Professional Documents
Culture Documents
GDQP- BẢN ĐÃ CHỈNH
GDQP- BẢN ĐÃ CHỈNH
- Không những tiến công địch trên mặt trận quân sự mà ta còn tiến công trên mặt
trên chính trị, kinh tế,... Đặc biệt nhất qua những cuộc chiến thì việc đánh vào lòng
người là vô cùng quan trọng, khoét sâu chỗ yếu của địch để “kiên quyết không
ngừng thế tiến công”, tiến công địch vào đúng thời cơ, địa điểm thích hợp cho họ
thấy được sự vô nghĩa của chiến tranh, góp phần thay đổi cục diện chiến tranh có
lợi cho ta.
4. Quán triệt tư tưởng lấy ít đánh nhiều, biết tập trung ưu thế lực lượng
cần thiết để đánh thắng địch:
- Đây là nét đặc sắc và tất yếu trong nghệ thuật quân sự của ông cha ta khi đối đầu
với kẻ địch mạnh
- Để chống lại 30 vạn quân xâm lược Tống (1077), nhà Lí trong khi chỉ có khoảng
10 vạn quân, Lí Thường Kiệt đã tận dụng được ưu thế địa hình và các yếu tố khác
để tạo ra sức mạnh hơn địch và đánh thắng địch.
- Thời nhà Trần có khoảng 15 vạn quân, chống lại giặc Nguyên -Mông, lần thứ 2 là
60 vạn, lần 3 là khoảng 50 vạn. Nhà Trần đã "lấy đoản binh để chế trường trận",
hạn chế sức mạnh của giặc, để đánh thắng giặc.
- Cuộc khởi nghĩa của Lam Sơn, quân số lúc cao nhất có khoảng 10 vạn, đã đánh
thắng 80 vạn quân Minh xâm lược. Vì Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã vận dụng "tránh thế
ban mai, đánh lúc chiều tà" và vận dụng cách đánh "vây thành để diệt viện".
- Nhà Tây Sơn có khoảng 10 vạn quân, nhưng đã đánh thắng 29 vạn quân xâm lược
và quân bán nước Lê Chiêu Thống vì Nguyễn Huệ đã dùng lối đánh táo bạo, thần
tốc, bất ngờ.
- “Trùng độc chiến” và “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn” (của tướng Vương
Thừa Vũ)
- Bằng một lực lượng vũ trang non trẻ đã chiến đấu thắng lợi, tiêu diệt một bộ phận
sinh lực địch, giam chân đội quân chính quy đông khoảng 6500 binh sĩ của Pháp
trong thành phố suốt 60 ngày đêm (gấp đôi thời gian quy định), với cuộc rút lui
thần kỳ của Trung đoàn Thủ đô, đã tạo điều kiện cho cả nước triển khai chiến lược
trường kỳ kháng chiến cho đến ngày toàn thắng.
5. Kết hợp tiêu hao, tiêu diệt địch với bảo vệ vững chắc các mục tiêu:
- Mỗi trận đánh, mỗi chiến dịch đều có những mục đích cụ thể khác nhau, nhưng
mục đích chung nhất của mọi hoạt động tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc là tiêu diệt sinh lực địch phải đi đôi với bảo vệ vững chắc mục tiêu. Muốn
giành thắng lợi triệt để trong chiến tranh, chúng ta phải kết hợp tiêu hao sinh lực
với tiêu diệt địch ồ ạt. Sự tiêu hao trên diện rộng bằng các đòn đánh vừa và nhỏ
của chiến tranh nhân dân địa phương sẽ tạo điều kiện cho việc tác chiến tập trung
bằng các binh đoàn chủ lực, tiến công lớn, tiêu diệt binh lực địch. Đi đôi với tiêu
hao sinh lực địch, chúng ta phải bảo vệ vững chắc mục tiêu của mình, đó là vấn đề
quy tắc của chúng ta trong Quân giải phóng nhân dân để bảo vệ Tổ quốc.
Hình 3. Hình ảnh trong chiến dịch Hòa Bình- Tiêu diệt "con mắt" của địch
Vận dụng:
- Hiện nay trong thời kỳ thời đại mới, thời đại tuy hòa bình vẫn còn nhưng chiến
tranh ngầm, “chiến tranh lạnh” giữa các nước vẫn đang âm thầm diễn ra, vì vậy ta
cần phải luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, chống lại chiến tranh và bảo vệ Tổ
quốc.
- Đấu tranh ngày nay không còn chỉ về mặt quân sự mà còn ở nhiều lĩnh vực khác
đặc biệt là công nghệ và kinh tế. Vì vậy, năng động sáng tạo, luôn luôn học hỏi
tìm tòi là điều cần thiết.
- Luôn cảnh giác với những âm mưu của các thế lực thù địch đang âm mưu xâm
lược nước ta một lần nữa.
- Trau dồi những kiến thức, kỹ năng về an ninh quốc phòng, quan tâm đến chính trị,
tình hình xung quanh khu vực sinh sống, xã hội.
- Đoàn kết, thân ái, yêu thương lẫn nhau, yêu thương quê hương tổ quốc.
Câu 2: Trình bày các hiểu biết của mình về cội nguồn 54 dân
tộc Việt Nam?
CỘI NGUỒN:
- Lời Bác Hồ đã căn dặn trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số: “Đồng bào Kinh
hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai, Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc
thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống
chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết
góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự chủ của chúng ta”.
- 54 dân tộc Việt Nam được xếp theo 3 ngữ hệ và 8 nhóm ngôn ngữ: Việt – Mường,
Tày - Thái, Mông - Dao, Ka Đai, Tạng Miến, Khơ-me, Nam Đảo, Hán.
Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc: Kinh, Mường, Thổ, Chứt.
Nhóm ngôn ngữ Tày - Thái có 8 dân tộc: Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự,
Sán Chay, Bố Y. Đồng bào cư trú tập trung ở các tỉnh vùng Đông Bắc và
Tây Bắc Việt Nam như: Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn,
Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái....
Nhóm ngôn ngữ Mông - Dao có 3 dân tộc: Mông, Dao, Pà Thẻn
Nhóm ngôn ngữ Ka Đai có 4 dân tộc: La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo;
Nhóm ngôn ngữ Tạng Miến có 6 dân tộc: Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ,
Cống, Si La.
Nhóm ngôn ngữ Khơ-me có 21 dân tộc: Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ
Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Giẻ Triêng, H’rê, Kháng, Khơ Me, Khơ Mú, Mảng,
Xinh Mun, Mnông, Ơ Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà ôi, Xơ Đăng, Xtiêng.
Nhóm ngôn ngữ Nam Đảo có 5 dân tộc: Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu
Ru. Đồng bào cư trú tập trung trên các cao nguyên đất đỏ Tây Nguyên và
dải đất ven biển miền Trung; Văn hoá Nam Đảo mang đậm nét mẫu hệ.
Nhóm ngôn ngữ Hán có 3 dân tộc: Hoa, Ngái, Sán Dìu. Đồng bào cư trú
trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam, văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ.
- VIDEO CLIP: (613) 54 dân tộc Việt Nam từ đâu tới đất này? | Tomtatnhanh.vn - YouTube