Sông Đà-Tr Tình

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

"Ngọn gió thơ băng qua rừng, băng qua biển để tìm ra giọng nói cho riêng mình".

Nghệ
thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, nó không chấp nhận sự sao chép mô phỏng bởi "bình thường là
cái chết của nghệ thuật". Mỗi người nghệ sĩ phải tạo ra cho mình một lối đi riêng không lặp lại
người khác và không lặp lại chính mình. Có như vậy, tác phẩm mới đủ sức neo đậu trong trái
tim người đọc, và người nghệ sĩ mới đủ sức chạm khắc tên mình vào dòng chảy bất tận của thời
gian. Vì lẽ ấy, Nguyễn Tuân luôn dành cho mình một vị trí rất riêng trên thi đàn với những khám
phá độc đáo trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” chính là
minh chứng tiêu biểu, đặc biệt là với vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông.
Là cây đại thụ của rừng đầu nguồn văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân luôn say mê những
cái phi thường, tuyệt đỉnh, tuyệt đối, thích cảm xúc mạnh. Ưa khám phá sự vật, hiện tượng đến
tận chân tơ kẽ tóc, trang văn của Nguyễn Tuân phô diễn kiến thức hết sức uyên bác. “Người lái
đò sông Đà” được sáng tác vào năm 1958 và được in vào tập “Sông Đà” năm 1960. Trong
chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Bắc xa xôi, rộng lớn, Nguyễn Tuân không chỉ thỏa mãn
khát khao được du ngoạn mà còn chủ yếu là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và thứ
vàng mười đã qua thử lửa nơi tâm hồn con người.
Nguồn gốc của sông Đà được Nguyễn Tuân công phu khảo cứu lịch sử, địa lí, văn hóa, từ
đó đem đến cho người đọc tầm tri thức sâu rộng. Sông Đà bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc),
đi qua một vùng núi ác, đến nửa đường, tại biên giới Việt Trung, xin nhập quốc tịch Việt Nam.
Sông Đà dài gần 900km, lượn qua nhiều núi non hiểm trở, qua miền Tây Bắc, Việt Nam. Đặc
biệt, các con sông khác đều chảy hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”
Sông Đà xưa có tên Ly Tiên. Những chi tiết này cho thấy Nguyễn Tuân tựa như một
người cha đẻ đang làm khai sinh cho đứa con tinh thần của mình. Có thể nói, ông đã khai sinh ra
dòng sông Đà một lần nữa - một dòng sông độc đáo cho văn chương Việt Nam - lúc thì rất hung
bạo, lúc thì rất trữ tình.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của
một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát
Loóng, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa
sinh… Đến cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.
Hình tượng con sông Đà trữ tình hiện lên với ba góc nhìn. Đầu tiên là góc nhìn từ trên
cao nhìn xuống khi đi tàu bay, tiếp đến là góc nhìn của người đi rừng lâu ngày gặp lại sông Đà
như cố nhân và cuối cùng là của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu với góc nhìn của tình
nhân. Nhà văn đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội họa mà tạo
hóa ban tặng tô điểm cho đất nước, ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ với phong
cách tài hoa. Dù ở góc nhìn nào, nhà văn cũng đều thể hiện được kiến thức phong phú của mình
trên nhiều lĩnh vực: văn hóa, điêu khắc, điện ảnh, lịch sử, hội họa, văn học,… Mỗi câu văn tuôn
ra đều giống như một áng tóc dài tha thiết, mượt mà và êm ả đến độ người ta phải bật thốt lên vì
tài năng văn chương của người nghệ sĩ họ Nguyễn.
Từ trên tàu bay nhìn xuống, Tây Bắc như người thiếu nữ duyên dáng, yêu kiều mà sông
Đà chính là áng tóc mềm mượt của người thiếu nữ đang khao khát thanh xuân này. Nguyễn Tuân
đã nhìn thấy dòng chảy uốn lượn của con sông Đà tựa như một áng tóc trữ tình buông dài vắt
ngang qua núi rừng hùng vĩ đầy duyên dáng, mềm mại. Nhà văn sử dụng câu văn dài, ít ngắt
quãng để gợi tả độ dài của sông Đà và mái tóc của người thiếu nữ. Đồng thời sử dụng từ ngữ gợi
tả dòng chảy êm đềm của sông Đà mang cái linh hồn của Tây Bắc "Con sông Đà tuôn dài, tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc cuồn cuộn mùi khói mèo
đốt nương xuân". Điệp ngữ "tuôn dài' cùng nhịp văn mềm mại như ru tạo nên vẻ đẹp uyển
chuyển, thướt tha của dòng sông. Phép so sánh dòng sông như một "áng tóc trữ tình" là một sáng
tạo nghệ thuật độc đáo. Phép so sánh ấy đầy chất thơ, chất họa, chẳng những phô ra được vẻ đẹp
dịu dàng, duyên dáng, kiêu sa, kiều diễm của dòng sông Đà mà còn bộc lộ chất phong tình, lãng
mạn của người nghệ sĩ.
Dòng Đà giang giờ đây tựa như một nàng thiếu nữ xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm
duyên, làm dáng giữa mùa hoa ban, hoa gạo dưới vẻ đẹp bồng bềnh của mây khói. Thần sắc của
thiên nhiên nơi đây được Nguyễn Tuân miêu tả với vẻ đẹp rất riêng, rất lạ, rất thơ. Khói núi Mèo
mà người đồng bào đốt nương mỗi khi Tết đến cũng khiến người ta nao lòng đến lạ. Tây Bắc
muôn đời vẫn đẹp, sông Đà hung bạo đến đâu cũng có lúc kiều diễm như cô gái trẻ bùng cháy
sức xuân trong khoảnh khắc thanh xuân. Bao nhiêu vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình quyến rũ của đất
trời đã ùa về thức dậy trong câu văn của Nguyễn Tuân - "Người thợ kim hoàn của chữ" (Hoài
Thanh)
Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Đà còn được thể hiện ở màu sắc đặc biệt của dòng
sông. Mê đắm trước vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra sự thay đổi và biến
chuyển của màu nước trên sông. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp lạ lùng, quyến rũ như một mỹ nhân
với những điệu nghệ làm say đắm lòng người. Sông Đà luôn làm mới, làm đẹp chochính mình,
sắc nước sông Đà thay đổi theo từng mùa, mỗi mùa một vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân đã say sưa
mê đắm, chiêm nghiệm vẻ đẹp của con sông này để cất lên những trang viết như thứ men say gửi
đến người đọc. Con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn biết bao! "Tôi đã say sưa làn mây
mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống sông Đà", lúc
này đây người nghệ sĩ ấy đã phó mặc thả trôi tâm hồn mình hòa cùng làn sóng nước sông Đà,
chính vẻ đẹp của mây trời Tây Bắc bung nở hoa đã gieo nên những hạt mầm xanh tốt tạo nên cái
sắc riêng không trộn lẫn của thiên nhiên nơi đây.
Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy dòng sông Hương với ánh nắng ban mai rực
rỡ tạo nên cái sắc "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím", tạo nên từ cảnh sắc thiên nhiên đôi bờ, và sự
phản quang của đất trời vạn vật để tạo nên một đóa hoa phù dung mĩ miều, thì Nguyễn Tuân lại
viết về sông Đà với những cảm quan nhạy bén.
Mùa xuân nước sông Đà xanh ngọc bích chứ không "xanh màu xanh canh hến của nước
sông Gâm, sông Lô". Cũng là xanh đấy, nhưng xanh ở đây là sự kết đọng của vẻ đẹp toàn bích,
trong sáng, xanh một màu xanh gợi cảm, trong lành, rung rinh trong nắng sớm mà lấp loáng
bóng cây rợp quang dòng sông. Sắc xanh ấy phải chăng là cái điệu xanh của xanh cây, xanh
rừng, xanh núi, xanh mây trời, xanh như cái sức mạnh kì diệu mà tạo hóa đã ban tặng cho thiên
nhiên hùng vĩ nơi đây. Mùa thu, nước sông Đà "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì
rượu bữa"; "lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội mỗi độ thu về'. Câu văn sử
dụng phép so sánh đặc sắc khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của màu nước sông
Đà. Lần đầu tiên có người dùng màu sắc của da người để miêu tả vẻ đẹp của dòng sông. Cái màu
đỏ "lừ lừ" ấy có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới thấy, mới cảm, mới viết nên được. Nó chỉ có thể tạo
nên từ bàn tay của một người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác. Đặc biệt, phải khẳng định rằng, dù có đa
sắc màu nhưng nước sông Đà chưa bao giờ màu đen như bọn "thực dân Pháp đã đè ngửa con
sông ra đổ thức mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu".
Như vậy, qua những câu văn miêu tả về màu nước sông Đà, Nguyễn Tuân cũng đã làm
nổi bật được cái trữ tình, thơ mộng của dòng nước còn cả cái dữ dội ngàn đời của con sông nơi
đầu tổ quốc. Nguyễn Tuân đã dựng lên cả một thế giới thiên nhiên rộng mở, tươi đẹp sống động
và giãy giụa trên trang giấy, những trang viết ấy tựa như "một bức họa để cảm nhận thay vì để
ngắm".
"Con sông Đà gợi cảm" - câu văn như một lời khẳng định chắc chắn. Qua góc nhìn của
người đi rừng lâu ngày gặp lại sông Đà và góc nhìn của cố nhân, sông Đà hiện lên bởi những
hình ảnh của quá khứ hiện tại và tương lai với điểm nhìn cận cảnh. Trong tầm mắt người thưởng
ngoạn, dòng sông hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, "đối với mỗi người, sông Đà gợi một cách". Và
đối với nhà văn, đã có lần ông nhìn sông Đà như một cố nhân, như một người bạn cũ lâu ngày
gặp lại. Một màu nắng tháng ba Đường Thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" hiện lên trang
văn, nhưng cũng như một bức vẽ nắng sinh động, ta cũng như thấy vui khi nghĩ đến cảnh tượng
nắng lấp lánh trải lên nước sông xanh biếc. Và ta lại chẳng lạ gì khi cảm nhận được niềm vui
sum vầy "Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng". Lòng ta cũng rộn rã "giòn tan" như nắng, lòng ta cũng như đi vào cơn
mộng đẹp vô ngần trong giấc say. Và khi ấy, cảm giác của người đi xa về nhận mặt từng cảnh
vật, từ "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà" thật sự khiến người
nghệ sĩ phải đắm say: "đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dù người cố nhân
ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ
ngay đấy". Sông Đà đã trở thành người bạn thủy chung, nặng tình nặng nghĩa luôn đợi người lữ
khách Nguyễn Tuân.
Leonit Leonop đã từng khẳng định: "Một tác phẩm phải là một phát minh về hình thức,
một khám phá về nội dung." Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ của con sông, Nguyễn Tuân còn đưa người
đọc lạc vào thế giới cổ tích, thế giới tiền sử với góc nhìn của người trôi trên thuyền. Câu văn
"thuyền tôi trôi trên sông Đà" toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả
hướng đến lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: "Hình như từ đời Trần, đời Lý,
đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi." Sự yên tĩnh, "lặng tờ" ấy càng làm nổi bật
vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh "bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa". Phép so sánh
độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên,
trong sáng, nguyên thủy của buổi sơ khai. Hai chữ "lặng tờ" được nhắc đi nhắc lại tới hai lần
theo kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ, không gian vắng lặng nhưng không thể "lặng tờ" hơn
được nữa. Du khách đang đi thuyền trên quãng sông này nhưng lại có cảm giác mình đang đi
ngược về quá khứ xa xôi.
Theo dòng trôi của con thuyền, người đọc đi vào thế giới hoang sơ, tĩnh mịch, bao trùm
cảnh vật là một màu xanh hoang sơ, hồn nhiên. Cũng thấy nương ngô "nhú lên mấy lá ngô non
đầu mùa", đã có dấu ấn của con người in trên màu xanh mỡ màng ấy, nhưng thật vô cùng ngạc
nhiên "mà không một bóng người". Chỉ có đồi gianh nối tiếp đồi gianh trùng điệp với những
"nõn búp" ngon lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện trên màu xanh bát ngát những đồi gianh là
một nét vẽ tài hoa làm cho bức tranh thiên nhiên sông Đà đượm màu "hoang dại" và "cổ tích".
Không phải chú nai vàng ngơ ngác trong cái xào xạc của lá thu rơi thuở nào mà ở đây chỉ có:
"Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
đêm". "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa".
Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật mà là trừu tượng hóa, thơ mộng hóa cảnh
vật. "Bờ tiền sử", "nỗi niềm cổ tích xưa" là chữ của nhà văn bậc thầy ngôn ngữ này. Nhà văn
không dựa vào trực giác để so sánh, ông đã dùng tưởng tượng để tạo nên những liên tưởng,
những so sánh đầy chất thơ và rất kỳ thú, gieo vào tâm hồn người đọc bao cảm xúc, để cùng ông
tận hưởng cái vẻ đẹp "hoang dại" và hồn nhiên" của Đà giang. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh
con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà:
"Dải Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình"
Về một người tình nhân chưa quen biết càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến
rũ, có linh hồn, giàu sức hút. Áng văn sông Đà thơ mộng trữ tình tựa như một đoạn phim chuyển
cảnh từ tĩnh qua động để rồi tĩnh lặng hơn.
Quãng hạ nguồn với khúc sông êm đềm, trở thành dòng sông thi ca với cái nắng tháng ba
Đường thi, với cái nắng giòn tan sau ki mưa dầm, với cả cái nắng rực rỡ đã chiếu rọi "xuyên tim"
những người đọc tùy bút của Nguyễn Tuân. Người ta đã không thể nhìn ngắm hết cái vẻ đẹp trù
phú của sông Đà đến thế nếu không được nhà văn mở đường đi tìm cái đẹp, dù cái đẹp ấy còn
hoang sơ của đất trời Tây Bắc.
Qua vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà, chúng ta có thể thấy được trái tim say mê vẻ
đẹp thiên nhiên của tác giả. Nguyễn Tuân mê đắm trước cảnh đẹp của quê hương, đất nước.
Lòng ngưỡng mộ, sự trân trọng, niềm tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang tùy bút
hiếm có. Đồng thời, qua đó, chúng ta có thể thấy được phong cách nghệ thuật và quan điểm sáng
tác của nhà văn Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ luôn say mê tìm kiếm cái đẹp toàn bích, tuyệt mĩ.
Ông luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa và thẩm mĩ, đi tìm và sáng tạo cái đẹp. Vẻ đẹp
của dòng sông Đà còn tạo nên một bối cảnh đặc biệt góp phần làm nổi bật hình tượng người lái
đò - người lao động bình dị với vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ.
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của
sông núi, và có một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn chương đã làm
cho thiên nhiên đẹp lên bội phần. Con sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng với con người cũng như
áng văn đẹp của Nguyễn Tuân sẽ luôn là hành trang của mỗi người, của dân tộc đi tới trong cuộc
sống hôm nay.

You might also like