1 huyệt Quan nguyên để trợ khí nguyên dương, thêm nguồn của hoả
để làm tiêu tan âm ế” Uông Linh Hữu nói : “ Du huyệt ở lưng hàng ngang thứ ba
đúng là huyệt Cách quan”.

243
Phụ tử thang

Phụ tử 2 củ( nướng, bóc bỏ vỏ, xẻ ra làm 8 miếng)

Phục linh 3 lạng

Nhân sâm 2 lạng

Bạch truật 4 lạng

Thược dược 3 lạng

Năm vị trên, nước 8 thăng sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng ngày
uống 3 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: phương này dùng Nhân sâm để khôi phục nguồn gốc
sinh lý, Phụ tử làm ấm căn bản của chân dương, lại gia Bạch truật, Phục linh để kiện
tỳ lợi thấp, Thược dược hòa huyết cùng góp sức để đạt được cái công ôn kinh tán hàn,
ích khí, kiện tỳ là phương chữa bệnh Thiếu âm hàn hóa.

306. Bệnh Thiếu âm mình mẩy đau, chân tay lạnh, khớp xương nhức,
mạch trầm, dùng Phụ tử thang làm chủ.

Tóm tắt: Tiếp điều trên, trình bày chứng trạng và cách chữa chứng hàn hóa.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm dương hư lạnh bên ngoài, trừ những điểm như
trong miệng bình thường lưng sợ lạnh như điều trên đã nêu ra còn có các chứng mình
mẩy đau, chân tay lạnh, khớp xương nhức, đều là hàn thấp ngưng trệ, dương khí
không thể sướng đạt ra ngoài, âm huyết không thể vận hành bình thường. Mạch trầm
chủ lý cho nên dùng Phụ tử thang để ôn kinh, trục hàn, ích khí, bổ hư.

307. Bệnh Thiếu âm, ỉa chảy ra máu mủ, dùng Đào hoa thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và các chữa bệnh Thiếu âm hư hàn ỉa chảy ra máu mủ.

244
Thích nghĩa: Ỉa chảy ra máu mủ phần nhiều thuộc về nhiệt chứng. Nay bệnh
Thiếu âm mà thấy ỉa ra máu mủ tức là tỳ thận dương hư, hạ tiêu hoạt thoát, trường vị
mất chức năng mà gây nên, cho nên dùng Đào hoa thang để ôn trung tán hàn, cố sáp
sự hoạt thoát.

Đào hoa thang

Xích thạch chi 1 cân ( một nửa dùng cả, một nửa giã rây lấy bột)

Can khương 1 lạng

Gạo tẻ 1 thăng

Ba vị trên, nước 7 thăng, nấu gạo chín là được, lọc bỏ bã uống ấm 7 cáp, cho
bột Xích thạch chi 1 thìa con vào, ngày uống 3 lần.

Nếu uống lần đầu mà khỏi bệnh thì thôi không uống.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này trọng dụng là ở chỗ làm cho ấm và cố sáp,
dùng Xích thạch chi vào hạ tiêu huyết phận mà cố thoát. Can khương làm ấm trung
tiêu khí phận mà tán hàn, gạo tẻ ích tỳ mà bổ hư, Xích thạch chi tán bột hòa vào uống
để cho nó lưu trệ thu sáp mà củng cố trường vị. Phương này có thể dùng cho trường
hợp ỉa chảy kéo dài mà hư hàn hoạt thoát, cũng có thể dùng được, cho nên nói” sáp
thì có thể giữ được sự hoạt thoát” tức là ý ấy.

308. Bệnh Thiếu âm đã 2-3 ngày đến 4-5 ngày, đau bụng, tiểu tiện không
lợi, dùng Đào hoa thang làm chủ.

Tóm tắt: tiếp điều trên, trình bày thêm chứng trạng và cách chữa bệnh hư hàn ỉa
chảy ra máu mủ.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm đã 2-3 ngày đến 4-5 ngày, tà đã nhập nội, thấy các
chứng đau bụng, tiểu tiện không lợi và ỉa chảy không dứt, ỉa ra máu mủ. Đau bụng là
hàn ngưng, tiểu tiện không lợi ỉa chảy không dứt là nước vào luôn đại trường, cơm
nước không phân biệt. Ỉa ra máu mủ là tỳ hư không thống nhiếp được huyết. Bụng

245
đau ỉa chảy, ỉa ra máu mủ là chứng hư hàn hoạt thoát tức là chứng thích ứng với Đào
hoa thang, nếu thấy chân tay quyết nghịch, phương này có thể gia thêm Phụ tử, chứng
ỉa ra máu mủ phần nhiều màu sắc sẫm tối, hoặc hơi nhạt, khí vị không thối mà tanh,
khi đi ỉa xối xả mà không cầm được, không có cảm giác đau bụng mót rặn và nóng ở
lỗ đít.

309. Bệnh Thiếu âm ỉa chảy, ỉa ra máu mủ, có thể châm thích.

Tóm tắt: Bệnh Thiếu âm ỉa chảy, ỉa ra máu mủ, có thể dùng phép châm thích.

Thích nghĩa: Điều này tiếp 2 điều trên, nói bệnh Thiếu âm ỉa chảy, ỉa ra máu
mủ thuộc hư hàn hoạt thoát, ngoài việc có thể dùng Đào hoa thang để chữa ra, nếu
thuộc thực nhiệt lại có thể dùng phép châm thích hoặc cùng dùng chung cả phép châm
thích và uống thuốc.

Nhận xét: Điều này mới nói có thể châm thích mà chưa nói đến châm huyệt
nào, nên tồn nghi khảo cứu.

310. Bệnh Thiếu âm ỉa mửa, chân tay quyết lạnh, buồn phiền vật vã muốn
chết, dùng Ngô thù du thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp hàn tà phạm vào vị.

Thích nghĩa: Điều này với điều 296, về mặt văn tự thì tương tự với nhau nhưng
về mặt mức độ nặng nhẹ của bệnh thì khác nhau. Bệnh Thiếu âm mà đến tình trạng
ỉa mửa, chân tay quyết lạnh, buồn phiền vật vã muốn chết, tức là trường hợp âm hàn
thịnh lắm, chân dương muốn tuyệt, dùng các thang Tứ nghịch, Bạch thông còn e
không kịp, nay dùng Ngô dù thu thang hình như không đối với chứng. Kỳ thực chứng
này trọng ổ chỗ nôn mửa, tuy có ỉa chảy tất không nặng lắm. Chân tay quyết lạnh và
buồn phiền vật vã là do nôn mửa nặng gây nên, so với chứng chân tay quyết lạnh
buồn phiền vật vã do chân dương muốn tuyệt, căn bản khác nhau. Nôn mửa là do hàn
tà phạm vị, hư lạnh cho nên dùng Ngô thù du thang để khu hàn, ôn vị, giáng nghịch,
chỉ ẩu.

246
311. Bệnh Thiếu âm ỉa chảy, đau họng, ngực đầy, tâm phiền dùng Trư
phụ thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh Thiếu âm, âm hư đau họng.

Thích nghĩa: Thiếu âm ỉa chảy, vốn thuộc dương hư nhưng ỉa chảy lâu ngày
sẽ tổn thương đến âm. Điều này có các chứng đau họng, ngực đầy, tâm phiền vv...
đều do sau khi ỉa chảy rồi tổn hại chân âm mà gây nên. Âm hư tân dịch hao cho nên
thấy đau họng; hư nhiệt quấy bên trong cho nên ngực đầy tâm phiền vả lại ỉa chảy lâu
ngày tất tổn thương tỳ, tỳ hư thì tân dịch cũng khó khôi phục cho nên dùng Trư phụ
thang để tư âm, nhuận táo, hòa trung mà hết đau họng.

Trư phụ thang

Bong bóng lợn 1 cân

Nước 1 đấu, nấu lấy 5 thăng, lọc bỏ bã, gia mật ong 1 thăng, bột gạo tẻ 5 cáp
sao thơm hòa vào cho tan hết, uống ấm 6 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Bong bóng lợn vị ngọt mà hơi hàn, có công năng nhuận
táo thoát nhiệt; mật ong ngọt lạnh, hay thanh nhiệt, nhuận táo làm hết chứng đau họng.
Tân dịch hồi phục thời các chứng ngực đầy tâm phiền đều khỏi. Nếu chứng ỉa chảy
lại tùy chứng mà dùng thuốc ấm để điều hòa.

312. Bệnh Thiếu âm 2-3 ngày, đau họng có thể cho dùng Cam thảo thang
không khỏi thì dùng Cát căn thang.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh Thiếu âm khách nhiệt làm đau họng.

Thích nghĩa: Điều này chỉ nói đau họng, chưa nói đến chứng khác. Vì khách
nhiệt gây nên bệnh cho nên dùng Cam thảo để thanh nhiệt hoãn cơn đau. Nếu uống
rồi bệnh vẫn không khỏi, có thể gia Cát cánh để tuyên phế long đờm, cổ họng lợi
được thời đau tự hết.

Cam thảo thang


247
Cam thảo 2 lạng

Một vị trên, nước 3 thăng sắc lấy 1,5 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 7 cáp, ngày
uống 2 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Cam thảo dùng nướng thì bổ trung ích khí, dùng sống
thì tả nhiệt, đều có tác dụng hoãn cơn đau. Phương này dùng sống để làm hết đau
họng.

Cát cánh thang

Cát cánh 1 lạng

Cam thảo 2 lạng

Hai vị trên nước 3 thăng sắc lấy 1 thăng, lọc bỏ bã uống ấm hai lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này dùng Cam thảo để thanh nhiệt hoãn cơn
đau, Cát cánh để tuyên phế long đờm. Người sau dùng 2 vị này thông dụng để chữa
các thứ bệnh ở họng đều xuất xứ từ đấy.

313. Bệnh Thiếu âm, trong họng bị tổn thương sinh lở, không thể nói năng,
thanh âm không phát ra được, dùng Khổ tửu thang làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh Thiếu âm, trong họng bị tổn thương sinh lở.

Thích nghĩa: Trong họng bị tổn thương sinh lở, làm cho nói năng không lợi,
thanh âm không phát ra được, đấy tất là do đàm hỏa kết lẫn nhau vùng họng lở loét
mà có chỗ tắc trở, cho nên dùng Khổ tửu thang ngậm, nuốt ít một làm cho tẩy đờm
tiêu thũng, dứt cơn đau, thu liễm vết lở.

Khổ tửu thang:

Bán hạ 14 hạt ( tẩy, đập vỡ ra như hạt táo)

Trứng gà 1 quả ( bỏ lòng đỏ, để y trong vỏ, cho giấm vào)

248
Hai vị trên cho Bán hạ vào trong giấm, đem cả vỏ trứng gà để trong cái khâu
dao, đặt lên trên lửa cho sôi ba bận, lọc bỏ bã, rồi ngậm ít ít một mà nuốt, không khỏi
lại làm ba lần như vậy

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này chủ yếu dùng Bán hạ để làm tán kết giáng
đờm, nhưng Bán hạ cay ráo cho nên mượn lòng trắng trứng gà ngọt lạnh để nhuận
táo chỉ thống, lại dùng giấm để tiêu sưng, thu liễm vết lở. Ba vị ấy hợp lại có thể có
tác dụng tán kết trừ đờm, tiêu sưng, dứt cơn đau.

Lại bài này nên chú cách uống là “ngậm ít một mà nuốt”, mục đích là để làm
cho hiệu năng của thuốc được tác dụng liên tục ở vùng họng.

314. Bệnh Thiếu âm, đau trong họng, dùng Bán hạ tán và thang làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh Thiếu âm cảm hàn đau họng.

Thích nghĩa: Đau họng của điều này tất là do phong hàn bó ở ngoài, nhiệt uất
ở trong họng mà gây nên. Trừ chứng đau họng ra, đáng lý có các chứng sợ lạnh nhiều
đờm, cho nên dùng phương này để tán hàn khai uất kết mà giải chứng đau trong họng.

Bán hạ tán và thang:

Bán hạ ( tẩy)

Quế chi ( bỏ vỏ)

Chích thảo

Ba vị trên phân lượng bằng nhau, đều tán riêng rây riêng, hợp lại mà dùng, hòa
nước sôi vào uống một thìa, ngày uống 3 lần. Nếu không thể uống được thuốc tán thì
dùng nước 1 thăng sắc sôi 7 đạo rồi cho thuốc tán vào 2 thìa, lại sắc sôi 3 đạo, bắc
xuống để hơi nguội rồi nuốt ít ít một. Bán hạ có độc không thể uống theo dạng thuốc
tán.

249
Ý nghĩa phương thuốc : Phương này dùng Bán hạ để khai uất giáng đờm, Quế
chi sơ phong tán hàn, Cam thảo chỉ thống hòa trung, phàm đau họng do phong hàn
bó ở ngoài mà nhiều đờm thì nên dùng phương này.

Phương này bằng thuốc tán, hòa nước sôi cùng với cách húp cháo nóng của
Quế chi thang đều có ý nghĩa trợ chính tán tà, còn uống bằng thuốc chén thì ngậm
nuốt ít ít, cũng giống với ý nghĩa dùng thang khổ tửu là làm cho hiệu năng của thuốc
tác dụng liên tục ở vùng họng.

315. Bệnh Thiếu âm, ỉa chảy, dùng Bạch thông thang làm chủ.

Tóm tắt: Phép thông dương để cầm ỉa chảy của bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm ỉa chảy là do âm hàn thịnh mà dương khí hư, thận
hỏa suy vi, không thể chế ước được thủy mà gây nên. Phương này dùng Khương phụ
để hồi dương ấm bên trong, bên trong ấm thì hàn khí tự tiêu tan. Thông bạch thông
dương, dương khí lưu hành thì âm khí tự tiêu tan. Chứng ỉa chảy này không dùng Tứ
nghịch thang mà dùng Bạch thông thang là bệnh Thiếu âm ỉa chảy, nếu dương hư âm
thịnh đến nỗi ỉa chảy nguyên cơm nước (sống phân) thì nên dùng Tứ nghịch thang để
hồi dương bổ hư, nay dương bị âm ngáng trở, khí uất mà mạch vi, dùng Thông bạch
cay trơn, thông dương để phù âm, trong thang Tứ nghịch có vị Cam thảo lại kiêm hay
nê trệ, do đó phân biệt hai thang là như vậy :

Bạch thông thang

Hành tăm (củ nén) 4 củ

Can khương 1 lạng

Phụ tử 1 củ( dùng sống, bóc bỏ vỏ, xẻ làm 8 miếng)

Ba vị trên, nước ba thăng sắc lấy còn 1 thăng, lọc bỏ bã, chia uống ấm hai lần.

250
Ý nghĩa phương thuốc: Phương này dùng Can khương Phụ tử để hồi dương,
dùng hành tăm thông dương làm tá để phá âm tà, đấy là bài thuốc phò dương tán hàn
và cầm ỉa chảy.

Nhận xét: Dùng hành tăm (thông bạch) mà gọi là Bạch thông ý nghĩa là thông
được dương thì âm tự tiêu. Có người nói nước tiểu người ta cổ nhân gọi là Bạch thông,
phương này dùng nước tiểu người ta làm chủ cho nên gọi như vậy. Nhưng trong
phương vị lại không thấy dùng nước tiểu mà trong điều sau lại có, có lẽ phương này
nên gia thêm nước tiểu thì mới đúng.

316. Bệnh Thiếu âm ỉa chảy, mạch vi, cho uống Bạch thông thang, ỉa chảy
không hết, quyết lạnh không có mạch. Nôn khan mà phiền, dùng Bạch thông gia
Trư đởm trấp thang làm chủ. Uống thuốc rồi, mạch nổi ra đột ngột thì chết, hơi
đến dần dần thì sống.

Tóm tắt: Tiếp theo điều trên, bàn về chứng trạng, cách chữa, tiên lượng đối với
trường hợp ỉa chảy không cầm được, thể bệnh có chiều hướng xấu.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm ỉa chảy, mạch vi là dương khí suy vì bị âm ngáng
trở cho dùng Bạch thông thang thông dương để giúp ở dưới thời ỉa chảy tự hết. Nếu
ỉa chảy không hết là âm dịch muốn thoát xuống, mạch vi rồi đến không mạch là khí
âm khí dương ở trên ở dưới đã không giao tiếp với nhau được, vả lại chứng quyết
lạnh do chân hàn với chứng nôn khan tâm phiền do giả nhiệt đồng thời xuất hiện, ấy
là dương không chỗ dựa, muốn thoát lên trên, cho nên ngoài việc dùng Thông bạch
thang để thông dương ra còn gia thêm nước mật lợn, nước tiểu để dẫn dương nhập
âm, làm cho dương khí đi lên được, đi xuống được thì các chứng có thể khỏi.

Nếu uống thuốc rồi mạch xuất hiện đột ngột là phần dương vô căn lóe lên,
mạch hơi nổi dần dần là phần dương bị uất dần dần hồi phục, cơ hội sống chết quan
hệ ở đây.

Bạch thông gia Trư đởm trấp thang:

Hành tăm 4 củ
251
Can khương 1 lạng

Phụ tử 1 củ (dùng sống, bóc bỏ vỏ, xẻ làm 8 miếng)

Nước tiểu 5 cáp

Nước mật lợn 1 cáp

Năm vị trên, nước 3 thăng, sắc lấy 1 thăng, lọc bỏ bã rồi cho nước mật lợn,
nước tiểu vào hòa cho tan hết, chia uống 2 lần nếu không có mật cũng dùng được.

Ý nghĩa phương thuốc: phương này tức Bạch thông thang gia nước tiểu và
nước mật lợn để dẫn dương đạt được đến âm phận làm điều hòa sự ngăn trở của hai
thứ khí, làm thông âm dương trên dưới.

317. Bệnh Thiếu âm 2-3 ngày không khỏi, đến 4-6 ngày, đau bụng, tiểu
tiện không lợi, chân tay nặng nề đau nhức, tự ỉa chảy, đấy là có thủy khí, người
bệnh hoặc ho hoặc tiểu tiện không lợi hoặc ỉa chảy hoặc nôn ... dùng Chân vũ
thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp dương hư thủy tà đình tụ của
bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm 2-3 ngày không khỏi, đến 4-6 ngày tà đã nhập lý
mà thấy đau bụng, tiểu tiện không lợi, chân tay nặng nề đau nhức, tự ỉa chảy, đấy là
thận dương suy vi làm cho khí của thủy hàn xâm lấn cả trong lẫn ngoài. Đau bụng là
hàn thịnh ở trong, tiểu tiện không lợi là nước không chảy xuống dưới, chân tay nặng
nề đau nhức là thấp tà ngấm ở ngoài, tự ỉa chảy là nước tràn ở trong. Tổng hợp các
chứng kể trên đều do dương hư không hóa khí được mà gây ra, cho nên dùng Chân
vũ thang ôn phần dương để lợi phần thủy, từ chữ “hoặc ho” trở xuống các chứng nếu
có là do thủy tà biến động không yên chỗ mà gây nên, cũng là chứng chủ trị của
phương này.

318. Bệnh Thiếu âm ỉa chảy ra nguyên cơm nước, trong lạnh ngoài nóng,
chân tay giá lạnh, mạch vi muốn tuyệt, mình lại không sợ lạnh, sắc mặt đỏ, hoặc
252
đau bụng, hoặc nôn khan, hoặc đau họng, hoặc ỉa chảy hết mạch không thấy,
dùng Thông mạch Tứ nghịch thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp âm thịnh đẩy dương của bệnh
Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm của phần này là trong có chân hàn mà ngoài có
giả nhiệt, vì thấy các chứng trạng như dưới đây: ỉa chảy ra nguyên cơm nước, chân
tay giá lạnh, mạch vi muốn tuyệt là lý hàn, mình lại không sợ lạnh sắc mặt đỏ là biểu
nhiệt. Đấy là chứng chân hàn giả nhiệt do âm thịnh bên trong đẩy dương ra ngoài,
cho nên nói: “lý hàn biểu nhiệt”, ngoài ra còn các chứng bất kỳ khác như đau bụng là
hàn thịnh ở trong, nôn khan là vị khí nghịch lên, đau họng là bên trên có giả nhiệt, ỉa
chảy hết là âm dịch kiệt ở trong chứ không phải vì dương khí hồi phục cho nên tuy
hết ỉa chảy mà mạch vẫn không xuất hiện lúc bấy giờ dùng Tứ nghịch thang thì sợ
sức còn non yếu, cho nên dùng phương này để chữa.

Thông mạch Tứ nghịch thang:

Chích thảo 2 lạng

Phụ tử 1 củ to ( dùng sống, gọt bỏ vỏ, xẻ làm 8 miếng)

Can khương 3 lạng( người khỏe có thể dùng 4 lạng)

Ba vị trên, nước 3 thăng, sắc lấy 1 thăng 3 cáp, lọc bỏ bã, chia uống ấm hai
lần, mạch sẽ suất hiện mà khỏi. Sắc mặt đỏ gia Hành 9 nhánh, đau bụng bỏ Hành gia
Thược dược 2 lạng, nôn gia Sinh khương 2 lạng, đau họng bỏ Thược dược gia Cát
cánh 1 lạng, hết ỉa chảy mạch không xuất hiện bỏ Cát cánh gia Nhân sâm 2 lạng.
Bệnh đều tương ứng với phương thì cho uống.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này tức Tứ nghịch thang bội Can khương gia
Thông bạch để thông dương.

253
319. Bệnh Thiếu âm chân tay giá lạnh, người bệnh hoặc ho hoặc hồi hộp
hoặc tiểu tiện không lợi hoặc đau trong bụng hoặc ỉa chảy mót rặn dùng Tứ
nghịch tán làm chủ:

Tóm tắt: Biện về chứng trạng và cách chữa chứng dương uất, chân tay giá lạnh.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm chân tay giá lạnh đều là chứng dương hư không
thể tỏa khắp các đầu ngón tay ngón chân. Mà chỗ trọng yếu của chứng này là dương
uất bên trong không thể tỏa đến chân tay, hoặc ho hoặc hồi hộp hoặc tiểu tiện không
lợi là khí cơ không tuyên phát, hoặc đau trong bụng, hoặc ỉa chảy mót rặn là khí huyết
uất trệ, cho nên dùng Tứ nghịch tán để làm tuyên phát cái uất trệ ấy.

Nhận xét: Chứng này tuy nói là “tứ nghịch” song chân tay không lạnh lắm,
thường người già yếu do khí uất thực uất, khí cơ không thông sướng được hay thấy
chứng này.

Tứ nghịch tán:

Chích thảo

Chỉ thực ( xẻ ra, ngâm nước rồi nướng khô)

Sài hồ

Thược dược

Bốn vị trên mỗi vị đều 10 phân, giã, rây kĩ, hòa nước đun sôi mà uống. Mỗi
lần 1 thìa, ngày uống 3 lần, có ho thì gia Ngũ vị tử, Can khương mỗi thứ 5 phân, đều
chủ trị cả ỉa chảy. Hồi hộp gia Quế chi 5 phân, tiểu tiện không lợi gia Phục linh 5
phân, đau trong bụng gia Phụ tử 1 củ nướng cho nứt ra, ỉa chảy mót rặn trước dùng 5
thăng nấu Củ kiệu 3 thăng rưỡi, chia uống ấm 2 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là thuốc tuyên phát sự uất trệ, trong
phương dùng Sài hồ để tuyên phát khí dương, giải uất, làm cho dương khí được thông
ra ngoài, Chỉ thực phá khí trệ, Thược dược hòa huyết, Cam thảo hòa hoãn trung tiêu,

254
điều vị để giải uất nhiệt, Sài hồ Cam thảo dùng chung để điều hòa trung tiêu sơ thông
khí uất, Chỉ thực Thược dược dùng chung để thông kinh tán kết.

320. Bệnh Thiếu âm ỉa chảy ngày 6-7 lần, ho mà nôn, khát nước, tâm
phiền không ngủ được, dùng Trư linh thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp âm hư kiêm thủy tà và nhiệt tà
kết lẫn nhau.

Thích nghĩa: Bệnh thiếu âm ỉa chảy nguyên thuộc hư hàn, song ỉa chảy ở điều
này cùng thấy với ho mà nôn khát, vả lại có tâm phiền không ngủ được là chứng âm
hư kiêm có thủy tà nhiệt tà kết nhau. Thiên Dương minh điều 226 nói: “Mạch phù
phát sốt, khát muốn uống nước, tiểu tiện không lợi, dùng Trư linh thang làm chủ”
chứng này đáng lý thấy tiểu tiện không lợi do bên trong thủy tà và nhiệt tà kết nhau,
nước ngấm vào đại trường thì ỉa chảy, phạm vào phổi thì ho, phạm vào vị thì nôn, tân
dịch không hóa thì khát, âm hư dương cang tâm phiền không ngủ được cho nên dùng
Trư linh thang để thanh nhiệt lợi thủy, tư âm nhuận táo.

321. Bệnh Thiếu âm đã 2-3 ngày, cổ khô miệng ráo, kíp hạ ngay, nên dùng
Đại thừa khí thang:

Tóm tắt: Biện về chứng thứ nhất phải kịp hạ ngay của bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Ý nghĩa của điều này là giống với chứng kíp hạ ngay của bệnh
Dương minh, mắc bệnh hai ba ngày thấy cổ khô miệng ráo, đấy là do phục nhiệt ở
trong thiêu đốt thận âm, nếu không kịp hạ ngay thì thận thủy có cái nguy bị khô kiệt,
cho nên dùng Đại thừa khí thang kíp hạ để bảo tồn chân âm.

322. Bệnh Thiếu âm, tự ỉa ra nước trong phân toàn màu xanh, dưới tâm
tất đau, miệng khô ráo kíp hạ ngay, nên dùng Đại thừa khí thang.

Tóm tắt: Biện về chứng thứ hai phải kịp hạ ngay của bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm ỉa chảy phần nhiều lỏng loãng, trong lạnh hoặc
ỉa ra nguyên cơm nước, chữa phải làm ấm ngay. Điều này là nói ỉa ra toàn nước bẩn
255
màu xanh đen và có đau dưới tâm, miệng khô ráo tức là táo thực ở bên trong thuộc
chứng nhiệt kết bàng lưu. Như thế là không kịp chữa thời chân âm sẽ theo đó mà tiêu
mất, cho nên dùng Đại thừa khí thang hạ ngay để bảo tồn chân âm, đúng là phép”
thông nhân thông dụng” của Nội kinh này.

Điều này nói dưới tâm tất đau là vùng ấy ở vào trạng thái thực, ấn vào thì đau,
miệng khô ráo là thực nhiệt ở trong, nếu chứng hư hàn thời trong miệng hòa mà dưới
tâm không đau.

323. Bệnh Thiếu âm 6-7 ngày, bụng trướng không đi ngoài được, kíp hạ
ngay, nên dùng Đại thừa khí thang.

Tóm tắt: Biện về chứng thứ ba phải kíp hạ ngay của bệnh Thiếu âm.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm 6-7 ngày tà khí nhập lý thành thực chứng, gây
nên trướng bụng không đi ngoài được bởi người bệnh vị không nhiệt lắm, nay tà theo
nhiệt hóa, đáng lo là tân dịch khô cạn, cho nên phải kíp hạ ngay để bảo tồn chân âm.

Nhận xét: Bệnh Thiếu âm là người bệnh cảm thụ ngoại tà trong khi khí huyết
đều hư, nếu gặp chứng có thể hạ tất phải nắm vững cơ chế bệnh mà kịp thời điều trị,
không thì gây nên chính khí càng hư mà tà khí càng thực.

324. Bệnh Thiếu âm mạch trầm, kíp gây ôn ngay, nên dùng Tứ nghịch
thang.

Tóm tắt: mạch phải kíp gây ôn của bệnh Thiếu âm

Thích nghĩa: Mạch vi tế, chỉ muốn nắm là mạch và chứng của bệnh Thiếu âm.
Điều này tuy chỉ nói đến mạch trầm nhưng đã bao quát cả vi tế trong đấy. Trầm mà
vi tế thì có thể biết dương khí hư lắm, nếu không chữa sớm thời các nguy chứng như
ỉa mửa giá lạnh vật vã đến liền ngay, cho nên thiếu âm mạch trầm thì nên dùng Tứ
nghịch thang để ôn ngay, không nên đợi các chứng đầy đủ rồi mới dùng.

325. Bệnh Thiếu âm, ăn uống vào miệng thời mửa, trong tâm cuồn cuộn
muốn mửa lại không mửa được, mới cảm thì chân tay lạnh, mạch huyền trì đấy
256
là trong ngực chắc thực, không thể cho hạ, nên cho mửa, nếu trên ngực có chứng
hàn ẩm, nôn khan thì không thể cho mửa, nên ôn đi, dùng Tứ nghịch thang.

Tóm tắt: Biện về chứng trạng và cách chữa trường hợp trong ngực đầy thì nên
thổ, trên cách mô có hàn ẩm thì nên gây nôn.

Thích nghĩa: Bệnh Thiếu âm ăn uống vào miệng thời mửa là thuộc nhiệt thuộc
thực, nhiệt ở trong ngực mà kỳ thực là đờm. Đờm thực ở trong ngực cho nên ăn uống
vào miệng thời mửa, trong tâm nôn nao muốn mửa lại không mửa được là do đờm
dãi ngăn trở kết chặt ở trên, muốn mửa mà không mửa được. Dương khí ở trong ngực
bị uất không thể đạt ra tứ phía cho nên chân tay mới bị lạnh. Mạch huyền chủ về tà
thực, mạch trì chủ về khí huyết bị trở trệ. Đấy là tà thực ở trong ngực có thể dùng
phép thổ mà không phải bàn đến việc hạ. Nếu trên ngực có hàn ẩm, chứng trạng thấy
nôn khan thì đó là hàn ẩm thuộc dương khí không hóa, bệnh đờm ẩm nên dùng thuốc
ấm để hòa, nên dùng Tứ nghịch thang để gây ấm thì hàn lui vị hòa, không phải bàn
đến phép thổ. Bấy nhiêu chứng nghi vấn như thế nhận định tất phải rõ ràng.

326. Bệnh thiếu âm ỉa chảy mạch hơi sáp nôn mà đổ mồ hôi, tất hay đi ngoài
nhưng lại đi ngoài ít, nên cứu để làm cho ấm bộ phận trên, cứu đi.

Thích nghĩa: Bệnh thiếu âm ỉa chảy, chứng trạng thuộc hư hàn, mạch vi là khí
hư, mạch sáp chủ huyết kém, nôn mà đổ mồ hôi là dấu hiệu vị hàn khí nghịch, đại
tiện đi nhiều lần mà lượng phân ít là dấu hiệu huyết hư khí hãm xuống. Khí huyết đều
hư, khí trung dương không kiện vận như thế nên hồi dương để cứu âm, khu tà để phò
chính. Âm dương đều hư thì việc hồi dương là gấp hơn, có thể cứu huyệt Bách hội ở
đỉnh đầu để làm ấm bộ phận trên.

257
BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH QUYẾT ÂM

327. Quyết âm sinh bệnh, tiêu khát, khí xung lên tâm, trong tâm nóng đau,
đói mà không muốn ăn, ăn thời mửa ra giun, cho hạ thời ỉa không dứt.

Tóm tắt: Đề cương bệnh Quyết âm.

Thích nghĩa: Điều này là đề cương của bệnh Quyết âm. Bệnh quyết âm là chứng
hàn nhiệt lẫn lộn, nói bao quát hai loại hình “thượng nhiệt hạ hàn” và “quyết nhiệt
thắng phục”. Chứng trạng của điều này là thuộc về diện thượng nhiệt hạ hàn. Thượng
nhiệt cho nên chứng trạng thấy đói không muốn ăn, ăn thời mửa ra giun. Nếu nhận
lầm là thực chứng rồi dùng thuốc khổ hàn để công hạ thời chứng nóng bên trên vị tất
lui được mà chứng lạnh bên dưới lại càng thêm, do đó mà ỉa chảy không dứt.

Điều này nói Quyết âm sinh bệnh chứng thuộc thượng nhiệt hạ hàn. Tân dịch ở
thượng tiêu hư cho nên khát mà hay uống, chứng trạng thấy tiêu khát, nhiệt tà nghịch
lên cho nên thấy khí xông lên tâm, trong tâm nóng đau; nhân nóng bên trên mà biết
đói, nhân lạnh bên dưới mà chẳng muốn ăn; bên dưới hư hàn, giun không có ăn mà
động đậy, nghe mùi đồ ăn mà ngoi lên cho nên thì mửa ra giun.

Nhận xét: Bệnh Quyết âm, âm dương giao tranh với nhau cho nên chứng quyết
lạnh và chứng phát sốt thay đổi nhau thể hiện ra. Nếu âm cực độ dương hồi phục thời
bệnh có chiều hướng khỏi. Quyết âm thuộc can phần nhiều bệnh về can vị cho nên
các chứng quyết lạnh ỉa chảy, nôn mửa, ọe tương đối hay thấy. Quyết âm thụ tà, tà
theo âm hóa thì nhiều hàn, theo dương hóa thì nhiều nhiệt. Chính tà giao tranh với
nhau, tà thắng thời bệnh tiến triển, chính khí khôi phục thời bệnh lui, cho nên bệnh
quyết âm đại khái thuộc chứng hàn nhiệt thắng phục, âm dương lẫn lộn, thực là một
đặc điểm của bệnh này vậy.

328. Quyết âm trúng phong, mạch hơi phù là muốn khỏi, mạch không phù
là chưa khỏi.

Tóm tắt: Bệnh Quyết âm mà mạch thấy hơi phù là triệu chứng sắp khỏi.
258
Thích nghĩa: âm bệnh thì mạch không nên phù, nay quyết âm trúng phong mạch
lại phù, bởi vì quyết âm với Thiếu dương là tương quan biểu lý với nhau. Nếu được
khí xung hòa của Thiếu dương là bệnh có cơ chuyển từ âm ra dương, mạch tất hơi
phù. Sách này nói : “âm bệnh thấy mạch dương là sống” tức là ý nghĩa như thế, cho
nên nói rằng mạch hơi phù là muốn khỏi. Trái lại, mạch không phù là chính khí chưa
khôi phục được cho nên nói chưa khỏi.

329. Bệnh quyết âm, thời gian muốn khỏi là từ giờ sửu đến giờ mão.

Tóm tắt: Tiên lượng thời gian muốn khỏi của bệnh quyết âm.

Thích nghĩa: Giữa quyết âm thấy có khi hóa Thiếu dương là bệnh có hy vọng
khỏi, Thiếu dương vượng ở giờ dần đến giờ thìn bệnh quyết âm khỏi ở giờ sửu đến
giờ mão là giữa thấy hiện khí thiếu dương, cho nên bệnh quyết âm sắp khỏi cũng là
giờ ấy.

Nhận xét: Sáu kinh đều có một điều nói về thời gian sắp khỏi, nhưng chưa có
thể chỉ đạo lâm sàng được, nên tồn nghi chờ khảo cứu.

330. Bệnh quyết âm, khát muốn uống nước, cho uống nước dần từng hớp
một là khỏi.

Tóm tắt: Chứng khát nước của bệnh quyết âm, dương hồi phục.

Thích nghĩa: Chứng khát nước của điều này so với chứng tiêu khát của bệnh
quyết âm trong điều 326 và chứng đại phiền khát của chứng Bạch hổ thang trong
thiên Dương minh không giống nhau. Chứng khát của điều này là do dương khí mới
hồi phục, tân dịch ở dạ dày nhất thời không tiếp tế kịp lên trên cho nên hiện tượng
hơi khát muốn uống nước, nên cho uống dần từng hớp một không nên uống nhiều.
Nếu uống nước quá nhiều sợ dương khí mới hồi phục không thể hóa khí thành thủy
được mà gây nên chứng đình ẩm.

331. Các chứng chân tay quyết nghịch thì không thể hạ, người hư yếu cũng
thế.

259
Tóm tắt: Bệnh hư hàn quyết nghịch không thể công hạ

Thích nghĩa: Quyết nghịch có phân ra hư hàn với thực nhiệt. Câu đầu của điều
này dùng chữ “các” là chỉ chung các bệnh quyết lạnh hư hàn mà nói. Ngoại chứng đã
thấy chân tay quyết lạnh thời có thể biết khi mà âm dương không nhận tiếp được với
nhau mạch trầm vi, vì thế rất kỵ dùng phép thanh phép hạ. Ngoài ra, như chứng quyết
lạnh do mát huyết hoặc do dương hư thường có hiện tượng giả nhiệt đều không thể
hạ, cho nên nói “người hư yếu cũng thế”.

Lời chú chọn lọc: Trương Tích Câu nói: “Các bệnh hễ chân tay quyết lạnh đều
thuộc chứng âm hàn cho nên không thể hạ, nhưng không gì quyết lạnh mới không thể
hạ, mà cả những người hư yếu tuy không quyết lạnh cũng không thể hạ nữa”.

332. Bệnh thương hàn trước quyết lạnh, sau phát nhiệt mà ỉa chảy tất tự
khỏi, thấy quyết lạnh lại là ỉa chảy.

Tóm tắt: Quyết lạnh phát nhiệt có quan hệ với ỉa chảy.

Thích nghĩa: Bệnh thương hàn vào sâu đến Quyết âm, cơ chế khỏi bệnh toàn là
nhờ một chút khí dương hồi phục, dương tiến âm thoái tức là có cơ sống, âm thắng
dương tiêu tức lâm vào cảnh khốn. Người bệnh trước thời chân tay quyết lạnh là hiện
tượng âm hàn thịnh quá, dương khí suy yếu không thể phát ra đến chân tay. Sau rồi
phát nhiệt là dương khí hồi phục cho nên ngoài cơ thể thấy chuyển ấm, chân tay quyết
lạnh cũng mất dần đi, cơ năng trong thân thể chuyển thành mạch khỏe, hàn tà dần dần
lui ra ngoài mà chứng ỉa chảy tự hết, đấy là hiện tượng tốt, dương hồi phục, quyết
lạnh lui. Nếu sau khi dương khí hồi phục lại thấy phát sinh chứng trạng chân tay quyết
lạnh ỉa chảy lần nữa là hiện tượng hàn tà lại thịnh mà dương khí lại suy, thế tất ỉa
chảy phát từ trong, bệnh sẽ trở lại. Do đó có thể biết, quyết nhiệt thắng phục của bệnh
quyết âm là mấu chốt trọng yếu về âm dương tiêu trưởng.

333. Thương hàn mới phát sốt 6 ngày, quyết lạnh 9 ngày mà ỉa chảy, hễ
quyết lạnh ỉa chảy thì đáng lý không ăn được. Nay lại ăn được, sợ là chứng trừ

260
trung(1), cho ăn miến mà không phát nhiệt thì biết là vị khí vẫn còn, tất khỏi. Sợ
đột nhiên sốt trở lại mà lại lui, sau ba ngày chẩn mạch vẫn còn sốt. Cho nên đợi
đến nửa đêm ngày sau là khỏi. Sở dĩ như thế là vốn phát sốt 6 ngày, quyết lạnh
lại 9 ngày, lại phát sốt 3 ngày, cộng với trước 6 ngày thì cũng là 9 ngày, số ngày
phát sốt tương ứng với số ngày quyết lạnh cho nên hẹn đến nửa đêm ngày sau sẽ
khỏi. Sau ba ngày chẩn thấy mạch sác, sốt không khỏi, đấy là nhiệt có dư, tất
phát ung nhọt có mủ vậy.

Tóm tắt: biện về chứng quyết lạnh ỉa chảy hay ăn nghi là chứng trừ trung.

Thích nghĩa: điều này chia là ba đoạn giải thích:

Đoạn 1: từ mở đầu đến câu “hẹn đến nửa đêm ngày sau sẽ khỏi” là nói rõ số
ngày quyết lạnh nhiều hơn số ngày phát sốt là chứng âm thịnh dương suy, dương ở
giữa không phấn chấn, dương không đạt đến chân tay thời quyết lạnh, dương khí hãm
xuống không nâng lên được thì ỉa chảy. Dương ở giữa hư yếu, mất chức năng vận
hóa đáng lý không ăn được, nay lại ăn được, không phù hợp với chứng trạng ỉa chảy,
nghi là chứng trừ trung nguy hiểm. Phán đoán coi có phải chứng trừ chung hay chăng
thì có thể cho ăn miến. Nếu sau khi ăn miến mà không phát sốt dữ hoặc chỉ có sốt
nhẹ là vị dương với cốc khí còn có thể dung hợp vận hóa được, biểu thị là vị khí hãy
còn, bệnh có thể chuyển biến tốt, nếu sau khi ăn miến rồi bỗng nhiên phát sốt nặng,
một lát rồi lại hết sốt là dấu hiệu dương khí bốc ra ngoài, vị dương sắp tuyệt. Sau ba
ngày xem xét mạch chứng, như hiện tượng phát sốt vẫn chưa hết thì đấy là dấu hiệu
chứng quyết âm lạnh hết, dương khí hồi phục, bệnh sắp khỏi không phải chứng trừ
trung mà sốt nặng khi có, khi hết sau khi quyết lạnh mà dương khí hồi phục thì bệnh
có tiên lượng là tốt mà dễ khỏi.

Đoạn 2, từ câu “sở dĩ như thế” đến câu “cho nên hẹn khỏi vào nửa đêm hôm
sau” là giải thích cơ chuyển của chứng hậu kể trên là lý luận căn cứ vào số ngày phát

1
Trừ trung: Một thứ bệnh do vị khí hại tuyệt, có hiện tượng trái thường là đáng lý ăn không được
nhưng lại ăn được.
261
sốt và số ngày quyết lạnh bằng nhau mà hiểu được âm dương có chiều hướng thăng
bằng.

Đoạn 3, từ câu “ sau ba ngày chẩn mạch” đến câu “tất phát ung nhọt có mủ” là
hiện tượng dương khí hồi phục thái quá, bởi mạch sác không hết, sốt không lui, lâu
ngày tất nhiên tổn thương âm. Âm huyết bị nhiệt xông bốc cho nên biết nhất định sẽ
phát ung nhọt có mủ. Đại ý của điều này là so sánh số ngày phát sốt với số ngày quyết
lạnh. Nếu số ngày quyết lạnh nhiều hơn số ngày phát sốt thời sẽ sinh ra ỉa chảy, số
ngày phát sốt nhiều hơn số ngày quyết lạnh thời sẽ phát chứng ung nhọt, có mủ. Nếu
cùng xuất hiện cả quyết lạnh và ỉa chảy thì đáng lý không ăn được mà lại ăn được thì
sợ là chứng trừ trung.

334. Thuơng hàn mạch trì 6-7 ngày mà lại cho dùng Hoàng cầm thang để
trừ nhiệt, mạch trì là hàn, nay lại cho dùng Hoàng cầm thang để trừ nhiệt thì
trong bụng phát lạnh, đáng lý là ăn không được, nay lại ăn được, đó gọi là chứng
trừ trung, sẽ chết.

Tóm tắt: Vì chữa nhầm mà chuyển thành chứng trừ trung là triệu chứng rất nguy
hiểm.

Thích nghĩa: Khi bệnh ở quyết âm thì các chứng quyết lạnh phát sốt, ỉa chảy
thường hay xuất hiện với nhau. Thương hàn mạch trì 6 -7 ngày trong lúc các chứng
quyết lạnh phát sốt với ỉa chảy thay nhau xuất hiện. Thầy thuốc lại nhận nhầm là
chứng ỉa chảy thuộc nhiệt của hợp bệnh Thái dương Thiếu dương rồi lại dùng Hoàng
cầm thang để trừ nhiệt. Cần hiểu mạch trì là tạng hàn chứng này tuy hiện ra hàn nhiệt
lẫn lộn, nhưng phải lấy dương khí ở tỳ vị làm chủ yếu. Sau khi uống nhầm Hoàng
cầm thang thì dương khí ở tỳ vị càng hư, trong bụng càng lạnh, đáng lẽ là không ăn
được. Nay lại ăn được tức là chứng trừ trung. Đây là dấu hiệu vị khí bại tuyệt cho nên
nói “sẽ chết”.

262
335. Thương hàn trước quyết lạnh sau phát sốt ỉa chảy tất tự hết mà lại đổ
mồ hôi, đau trong họng là chứng hầu tý (1) phát sốt không mồ hôi thì ỉa chảy tất
tự hết, nếu không hết, tất ỉa ra máu mủ, thì họng không sưng tắc.

Tóm tắt: hai loại bệnh biến của bệnh quyết âm khi dương khí hồi phục thái quá.

Thích nghĩa: Trước quyết lạnh sau phát sốt là hiện tượng dương tiến âm thoái,
ỉa chảy do hư hàn thì khi dương khí hồi phục được là ỉa chảy tự hết. Nhưng nếu dương
khí hồi phục thái quá thì sẽ phát sinh biến chứng khác. Thế nhiệt xông bốc tân dịch
ra ngoài, lên trên, mà lại đổ mồ hôi, tổn thương cổ họng phát đau thì thành chứng hầu
tý, nếu thế nhiệt hướng vào trong, hướng xuống dưới thì tuy phát sốt không mồ hôi
mà ỉa chảy không hết. Nếu quả là nhiệt nhập vào hạ tiêu tổn thương âm lạc thì ỉa chảy
không hết mà thành chứng ỉa ra máu mủ. Đã ỉa ra máu mủ là nhiệt hướng xuống dưới
mà không nghịch lên, nên cũng không phải ra chứng hầu tý.

336. Thương hàn 1-2 đến 4-5 ngày, quyết lạnh, tất phát sốt, trước phát sốt
sau tất quyết lạnh, quyết lạnh nhiều phát sốt cũng nhiều, quyết lạnh ít phát sốt
cũng ít, quyết lạnh là phải hạ mà lại phát hãn thời miệng sẽ tổn thương lở đỏ.

Tóm tắt: Quyết lạnh nhiều phát sốt nhiều, phải hạ đừng phát hãn.

Thích nghĩa: Thương hàn truyền đến quyết âm 1-2 ngày đến 4-5 ngày mà thể
hiện chứng quyết lạnh tất sẽ phát sốt, nếu thật là phát sốt trước sau rồi cũng sẽ phát
hiện chứng quyết lạnh đấy là nhiệt thâm nhập dương khí uất ở trong mà phát ra chứng
nhiệt quyết, quyết lạnh nhiều, thì sốt cũng nhiều, quyết lạnh nhẹ thì sốt cũng nhẹ,
phải dùng phép hạ, làm cho nhiệt tà ra hết thì quyết lạnh và sốt đều tự khỏi. Nếu dùng
thuốc ấm để phát hãn thì tân dịch càng bị tổn thương, tất gây nên tình trạng nhiệt tà
công lên trên mà có biến chứng miệng bị tổn thương lở đỏ.

Điều này xem chung với điều 330 thì sẽ biết được cách chữa về hàn quyết với
chữa nhiệt quyết là khác nhau xa. Đằng này vì nhiệt tà uất sâu ở trong cho nên nói

1
Hầu tý: Cổ họng sưng đỏ bế tắc không thông
263
“quyết lạnh là phải hạ”, đằng kia thì hư hàn ở trong cho nên nói “ không thể hạ”.
Đằng này lại luận chứng nhiệt, đằng kia là lập pháp chữa chứng hư hàn.

337. Bệnh Thương hàn quyết lạnh 5 ngày, phát sốt cũng 5 ngày, giả thiết
đến 6 ngày đáng nhẽ phải quyết lạnh, nếu không quyết lạnh là bệnh tự khỏi.
Quyết lạnh rút cục không quá 5 ngày, bởi vì phát sốt có 5 ngày cho nên biết bệnh
sẽ tự khỏi.

Tóm tắt: Số ngày quyết lạnh tương ứng với số ngày phát sốt là chứng hậu sắp
khỏi.

Thích nghĩa: Bệnh nhập vào quyết âm, phải căn cứ vào quyết lạnh với phát sốt
nhiều hay ít mà nhận định sự tiến thoái của thế bệnh, âm thắng thời quyết lạnh, dương
hồi phục thời phát sốt, điều này nêu ra số ngày quyết lạnh bằng số ngày phát sốt là
âm dương thăng bằng cho nên bệnh có thể tự khỏi.

338. Phàm Quyết lạnh là khí âm khí dương không thuận hiệp với nhau thì
thành quyết. Quyết là chân tay mỏi lạnh vậy.

Tóm tắt: Bệnh lý của chứng quyết lạnh.

Thích nghĩa: Điều này nói gồm tất cả các chứng quyết lạnh. Đại phần nguyên
nhân gây ra chứng quyết lạnh là do khí âm khí dương không thuận hợp với nhau mà
hình thành chứng trạng thể hiện là chân tay mỏi lạnh.

Lời chú chọn lọc: Trần Bình Bá nói: “Điều này là suy tìm nguyên cớ gây nên
chứng quyết lạnh, không chỉ nói riêng chứng hàn quyết mà thôi”. Xem dùng chữ
“phàm” làm mão đầu là biết không chỉ nói về chứng quyết lạnh của ba kinh âm mà
nói gồm cả hai chứng hàn quyết và nhiệt quyết ở trong ấy, bởi vì dương thụ khí ở tứ
chi, âm thụ khí ở ngũ tạng, khí âm khí dương thông suốt với nhau như chiếc vòng
tròn không đầu nối, nếu là hàn quyết thời khí dương không được thuận tiếp với khí
âm, nhiệt quyết thời khí âm không được thuận tiếp với khí dương. Hoặc có người nói:
“khí âm không thuận tiếp với khí dương thì đáng lý chân tay phiền nóng sao lại móỉ
lạnh được? mà họ không biết nhiệt là thâm nhập khí dương bị cản trở ở trong, không
264
thể đạt ra ngoài tứ chi được, cũng sỉnh ra quyết lạnh, đó chẳng phải là nói khí âm
khí dương không thuận tiếp với nhau sao, lập ngôn của Trọng Cảnh huyền diệu là
như thế ”.

339. Thương hàn mạch vi mà quyết lạnh đến 7-8 ngày, da dẻ lạnh, người
bệnh vật vã không lúc nào yên được, đấy là chứng trạng quyết không phải chứng
hồi quyết, hồi quyết thì người bệnh phải mửa ra giun. Nay người bệnh yên tĩnh
mà lại có lúc phiền, đấy là do tạng hàn giun ngoi lên đến hoành cách mô cho nên
phiền, giây lát lại hết, ăn vào mà mửa ra lại phiền là giun nghe mùi đồ ăn mà
ngoi lên, người bệnh hay mửa ra giun. Chứng hồi quyết thì dùng ô mai hoàn làm
chủ lại chữa được chứng ỉa chảy kéo dài.

Tóm tắt: Biện chứng và cách chữa bệnh hồi quyết.

Thích nghĩa: Thương hàn mạch vi chân tay quyết lạnh là dương khí hư suy
không thể tỏa khắp mà gây nên. Đến 7- 8 ngày nếu bệnh tiến triển mà thấy da dẻ lạnh,
người bệnh vật vã không lúc nào yên được chủ yếu là dương khí càng suy kiệt lắm,
bệnh tình đã đến lúc nguy hiểm cho nên nói: “đấy là chứng tạng quyết không phải
chứng hồi quyết”. Chứng hồi quyết có trường hợp mửa ra giun, về phiền thì lúc có,
lúc không chứ không phải luôn luôn vật vã chẳng lúc nào yên, về quyết thì chân tay
quyết lạnh chứ không phải da dẻ lạnh, đấy là chứng hồi quyết không phải chứng tạng
quyết.

Mửa ra giun là do trường vị hư hàn giun ngoi lên hoành cách mô thời phát phiền,
lắng xuống thời hết phiền, ăn vào thời giun nghe mùi đồ ăn mà ngoi lên cho nên lại
mửa mà phiền, người bệnh hay mửa ra giun, dùng Ô mai hoàn để chủ trị, phương này
kiêm cả chữa ỉa chảy kéo dài.

Ô mai hoàn.

Ô mai 300 quả

Tế tân 6 lạng

265
Can khương 10 lạng

Hoàng liên 16 lạng

Phụ tử 6 lạng (nướng bóc bỏ vỏ)

Đương quy 4 lạng

Thục tiêu 4 lạng (sao cho đổ mồ hôi)

Quế chi 6 lạng (bỏ vỏ)

Nhân sâm 6 lạng

Hoàng bá 6 lạng

Mười vị trên, giã và rây riêng rồi hợp lại mà dùng. Dùng giấm ngâm ô mai 1
đêm, lấy cơm bỏ hạt nấu với 5 đấu gạo tẻ, gạo chín thì đem giã nát bét trộn với thuốc
cho đều nhau, để vào cối cho mật vào quết hơn 2000 chày, viên bằng hạt ngô đồng,
trước bữa ăn uống 10 hoàn, ngày uống 3 lần, dần dần uống thêm đến 20 hoàn, kiêng
ăn đồ sống lạnh, đồ béo, đồ hôi tanh.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này dùng chung cả thuốc hàn thuốc nhiệt, là bài
thuốc vừa công vừa bổ, hay bổ ích trường vị trấn áp giun đũa, lại kiêm trị chứng ỉa
chảy kéo dài. Vưu Tại Kinh nói: “Người xưa nói: Giun gặp ngọt thời ngoi lên, gặp
đắng thời lắng xuống, lại nói: Giun nghe chua thời yên tĩnh, gặp cay nóng thời đứng
cho nên dùng Ô mai chua Hoàng liên Hoàng bá đắng, Can khương, Tế tân, Quy, Phụ,
Tiêu, Quế là thuốc cay để trấn áp giun làm ấm nội tạng mà hết quyết lạnh, vì giun
ngoi lên thì trung tiêu hư nên gia Nhân sâm để làm an trung tiêu mà hết mửa, vả lại
để chế ngự bớt các vị thuốc lạnh, nóng vậy”. Sách Nội đài phương nghị nói: “ giấm
ngâm với Ô mai là đồng khí tương cầu, nấu với gạo tẻ để có thêm cốc khí, viên với
mật, cho dùng ít mà thêm dần dần là phép hòa hoãn để chữa vào chỗ căn bản vậy”.

340. Thương hàn phát sốt ít, quyết lạnh ít, đầu ngón tay lạnh lìm lịm không
muốn ăn, phiền táo vài ngày, tiểu tiện lợi, màu sắc xám trắng đấy là sốt đã hết
266
vậy, muốn được ăn là bệnh khỏi, người quyết lạnh mà nôn, ngực sườn phiền đầy
tất sẽ ỉa ra máu.

Tóm tắt: Hai cách chuyển biến của chứng phát sốt và quyết lạnh nhẹ.

Thích nghĩa: Thương hàn phát sốt nhẹ quyết lạnh ít là chứng quyết và nhiệt nhẹ
cho nên chỉ thấy đầu ngón tay lạnh; dương nhiệt uất ở trong không nặng lắm cho nên
lìm lịm không muốn ăn, uất quá phải tìm sự thư thái, nhân đó mà thể hiện sự vật vã.
Khi ấy nếu bệnh thế muốn khỏi thời mấy ngày sau tiểu tiện thông sướng nước giải
trong suốt đấy là nhiệt tà đã hết; muốn được ăn là vị khí đã hòa, bệnh sắp khỏi. Nếu
thấy chứng quyết lại hiện ra, phát sốt không giải, nghịch lên mà nôn lại có chứng
ngực sườn đầy tức nhiệt lại vào sâu, sau đó sẽ tổn thương âm lạc tất gây ra chứng ỉa
ra máu.

341. Người bệnh chân tay quyết lạnh và nói: “Tôi không có chứng kết
hung”, bụng dưới đầy ăn vào là đau, đấy là lạnh kết tụ ở bàng quang, chỗ huyệt
Quan nguyên.

Tóm tắt: Chứng lạnh kết tụ ở bàng quang chỗ huyệt Quan nguyên.

Thích nghĩa: Người bệnh chân tay quyết lạnh, tự bảo là không có chứng kết
hung biết là vùng thượng tiêu không bệnh, bụng dưới đầy ấn vào đau là do dương hư
ở hạ tiêu, hàn tà kết tụ ở bàng quang chỗ huyệt Quan nguyên mà gây ra, bàng quang
là ở hạ tiêu tương quan biểu lý với thận mà chủ việc khí hóa, huyệt Quan nguyên là
chỗ hội hợp của ba kinh âm với mạch Nhâm, lạnh kết tụ ở đây làm trở ngại sự khí
hóa ở hạ tiêu nên bụng dưới đầy, ấn vào thì đau dương khí không thông đạt ra tứ chi
cho nên chân tay quyết lạnh.

Lời chú chọn lọc: Vưu Tại Kinh nói: “Chân tay quyết lạnh vốn có âm dương hư
thực khác nhau. Nếu người có chứng kết hung thì tà kết ở trên mà dương khí không
thông được, như sau này nói: “Bệnh nhân chân tay quyết lạnh, mạch thoạt thấy khẩn
là tà kết ở trong ngực cần phải cho thổ”, để thông khí của thiếu dương. Nếu không có
chứng kết hung chỉ bụng dưới đầy ấn vào thì đau là âm hàn kết ở trong, nguyên dương

267
không phấn chấn, bệnh ở khoảng huyệt Quan nguyên và bàng quang. Tất dùng thuốc
cay ngọt ấm như loại Tứ nghịch thang Bạch thông thang để cứu dương khí mà trừ âm
tà vậy”

342. Thương hàn phát sốt 4 ngày quyết lạnh lại 3 ngày, lại phát sốt 4 ngày
quyết lạnh ít, phát sốt nhiều là bệnh đáng lý khỏi, 4 ngày đến 7 ngày sốt không
hết tất ỉa chảy ra máu mủ.

Tóm tắt: Biện về chứng quyết lạnh ít phát sốt nhiều là đáng lý khỏi vì biểu chứng
khi nhiệt hồi phục thái quá.

Thích nghĩa: Thương hàn phát sốt 4 ngày, quyết lạnh 3 ngày, lại phát sốt 4 ngày
nữa, nhiệt nhiều hơn quyết là dương thắng hơn âm, bệnh đáng lý khỏi. Nhưng bệnh
khỏi tất âm dương phải thăng bằng. Nếu dương hồi phục thái quá, sốt lâu không khỏi,
tất thương âm lạc mà ỉa chảy ra máu.

343. Thương hàn quyết lạnh 4 ngày, phát sốt lại 3 ngày, lại quyết lạnh 5
ngày nữa là bệnh tiến triển, lạnh nhiều nóng ít, dương khí thoái cho nên bệnh
tiến triển vậy.

Tóm tắt: Quyết lạnh nhiều hơn sốt là chủ dương khí thoái, bệnh tiến triển.

Thích nghĩa: Quyết lạnh là âm thịnh, sốt là dương hồi phục. Điều này căn cứ
vào số ngày quyết lạnh nhiều hơn số ngày sốt mà phán đoán là dương suy âm thịnh
cho nên chủ về bệnh tiến triển.

344. Thương hàn 6 -7 ngày, mạch vi, chân tay quyết lạnh, buồn phiền vật
vã, cứu quyết âm (1)mà quyết lạnh không ấm trở lại thì chết.

Tóm tắt: Chứng hàn quyết dương suy âm thịnh, cứu mà quyết lạnh không ấm
trở lại là chết.

1
Cứu quyết âm: cứu huyệt của kinh mạch quyết âm
268
Thích nghĩa: Thương hàn 6-7 ngày là thời kỳ đáng lý dương khí hồi phục, nay
mạch vi, chân tay quyết lạnh là dấu hiệu dương khí suy vi, âm tà thịnh một mình. Lại
thấy buồn phiền vật vã là cảnh tượng nguy hiểm, vì dương bốc ra ngoài đã gần đến
mức thoát dương (ly quyết). Khi ấy, nếu dùng thuốc thang để phù dương ức âm thì
sợ chậm lắm không cứu kịp, cho nên kịp dùng phép cứu để hồi dương mà làm tán hết
âm tà, khôi phục dương khí. Nếu cứu ở kinh quyết âm mà chân tay vẫn không ấm áp
là dương khí đã tuyệt rồi, chết đã đến nơi.

345. Thương hàn phát sốt, ỉa chảy quyết lạnh, vật vã nằm không được, chết.

Tóm tắt: Chứng trạng nguy cấp vì âm dương ly tuyệt ở trong thì chân hàn mà
ngoài thì giả nhiệt.

Thích nghĩa: Thương hàn phát sốt, nếu thuộc về dương khí hồi phục thì đáng lý
chứng ỉa chảy hết mà chân tay ấm, nay thấy phát sốt mà vẫn ỉa chảy, chân tay vẫn
quyết lạnh thì có thể biết sốt này là không phải dương hồi phục mà là âm thịnh ở
trong đẩy dương ra ngoài, đồng nghĩa với chứng lạnh bên trong nóng bên ngoài của
chứng Thông mạch tứ nghịch thang. Trường hợp này lại có chứng vật vã không nằm
được là hiện tượng dương khí thoát hết, cho nên rất nguy.

346. Thương hàn phát sốt, ỉa chảy rất nặng, quyết lạnh không hết là chết.

Tóm tắt: Chứng hậu âm dương ly tuyệt.

Thích nghĩa: Điều này với điều trên cũng là một bệnh lý, nhưng không có hiện
tượng vật vã không nằm được, mà ỉa chảy thì nói là rất nặng, quyết lạnh thì nói là
không hết thì mức độ quyết lạnh và ỉa chảy so với điều trên là nghiêm trọng hơn, phát
sốt cũng thuộc về giả tượng hư dương bốc ra ngoài cho nên cũng là chứng cực nguy.

347. Thương hàn 6-7 ngày không đi ngoài, bèn phát sốt mà ỉa chảy, người
bệnh đổ mồ hôi không cầm được là chết, vì đó là có âm mà không có dương.

Tóm tắt: Chứng hậu nguy do âm thịnh dương vong.

269
Thích nghĩa: Thương hàn 6 -7 ngày, khi đi ngoài lại đi ngoài trong lúc phát sốt
mà còn đổ mồ hôi không cầm được là âm thịnh ở trong dương bốc ra ngoài, gọi là
chứng “hữu âm vô dương” cho nên nói rất nguy.

348. Thương hàn 5 -6 ngày không có chứng kết hung, bụng mềm mại, mạch
hư lại quyết lạnh là không thể hạ vì đấy là chứng vong huyết nếu hạ thì chết.

Tóm tắt: Âm huyết suy kém thì phải cẩn thận không hạ được.

Thích nghĩa: Thương hàn 5 -6 ngày nếu tà khí truyền vào lý, cùng âm kết tụ lại,
ở vùng trên thời thành chứng kết hung, ở dưới thời trệ ở trường vị làm cho bụng đầy
rắn đau. Nay trên ngực khoan khoái, vùng bụng mềm mại kiêm thấy mạch hư nhược,
tứ chi quyết lạnh thời chứng quyết lạnh đó không phải nhiệt quyết mà là hàn quyết là
chứng vong quyết tổn thương tân dịch, cho nên đại tiện táo mà khô sít, nếu nhầm cho
là chứng nhiệt quyết mà dùng phép hạ thời gây tình trạng hư thoát mà chết.

349. Phát sốt mà quyết lạnh 7 ngày, ỉa chảy là khó chữa.

Tóm tắt: Chứng phát sốt quyết lạnh, ỉa chảy khó chữa.

Thích nghĩa: Phát sốt là dương khí hồi phục thời đáng lẽ quyết lạnh và ỉa chảy
tự khỏi. Phát sốt mà quyết lạnh, ỉa chảy là hư dương bốc ra ngoài, âm hàn thịnh ở
trong, thường khí có xu thế thoát ra ngoài cho nên nói “khó chữa”.

Lời chú chọn lọc. Trương Ân Âm nói: “Tiết này là tiếp theo ý tứ về chứng chết
của lời văn trên (điều 343-347), nói phát sốt mà quyết lạnh đến 7 ngày mà vẫn còn ỉa
chảy, bệnh tuy chưa chết mà cũng khó chữa. Lời văn trên nói về chứng chết đã hiện
ra, ở đây nói về triệu chứng trước khi chưa chết”.

350. Thương hàn mạch xúc, chân tay quyết nghịch thì có thể cứu được.

Tóm tắt: Mạch xúc, quyết nghịch, có thể dùng phép cứu.

270
Thích nghĩa: Mạch xúc nói chung là dương nghịch, điều này mạch xúc mà thấy
chân tay quyết nghịch là dương bị âm ngăn trở, cho nên có thể dùng phép cứu để vận
hành dương khí.

Lời chú chọn lọc. Vưu Tại Kinh nói: “Mạch dương thịnh thời xúc âm thịnh thời
kết, chân tay quyết lạnh mà mạch xúc là không phải dương hư mà là dương uất không
thông, cứu là để dẫn dương ra ngoài. Nếu quyết lạnh mà mạch vi thời còn phải dùng
Tứ nghịch thang để làm cho ấm, há chỉ cứu mà thôi ư?”

351.Thương hàn mạch hoạt mà quyết lạnh là phần lý có nhiệt, dùng Bạch
hổ thang làm chủ.

Tóm tắt: Mạch, chứng và cách chữa trường hợp nhiệt quyết.

Thích nghĩa: Thương hàn nhiệt quyết là nhiệt nấp sâu trong phần lý, dương khí
không thể phát ra tứ chi dễ dàng, cho nên chân tay quyết lạnh. Đấy là thuộc về nhiệt
quyết không phải là hàn quyết, đồng nghĩa với câu “Quyết nhiều nhiệt nhiều, quyết
ít nhiệt cũng ít. Mạch hoạt là phần dương thịnh, tuy có chứng chân tay quyết lạnh,
song cần biết quyết ấy là giả tượng của trường hợp “Nhiệt nhiều quyết cũng nhiều”,
nhưng đấy chỉ là nhiệt vô hình, nên thanh không nên hạ, cho nên dùng Bạch hổ thang
để thanh lý nhiệt, lý nhiệt thanh được thời chứng quyết lạnh tự khỏi.

352. Chân tay quyết lạnh, mạch tế muốn tuyệt, dùng Đương quy tứ nghịch
thang làm chủ, nếu người bệnh ở trong có hàn lâu ngày, nên dùng Đương quy
tứ nghịch gia Ngô thù du sinh khương thang.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh quyết âm huyết hư hàn trệ gây nên quyết lạnh và kiêm
có chứng lý hàn.

Thích nghĩa: Bệnh cảm thụ hàn tà làm cho khí huyết vận hành không lưu lợi
không nhu dưỡng được chân tay mà hiện ra chứng chân tay quyết lạnh mạch tế muốn
tuyệt, nên dùng Đương quy tứ nghịch thang để dưỡng huyết thông dương kiêm tán
hàn tà. Nếu trường vị vốn có hàn hoặc cơ thể hư, vốn có đàm ẩm, nên dùng Đương

271
quy tứ nghịch thang gia Ngô thù du, Sinh khương cay ấm đề trừ hàn trong trường vị,
gia rượu trắng để giúp cho thuốc chạy.

Đương quy tứ nghịch thang

Đương quy 3 lạng

Quế chi 3 lạng (bỏ vỏ)

Thược dược 3 lạng

Tế tân 3 lạng

Chích thảo 2 lạng

Thông thảo 2 lạng

Đại táo 25 quả (xẻ ra, một phương dùng 12 quả)

7 vị trên, nước 8 thăng sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm mỗi lần 1 thăng, ngày
uống ba lần.

Ý nghĩa phương thuốc. Phương này có công năng tán hàn, ôn kinh ích huyết,
thông mạch.

Đương quy tứ nghịch gia Ngô thù du sinh khương thang.

Đương quy 3 lạng

Thược dược 3 lạng

Chích thảo 2 lạng

Thông thảo 2 lạng

Đại táo 25 quả (xẻ ra)

Quế chi 3 lạng

272
Tế tân 3 lạng

Sinh khương 1/2 cân (thái mỏng)

Ngô thù du 2 thăng

9 vị trên, dùng nước 6 thăng, hòa với 6 thăng rượu trắng sắc lấy 5 thăng, lọc bỏ
bã, chia uống ấm 5 lần (một phương dùng nước và rượu đều 4 thăng).

Ý nghĩa phương thuốc: Chứng tứ nghịch của bệnh quyết âm có trường hợp thuộc
huyết hư không thể chạy suốt đến chân tay, nên dùng Đương quy tứ nghịch để ôn
thông huyết mạch. Nếu bên trong có hàn lâu ngày cũng không thể dùng Khương phụ
để làm quấy động âm khí, nên gia Ngô thù du, Sinh khương để ôn trung tán hàn lại
dùng rượu trắng hòa vào thời âm dương điều hòa âm dương tự ấm.

353. Mồ hôi ra nhiều, sốt lại không lui, trong bụng co thắt, chân tay đau
nhức, lại ỉa chảy, chân tay quyết nghịch mà sợ rét, dùng Tứ nghịch thang làm
chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp chân hàn giả nhiệt của bệnh
quyết lạnh ỉa chảy do dương hư.

Thích nghĩa: Mồ hôi ra nhiều sốt lại không lui là hiện tượng giả nhiệt do dương
bốc ra ngoài. Dương mất ở ngoài hàn thịnh ở trong, cho nên ỉa chảy, hàn thì co lại
cho nên trong bụng co thắt chân tay là gốc của các khí dương, vì dương hư không thể
tỏa khắp ra cho nên chân tay đau nhức, nặng thời quyết lạnh mà sợ rét. Dương ở ngoài
đã mất, hàn bên trong lại càng thịnh, tất phải dùng Tứ nghịch thang để ôn kinh hồi
dương.

354. Phát hãn nhiều, cho hạ nhiều, ỉa chảy quyết lạnh, dùng Tứ nghịch
thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp quyết lạnh do dương hư.

273
Thích nghĩa: Phát hãn nhiều, cho hạ nhiều đều làm cho tổn dương. Điều này nói
phát hãn nhiều hoặc cho hạ nhiều thì có thể biết dương khí hư suy mà lại thấy chứng
quyết lạnh nên cho ấm ngay. Cho nên dùng Tứ nghịch thang để phò dương cứu nghịch.

Lời chú chọn lọc. Trần Lượng Tư nói: “Phát hãn nhiều thì dương khí mất ở bên
ngoài, cho hạ nhiều thì dương khí mất ở bên trong. Như thế mà lại quyết lạnh, sao
không xếp trong điều nói về chứng chết? Xem kỹ lời văn không nói 5-6 ngày, 6-7
ngày, mà nói phát hãn nhiều, cho hạ nhiều, đó là chứng âm hàn mới trúng. Phàm mới
trúng thì tuy tà khí thịnh mà chính khí mới bị thương, phải gấp rút dùng thuốc ấm thì
chính khí còn có thể tự khôi phục chưa có thể cho ngay là chứng chết, không thể so
với bệnh lâu ngày mà bỗng như phát hãn nhiều cho hạ nhiều, âm dương đều thoái hết
mà chết vậy”.

355. Người bệnh chân tay quyết lạnh, mạch thoạt thấy khẩn là tà kết ở
trong ngực, dưới tâm đầy mà phiền, đói mà ăn không được là bệnh ở trong ngực,
cần phải cho thổ đi, nên dùng Qua đế tán.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp đàm quyết.

Thích nghĩa: Chân tay quyết lạnh là do đàm dãi tắc trở cho nên dương khí trong
ngực không phân bố ra tứ chi mà gây nên. Mạch thoạt thấy khẩn, chứng thấy dưới
tâm đầy mà phiền, đấy là phiền do dưới tâm đầy mà gây ra, bệnh ở ngực không phải
ở trường vị cho nên còn biết đói. Nhưng vì đờm dãi tắc trở cho nên đói mà ăn không
được. Bệnh ở trong ngực, ở vùng trên thì nhân đó mà cho mửa vọt ra cho nên dùng
Qua đế tán để cho thổ.

356. Thương hàn quyết lạnh mà dưới tâm hồi hộp, phải chữa thủy ẩm trước,
nên uống Phục linh cam thảo thang rồi sẽ chữa chứng quyết lạnh, không thế thì
thủy ẩm ngấm vào trường vị mà sinh đi ỉa chảy.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh thương hàn quyết lạnh mà tâm hồi hộp.

Thích nghĩa: Thủy tà đình tụ dưới tâm thời hồi hộp, dương khí ở ngực bị tắc trở
không tỏa ra chân tay được thời quyết lạnh. Chứng hồi hộp quyết lạnh trong điều này
274
là do thủy tà làm tắc trở dương khí ở trong ngực mà gây nên, cho nên phải chữa thủy
trước, hễ khi thủy ấm áp được vận hóa được, dương khí trong ngực tỏa ra khắp thì tự
nhiên hết quyết lạnh, hết hồi hộp. Nếu quyết lạnh không hết thì lại chữa chứng quyết
để khôi phục dương khí, nếu không chữa thủy trước thì nó ngấm vào trong trường vị
tất nhiên là dẫn đến ỉa chảy.

357. Thương hàn 6-7 ngày, cho hạ nhiều rồi mạch thốn trầm mà trì, chân
tay quyết nghịch, mạch ở hạ bộ không đến, cổ họng không lợi, nhổ ra máu mủ,
ỉa chảy không dứt là khó chữa, dùng Ma hoàng thăng ma thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp nhầm cho hạ rồi trên nóng dưới
lạnh, chính khí bị hư, dương khí bị uất.

Thích nghĩa: Thương hàn 6-7 ngày, cho hạ nhiều rồi biểu tà hãm vào trong, biểu
chứng chưa giải hết, khí ở trung tiêu tổn thương nặng, dương khí bị uất át. Mạch thốn
trầm mà trì là do tân dịch hư ở trên, chân tay quyết lạnh là tỳ dương không phân bố
ra chân tay; mạch ở hạ bộ không đến là khí hư ở dưới, cổ họng không lợi, nhổ ra máu
mủ là do tân dịch hư mà nóng bốc lên trên, ỉa chảy không dứt là do khí hư mà chất
dịch thoát xuống dưới, xuất huyết chứng trạng chính khí hư tà khí hãm vào, âm dương
lẫn lộn, hàn nhiệt đều thấy, biểu lý không phải như thế cho nên nói “Khó chữa”.
Dùng Ma hoàng thăng ma thang làm chủ.

Ma hoàng thăng ma thang.

Ma hoàng 2,5 lạng (bỏ mắt)

Thăng ma 1,1 lạng

Đương quy 1,1 lạng

Tri mẫu 18 thù

Hoàng cầm 18 thù

Nuy di 18 thù (một bản cho là Xương bồ)

275
Thược dược 6 thù

Thiên môn đông 6 thù (bỏ tim)

Quế chi 6 thù (bỏ vỏ)

Phục linh 6 thù

Chích thảo 6 thù

Thạch cao 6 thù (giã nát, đựng vào túi vải)

Bạch Truật 6 thù

Can khương 6 thù

14 vị trên, nước 1 đấu, trước nấu vị Ma hoàng sôi 1-2 dạo, vớt bỏ bọt rồi cho
các vị kia vào, sắc lấy ba thăng lọc bỏ bã, chia uống ấm 3 lần. Cách một lúc sau
khoảng nấu chín 3 đấu gạo thì uống hết, đổ mồ hôi thì khỏi.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là phương thuốc làm thanh phần trên ấm
phần dưới, phù chính khí, tăng âm dịch, khai thông dương khí đã bị uất át. Tiền Thiên
Lai nói: “Đây là do hạ nhầm hàn tà hãm vào phần âm cho nên dùng Ma hoàng làm
quân, Thăng ma làm thần, Quế chi làm tá để thăng phát hàn tà, làm bốc dương khí ra;
Tri mẫu, Hoàng Cầm làm thần để trừ tà uất nhiệt; Thạch cao làm tá để làm mát thượng
tiêu, lợi cổ họng mà giải chứng vị nhiệt, Đương quy, Nuy di, Thiên đông, Thược dược
dưỡng huyết tư âm để ngăn chứng nhổ ra máu mủ, Bạch truật bổ tỳ, Can khương cố
thủ trung cung, Cam thảo điều hòa tỳ vị, Phục linh thẩm thấp, đều là để làm ấm phần
lý hàn mà điều hòa trung tiêu, bổ chứng hư sau khi hạ, chữa chứng ỉa chảy không dứt.
Điều này mạch chứng tuy rườm rà, phép chữa tuy nhiều mặt, nhưng rốt cục là do hàn
tà hãm vào mà gây nên, phải nhờ Ma hoàng, Thăng ma, Quế chi cho ra mồ hôi thì
mới có thể khỏi, vì thế nên phân lượng của hai vị Ma hoàng, Thăng ma nhiều hơn”.

358. Thương hàn 4-5 ngày, trong bụng đau, nếu chuyển khí xuống bụng
dưới đấy là muốn sinh ỉa chảy vậy.
276
Tóm tắt: Chứng hậu muốn sinh ỉa chảy của bệnh thương hàn.

Thích nghĩa: Thương hàn 4-5 ngày, phần nhiều là thời kì tà khí truyền biến. Nếu
thấy đau bụng chuyển khí xuống bụng dưới là dấu hiệu sinh chứng ỉa chảy. Phàm khi
dương khí ở lý hư âm hàn thịnh, cốc khí không vận hành bình thường được tất muốn
sinh chứng ỉa chảy.

359. Thương hàn vốn do hàn mà ỉa chảy, thầy thuốc lại thổ cho hạ nữa, hàn
bị cách trở thì càng mửa càng ỉa thêm, nếu ăn vào miệng là mửa ngay, dùng Can
khương Hoàng cầm Hoàng liên Nhân sâm thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa chứng hàn cách.

Thích nghĩa: Thương hàn vốn do hàn mà ỉa chảy là nói ỉa chảy do hư hàn, thầy
thuốc không xét hư thực lại dùng nhầm phép thổ phép hạ làm cho tỳ khí hãm vào
trong thì ỉa chảy càng nặng nôn mửa càng thêm. Nếu ăn vào miệng mà mửa ra ngay
là vì âm hàn đẩy dương ra khỏi nên chối ăn không nạp vào được, dùng Can khương
Hoàng cầm Hoàng liên Nhân sâm thang làm chủ.

Can khương hoàng cầm hoàng liên nhân sâm thang.

Can khương

Hoàng cầm

Hoàng liên đều 3 lạng

Nhâm sâm

Bốn vị trên, nước 6 thăng sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bã chia uống ấm 2 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Hoàng cầm, Hoàng liên hay tiết nhiệt ở phần trên thời
có thể chữa được mửa, Can khương ôn trung trợ dương thời ỉa chảy có thể cầm được,
Nhâm sâm bổ vị khí thời âm dương thăng giáng khôi phục bình thường mà hàn nhiệt
cách trở tự khỏi.

277
360. Ỉa chảy có sốt nhẹ mà khát, mạch nhược, nay tự khỏi.

Tóm tắt: Chứng ỉa chảy dương hồi phục mà tự khỏi.

Thích nghĩa: Ỉa chảy có cái cơ dương hồi phục tà lui, nay tự khỏi, đấy là chứng
thấy sốt nhẹ mà khát là dương khí hồi phục dần mạch thấy nhược là tà khí đã suy, tà
lui dương khí hồi phục cho nên nay tự khỏi.

361. Ỉa chảy mạch sác, có sốt nhẹ, đổ mồ hôi, nay tự khỏi, giả thiết mạch lại
khẩn là tà chưa giải.

Tóm tắt: Ỉa chảy mà dương khí thông được thì khỏi.

Thích nghĩa: Ỉa chảy thuộc hàn, nay thấy mạch sác là dương bệnh thấy mạch
dương thì sống, dương khí thông được là dấu hiệu tự khỏi. Giả sử mạch đến lại khẩn,
khẩn thời là hàn, hàn tà trở lại ở trong cho nên chưa giải.

362. Ỉa chảy, chân tay quyết lạnh, không có mạch, cứu đi, không ấm, nếu
mạch không trở lại mà hơi suyễn là chết; mạch thiếu âm kém mạch phu dương
là thuận vậy.

Tóm tắt: Cách chữa và tiên lượng chứng quyết lạnh ỉa chảy không có mạch.

Thích nghĩa: Ỉa chảy, chân tay quyết lạnh, không có mạch, có khi do dương khí
sắp tuyệt, trường hợp trước thì dùng châm cứu để chữa (Cứu các huyệt: Quan nguyên,
khí hải), cứu rồi mà chân tay ấm được, mạch trở lại được là dấu hiệu tà lui bệnh tự
khỏi. Nếu cứu rồi mà chân tay không ấm, mạch không trở lại được mà thêm chứng
hơi suyễn là hư dương đã nhân khi cứu mà thoát lên trên, thận khí tuyệt trước, thật là
chứng rất nguy. Khi bệnh thế nguy kịch thì có thể chẩn mạch Thiếu âm mạch Phu
dương để đoán biết an hay nguy. Mạch Thiếu âm ở sau mắt cá chân trên xương gót
giữa chỗ lõm có động mạch. Huyệt Thái Khê – Mạch Phu dương ở khoảng giữa ngón
chân cái và ngón chân trỏ đi lên 5 thốn (Tức là huyệt Xung dương) mạch thiếu âm để
thăm dò thận khí, mạch phu dương để thăm dò vị khí, bệnh đến lúc tay không còn
mạch thì chẩn mạch Thiếu âm với mạch Phu dương ở chân trên dưới ứng nhau không

278
dứt, còn có thể chữa. Nếu mạch Phu dương thịnh hơn mạch Thiếu âm là vị khí chưa
tuyệt, còn có thể chữa, cho nên nói: “Mạch thiếu dương kém mạch phu dương là
thuận vậy”.

363. Ỉa chảy mà mạch thốn lại phù sác, giữa mạch xích tự đi sáp tất ỉa ra
máu mủ.

Tóm tắt: Mạch và chứng của trường hợp dương khí hồi phục thái quá, nhiệt làm
tổn thương âm lạc.

Thích nghĩa: Hư hàn ỉa chảy phần nhiều là nước với cái, mạch phần nhiều trầm
trì vô lực. Nay mạch xích tự đi sáp là lý nhiệt thịnh quá tổn thương đến huyết phận.
Mạch thốn thuộc dương chủ khí, mạch thốn phù sác là dương thịnh, mạch xích thuộc
âm chủ huyết, mạch xích mà sáp là tổn thương huyết phận. Huyết bị nhiệt nung nấu
thoái hóa mà thành mủ cho nên ỉa ra máu mủ.

364. Ỉa ra toàn nước với cái thì không thể công biểu đổ mồ hôi thì trướng
đầy.

Tóm tắt: Bệnh lý hư mà công biểu, ra mồ hôi tất trướng đầy.

Thích nghĩa: ỉa ra toàn nước với cái là cơm nước không tiêu trường vị hư hàn
là dấu hiệu lý hư, dẫu có biểu chứng cũng phải trước chữa lý sau chữa biểu, nếu không
tuân theo trình tự hoãn cấp trước sau ấy mà phát hãn giải biểu, đổ mồ hôi thời khí
dương ở trung tiêu càng hư, mất chức năng chuyển vận, tất thể hiện chứng trướng
đầy.

365. Ỉa chảy mạch trầm huyền là có mót rặn, mạch đại là chưa dứt, mạch
vi nhược sác là muốn tự chỉ. Tuy phát sốt cũng không chết.

Tóm tắt: Biện về mạch để quyết đoán chứng ỉa chảy nặng hay nhẹ.

Thích nghĩa: Mạch trầm huyền là tà khí bức xuống dưới chủ về đau bụng mót
rặn; mạch đại là tà khí thịnh, bệnh tiến triển, cho nên ỉa chảy chưa dứt. Mạch vi nhược
là tà khí đã suy, mạch sác là chính khí khôi phục dần, là dấu hiệu ỉa chảy sắp khỏi
279
cho nên muốn tự chỉ. Tuy phát sốt mà mạch vi nhược sác cùng xuất hiện là biết tà khí
suy, chính khí sắp hồi phục, cho nên nói “Không chết”.

366. Ỉa chảy, mạch trầm mà trì, mặt người bệnh hơi đỏ, mình có hơi nóng,
ỉa ra toàn nước với cái, tất choáng váng xây xẩm(1) ra mồ hôi mà giải, bệnh nhân
tất có quyết lạnh nhẹ, sở dĩ như thế là do mạch đới dương(2), hạ bộ hư cho nên
thế.

Tóm tắt: Chứng hạ bộ hư đới dương, dương được hồi phục tất từ chứng choáng
váng xây xẩm mà giải.

Thích nghĩa: Ỉa ra toàn nước với cái là dương khí ít âm khí nhiều, mạch trầm
mà trì là hàn nhiều ở trong, dương ít âm nhiều đồng thời lại có chứng mặt hơi phát
đỏ, mình phát sốt nhẹ, đấy là thuộc về chứng hư dương bốc lên gọi là chứng đới
dương, nhưng do các chứng chỉ sốt nhẹ, mặt hơi đỏ thì biết dương khí tuy hư mà chân
dương bốc lên chưa hết còn có thể tiềm tàng ở trong. Khi ấy nếu được khí dương ở
trung tiêu phấn chấn thời chính khí có thể đuổi tà khí, cũng có thể theo mồ hôi mà
giải. Chỉ trước khi ra mồ hôi vì lúc đó dương khí suy kém ở dưới đang tranh nhau với
tà khí tất có xuất hiện các chứng choáng váng xây xẩm, chân tay hơi lạnh đợi đến khi
chính khí thắng được tà khí thì sẽ ra mồ hôi mà giải.

367. Ỉa chảy, mạch sác mà khát nay tự khỏi, giả thiết không khỏi tất đi
ngoài ra máu mủ, vì có nhiệt cho nên thế.

Tóm tắt: Chứng ỉa chảy dương hồi phục tự khỏi với chứng dương hồi phục thái
quá.

Thích nghĩa: Ỉa chảy nếu thuộc về chứng dương khí hồi phục tự khỏi là phải có
hiện tượng mạch sác miệng khát, là dấu hiệu âm hàn đã giải, bệnh tất tự khỏi. Nếu

1
Choáng váng xây xẩm. Nguyên là chữ uất mạo, là chỉ đầu mắt mờ mịt hoặc nhất thời mắt không
trông thấy gì.
2
Đới dương. Mặt đỏ gay như say rượu.
280
mạch sác không giải, khát không khỏi thời là nhiệt khí có thừa, dương hồi phục thái
quá thế tất đốt hại âm lạc mà sinh chứng ỉa ra máu mủ.

368. Ỉa chảy rồi mạch tuyệt, chân tay quyết lạnh, 24 giờ sau mạch đập trở
lại, chân tay ấm là sống, mạch không đập trở lại là chết.

Tóm tắt: Ỉa chảy mạch tuyệt, hễ mạch đập trở lại sống, không đập trở lại là chết.

Thích nghĩa: Bỗng nhiên trúng hàn mà phát sinh ỉa chảy do tân dịch bỗng nhiên
tiết ra nhiều quá dương khí bỗng nhiên thoát đi, cho nên chân tay quyết lạnh, mạch
ẩn phục một thời gian không thấy. Nếu giáp 24 giờ sau dương khí có thể tự nhiên
khôi phục mà thấy mạch đập trở lại, chân tay ấm là sống, nếu mạch vẫn không thấy
đập trở lại chân tay không ấm, là chính khí không hồi phục, dương khí đã thoát tức
là thuộc chứng nguy.

Lời chú chọn lọc. Kha Vận Bá nói: “Chứng này là không nôn không phiền nên
không cần phải phản tá, trong cho uống Bạch thông thang ngoài cứu huyệt Khí hải ở
Đan điền, may ra mới có thể cứu vãn được trong muôn một.

369. Thương hàn ỉa chảy ngày mười mấy lần, mạch lại thấy thực là chết.

Tóm tắt: Chính khí hư tà khí thực là nguy.

Thích nghĩa: Ỉa chảy ngày mười mấy lần là chính khí hư lắm, mạch đáng lý trầm
vi, nhược, nay mạch lại thực là tà khí thực, chính khí hư tà khí thực vị dương tuyệt là
mạch chân tạng hiện ra cho nên là chứng nguy.

370. Ỉa chảy ra toàn nước với cái là hàn ở trong mà nhiệt ở ngoài, đổ mồ
hôi mà quyết lạnh, dùng Thông mạch tứ nghịch thang.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp âm hàn thịnh bên trong bức
dương bốc ra ngoài.

Thích nghĩa: Ỉa chảy ra toàn nước với cái là âm hàn thịnh ở trong; đổ mồ hôi
mà quyết lạnh là chân dương kiệt ở ngoài, như thế lý hàn là thật mà ngoại nhiệt là giả,

281
cho nên nói “Hàn ở trong mà nhiệt ở ngoài”. Trương Linh Thiều nói “Chứng này ở
thiếu âm thì ỉa ra toàn nước với cái, hàn ở trong nhiệt ở ngoài, chân tay quyết lạnh
mạch vi muốn tuyệt mình lại không sợ lạnh, ở quyết âm thì đổ mồ hôi mà quyết lạnh,
đều nên dùng Thông mạch tứ nghịch thang để mở khí sinh dương mà thông mạch làm
chủ”. Có thể tham khảo thiên này với chứng chứng Thông mạch tứ nghịch thang của
thiên Thiếu âm, tuy chứng trạng có khác nhau mà nghĩa lý chỉ là một, đều là chứng
âm thịnh đẩy dương ra, chân hàn giả nhiệt.

371. Kiết lỵ thuộc nhiệt, mót rặn, dùng Bạch đầu ông thang làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh kiết lỵ thuộc nhiệt, mót rặn.

Thích nghĩa: Nói kiết lỵ thuộc nhiệt là phân biệt với kiết lỵ thuộc hàn, mót rặn
là tà trệ ở hạ tiêu, về thuốc thì dùng Bạch đầu ông thang đắng lạnh. Bởi vì người xưa
gọi chữ hạ lợi (Kiết lỵ) là bao quát cả các bệnh đi ỉa với chứng mót rặn mà nói. Chứng
kiết lỵ thuộc nhiệt mót rặn cũng tương tự với chứng kiết lỵ ngày nay, cho nên phương
này cũng có thể chữa được chứng ỉa ra máu và kiết lỵ ngày nay.

Bạch đầu ông thang.

Bạch đầu ông 2 lạng

Hoàng Bá 3 lạng

Hoàng Liên 3 lạng

Trần bì 3 lạng

4 vị trên, nước 7 thăng sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng, không khỏi
lại uống 1 thăng nữa.

Ý nghĩa phương thuốc. Phương này có công năng thanh nhiệt bình can cầm ỉa.
Bạch đầu ông thanh nhiệt hoạt huyết, Hoàng liên, Hoàng bá thanh nhiệt cầm ỉa, Trần
bì thanh nhiệt mát gan là phương thuốc chủ yếu để chữa chứng kiết lỵ thuộc nhiệt,
mót rặn.

282
372. Ỉa chảy bụng trướng đầy mình đau nhức trước ôn lý rồi mới công biểu.
Ôn lý dùng Tứ nghịch thang, công biểu dùng Quế chi thang.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh đi ỉa chảy do hư hàn kiêm biểu chứng.

Thích nghĩa: Ỉa chảy do hư hàn bụng chướng đầy là tỳ dương suy kém không
thể vận hóa cơm nước được, tất ưa ấm, ưa xoa nắn, đồng thời kiêm thấy cả biểu chứng
là mình mẩy đau nhức, nên trước dùng Tứ nghịch thang để làm ấm chứng lý hàn, hàn
lui thì chứng chướng đầy tự hết, đi ỉa chảy tự điều hòa, sau rồi sẽ dùng Quế chi thang
để chữa biểu chứng như mình mẩy đau nhức cùng một trường hợp với điều 93 của
thiên thiếu dương.

373. Đi ỉa muốn uống nước là vì có nhiệt. Dùng Bạch đầu ông thang làm
chủ.

Tóm tắt: Tiếp theo điều 371, biện chứng trạng và cách chữa chứng đi ỉa thuộc
nhiệt.

Thích nghĩa: Khát với không khát là có thể biểu hiện được có lý nhiệt hay không.
Lý có nhiệt là thời miệng tất khát, nếu chứng đi ỉa kiêm có đủ chứng khát muốn uống
nước là lý nhiệt thịnh lắm, bức bách xuống trường vị, chủ yếu là dùng Bạch đầu ông
thang để thanh lý nhiệt thời chứng khát và đi ỉa tự khỏi.

374. Đi ngoài mà nói sảng là có phân táo, nên dùng Tiểu thừa khí thang.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa chứng đi ngoài có phân táo.

Thích nghĩa: Đi ỉa do ư hàn thường kèm có chứng chân tay quyết lạnh hoặc đi
ngoài ra toàn nước với cái, nay đi ỉa mà thấy nói sảng, chủ yếu là có phân táo thời
chứng đi ỉa này là nhiệt kết bàng lưu, nói sảng là do lý có thực nhiệt. Lý có thực nhiệt
thì nên cho hạ, cho nên dùng Tiểu thừa khí thang để hạ thực nhiệt thì đi ngoài tự khỏi.

375. Đi ngoài rồi lại phiền, nắn vào dưới tâm thấy mềm là chứng hư phiền,
nên dùng Chi tử sị thang.

283
Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp sau khi đi ngoài sinh chứng hư
phiền.

Thích nghĩa: Đi ngoài rồi về sau lại sinh chứng phiền, có thể thấy trước khi đi
ỉa, vốn đã có phiền, sau khi ỉa chỉ rồi chứng phiền vẫn không giải, cho nên nói “Lại
phiền”, nắn vào dưới tâm thấy mềm là không có chứng đau nhức, chối nắn đó là dấu
hiệu hư phiền, nên dùng Chi tử sị thang.

376. Người có chứng nôn và có nhọt mủ, không thể chữa chứng nôn, mủ
hết thì tự khỏi.

Tóm tắt: Do nhọt mủ mà gây nên nôn thì không thể chỉ nôn.

Thích nghĩa: Người có bệnh nôn, có khi vì nhiệt, có khi vì hàn, có khi vì nước
đọng, có khi vì mủ đọng, bệnh đã khác nhau thì cách chữa cũng khác. Người có bệnh
nôn nếu vì nhọt mủ mà gây nôn phải nhân cái thế đó mà dẫn cho nó lợi đi, bài trừ hết
mủ, mủ hết thì nôn tự khỏi. Nhất thiết không nên dùng thuốc chỉ nôn mà làm ngăn
trở sự bài xuất của nhọt, gây thêm các biến chứng khác.

377. Nôn mà mạch nhược tiểu tiện lại lợi, mình có sốt nhẹ thấy quyết lạnh
là khó chữa, dùng Tứ nghịch thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh âm thịnh dương hư, nôn xốc.

Thích nghĩa: Nôn mà mạch nhược, nếu thuộc khí thịnh thời tiểu tiện đáng lý
không lợi. Nay tiểu tiện lại lợi đấy là hiện tượng lý hư vị suy. Lý hư mà nôn, nếu
kiêm thấy mình nóng, chân tay quyết lạnh là chứng âm thịnh đẩy dương ra, vị khí lại
suy cho nên nói “Khó chữa”. May mà mình nóng rất ít, chứng âm thịnh đẩy dương ra
không nặng, có thể dùng Tứ nghịch thang để ôn kinh hồi dương.

378. Nôn khan, mửa ra bọt dãi, đau đầu, dùng Ngô thù du thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp trọc âm nghịch lên của bệnh
quyết âm.

284
Thích nghĩa: Nôn khan, mửa ra bọt dãi là do hàn tà ở can vị, hợp với khí trọc
âm nghịch lên mà gây ra, đau đầu phần nhiều đau tại đỉnh đầu là dấu hiệu âm hàn
nghịch lên, cho nên dùng Ngô thù du thang để tán hàn chỉ ẩu, ôn vị giáng nghịch.

Trong sách này thấy có 3 chỗ dùng Ngô thù du thang: một là ở điều 245 của
thiên Dương minh, hai là ở điều 309 của thiên Thiếu âm, ba là ở điều này. Chứng
trạng tuy có khác nhau mà can vị hư hàn trọc âm nghịch lên gây ra thì giống nhau.

379. Nôn mà phát sốt, dùng Tiểu sài hồ thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh Quyết âm chuyển thuộc Thiếu dương.

Thích nghĩa: Quyết âm với thiếu dương là tương quan biểu lý với nhau, nôn mà
phát sốt là tà ở tạng trở ra phù, từ âm mà ra dương bệnh muốn theo kinh thiếu dương
mà giải, cho nên dùng Tiểu sài hồ thang theo kinh thiếu dương mà hòa giải vậy.

380. Thương hàn đã cho thổ mạnh hạ mạnh, hư quá rồi lại cho phát hãn
mạnh nữa làm cho người bệnh thấy bứt rứt khó chịu còn cho uống nước nóng
để cưỡng phát hãn nữa, do đó mà sinh ọe, sở dĩ như thế là vì trong trường vị bị
lạnh.

Thích nghĩa: Bệnh thương hàn đã từng dùng phép thổ phép hạ mạnh để chữa
làm tổn khí trung dương, hư suy đến cực độ, lại cho ra nhiều mồ hôi, đến nỗi trong
hàn ngoài nhiệt tựa hồ như ngoại khí uất tắc không thông. Thầy thuốc nhận lầm là
biểu chứng chưa giải lại cho uống nước để bức cho ra mồ hôi làm cho khí vệ dương
không giữ vững khí trung dương rất hư, khí dương càng tiết ra ngoài thì trường vị
càng hư lạnh, vị khí sắp bại, nhân đó mà hiện ra chứng ọe.

381. Thương hàn ọe mà bụng đầy, xem đại tiểu tiện để biết đằng nào không
lợi làm cho lợi đi thì khỏi.

Tóm tắt: Cách chữa trường hợp ọe và bụng đầy.

Thích nghĩa: Chứng ọe có hư thực khác nhau, hư là vị khí bại, thực là tà khí kết.
Tà khí kết tất bụng đầy. Chứng này là thương hàn ọe mà bụng đầy là chứng tà thực
285
kết ở trong, so với chứng ọe do vị khí sắp bại của điều trên thì không giống nhau cho
nên dùng phép thông lợi làm cho tà có lối thoát, vị khí giáng xuống được thời chứng
ọe ngược tự khỏi. Nếu nhân thủy khí trệ ở trong thời lợi tiểu tiện, nếu tà thực ở trong
thời lợi đại tiện, phải tùy chứng mà chữa. Cho nên nói “Xem đại tiểu tiện để biết đằng
nào không lợi làm cho lợi thì khỏi”.

286
BIỆN VỀ MẠCH, CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH HOẮC LOẠN

Hoắc loạn là một loại bệnh đường ruột phát ra rất dữ dội, vì bỗng nhiên sinh
thượng ẩu hạ tả, chỉ trong chốc lát đã có trạng thái rối loạn lung tung, nên gọi là
“hoắc loạn”. Nguyên nhân là do ăn uống quá độ, hoặc dầm sương cảm thấp, đang
lúc trung khí sẵn hư yếu làm cho cơ năng bình thường của trường vị bị rối loạn,
chất thanh không đưa lên được, chất trọc không lắng xuống được mà sinh ra. Về
bệnh lý mà nói thì các sách Y học cổ điển như Linh khu, Tố vấn, Chư bệnh
nguyên hậu, Thiên kim v.v … đã có ghi chép rõ ràng, về chứng trạng giới thiệu
trong sách này thì không phải chỉ đóng khung vào phạm vi bệnh hoắc loạn ngày
nay, mà trong đó bao gồm các loại bệnh của đường ruột.

382. Hỏi: Bệnh hoắc loạn là thế nào? Đáp: Có chứng thượng ẩu hạ tả (thổ
tả) gọi là hoắc loạn.

Tóm tắt: Chứng chủ yếu của bệnh Hoắc loạn.

Thích nghĩa: Thiên Ngũ loạn sách Linh khu nói: “Thanh khí ở âm phận,
trọc khí ở dương phận, dinh khí thuận với mạch, vệ khí đi ngược, thanh khí và
trọc khí va chạm với nhau, rối loạn trong đường ruột thời phát sinh ra hiện tượng
hoắc loạn” cho nên chứng thượng ẩu hạ tả là chủ chứng của bệnh hoắc loạn. Hoắc
loạn lại có chia ra “can hoắc loạn và thấp hoắc loạn khác nhau, điều này có chứng
thượng ẩu hạ tả là chứng thấp hoắc loạn. Lại có khi không thấy thổ tả mà chỉ có
bụng đầy, phiền loạn, đau quặn, đoản khí, do khí lạnh va chạm trong trường vị
gọi là can hoắc loạn.

Lời chú chọn lọc. Về triệu chứng của bệnh hoắc loạn, sách Chư bệnh nguyên
hậu luận có nói: “Phát ra thời tâm và bụng đau quặn, nếu tâm đau trước thì mửa
trước, bụng đau trước thì ỉa trước, tâm và bụng cùng đau một lúc thì thượng ẩu

287
hạ tả, ghé phong mà thực thì người phát sốt, đau đầu, đau mình mà lại mửa, thuộc
hư thì thổ tả, tâm và bụng đau nhói mà thôi”.
Sách Thiên kim nói “Nguyên bệnh hoắc loạn gây ra là đầu đau như búa bổ,
các khớp xương như rời rã, các gân trong như đều vặn, vọp bẻ (chuột rút), luận
chứng tuy thường, nhưng bệnh lại gấp rút, thật là đáng ghê sợ”.
Trương Ẩn Am nói “Đem thiên Hoắc loạn tiếp vào sau 6 thiên, vì hoắc loạn
là bệnh từ trong ra ngoài còn thương hàn là từ ngoài vào trong”.

383. Hỏi: Bệnh phát sốt, nhức đầu, mình đau, sợ lạnh, thổ tả là thuộc về
bệnh gì? Đáp: Đấy gọi là hoắc loạn, hoắc loạn từ thổ tả rồi hết tả thì lại
càng phát sốt vậy.

Tóm tắt: Hoắc loạn kiêm có biểu chứng.

Thích nghĩa: Bệnh có chứng trạng phát sốt nhức đầu, đau mình, sợ lạnh,
đấy thuộc về biểu chứng, nếu đồng thời kiêm thấy cả thổ tả thì gọi là hoắc loạn.
Duy thương hàn thổ tả tất sau giai đoạn truyền biến; hoắc loạn thổ tả thì khi mới
mắc bệnh đã thấy thổ tả, lấy đấy mà phân biệt, khi tả hết lại phát sốt, đấy là vì
phần trong đã hòa mà phần ngoài chưa giải, tà có cái dịp xuất ngoại vậy.

334. Thương hàn mạch vi sáp vốn là hoắc loạn, nay là thương hàn đã qua
4–5 ngày, tà truyền đến kinh âm chuyền vào âm tất ỉa chảy, vốn đã nôn
và ỉa chảy là không thể chữa được. Người bệnh giống như muốn đi đại
tiện mà lại trung tiện, không ỉa được đấy là thuộc về Dương minh, đại
tiện tất rắn, 13 ngày sau sẽ khỏi, sở dĩ như thế là vì truyền hết kinh. Sau
khi ỉa chảy đáng lý đại tiện rắn, rắn thời ăn được là khỏi, nay lại không
ăn được, truyền đến kinh sau lại ăn được, quá một kinh ăn được rồi lại
quá một ngày nữa là phải khỏi, không khỏi là không thuộc dương minh
vậy.

288
Tóm tắt: Biện về mạch và chứng của hoắc loạn với thương hàn.

Thích nghĩa: Từ câu đầu đến câu “không thể chữa”, nói thương hàn mạch
thấy vi sáp là vì trước đã bị bệnh hoắc loạn, sau khi thổ tả rồi tân dịch bị tổn
thương nặng, máu chảy không lưu lợi, nay lại cảm thương hàn cho nên mạch thấy
vi sáp.
1. Về chứng ỉa chảy ở bệnh thương hàn và hoắc loạn có khác nhau,
thương hàn thụ tà phần nhiều trải qua 4–5 ngày, tà truyền vào âm, mới
thấy ỉa chảy; hoắc loạn thời lúc mới phát đã thấy thổ tả. Cách chữa
hao bệnh ấy không thể nhầm lẫn.
2. Từ câu “giống như muốn đi đại tiện” đến câu “là vì truyền hết kinh”,
nói chuyển thuộc chứng dương minh giống như muốn đi đại tiện mà
lại trung tiện là tà không vào âm mà chuyển thuộc dương minh. Đã
chuyển thuộc dương minh thời đại tiện tất rắn, đến kinh truyền hai chu
kỳ lại quá một ngày tức 13 ngày, kinh truyền hết tất khỏi.
3. Từ câu “Sau khi ỉa chảy” đến câu “không thuộc dương minh”, nói sau
khi ỉa chảy tân dịch tổn thương; nếu lại không ăn được là vị khí yếu,
đến kinh sau lại ăn được, lại quá một kinh ăn được là dấu hiệu vị khí
được khôi phục dần, cho nên nói quá 1 ngày phải khỏi, câu “lại quá 1
ngày” đồng nghĩa với câu “3 ngày bệnh phải khỏi ở trên”. Nếu đến
kinh sau ăn được mà bệnh không khỏi, đấy là không thuộc chứng
dương minh, 13 ngày truyền hết kinh tự khỏi như trên đã bàn.

Nhận xét: Sự bàn luận trong điều này chưa có thể chỉ đạo lâm sàng được
nên tồn nghi chờ khảo cứu.

385. Sợ lạnh mạch vi mà lại ỉa chảy, ỉa chảy hết là mất máu vậy, dùng Tứ
nghịch gia Nhân sâm thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa chứng dương hư thoát hết tân dịch.

289
Thích nghĩa: Bệnh hoắc loạn đã hết nhưng sợ lạnh, mạch vi, là dương khí
đã hư, nhân đó mà sinh ỉa chảy nữa là âm dịch lại bị đoạt. Nay ỉa chảy tự hết
không phải là dương khí hồi phục mà là không còn gì để ỉa chảy nữa cho nên hết
ỉa. Vì thế nói “mất máu”, dùng Tứ nghịch tán gia Nhân sâm thang để hồi dương
kiêm sinh tân dưỡng huyết.

Tứ nghịch gia Nhân sâm thang

Chích thảo 2 lạng

Phụ tử 1 củ (dùng sống, gọt bỏ vỏ, xẻ làm 8 miếng).

Can khương 1,5 lạng

Nhân sâm 1 lạng

4 vị trên, nước 3 thăng, sắc lấy 1 thăng 2 cáp, lọc bỏ bã chia uống ấm 2 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Dùng Tứ nghịch để hồi dương cố thoát gia Nhân
sâm để sinh tân dưỡng huyết, phương này là thuốc hồi dương cứu âm.

386. Hoắc loạn đau đầu, phát sốt, mình đau nhức, nóng nhiều, muốn uống
nước, dùng Ngũ linh tán mà chữa, lạnh nhiều không uống nước dùng Lý
trung hoàn thang làm chủ.

Tóm tắt: Biện chứng trạng và cách chữa bệnh hoắc loạn biểu lý hàn nhiệt
khác nhau.

Thích nghĩa: bệnh hoắc loạn lúc biểu chứng hãy còn như đau đầu phát sốt,
mình đau nhức, nên phân ra biểu lý hàn nhiệt phân biệt để chữa, nếu thấy nóng
nhiều mà muốn uống nước thì dùng Ngũ linh tán để ôn dương hóa khí mà kiêm
hòa biểu, nếu thấy chứng lạnh bên trong nhiều mà không muốn uống nước thì
dùng Lý trung hoàn để làm ấm bên trong bổ hư mà chặn thổ tả.

Lý trung hoàn

290
Nhân sâm

Can khương Đều 3 lạng

Bạch truật

Chích thảo

4 vị trên, giã rây nhỏ luyện mất làm viên bằng lòng đỏ trứng gà, dùng vài
cáp nước sôi hòa 1 hoàn, nghiền nát cho uống ấm, ngày uống ba lần, tối uống hai
lần. Trong bụng chưa nóng thì uống thêm đến 3-4 hòa, nhưng sức thuốc hoàn
không bằng thuốc thang.

Cách làm thuốc thang: Dùng 4 vị, phân lượng y như trên, thái mỏng, nước
8 thăng sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bã, uống ấm 1 thăng, ngày uống ba lần. Nếu trên
rốn có thận khí động, bỏ Truật gia Quế 4 lạng, mửa nhiều gia Sinh khương 3 lạng,
ỉa nhiều lại dùng Truật, hồi hộp gia Phục linh 2 lạng, khát muốn uống nước gia
Truật lên 4–5 lạng, đau bụng gia Nhân sâm lên thành 4–5 lạng, lạnh gia Can
khương lên thành 4–5 lạng, đầy bụng bỏ Truật gia Phụ tử 1 củ. Uống thuốc xong,
khoảng ăn xong một bữa cơm thì húp hơn 1 thìa thăng cháo nóng, tự thấy hơi ấm,
chớ cởi áo bỏ chăn.

Ý nghĩa phương thuốc: Nhân sâm, Bạch truật, Chích thảo bổ trung ích tỳ vị.
Can khương ôn trung tán hàn, là một phương thuốc hay để ôn bổ tỳ dương.

Cách gia giảm.

1. Trên rốn có khí động là thận hư thủy khí xông lên, bỏ Truật là vật ủng
trệ, gia Quế vào dễ hạ cái khí xung nghịch ấy.
2. Mửa nhiều là do khí nghịch, vẫn bỏ Truật là vật ủng trệ khí, gia Sinh
khương để chữa nôn mửa.
3. Ỉa chảy nặng là do thủy thấp thiên thắng mà dồn xuống cho nên dùng
Bạch truật để trợ tỳ thắng thấp.
4. Tim hồi hộp là thủy khí lấn tâm, gia Phục linh ngọt nhạt để lợi thủy.

291
5. Khát muốn uống nước là tỳ không tán được tân dịch, thủy ẩm đọng lại,
khác với chứng do tổn thương tân dịch mà ráo khát, cho nên gia nhiều
Bạch truật để bồi thổ chế thủy, kiện tỳ, vận hành thấp trệ.
6. Đau bụng là do lý hư mà đau, tất ưa nắn, cho nên gia nhiều Nhân sâm
để bổ trung ích khí.
7. Lý hàn dữ lắm, nên gia nhiều Can khương để ôn trung tán hàn.
8. Bụng đầy là dương hư mà hàn ngưng đọng lại, cho nên bỏ Bạch truật
là vật bổ mà nê trệ, gia Phụ tử cay nóng để trợ dương làm tan khí ủng
trệ.
9. Uống rồi ăn cháo nóng để giúp sức thuốc mà ôn bổ khí trung tạng.

387. Thổ tả hết mà đau mình không hết, nên châm chước hòa giải bên
ngoài, nên dùng Quế chi thang uống ít ít một để điều hòa.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp lý chứng hòa mà biểu chứng
chưa giải.

Thích nghĩa: Thổ tả đều hết là chủ chứng của hoắc loạn đã lui, bệnh sắp
khỏi, chỉ chứng đau mình không hết là lý chứng hòa mà biểu chứng chưa giải,
dùng Quế chi thang cho uống ít ít một để hòa vinh vệ, ngoại chứng giải được thì
chứng đau mình tự khỏi.

388. Thổ tả ra mồ hôi, phát sốt sợ lạnh, chân tay co rút ( 1)quyết lạnh,
dùng Tứ nghịch thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh thổ tả ra mồ hôi vong dương.

Giải thích từ khó:


(1 ) Co rút. nguyên văn là “câu cấp” tức là co rút căng thẳng, đời sau gọi là chuyển
gân (chuột rút - vọp bẻ).

292
Thích nghĩa: Hoắc loạn thổ tả là đã vong dương lại gây nên thoát thủy khi
ấy dương khí bốc ra mà phát sốt, dinh âm không cố thủ thì đổ mồ hôi, dương khí
hư thời sợ lạnh, chân tay giá lạnh, chất âm dịch thoát thời gân mạch mất sự nhu
dưỡng, cho nên dùng Tứ nghịch thang để trục hàn, hồi dương, dương hồi được
thì chất âm dịch tự trở lại.

389. Đã thổ lại tả, tiểu tiện lại lợi mà mồ hôi ra nhiều, ỉa ra toàn nước với
cái. Bên trong lạnh bên ngoài nóng, mạch vi muốn tuyệt, dùng Tứ nghịch
thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp thổ tả rồi bên trong lạnh bên
ngoài nóng.

Thích nghĩa: Đã thổ lại tả, tiểu tiện lại lợi là dấu hiệu âm dương đều mất,
âm hàn thịnh ở trong thời ỉa ra toàn nước với cái, dương khí bốc lên mà mồ hôi
ra nhiều, cho nên nói: “bên trong lạnh bên ngoài nóng”. Lạnh bên trong là chân
hàn, nóng bên ngoài là giả nhiệt. Khi ấy mạch vi muốn tuyệt là âm huyết sắp mất,
nguyên dương lại hư, âm dương đều hư, việc hồi dương là cần kíp, cho nên dùng
Tứ nghịch thang làm chủ trị.

Điều này sánh với bệnh trạng của điều 387 thì cũng thuộc vong dương như
nhau, nhưng thế bệnh lại nặng hơn, nếu Tứ nghịch thang thì không thể hạ được
cái thế ấy. Có thể dùng Thông mạch tứ nghịch tán để cứu chữa.

390. Hết thổ tả, đổ mồ hôi mà chứng quyết lạnh, chân tay co quắp không
giảm, mạch vi muốn tuyệt, dùng Thông mạch Tứ nghịch thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp âm kiệt dương vong.

Thích nghĩa: Hết thổ tả không phải dấu hiệu lành dương hồi phục, mà là
không có gì để thổ, để tả nữa cho nên phải biết là chúng rất nguy, dương khí âm
dịch đều kiệt hết. Do dương khí thoát ra ngoài cho nên đổ mồ hôi mà quyết lạnh,
âm dịch sắp hết cho nên mạch vi muốn tuyệt. Nếu chỉ dùng Tứ nghịch thang để
ôn vận khởi dương còn sợ không đủ, cho nên kíp dùng Thông mạch tứ nghịch
293
gia Trư đởm trấp thang để mở đường cho khí dương sinh ở hạ tiêu, bổ thêm tân
dịch đã bị kiệt hết.

Thông mạch tứ nghịch gia trư đởm trấp thang

Chích thảo 2 lạng

Can khương 3 lạng (người khỏe có thể dùng 4)

Phụ tử to củ 1 củ (dùng sống, gạt bỏ vỏ, xẻ làm 8 miếng)

Nước mật lợn ½ cáp

Bốn vị trên, nước 3 thăng sắc còn một thăng 2 cáp, lọc bỏ bã giã nước mật
lợn vào, chia uống ấm 2 lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là Tứ nghịch thang bội Can khương lên
để hồi, giã nước mật lợn để ích âm, cùng góp sức đạt được công năng hồi dương
phục âm.

391. Thổ tả đổ mồ hôi, mạch bình 1, hơi phiền bởi vì vừa mới hư không
chịu nổi cốc khí cho nên thế.

Tóm tắt: Bệnh mới khỏi tỳ vị hư, nên chú ý điều tiết ăn uống.

Thích nghĩa: Sau khi thổ tả đổ mồ hôi mà mạch trở lại bình thường là đại tà đã
lui, âm dương điều hòa, tân dịch đã khôi phục là dấu hiệu bệnh sắp khỏi. Vẫn còn
cảm giác hơi phiền do bệnh mới khỏi, vừa mới hư, tỳ vị còn yếu lại vội ăn nhiều còn
chưa tiêu được. Phải điều tiết ăn uống hoặc cho uống thuốc bổ trợ tiêu hóa thích đáng
thời chứng hơi phiền tự giải.

(1) Mạch bình tức là mạch chuyển điều hòa.


294
BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH ÂM DƯƠNG DỊCH1
BỆNH LAO PHỤC SAU KHI KHỎI

Bệnh nặng mới khỏi, khí huyết còn hư, thể lực chưa hồi phục, tất phải thận
trọng trong việc làm lụng nghỉ ngơi, tiết chế việc ăn uống để đề phòng bệnh tái
phát. Bệnh khỏi rồi, có khi vì làm lụng mệt nhọc quá mà trở lại, gọi là lao phục;
có khi vì ăn mà trở lại gọi là thực phục. Chứ như các thứ bệnh khác sau khi mới
khỏi, về phương pháp chữa nên căn cứ hàn nhiệt hư thực của hiện chứng để dùng
các phép ôn thanh bổ tả, phù chính khu tà, vẫn phải chiếu cố đến cả. Chương này
nằm cuối sách Thương hàn luận là có ý vạch cho người ta biết sau khi khỏi bệnh
cần chú ý điều dưỡng, không được coi thường.

392. Thương hàn âm dương dịch gây ra bệnh, người bệnh mình mẩy nặng
nề, kém hơi, bụng dưới đau gò, hoặc ran đến bộ sinh dục co thắt nóng
xông lên ngực, đầu nặng không muốn cất lên, hoa mắt, chân gối co quắp,
dùng Thiêu côn tán làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa bệnh âm dương dịch.

Thích nghĩa: Bệnh âm dương dịch là chứng trạng mà nam nữ lúc có bệnh
thương hàn sắp khỏi, dư tà chưa hết, vì nhập phòng mà xuất hiện chứng ấy. Về
chứng phần nhiều thuộc hiện tượng tân dịch kèm hỏa bốc. Còn sự ứng dụng
phương vào bệnh này thì vì chưa có kinh nghiệm lâm sàng, cần lưu lại để chờ
nghiên cứu thêm.

Lời chú chọn lọc: Thương Ẩn Am nói: “Gây nên bệnh là hình khí đều hư,
cho nên mình mẩy nặng mà kém khí, đoản hơi, độc tà còn nhập vào bộ sinh dục
nên bụng dưới đau gò hay ran đến bộ sinh dục co thắt. Nóng xông lên ngực là

Giải thích chữ khó:


1
Âm dương dịch: Tức phạm phòng.
295
mạch xung gây bệnh. Đầu nặng không muốn cất lên là mạch đốc gây ra, hoa mắt
là mạch nhâm gây ra, cho nên dùng Thiêu côn tán mà chữa.

Thiêu côn tán

Đũng quần (Đáy quần) đàn bà lấy gần chỗ kín đem đốt ra tro. Chỉ 1 vị trên,
uống với 1 thìa nước, ngày uống 3 lần. Đàn bà bị bệnh thì lấy đũng quần đàn ông
đốt uống.

393. Đàn ông mới khỏi, vì làm lụng mệt nhọc quá mà bệnh tái phát dùng
Chỉ thực chi tử sị thang làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa bệnh lao phục sau khi khỏi bệnh.

Thích nghĩa: Bệnh nặng mới khỏi sốt chưa hết, khí huyết chưa hồi phục, do
làm lụng quá sức mà lại phát sốt, gọi là lao phục, có thể dùng Chỉ thực Chi tử sị
thang để thanh nhiệt điều lý trung khí.

Điều này tuy chưa nói chứng, nhưng lấy phương để lường chứng hoặc có
các chứng hư phiền và ngực bụng đầy,

Chỉ thực chi tử sị thang

Chỉ thực 3 quả (nướng)

Chi tử 14 quả (xẻ ra)

Hương sị 1 thăng (bọc vải lụa)

Ba vị trên dùng Thanh tương thủy ( 1) 7 thăng, nấu riêng lấy 4 thăng rồi cho
Chỉ thực Chi tử vào sắc lấy 2 thăng, cho đậu sị vào, lại sắc sôi 5 – 6 dạo, chia

(1) Thanh tương thủy. Ngô Nghi Lạc nói: Một tên nữa Toan tương thủy: gạo nếp thổi chín cho vào
nước lạnh ngâm 5–6 ngày, vị chua, lên men, mầu sắc giống như tương nên gọi thế. Nếu ngâm đến
cơm nát hết thì dùng sẽ có hại. Tính mát, hay chạy, hay điều trung tuyên không khí, thông quan
khai vị, giải phiền khát, hóa trệ vật.
296
uống ấm hai lần. Đắp chăn cho hơi ra mồ hôi. Nếu có đồ ăn cũ còn lại không tiêu
thì cho Đại hoàng bằng quân cờ vào 5–6 cái, uống là khỏi.

Ý nghĩa phương thuốc: Chỉ thực làm khoan khoái trung tiêu, hành khí; Chi
tử thanh nhiệt trừ phiền; Hương sị thấu tà tán nhiệt, Thanh tương thủy nấu thuốc
là lấy cái tính mát hay chạy hay điều hòa trung tiêu để trợ vị khí. Nếu kiêm có
đồ ăn cũ không tiêu đình trệ lại gia Đại hoàng để tẩy rửa đường ruột, trừ cái cũ
sinh cái mới. Phương này thanh nhiệt giải tà dùng cho bệnh lao phục sau khi
bệnh nặng mới khỏi là phép khu tà phù chính.

394. Thương hàn mới khỏi lại phát sốt, dùng Tiểu sài hồ thang làm chủ.
Mạch phù thì dùng phép phát hãn để giải, mạch trầm thực thì dùng phép
hạ để giải.

Tóm tắt: Biện về chứng trạng và cách chữa trường hợp bệnh khỏi rồi lại
phát sốt.

Thích nghĩa: Thương hàn mới khỏi lại phát sốt là nhiệt tà chưa hết, nên cho
dùng Tiểu sài hồ thang để hòa giải. Nếu mạch phù là nhiệt ở biểu có thể phát hãn
để giải; nếu mạch trầm thực là nhiệt còn lại ở lý có thể dùng phép hạ để giải.
Nhưng bệnh thuộc về loại mới hư khi mới khỏi thì dùng phép hãn hoặc hạ nên
nhẹ mà không quá mạnh. Đấy là bảo người ta khi dùng các phép hãn, hạ, hòa giải
có thể tùy chứng mà xử lý cho thích đáng.

Lời chú chọn lọc: Chu Quăng nói : “Mạch phù, dùng phép hãn để giải, nên
dùng Sài hồ quế chi thang; mạch thực dùng phép hạ để giải nên dùng Đại Sài hồ
thang.”

395. Bệnh nặng mới khỏi, từ eo lưng trở xuống có thủy khí, dùng Mẫu lệ
trạch tả tán làm chủ.

Tóm tắt: Cách chữa trường hợp bệnh khỏi rồi từ eo lưng trở xuống có thủy
khí.

297
Thích nghĩa: Bệnh nặng khỏi rồi, nếu khí hóa ở hạ tiêu thất thường, thấp
nhiệt ủng trệ, bàng quang không tả ra được cho nên từ eo lưng trở xuống đọng
nước thành phù thũng. Đấy là thuộc tả hữu dư mạch tất trầm sác hữu lực, chứng
tất đại tiểu tiện không lợi, phương có thể dùng loại thuốc “bài huyết trục thủy”.
Nếu thuộc tỳ hư không vận hóa, hoặc thận hư có hàn, không thể chế ngự được
thủy mà sinh thũng thời không thể dùng bài này được.

Mẫu lệ trạch tả tán

Mẫu lệ (nướng)

Trạch tả

Thục tất ( rửa nước nóng để khử mùi tanh)


Đều bằng nhau
Đình lịch tử (sao)

Thương lục căn (sao)

Hải tảo ( rửa sạch hết vị mặn)

Qua lâu căn

7 vị trên, giã riêng, rây lấy bột, lại cho vào cối mà giã, hòa nước đun sôi
mỗi lần uống một thìa, ngày uống ba lần. Tiểu tiện lợi thì thôi, không uống lần
sau.

Ý nghĩa phương thuốc. Mẫu lệ làm mềm chất rắn, hành thủy, Trạch tả thẩm
thấp lợi thủy, Thục tất khu đờm trục thủy, Đình lịch tuyên phế tiết thủy, Thương
lục, Hải tảo chuyên về nhuận hạ, hành thủy. Các vị cùng làm cho thủy tà theo
tiểu tiện mà bài xuất. Qua lâu căn chỉ khát sinh tân dịch là vị phản tá của phương
này làm cho thủy tà lui mà tân dịch không bị tổn thương.

396. Bệnh nặng khỏi rồi mà hay nhổ, lâu ngày không khỏi là trong ngực
có hàn, nên dùng thuốc hoàn để làm cho ấm, dùng Lý trung hoàn.
298
Tóm tắt: Cách chữa bệnh nặng khỏi rồi, vì hư hàn mà hay nhổ.

Thích nghĩa: Đây là bệnh nặng khỏi rồi, tuy bệnh đã khỏi, chỉ có chứng hay
nhổ, lâu ngày không khỏi là do tỳ vị hư hàn, hàn ẩm không hóa được, gây nên
trên ngực có hàn, vật nhổ ra tất là trong loãng, miệng tất không khát, tiểu tiện
trong trắng, cho nên dùng Lý trung hoàn để ôn trung bổ thổ, vì bệnh lâu ngày
cho nên phải dùng thuốc hoàn làm cho dược lực hòa hoãn, ngày uống 3–4 lần để
hóa dần dần thời khí trung dương kiện vận, ngực lạnh hết thời chứng hay nhổ tự
khỏi

397. Thương hàn khỏi rồi người gầy yếu, kém hơi, khí nghịch muốn
mửa, dùng Trúc diệp thạch cao thang làm chủ.

Tóm tắt: Chứng trạng và cách chữa trường hợp thương hàn khỏi rồi mà sốt
chưa hết.

Thích nghĩa: Bệnh thương hàn khỏi rồi, chứng thấy gầy yếu, kém hơi, khí
nghịch lên muốn mửa là sau khi bệnh khỏi, nguyên khí bị tổn thương, tân dịch
không đủ, kiêm có dư nhiệt, cho nên dùng Trúc diệp Thạch cao thang làm chủ
trị.

Trúc diệp thạch cao thang.

Trúc diệp 2 nắm

Thạch cao 1 cân

Bán hạ ½ cân (tẩy)

Mạch môn đông 2 thăng (bỏ ruột)

Nhân sâm 2 lạng

Chích thảo 2 lạng

Gạo tẻ ½ thăng.
299
Bảy vị trên, nước 1 đấu, sắc còn 6 thăng, lọc bỏ bã, cho gạo tẻ vào, nấu gạo
chín là vừa, bỏ gạo, uống ấm mỗi lần 1 thăng, ngày uống ba lần.

Ý nghĩa phương thuốc: Phương này là Bạch hổ Nhân sâm thang gia giảm mà nên.
Trong phương dùng Trúc diệp, Thạch cao để thanh nhiệt, trừ phiền, Nhân sâm,
Cam thảo ích khí sinh tân dịch, Mạch môn đông, Gạo tẻ tư dưỡng vị dịch, Bán
hạ giáng khí nghịch, sau khi bệnh này khỏi, hư mà có sốt, phương này hay sinh
tân ích khí, thanh nhiệt dưỡng âm thì chứng trên tự khỏi.

398.Bệnh nhân mạch đã giải mà chiều tối hơi phiền, là vì bệnh mới khỏi,
người nhà lại ép cho ăn cơm, tỳ khí còn yếu không thể tiêu hóa cơm nước
cho nên sinh hơi phiền, giảm lượng ăn thì khỏi .

Tóm tắt: Bệnh khỏi rồi phải chú ý điều tiết vấn đề ăn uống.

Thích nghĩa: bệnh nhân nói chung là người bệnh, mạch đã giải là nói bệnh
đã khỏi, còn thấy chứng chiều tối hơi phiền đấy là do bệnh vừa mới khỏi, chính
khí chưa hồi phục, ép cho ăn, tỳ vị hư yếu không tiêu cơm được cho nên hơi
phiền. Chỉ nên giảm lượng ăn đi thì chứng hơi phiền tự khỏi.

Lời chú chọn lọc. Vương Vũ Thái nói: “Phàm bệnh mới khỏi chỉ nên trước cho
ăn cháo loãng, sau rồi ăn cháo đặc dần dần sẽ cho ăn cơm nhão, cũng nên cho ăn
ít ít một, thường nên ăn lưng lửng, không nên tự ý ăn no quá. Các thứ thịt đều
kiêng hẳn” .

300
HƯỚNG DẪN TÌM CÁC PHƯƠNG THANG

TRONG THƯƠNG HÀN LUẬN

B Trang
Bạch đầu ông thang 282
Bạch hổ thang 173
Bạch hổ gia Nhân sâm thang 53
Bạch thông thang 250
Bạch thông gia Trư đởm trấp thang 251
Bán hạ tả tâm thang 152
Bán hạ tán và thang 249
C
Cam thảo thang 247
Cam thảo Can khương thang 58
Cam thảo Phụ tử thang 172
Cam thảo tả tâm thang 159
Can khương Hoàng câm Hoàng liên Nhân sâm thang 277
Can khương Phụ tử thang 82
Cát căn thang 61
Cát căn gia Bán hạ thang 63
Cát căn Hoàng cầm Hoàng liên thang 64
Cát cánh thang 248
Chân vũ thang 100
Chích cam thảo thang 174
Chi tử Cam thảo sị thang 96
Chi tử Can khương thang 99
Chi tử bá bì thang 219
Chi tử Hậu phác thang 98
Chi tử Sinh khương sị thang 96
Chi tử sị thang 96
Chỉ thực Chi tử sị thang 296
Đ
Đại hãm hung thang 139
Đại hãm hung hoàn 136
Đại hoàng Hoàng liên tả tâm thang 156
Đại Sài hồ thang 113
Đại thanh long thang 67
Đại thừa khí thang 191
Đào hoa thang 245
Để đương thang 131
Để đương hoàn 132
301
Điều vị thừa khí thang 59
Đương quy tứ nghịch thang 272
Đương quy tứ nghịch gia Ngô thù du Sinh khương thang 272
H
Hậu phác Sinh khương Bán hạ Cam thảo Nhân sâm thang 87
Hoàng cầm thang 168
Hoàng liên thang 169
Hoàng liên A giao thang 242
K
Khổ tửu thang 248
Khử quế gia Bạch truật thang 171
L
Lý trung hoàn và thang 290
M
Ma hoàng thang 65
Ma hoàng thăng ma thang 275
Ma hoàng Hạnh nhân Cam thảo Thạch cao thang 84
Ma hoàng Phụ tử Cam thảo thang 241
Ma hoàng Liên kiều Xích tiểu đậu thang 220
Ma hoàng Tế tân Phụ tử thang 141
Ma tử nhân hoàn 212
Mật tiễn đạo phương 205
Mẫu lệ trạch tả tán 298
N
Nhân trần cao thang 206
Ngô thù du thang 209
Ngũ linh tán 92
O
Ô mai hoàn 265
P
Phục linh Cam thảo thang 93
Phục linh Quế chi Cam thảo Đại táo thang 86
Phục linh quế chi Bạch truật Cam thảo thang 89
Phục linh tứ nghịch thang 90
Phụ tử thang 244
Phụ tử tả tâm thang 157
Q
Qua đế tán 165
Quế chi cam thảo thang 85
Quế chi Cam thảo Long cốt Mẫu lệ thang 127
Quế chi thang 41
Quế chi gia Đại hoàng thang 229
302
Quế chi gia Thược dược thang 229
Quế chi gia Thược dược Sinh khương các nhất lạng Nhân sâm tam lạng 82
tân gia thang
Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang 46
Quế chi gia Quế thang 126
Quế chi gia Phụ tử thang 48
Quế chi gia cát căn thang 43
Quế chi khử Quế gia Phục linh Bạch truật thang 56
Quế chi khử Thược dược thang 49
Quế chi khử Thược dược gia Phụ tử thang 49
Quế chi khử Thược dược gia Thục tất Mẫu lệ Long cốt cứu nghịch thang 122
Quế chi Ma hoàng các bán thang 51
Quế chi Nhân sâm thang 163
Quế chi nhị Ma Hoàng nhất thang 52
Quế chi nhị Việt tỳ nhất thang 55
Quế chi Phụ tử thang 170
S
Sài hồ gia Long cốt Mẫu lệ thang 117
Sài hồ gia mang tiêu thang 115
Sài hồ Quế chi thang 147
Sài hồ Quế chi Can khương thang 148
Sinh khương tả tâm thang 158
T
Tam vật tiểu bạch tán 144
Tiểu hãm hung thang 141
Tiểu kiến trung thang 111
Tiểu sài hồ thang 107
Tiểu thanh long thang 70
Tiểu thừa khí thang 191
Toàn phúc đại giả thang 162
Tứ nghịch tán 254
Tứ nghịch thang 59
Tứ nghịch gia nhân sâm thang 290
Thập táo thang 154
Thổ qua căn phương 205
Thông mạch tứ nghịch thang 253
Thông mạch tứ nghịch gia Trư đởm trấp thang 294
Thược dược cam thảo thang 58
Thược dược cam thảo phụ tử thang 89
Trúc diệp thạch cao thang 299
Trư đởm trắc phương 205
Trư linh thang 200
Trư phụ thang 247

303
Mục lục

THUYẾT MINH VỀ ĐÍNH CHÍNH VÀ TÁI BẢN TÀI LIỆU GIẢNG DẠY THÍ ĐIỂM CỦA
HỌC VIỆN TRUNG Y .................................................................................................................... 1
KHÁI LUẬN..................................................................................................................................... 5
I. HÀM NGHĨA CỦA THƯƠNG HÀN ............................................................................. 5
II. KHÁI NIỆM VỀ LỤC KINH TRONG THƯƠNG HÀN LUẬN. ................................ 6
1. Quan hệ giữa lục kinh với tạng phủ kinh lạc. ................................................................ 7
2. Cơ chế phát bệnh của lục kinh. ....................................................................................... 8
3. Quan hệ giữa lục kinh với bát cương ............................................................................. 9
4. Sự truyền biến, hợp bệnh, tính bệnh của lục kinh. ..................................................... 11
III. CHỨNG BỆNH CỦA LỤC KINH ............................................................................... 13
1. Chứng bệnh Thái dương.................................................................................................... 13
2. Bệnh chứng Dương minh................................................................................................... 16
3. Chứng bệnh Thiếu dương.................................................................................................. 19
4. Bệnh chứng Thái âm. ......................................................................................................... 21
5. Bệnh chứng quyết âm ........................................................................................................ 23
6. Chứng bệnh Thiếu âm. ...................................................................................................... 27
IV – BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ TRONG THƯƠNG HÀN LUẬN .......................................... 30
1. Dựa theo chủ chứng của các kinh để biện chứng ............................................................ 30
2. Dựa theo sự phát triển và diễn biến của bệnh để biện chứng. ....................................... 31
BỆNH VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THÁI DƯƠNG .................................. 33
BIỆN VỀ MẠCH, CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THÁI DƯƠNG .................................. 61
BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THÁI DƯƠNG ................................. 133
BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH DƯƠNG MINH ................................ 177
BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THIẾU DƯƠNG ............................... 222
BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THÁI ÂM .......................................... 226
BIỆN VỀ MẠCH, CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH THIẾU ÂM ...................................... 231
BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH QUYẾT ÂM ...................................... 258
BIỆN VỀ MẠCH, CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH HOẮC LOẠN ............................. 287
BIỆN VỀ MẠCH CHỨNG VÀ CÁCH CHỮA BỆNH ÂM DƯƠNG DỊCH BỆNH LAO
PHỤC SAU KHI KHỎI ............................................................................................................. 295

304
Biên tập:

Nhóm Thương hàn luận K8A – Học viện y dược học cổ truyền Việt Nam

305
BÀI GIẢNG THƯƠNG HÀN
(Thương Hàn Luận Giảng Nghĩa)

NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC VÀ THỂ DỤC THỂ


THAO
In 1.050 cuốn tại Liên xưởng in Minh Sang Hà
Nội. Số xuất bản Số in 135SH -Khổ 19x27.
Hoàn thành tháng 2-1968. Gửi lưu chiểu tháng
2 năm 1968.

306

You might also like