Professional Documents
Culture Documents
chị em thúy kiều
chị em thúy kiều
Đoạn trích có kết cấu chặt chẽ như một truyện ngắn cổ điển. Mở đầu là bốn câu giới thiệu chung về
hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
Nếu Thúy Vân là vẻ đẹp của bức tranh tố nữ, thì Thúy Kiếu là vẻ đẹp của người ngọc hiện diện giữa
trần đời đầy sắc sảo, mặn mà. Hoàn tất bức chân dung Thúy Vân, nhà thơ mới từ tốn, hình như có
chút hoang mang bối rối khi họa nên bức chân dung Thúy Kiều. Nếu chỉ với 4 câu thơ, chân dung
Thúy Vân đã hoàn thiện thì khi tả Kiều, nhà thơ đã khẳng định:
Ánh mắt nét mày ấy ẩn chứa một tâm hồn đa sầu đa cảm, đầy ắp yêu thương, tràn dâng sức sống.
Nhưng ngay sau vẻ đẹp tuyệt trần ấy, dường như có điều gì oan ức “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn
kém xanh”. Việc gì phải ghen, phải hờn ? Thói đời là vậy ! Cái sâu sắc nhân tình thế thái, cái tài của
Nguyễn Du là ở chỗ chỉ nhân tả vẻ đẹp của Kiều mà đã gợi ra được một phần cuộc đởi ô trọc, nhỏ
nhen sẵn sàng vùi dập cuộc đời một trang tuyệt sắc giai nhân.
Nguyễn Du đã nhấn mạnh “Một hai nghiêng nước nghiêng thành”. Tác giả đã sử dụng điển tích,
mượn ý thơ của Lý Diên Niên đời Hán Vũ Đế (Trung quốc):
Tạo hoá ban cho nàng không chỉ là sắc đẹp mà còn tài năng hơn người:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.”
Nàng có đủ phẩm chất, tài năng của một nghệ sĩ: Thơ ca, hội hoạ, âm nhạc nàng đều tỏ ra tài
hoa rất mực. Nàng có một năng lực cảm nhận nghệ thuật tinh tế, cho thấy một tâm hồn mẫn cảm,
phong phú. Nhưng có lẽ nổi bật nhất là ngón đàn:
Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng chưa thoát khỏi thuyết “thiên mệnh”: “tài mệnh tương đố”, “tài
tử đa cùng, hồng nhan đa truân”. Cuộc đời mỗi người đều do số phận an bài, mệnh trời là một thế lực
vạn năng “Cho hay muôn sự tại trời”, “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Kiều đẹp quá, tài năng quá
nên không tránh khỏi “hồng nhan bạc phận”. Thế nhưng, nếu chỉ thế thì Truyện Kiều cũng không thể
trở thành tuyệt tác. Chính tấm lòng nhân hậu, chính trái tim yêu thương, trân trọng con người, nhà
thơ đã phản ánh “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” để phơi bày hiện thực xã hội tàn ác bất
nhân, thế lực đồng tiền và quyền lực bọn quan lại đã vùi dập, chà đạp lên ước mơ về hạnh phúc của
con người, đã đẩy một nhân cách cao đẹp, một trang tuyệt sắc giai nhân vào vũng bùn tăm tối của
cuộc đời.
Khép lại đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tô thêm về cuộc sống và đức hạnh của hai chị
em:
Khổ thơ cuối đã khép lại và hoàn chỉnh hai bức chân dung tuyệt tác của Thuý Vân và Thuý Kiều.
Qua đó, người ngắm tranh không chỉ thấy được chân dung nhân vật mà còn nhìn thấy bức tranh thói
đời ghét thương, đố kị. Không chỉ thấy được ngoại hình nhân vật mà còn thấy được tâm hồn tính
cách của nhân vật, và dự báo cả về tương lai, số phận của nhân vật. Nguyễn Du đã đẩy nghệ thuật tả
người đạt đến đỉnh cao của văn học trung đại.
A. Mở bài
– Truỵện Kiều là kiệt tác của Nguyễn Du, tác phẩm đạt đến đỉnh cao về cả nội dung và nghệ
thuật.
– Đoạn thơ miêu tả 2 chị em Thúy Kiều xưa nay vẫn được coi là mẫu mực của bút pháp miêu tả
chân dung nhân vật.
B. Thân bài
– Nằm trong phần đầu của tác phẩm truyện Kiều- “Gặp gỡ và đính ước”
– Đoạn trích miêu tả bức chân dung của 2 chị em Thúy Kiều Thúy Vân. Qua đó dự báo số phận
của từng nhân vật.
– Đoạn thơ là bức chân dung hoàn chỉnh chặt chẽ, chứng tỏ bút pháp cổ điển điêu luyện:
+ 16 câu tiếp theo miêu tả vẻ đẹp riêng của Thúy Vân và tài sắc Thúy Kiều
+ 4 câu cuối đức hạnh, phong thái của chị em Thúy Kiều.
2. Phân tích :
2.1. Vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều (Bốn câu đầu.)
– Giới thiệu chung về hai chị em trong gia đình, lời giới thiệu cổ điển, trang trọng, họ là “tố
nga”, đẹp và trong sáng:
+“Mai cốt cách”:là cốt cách của mai: hình mảnh mai, sắc rực rỡ, hương quý phái.
+“ tuyết tinh thần”: là tinh thần của tuyết: trắng trong, tinh khiết, thanh sạch
->Bút pháp ước lệ, hình ảnh AD, 2 vế đối nhau câu thơ trở nên tao nhã gợi cảm, âm điệu nhịp
nhàng nhấn mạnh sự đối xứng làm nổi bật vẻ đẹp cân đối hoàn hảo đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng,
thanh tao, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: Vóc dáng mảnh mai, tao nhã
như mai; tâm hồn trắng trong như tuyết. => Đó là vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn
tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
– Hai chị em đều tuyệt đẹp, “mười phân vẹn mười”, song mỗi người lại mang nét đẹp riêng khác
nhau “mỗi người một vẻ”.
– “Vân xem trang trọng khác vời” đã giới thiệu khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân:một vẻ đẹp cao
sang, quí phái
– Bút pháp ước lệ tượng trưng, phép ẩn dụ, nhân hoá: “khuôn trăng”, “nét ngài”, “hoa cười ngọc
thốt, “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
-> Vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu; tính cách đoan trang, thùy mị: khuôn mặt
đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm;lông mày sắc nét như mày ngài; miệng cười tươi thắm như
hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà là những lời hoa tiếng ngọc. Mái tóc của
nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết.
– Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên – một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung
quanh.
-> ND vừa miêu tả nhan sắc đã cho thấy số phận nhân vật: “ Mây thua..; tuyết nhường…” tạo
hóa “ thua” và “ nhường” nên con người này sinh ra để được hưởng hạnh phúc êm đềm. Dự báo
về một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.
2.2. Vẻ đẹp tài sắc của Thúy Kiều (12 câu tiếp)
– “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Từ “càng”đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà”
làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
– Nhan sắc :
“Làn……sơn”
->Bằng bút pháp ước lệ, phép ẩn dụ t/g điểm xuyết một đôi nét dung nhan khiến T.Kiều hiện lên
rạng rỡ :
+ “làn thu thủy”: đôi mắt long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu gơn sóng
+ “ nét xuân sơn”: nét mày thanh thản tươi xanh mơn mởn đẹp như dáng núi mùa xuân tươi trẻ.
– “Hoa ghen, liễu hờn”: Với vẻ đẹp của Vân thiên nhiên chẳng đố kị mà chịu thua, chịu nhường còn với
vẻ đẹp của Kiều “ hoa ghen”, “ liễu hờn” đố kị.
->Vẻ đẹp của Kiều gây ấn tượng là một trang tuyệt sắc.
– Tài năng
-> tố chất thông minh do trời phú, tài làm thơ, vẽ tranh, ca hát, đánh đàn đều đến mức điêu luyện
+ Tài đánh đàn: thể hiện qua từ ngữ “ làu , ăn đứt” những từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối, Thúy
Kiều thông minh và rất mực tài hoa.
+ Soạn khúc: “ bạc mệnh oán” Tâm hồn đa sầu, đa cảm, phong phú. khúc nhạc dự đoán cho số
phận đau khổ, bất hạnh của Kiều sau này.
– Những câu thơ miêu tả nhan săc, tài năng dự đoán số phận thể hiện quan niệm
– “ thiên mệnh” của nho giáo, thuyết “tài mệnh tương đố” của N.Du
=> Kiều đẹp quá, tài hoa quá, hoàn hảo quá nên không thể tránh khỏi “ hồng nhan bạc mệnh”.
– 16 câu tả vẻ đẹp cảu hai chị em Kiều gần như đầy đủ vẻ đẹp của người phụ nữ theo quan niệm
xưa: công – dung – ngôn – hạnh. Tài ấy thể hiện cả ở tả tình, tâm hồn của nhân vật và dự báo số
phận nhân vật
– Cuộc sống “êm đềm”, “ phong lưu” “tường đông ong bướm đi về mặc ai”: khuôn phép, đức
hạnh mẫu mực.
– đoạn cuối: khép lại bức chân dung của hai nàng Kiều đồng thời khép lại toàn đoạn trích khiến
nó thêm chặt chẽ với t/p, với số phận từng nhân vật. Vân êm ái, Kiều bạc mệnh
3. Đánh giá:
– Về NT:
+ Cách miêu tả khắc họa tính cách nhân vật của ND rất tinh tế( m.tả hai vẻ đẹp khác nhau – thấy
rõ sự khác biệt)
+ Dùng thủ pháp cổ điển m.tả ước lệ tượng trưng( mai..khuôn trăng..ngọc thốt..tuyết..hoa cười.)
+Sử dụng điển cố … nhưng mức độ cho từng nhân vật khác nhau, các chi tiết khác nhau
+ Sử dụng miêu tả khái quát cũng biến hóa, uyển chuyển tạo hứng thú với chân dung từng n/v
+Nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo, đặc biệt là những từ có giá trị gợi tả cao.
– Về ND
Họ đều là tuyệt thế giai nhân: trẻ, ngây thơ, trong trắng, mỗi người một vẻ hấp dẫn lạ lùng (Vân
đẹp đoan trang, trang trọng, Kiều đẹp sắc sảo mặn mà). Miêu tả vẻ đẹp chung, vẻ đẹp riêng gắn
liền với dự báo về số phận của từng nhân vật
C. Kết bài
– Đoạn trích là những vần thơ tuyệt tác trong Truyện Kiều bởi: Cái tài, cái tâm của N.Du thật
đáng kính nể.
– Mỗi chữ mỗi lời trong đoạn thơ đều ẩn chứa niềm thương yêu tôn quý con người.Tinh thần
nhân văn cao quý khiến truyện Kiều trở nên bất tử