Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 70

“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác heo may


Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Đất nước – Nguyễn Đình Thi

Nếu như ở đoạn thơ trên Nguyễn Đình Thi viết về khoảnh khắc lên đường chiến
đấu của những chàng trai Hà thành thì ở bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng sẽ là
người tái hiện trực tiếp chặng đường hành quân đầy gian truân, vất vả đó của họ.
Mà chỉ gọi Quang Dũng là nhà thơ thôi thì chưa đủ, bởi ông đa tài lắm, từ viết
văn, làm thơ cho đến vẽ tranh, soạn nhạc. Độc giả biết đến tên tuổi của Quang
Dũng qua những bài thơ nổi tiếng như “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ” và có
thể nói để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất chắc chắn hẳn là bài thơ “Tây Tiến”.
Nói như Chế Lan Viên thì “vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”. Quang Dũng
đã cầm bút đứng hiên ngang như thế trong mấy thập kỷ. “Tây Tiến” đã đưa tên
tuổi ông vào hàng đầu các nhà thơ thời kỳ chống Pháp. Với một hồn thơ đôn hậu,
lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, ông đã thành công trong việc khắc họa hình
tượng nghệ thuật của người lính giữa núi rừng Tây Bắc, vừa bi tráng vừa lãng mạn
vô cùng.

“Hành trình sáng tạo có thể là độc hành trong một giai đoạn nào đó, nó có thể
chưa được tiếp nhận ngay nhưng chính sự độc đáo lại là cái còn mãi.” Vũ Quần
Phương đã dành những lời này để nói về hành trình sáng tác thơ của Quang Dũng,
bởi thơ ông được cho là chưa đủ tiêu chuẩn văn chương thép, chưa rắn rỏi như
súng đạn nơi biên cương nên thời đó làm gì được cấp phép lưu hành. Ấy vậy mà
vẫn được truyền lưu rộng rãi bởi chất liệu bên trong tác phẩm là một bức tranh
chân thực, làm sao có thể ngăn được bước đi của nghệ thuật cho được. Quang
Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến và làm đại đội trưởng từ đầu năm 1947 cho
đến cuối năm 1948 thì phải chuyển đơn vị. Nỗi nhớ ngày một dâng trào và dòng
cảm xúc mãnh liệt đã thôi thúc ông đặt bút sáng tác “Nhớ Tây Tiến” ngay trong
đêm liên hoan mừng công tại Phù Lưu Thanh (Hà Đông). Về sau, bài thơ được
chính tác giả đổi tên thành “Tây Tiến” và chính thức in lần đầu trong tập “Mây
đầu ô” năm 1986. Ông đã giải thích với con trai mình là Quang Vĩnh về sự thay đổi
này: “Tây Tiến, nhắc đến là đã thấy nhớ rồi. Thế nên để chữ nhớ là thừa, không
cần thiết con trai ạ”. Đúng như thế, “Tây Tiến” nghĩa là đoàn quân tiến về phía
tây, chỉ hai từ mà đã làm sống dậy cả một khúc quân hành, cô đọng hơn nhiều,
nỗi nhớ da diết hơn nhiều.
Phần đầu của tác phẩm là nỗi nhớ của Quang Dũng về những cuộc hành quân gian
khổ gắn với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Nhắc đến Tây Tắc ta lại nhớ đến
cuộc vận động văn nghệ sĩ năm nào dùng ngòi bút mở đường tìm thắng lợi, ghi
dấu bao chiến công oanh tác của quân đội ta. Và thế là Quang Dũng mở đầu một
lời gọi tha thiết:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.

Nỗi nhớ day dứt ấy đã nhanh chóng được khái quát qua địa danh sông Mã, hay
còn được gọi là sông La, con sông như một dòng chảy xuôi ngược kí ức chảy qua
Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa. Một cái cớ vô cùng duyên dáng để Quang Dũng khơi
gợi tâm tư của mình, bao nhiêu kỉ niệm cùng đồng đội cũ, bao giọt nước mắt ly
tan hay vỡ òa thắng trận đều từ đó mà ra. Tiếp tục với một tâm hồn hoài niệm,
điệp từ “nhớ” lúc này phát huy cực điểm tác dụng chính của mình là bộc lộ nỗi
nhớ, ta có thể hình dung về những tháng ngày cùng đồng đội vào sinh ra tử của
tác giả khiến cho nỗi nhớ kia ngày càng thêm cháy bỏng, da diết đến quặn lòng.
Rừng núi Tây Bắc vừa bí ẩn, hoang vuu vừa lãng mạn trong đôi mắt nghệ sĩ trẻ,
“nhớ rừng núi” cũng chính là nhớ về những gương mặt sát cánh trên con đường
hành quân, là nhớ về Tây Tiến. Từ láy “chơi vơi” đặt cuối câu thơ là một sáng tạo
độc đáo, nỗi nhớ không cạn, cũng chẳng tận trời cao, cứ “chơi vơi” lơ lửng, huyền
ảo như một làn sương hoài niệm chẳng lúc nào tan biến. Xuân Diệu cũng từng tận
dụng từ láy đắt giá này trong bài Nhị Hồ:

“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời


Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Nhị Hồ – Xuân Diệu

Là một sự sắp xếp khéo léo hay tình cơ mà điệp vần “ơi” trong các tiếng “ơi”,
“chơi”, “vơi” “hơi” cùng tạo ra một âm hưởng mênh mang như càng thêm mở
rộng chiều kích cho nỗi nhớ. phải chăng là một khúc ca mà lữ khách tốn bao nhiêu
tâm tư để mời gọi, hãy vào đây, hãy nhìn đồng đội thân yêu của tôi đi, họ đã
mạnh mẽ chiến đấu đến chừng nào. Nỗi nhớ càng được khắc họa cụ thể ở hai câu
thơ sau”

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi


Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Tác giả liệt kê các địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát” để người đọc gần xa ít nhiều
thấy được vẻ heo hút, hoang vu, bí ẩn của vùng đất lạ, thấy được những khó
khăn, thử thách chờ chực, ý chí người lính ra sao. Hình ảnh tả thực “sương lấp” và
“đoàn quân mỏi” cho ta thấy bao vất vả mà đoàn quân Tây Tiến đã phải chịu, họ
hành quân trong sương mù lạnh giá, sương giăng che lấp cả đoàn như phủ lên
những tâm hồn mỏi mệt một lớp chăn mềm mại, chỉ là sao khắc nghiệt quá, một
chữ “mỏi” mà khiến bài thơ như có hồn tâm sự. Cũng bởi vì một chữ “mỏi” mà
bao cuộc tranh luận xảy ra giữa những người cầm bút giành lại giá trị chân chính
cho tác phẩm. Khắc nghiệt là thế nhưng “hoa về trong đêm hơi” lại là một hình
ảnh lãng mạn biết bao. Có người nói “hoa” ở đây là hương hoa rừng con vương
vấn, có người lại cho rằng tác giả ví người lính là bông hoa thơm dịu, tinh khiết
kia, kì thực có một chút không hợp. Nhưng nếu nói “hoa” trong bài thơ, là ánh
sáng chập chờn, phập phồng của ngọn đuốc thì thực sự khiến hình ảnh thơ trở
nên đẹp đẽ vô cùng. Đoàn quân trong đêm tối “đỏ đuốc từng đoàn” đi đến đâu
tan sương đến đó, như những bông hoa đỏ trong đêm vượt màn sương nở rộ vậy.
Một câu thơ mà vừa bi tráng, vừa lãng mạn, chỉ có thể là con triện riêng của
Quang Dũng mà thôi.

Vậy là ở bốn câu thơ đầu, với âm điệu thơ sâu lắng, Quang Dũng đã kết hợp hài
hòa chất hiện thực và lãng mạn, càng cho ta thấy được ngòi bút tài hoa, phóng
khoáng của ông. Nói như nhà thơ Vân Long “Nhà thơ Quang Dũng như “bóng mây
qua đỉnh Việt” và là một áng mây bay qua sống núi nước Việt. Mây Quang Dũng
bay đến đâu, hoa lá cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy”. Con sông chiến
trận qua ngòi bút Quang Dũng cũng trở nên có hồn như vậy đấy.

Những câu thơ tiếp theo được Quang Dũng tận dụng tất cả sự đa tài của mình để
khắc họa địa hình hiểm trở của núi rừng Tây Bắc:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm


Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Đây là đoạn thơ được tác giả miêu tả rất thực về con đường hành quân đầy gian
khổ. Ngang tầm với núi rừng hùng vĩ chính là tinh thần quả cảm của những người
lính Tây Tiến. Điệp từ “dốc” kết hợp với từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả
sự quanh co, hiểm trở của địa hình Tây Bắc. Câu thơ bảy chữ mà đến tận năm chữ
được gieo thanh trắc tạo âm điệu trúc trắc, gọi cho người đọc một thế núi cheo
leo, gập ghềnh. Thậm chí chỉ cần đọc câu thơ lên đã hình dung hình ảnh người
lính vất vả, từng hơi thở gấp gáp giữa sườn núi chông chênh. Từ láy “heo hút” ở
đầu câu thơ thứ hai cho thấy sự hoang sơ, vắng vẻ cùng cảm giác bí ẩn, dường
như ta có thể cảm nhận âm vang núi rừng từ bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ. Đảo
ngữ một cách khéo léo đã giúp cho núi Tây Bắc được vẽ ra với khung cảnh đậm
chất hùng vĩ, đỉnh núi cao đến mức ngập vào những cồn mây trắng như ngọn
đuốc hiên ngang phía sau tàn sương mà chiến đấu vậy. Tác giả sử dụng hình ảnh
nhân hóa “súng ngửi trời” góp phần tạo thêm sự thú vị cho bài thơ, vừa có thể
thấy được độ cao chót vót, vời vợi của ngọn núi mà cùng vừa thấy được sự tinh
nghịch, dí dỏm đặc trưng của Quang Dũng – một người lính lạc quan, hài hước.

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống


Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Điệp ngữ “ngàn thước” cũng là hoán dụ ước đoán phỏng chừng đã gợi sự vô
cùng, vô tận của thế núi. Hai vế tiểu đối trong câu thơ đã vẽ ra một sườn núi dốc
dựng đứng, lên tận cao vót và đổ xuống rất sâu, bao nhiêu là nguy hiểm, bao
nhiêu là gian khó. Thế núi đang “khúc khuỷu” là thế, vậy mà nhìn lưng chừng sườn
núi, “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, câu thơ trải dài toàn thanh bằng mở ra một
không gian xa và rộng. Tưởng chừng như đang đứng ở một vách núi đưa mắt về
phía xa, trong màn sương lại ẩn hiện thấp thoáng những ngôi nhà sàn. Cảnh
tưởng phút chốc lại trở nên lãng mạn biết bao, đâu còn những khung cảnh trần
trụi tàn khốc nữa. Đây cũng là một trong những bằng chứng thi trung hữu họa vô
cùng đắt giá của Quang Dũng.

Như vậy, bốn câu thơ phối hợp hài hòa đã vẽ ra một bức tranh sinh động về con
đường hành quân của những người lính. Cách gieo thanh bằng trắc và sắp xếp
gam màu nóng lạnh đã gợi ra những nét vẽ gân guốc, mềm mại xen kẽ. Khổ thơ
nhờ vậy mà được xoa dịu, đây không hẳn là che giấu đi hiện thực tàn khốc mà là
lấy cái nhìn lạc quan, tâm hồn phiêu lãng của đời trai trẻ để tiến ra chiến trận.

Thế nhưng, dẫu có lạc quan đến mấy cũng không thể nào phủ nhận một sự thật
tàn khốc của chiến tranh:

“Lúc nào tôi cũng nghĩ một ngày


Bỏ súng về ôm những gốc cây
Tìm hốt hết thịt xương đồng loại
Ôm thật đầy trên những cánh tay”
Trong đêm mưa tiền đồn – Nguyên Dương Quang

Là những mất mát, hi sinh, là những lần chia ly âm dương chẳng dám hẹn, nước
mắt chực rơi nhưng phải “trừng mắt” nhìn về phía trước. Và Quang Dũng đã dành
những cảm xúc chân thành nhất để viết:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa


Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Hai tiếng “anh bạn” nghe sao thân thương mà chua xót quá, những đồng chí mới
vai kề vai mà quay đi nhìn lại đã chẳng còn nữa. Từ láy “dãi dầu” kết hợp với hình
ảnh hoán dụ “không bước nữa” để giảm đi sự đau thương của những người lính.
Đồng đội vừa đập vai, bôi thuốc, vừa chia nhau bát cơm đang dần ngã xuống. Các
anh biết đồng đội mình mạnh mẽ lắm. Vậy nên dẫu có ngã xuống cũng sẽ ở một
tư thế hiên ngang nhất: “Gục lên súng mũ”, tim đã ngừng đập nhưng tâm hồn
dành cho núi song vẫn còn đó. Anh đã quỳ xuống, ôm súng trong tay, đưa mắt
hướng về đồng đội lần cuối. Bom đạn mù mịt che đi những người mà anh yêu
quý. Cách nói giảm, nói tránh vốn dĩ đã làm giảm bớt sự buồn đau của sự việc, thế
nhưng vẫn giữ được đúng tinh thần thép của những người lính. Khi họ dứt áo ra
đi là đã gạt tình yêu riêng sang một lối nhỏ, toàn tâm toàn ý cho tình yêu đất
nước. Câu thơ của Quang Dũng đã diễn tả đúng chất của âu “quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”. Như vậy, hiện thực thê lương đâu còn nữa, nay chỉ còn khí thế
hào hùng trong bức tranh đầy bi tráng mà tác giả vẽ lên thôi. Lê Anh Xuân cũng có
những câu thơ:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất


Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Dáng đứng Việt Nam

Ngọn lửa hào hùng trong thơ văn chưa dừng lại ở đó, đồng đội anh chết nhưng
động đội vẫn tồn tại còn đang chiến đấu. Hành trình chưa bao giờ kết thúc:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét


Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Các từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy chuỗi ngày dài mà bộ đội đối mặt
với gian nan nơi rừng núi Tây Bắc. Chiều cho đến đêm là lúc màn sương bắt đầu
bao phủ, trời cứ thế tối dần mà không biết dưới chân mình là gì. Nhất là “tháng
chạp màn sương trùm Đất Nước”, nguy hiểm chồng chất nguy hiểm, thế mà:
“thác gầm thét” thử thách nỗi sợ của con người. Địa danh Mường Hịch được tác
giả khéo léo đưa vào câu thơ, hai tiếng nặng trịch như tiếng chân hổ bước trong
đêm. Hiện thực “hiểm ác” lại một lần nữa được nhà thơ xoa dịu bởi câu thơ tiếp
theo, câu thơ mang nặng tình nghĩa của người dân Tây Bắc.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói


Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Phép đảo ngữ “nhớ ôi Tây Tiến” bao gồm từ cảm thán đã nhấn mạnh sự hoài
niệm mãnh liệt về một vùng đất tình người. Hình ảnh ảnh cơm lên khói vừa chân
thật vừa trữ tình, cùng với mùi hương “thơm nếp xôi” của vùng đất Mai Châu đã
khắc họa tình quân dân vô cùng ấm áp. Nhắc đến tình quân dân thì có lần Quang
Dũng chứng kiến người mẹ Hòa Bình tự vắt sữa mình cho đồng đội anh uống,
đồng đội anh lúc ấy bị thương khá nặng. Hóa ra những người lính như Quang
Dũng cầm súng trên tay để bảo vệ những điều bình dị như thế. Tác giả đã vô cùng
sáng tạo khi khi dùng từ “mùa em” đây là một từ từ ghép độc đáo gợi nét trẻ
trung, thể hiện tình cảm của mình và đoàn quân Tây Tiến đối với những con người
nơi đây.

Vậy là qua 14 câu thơ đầu với sự kết hợp hài hòa giữa ngòi bút hiện thực và lãng
mạn, Quang Dũng đã thành công dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, cùng với
đó là nỗi nhớ da diết về những ngày tháng vào sinh ra tử cùng đồng đội. Từ nỗi
nhớ “chơi vơi” lưng chừng trong tâm trí giờ đây đã khẳng định “nhớ ôi Tây Tiến”
là cảm xúc chủ đạo toàn bài. Qua đó, ta có thể thấy tinh thần của những người
lính dẫu có “dãi dầu” hi sinh thì vẫn hi vọng ngày chiến thắng, vẫn kiêu hùng bước
từng bước hiên ngang chẳng hề lo sợ.

Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp đã từng nhận xét “Nếu như Chính Hữu viết về
những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp
của người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng
của hình tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp
toàn bích của nó”. Thật vậy nối tiếp bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về đêm liên
hoan văn nghệ vui với đồng bào và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Động từ “bừng lên” là một chi tiết đắt giá khiến cho đêm tối mịt bỗng bừng sáng
với những âm thanh vui tươi, sôi động. Một lần nữa hình ảnh “hoa” xuất hiện lần
này là hoa chúc, hoa của ngọn lửa góp vui cho đêm văn nghệ. Đó là những tâm
hồn lạc quan vì không biết ngày mai có còn tiếp tục được sống hay không nên
cháy hết mình trong đêm. Linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái vùng sơn
cước bất ngờ xuất hiện trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Hai tiếng “kìa em” cùng
với câu hỏi tu từ “tự bao giờ” đã diễn tả tâm trạng bất ngờ phấn khích của những
người lính, vừa ngạc nhiên, thú vị vừa tinh nghịch, đáng yêu. Một từ láy “e ấp” đã
gợi ra nét thanh thoát e thẹn ngại ngùng của những cô gái trẻ. Tuy vui vẻ là thế
nhưng những người chiến sĩ vẫn không quên nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ thiêng
liêng tiến về phía trước phối hợp với nước bạn bảo vệ biên giới Việt – Lào. Vì vậy
mà “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Giọng thơ trở nên vui nhộn, hóm hỉnh, trẻ
trung nhưng không làm mất đi tinh thần khí phách của người lính.
Bức tranh miền Tây sông nước thơ mộng trữ tình của tác giả vẽ ra thật sinh động:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Một không gian mênh mông huyền ảo xuất hiện, chắc hẳn “chiều sương ấy” là
một buổi chiều sương giăng với nhiều kỉ niệm. Ta có thể thấy khi đoàn quân ăn
bước qua nơi này tâm họ đang lặng để nhớ về điều gì xa vời lắm, có thể là đồng
đội vừa mất của họ, có thể là nỗi nhớ miên man về thời thơ ấu về một ánh mắt
gieo bao tương tư chờ đợi. Điệp từ “có” và sự bắt vần giữa các tiếng “ấy”, “thấy”
cùng những câu hỏi tu từ “có thấy” “có nhớ” cho ta biết nhà thơ đang đắm chìm
trong sự hoài niệm. Trong hiện thực tàn khốc của chiến tranh vẫn luôn hiện diện
những khoảng lặng như thế. Tác giả hỏi người nhưng thật ra là tự hỏi lòng mình
tự nói với mình dùng câu hỏi để khẳng định. Quang Dũng đã xuất sắc để người
đọc thấy được luôn có một nỗi nhớ thường trực trong tâm trí ông. Các cụm từ
như “hồn lau”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa đong đưa” đã làm bức tranh
sinh động hơn hẳn. Độc giả có thể hình dung cả vạn bông lau phất phơ theo gió
như có hồn người tiễn chân các anh ra trận. Phía xa là những cô gái Thái với dáng
hình uyển chuyển mềm mại trên chiếc thuyền độc mộc vượt qua dòng lũ sông
Mã. Từ láy “đong đưa” vô cùng duyên dáng đưa câu thơ trở nên có hồn hơn tình
từ hơn. Hình như khung cảnh chiều lộng gió với những nét vẽ đơn sơ, thanh thoát
luôn tạo cảm hứng cho Quang Dũng

“Lá tím lá xanh đường gội nắng


Hoa vàng nhạt nhạt nhớ phiêu lưu
Lối đi khác khỏi lời chim nói
Ve vãn tương tư mảnh gió chiều”
Giang hồ – Quang Dũng

Như vậy, đoạn thơ miêu tả cảnh sông nước miền Tây đã mở ra trước mắt người
đọc thế giới của cái đẹp của âm nhạc. Nói như Xuân Diệu thì đọc bài thơ Tây Tiến
“ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”, chất thơ và chất nhạc được
Quang Dũng hòa quyện khéo léo khiến ta cứ say trong một điệu du dương không
cần người sướng. Nếu rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan rơi
vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm say lòng người nhưng dễ nông cạn” (Chế Lan
Viên). Và thơ của Quang Dũng thì vừa sâu vừa có ý vừa say cả nhạc.

Ở những câu thơ tiếp theo, chân dung người lính trên nền hùng vĩ, dữ dội lại càng
thêm phi thường, bi tráng

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đảo ngữ “Tây Tiến đoàn binh” để nhấn mạnh khí chất của đoàn quân trong hồi ức
của nhà thơ, lại nhớ về những ngày đầu những anh lính nuôi dưỡng, quý mái tóc
phi-lô-dốp của mình. Các anh vừa tắm vừa gội đầu, hãnh diện với mái tóc của
mình lắm. Nhưng tại sao lại là “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”? Vì các anh
còn xông pha chiến trận còn đánh giáp lá cà với bọn địch, các anh còn chịu rét mà
rụng tóc. Hiện thực khắc nghiệt buộc những người lính đứng dậy với một diện
mạo mới chẳng còn dáng vẻ thư sinh của chàng trai Hà thành nữa. “Quân xanh
màu lá” cũng là một hình ảnh thực chỉ màu xanh lá ngụy trang trong lối đánh du
kích của quân đội ta và cũng là màu da xanh xao của người lính chịu cơn sốt rét
nhưng vẫn kiên cường.
Câu thơ vừa đối lập lại vừa ẩn dụ vẻ xanh xao trong mắt nhà thơ càng trở thành
tựu văn cường bất khuất. Các anh chiến sĩ giờ đây mang trên mình một khí thế dữ
tợn, oai phong của “chúa sơn lâm”. Cách so sánh này đã từng xuất hiện trong bài
thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão

“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu


Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Bằng bút pháp tả thực Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh trần trụi khốc liệt về
chiến tranh nhưng sự trần trụi ấy lại đậm tính lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà ta vừa
cảm thương vừa khâm phục những người lính vô cùng. Vẫn là theo mô tuýp bài
thơ, sau khi dùng như ý thơ để tả hiện thực bi tráng thì đến tiếp theo là những
câu thơ của một tâm hồn lãng mạn, tài hoa.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trong những ngày ngập chìm bom đạn khói lửa, những lần suýt chết trong gang
tấc, tâm hồn họ lại nhạy cảm và mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hình ảnh “mắt trừng”
vừa là cách nói cường điệu của bút pháp lãng mạn vừa là hoán dụ. Người đọc có
thể hình dung về người lính trong những đêm nhớ nhà, nhớ quê, họ trằn trọc với
tấm chân tình đã phủ khăn từ rất lâu rồi, họ trằn trọc suy tư về con đường hành
quân ngày mai. Mặt khác “mắt trừng” là cách thể hiện sự căm thù tức giận của
người lính, họ có thể ngã xuống nhưng niềm hi vọng đánh tan giặc thì không bao
giờ dập tắt được. Đều là những chàng trai Hà thành hào hoa lãng tử, họ đã quên
đi mối tình chóng vánh mới nở ở quê nhà yêu dấu để bước chân lên đường chiến
đấu. Phải đánh tan lũ giặc thì mới bảo vệ được người mình yêu, mới cho người
mình thương cuộc sống tự do hạnh phúc. Ở nơi này “dáng kiều thơm” chỉ dám
xuất hiện trong đêm mơ. Câu thơ có vậy mà đã gây ra bút chiến, lại nhớ nhà thơ
Lưu Trọng Lư đã từng viết: “Người Đức họ không cấm thanh niên họ đọc Werther
mà họ vẫn cường, người Anh họ không cấm thanh niên họ đọc Romeo et Juliette
mà họ vẫn mạnh. Tôi dám chắc chỉ có những nhà nhân đạo mới tự cấm lấy mình
thôi. Nếu cầm hết đi như vậy thì còn biết chi là cái hay cái đẹp ở đời” Hai câu thơ
diễn tả tâm trạng rất thật của người lính trên đất Lào, họ gửi nỗi nhớ qua biên
giới cũng chẳng chờ hồi âm chỉ mong chiến thắng.

Nhờ những nét tiêu biểu mà Quang Dũng chọn lọc thật kỹ lưỡng, đoạn thơ thứ ba
đã khắc họa lên tượng đài tập thể của người lính Tây Tiến: vừa bi tráng lại vừa
lãng mạn, nét bút không ngơi nghỉ mà tạo ra khí thế hào hùng. Nói Quang Dũng là
một trong những nhà thơ hàng đầu thời kỳ chống Pháp Quả là không sai.

Hi sinh mất mát trong chiến tranh là điều hiển nhiên, cũng là một điều cấm kỵ
trong giới làm nghệ thuật lúc bấy giờ. Ấy vậy mà qua “Tây Tiến”, lý tưởng quên
mình đó không còn sự bi lụy, thê lương

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Có người nói cảm hứng của Quang Dũng đôi lúc sắp chìm vào trạng thái bi thương
thì ngay lập tức được nâng đỡ bởi đôi cánh lý tưởng lãng mạn. Từ láy “rải rác” ở
đầu câu thơ kết hợp với những từ Hán Việt như “biên cương” “viễn xứ” đã làm
bức tranh nhuốm màu tang thương, một sự thật nghiệt ngã và đau lòng. Đối mặt
với bom đạn tinh thần con người có cao đến mấy cũng chỉ tan xương nát thịt.
Cuộc đời của những chàng trai trẻ mãi mãi bỏ lại nơi xa xôi. Dường như, họ đã
phụ lòng chờ đợi của những người ở quê hương yêu dấu. Đảo cấu trúc “chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh” khiến cho giọt nước mắt bi thương kia được hong
khô hẳn. Giờ đây chỉ còn tâm thế cầm chắc súng, hiên ngang sẵn sàng đấu tranh
bảo vệ dân tộc. Hình ảnh hoán dụ “đời xanh” đã gây ra sự quên mình vì tổ quốc
của người lính ở độ tuổi đẹp nhất họ cống hiến sức người thanh xuân của mình
cho sự nghiệp của Tổ quốc. Đúng, đó chính là tinh thần trong câu “quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh”. Từ phủ định “chẳng tiếc” để khẳng định tầm vóc lớn lao lý
tưởng cao đẹp của binh đoàn Tây Tiến. Sương giăng hay khói lửa cũng chẳng làm
mờ đi hình tượng người lính. Tính phi thường trong câu thơ còn nằm ngay ở cái
chết

“Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nơi chiến trường trận mạc, những người lính nằm xuống cũng chẳng có tấm chiếu
manh để che đậy. Tác giả gọi áo người lính là “áo bào” để bày tỏ sự kính trọng. Họ
vẫn được xem như những vị quan thời xưa được “da ngựa bọc thây” khi tử trận
nơi sa trường. Hiện thực tuy khắc nghiệt nhưng cái chết vẫn trang trọng qua vần
thơ của Quang Dũng.
Nghệ thuật nói giảm “anh về đất” chỉ sự ra đi nhẹ nhàng và lý tưởng. Các anh chỉ
trở về đất mẹ sau một kiếp rong ruổi đầy bụi trần mà thôi. Hình ảnh nhân hóa
“sông Mã gầm lên” kết hợp từ Hán Việt “khúc độc hành” đã tạo ra một giọng thơ
đang hào hùng bi ai bỗng ngay lập tức trở nên bi tráng. “Sông Mã cọp gầm”, ngay
cả chúa rừng xanh cũng thương tiếc cho người lính, rừng thiêng sông núi như
dâng một khúc ca hoành tráng để tiễn đưa vong linh người đã khuất càng làm cho
khí thế đoàn quân thêm phần mạnh mẽ. Đồng đội của họ đã ngã xuống, họ phải
tiếp tục chiến đấu vì lý tưởng vì quê hương, vì trả thù.

Bút pháp lãng mạn kết hợp với cảm hứng bi tráng đã giúp nhà thơ khắc họa chân
thực cái chết của người lính vừa oanh liệt vừa hào hùng. Chân dung người lính
qua câu thơ đã thể hiện nét phi thường từ diện mạo, tâm hồn cho đến khí phách.
“Thơ là thơ đồng thời họa là nhạc là chạm khắc theo một cách riêng” (Sóng Hồng).

Ở đoạn thơ cuối cùng, tác giả mang đến lời thơ gắn bó với Tây Tiến dẫu chỉ bằng
hồi ức:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước


Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Đoạn thơ mang nhiều ý nghĩa, song đảo ngữ “Tây Tiến người đi” để thấy tinh thần
quyết chiến của người lính, đã dứt áo ra đi thì chẳng trông mong ngày trở về. Bởi
“đường lên thăm thẳm một chia phôi”, từng mạng từng mạng cứ thế bị bỏ lại phía
sau. Cái giá của chiến thắng thật sự quá đắt. từ láy “thăm thẳm” khiến ta bất giác
rùng mình, lòng can đảm và quyết tâm phải lớn đến mức nào mới nói ra lời đanh
thép như thế. Hoặc có thể thấy tác giả rời đơn vị cũng chẳng hẹn ngày gặp lại,
đồng đội vẫn tiếp tục hành trình nhưng chẳng còn xuất hiện trong tâm trí nhà thơ
nữa. Ông dùng sự dứt khoát để dồn nén nỗi nhớ, đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ tinh
thần quyết thắng của cả toàn quân. “Mùa xuân ấy” hẳn là mùa xuân thành lập,
mùa xuân hi vọng chiến thắng của đoàn quân Tây Tiến. Dẫu phải xa đơn vị nhưng
một lần cùng Tây Tiến đi về Sầm Nứa thì hồn cũng như tâm trí nguyện đi theo họ,
chẳng cần trở về. Chỉ vài câu thơ ngắn ngủi đã tái hiện toàn bộ hành trình chiến
đấu, giọng thơ lãng mạn mà kiêu hùng mấy thập kỷ, “Tây Tiến” vẫn luôn là một
rương kho báu chờ người khai phá. Sự hấp dẫn lôi cuốn và những bí ẩn trong câu
thơ vẫn còn mãi, nó khiến ta “dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi và đọc lại bài
thơ một lần nữa”.
Nói tóm lại, Tây Tiến là bài thơ xuất sắc, đưa “tầm vóc của nhà thơ sánh ngang
tầm chiến lũy”, cho thấy dấu triện riêng của Quang Dũng quả thật vô cùng đắt giá.
Bản viết tay với những con chữ nguệch ngoạc trong đêm Phù Lưu Thanh vẫn còn
nguyên, đó là những con chữ xuất thần mang cả hồn rừng núi Tây Bắc và những
đêm ngày vất cả của người lính. Cuộc đời Quang Dũng bình dị như màn sương
nhưng cốt cách và tinh thần ông lại như ngọn đuốc cháy trong đêm sương ấy vậy.
“Hào khí của thời đại đã chấn động trong tâm hồn anh, và tiếng thơ riêng biệt của
anh có phần âm vang của hào khí ấy”. Hiếm có một bài thơ nào vừa bi tráng vừa
lãng mạn đến như thế, sau này chỉ mong những người khai phá con chữ nâng niu
vần thơ ông một chút. Hãy bắt đầu từ nỗi nhớ, cả đời người nghệ sĩ ấy đều dành
cho hồi ức, hồi ức về những năm tháng chẳng màng bão đạn, mưa giông. Cả đời là
một khúc ca bi tráng, kiêu hùng…

1. Tác giả, tác phẩm


*Tác giả
“Đẹp thay tâm hồn Quang Dũng! Dù đi đến đâu, lòng anh bao giờ cũng
quay về nỗi nhớ nhung vùng đất đá ong cằn cỗi Sơn Tây, với cánh đồng
Bương Cấn, với núi Sài Sơn, mây trắng xứ Đoài bay ngang đỉnh núi Ba
Vì…”

(Thanh Châu, trích “Người thơ Quang Dũng”)

* Tác phẩm
“Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện
thực thì Quang Dũng đã tái hiện về đẹp người lính bằng đôi cánh lãng
mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng… Nếu
thiếu đi cái chất lãng mạn, “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích
của nó.“

(Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp

“Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm
nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng”.
( Bình giảng Văn học Việt Nam)

2. Cảm xúc chủ đạo viết về nỗi nhớ với cụm từ


“nhớ chơi vơi”
– Thơ ca Việt Nam nói về nỗi nhớ cũng nhiều, và mỗi nhà văn, nhà thơ
thể hiện một nỗi nhớ khác nhau. Ca dao có câu thơ về nỗi nhớ người yêu:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Tố Hữu viết về nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng miền xuôi với thiên
nhiên và con người Việt Bắc:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”
Nhưng Quang Dũng trong bài thơ này đã diễn tả nỗi nhớ một cách đầy
mới lạ “nhớ chơi vơi”. Câu thơ vừa vẽ ra được trạng thái cụ thể của nỗi
nhớ vừa hình tượng hóa nỗi nhớ nỗi nhớ da diết, thường trực, ám ảnh,
mênh mông, bao trùm cả không gian và thời gian

3. Tư thế làm chủ thiên nhiên thông qua hình


ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”
Cách nói dí dỏm, đầy chất lính cho thấy những người lính trẻ giữa khó
khăn, gian khổ vẫn tinh nghịch, hồn nhiên, yêu đời. Ý thơ cũng làm hiện
nổi bật tầm cao kì vĩ của người lính cách mạng, làm chủ cả non sông đất
nước của mình. Tư thế làm chủ ấy khiến ta nhớ tới câu ca dao:
“Đèo cao thì mặc đèo cao

Trèo lên đến đỉnh ta cao hơn đèo”

4. Sự hi sinh của người lính ở câu thơ: “Anh


bạn dãi dầu không bước nữa”
Miêu tả sự hi sinh: Có thể vì dãi dầu nhiều nắng mưa, sương gió, vì căn
bệnh sốt rét mà người lính Tây Tiến mệt mỏi đến kiệt sức, không thể
bước tiếp, ngã xuống một cách thanh thản, nhẹ nhàng. Anh gục xuống
khi đang hành quân, súng mũ vẫn bên mình, vẫn nghiêm trang trong
hàng ngũ. Nghệ thuật nói giảm “không bước nữa”, “bỏ quên đời” thể hiện
người lính hi sinh chỉ như đang chìm vào giấc ngủ sau khi hoàn thành
nhiệm vụ của mình, giống như người nông dân:
Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng

Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướng

Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành


Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh

(Trăng trối – Tố Hữu)

Những sự hi sinh ấy đều là của những con người bình dị mà anh hùng.
Chính họ đã góp phần hóa thân thành Đất Nước và làm nên truyền thống
yêu nước, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm:
“Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên đất nước”

(Trường ca Mặt đường khát vọng Nguyễn Khoa Điềm)

5. Bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu,


dữ dội và đầy bí hiểm trong hai câu thơ
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
– Các từ láy “Chiều chiều”, “đêm đêm” chỉ quãng thời gian lặp đi lặp lại.
Những âm thanh “thác gầm thét” và hình ảnh “cọp trêu người” là sự
khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng
thiêng từng được nhà thơ Thế Lữ miêu tả trong “Nhớ rừng”:

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,


Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi”

6. Nghĩa tình quân dân ấm áp được thể hiện


trong câu thơ:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Bữa cơm xôi nếp ấy cũng đã trở thành những kỉ niệm không thể phai mờ
trong lòng nhà thơ Chế Lan Viên
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa
rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi
hương”
(Tiếng hát con tàu)
Kỉ niệm không biết “bao giờ trở lại” trong thơ Hoàng Trung Thông:

“Nhà lá đơn sơ, tấm lòng rộng mở


Nồi cơm nấu dở bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau”
(Bao giờ trở lại)

9. Ngoại hình của những người lính Tây Tiến


“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
– Thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp khi viết về người lính cũng
thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng
chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
– Tố Hữu khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài “Cả nước” cũng
không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó:
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ”
-> Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó
khăn của người lính. Chỉ có điều, tất cả qua ngòi bút của ông trở nên vừa
hiện thực vừa lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của người lính
Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng
tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa dựng một sự thực nghiệt ngã.
Những người lính Tây Tiến phải hoạt động ở chốn rừng thiêng nước độc,
ở đó có những con suối: “Rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc”, có
người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cả với địch,
người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu.

– Phong thái “dữ oai hùm” – Mượn hình ảnh con hổ để nói đến khí thế và
sức mạnh dân tộc là một cách nói truyền thống trong thơ ca: “Tam quân
tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão), “Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng
chói” (Trương Hán Siêu).

10. Nỗi nhớ của những người lính Tây Tiến


Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng đã khắc họa bao nỗi nhớ như thế.
– Nhớ ruộng đồng, nhớ : “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” (Đồng
chí).

Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến binh

Mấy người đi trở lại

Nhỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ


bé bỏng chiều quê…

(Màu tím hoa sim – Hữu loan)

11. Sự hi sinh và lí tưởng cao đẹp của những


người lính Tây Tiến
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
– Những người lính Tây Tiến nằm lại nơi chiến trường rất nhiều, những
nấm mồ sơ sài, vội vã nằm rải rác khắp biên thùy.
– Những ngôi mộ sơ sài như thế cũng được nhà thơ Hoàng Lộc nhắc tới
trong bài “Viếng bạn”:
” Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn

Của đồng bào Cửa Ngăn

Tặng tôi ngày phân tán”

12. Sự tiếc thương vô hạn trước sự hi sinh của


những người lính Tây Tiến:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Với câu thơ “Áo bào thay chiếu anh về đất”, Quang Dũng đã khẳng định
tinh thần của những người lính giống như người phu tráng sĩ thời xưa,
coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết
hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi
đó là vinh quang tột đỉnh:
“Chi làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao
(Chinh phụ ngâm)
Còn chiến sĩ Tây Tiến giờ đây thì chỉ cần “áo bào thay chiếu anh về đất”
mà thôi

13. Bốn câu thơ cuối: Lời khẳng định chất lí


tưởng sâu sắc
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi

– Năm 1946 Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định
“Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”. Tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Ca khúc của Phan Huỳnh Điểu :

“Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi

Là có mong chi đâu ngày trở về

Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi

Ra đi, ra đi thà chết không lui”.


Việt Bắc: https://cdn.doctailieu.com/pdf/2021/05/10/phan-tich-bai-tho-viet-bac-tu-co-ban-den-chuyen-
sau.pdf

Sóng
Nếu như Xuân Diệu đã từng thổn thức vì tình yêu, dâng hiến trọn đời cho tình yêu,
chạy vội với thời gian để được yêu thì Xuân Quỳnh cũng thế, cũng từng thấp thỏm, lo
âu, đau khổ vì yêu. Nhưng dù sao đi nữa, là phận nữ nhi nên người rất ít tỏ ra táo bạo,
quá mạnh dạn như Xuân Diệu. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta thường bắt gặp hình ảnh con
sóng, chiếc thuyền nói hộ tình yêu… Cũng vì lẽ ấy, suy cho cùng đây chỉ là những chất
liệu dung dị, bình thường nhất trong cuộc sống song lại chứa đựng biết bao là ẩn ý, biết
bao là ẩn tình mà Xuân Quỳnh muốn bày tỏ. Chúng ta đã đến với Sóng của Xuân
Quỳnh để thưởng thức từng vị thương, vị nhớ của một người phụ nữ đang yêu. Người
ta thường ví rằng tình yêu là một bông hoa kì diệu! Vâng! Quả đúng như thế, tình yêu
chưa bao giờ đi theo một hướng xác định. Cũng có lúc, người ta nhìn nhận tình yêu là
cây đàn muôn điệu gảy lên muôn bản nhạc tình, có khi trầm bổng thiết tha, có khi
nghẹn ngào đau đớn, cũng có khi e ấp, nũng nịu, dễ thương. Thì đây, trong bài thơ này,
tình cảm của nhân vật “Em” cũng biến thiên như thế!

“Sóng” là thơ ngũ ngôn, một thể thơ rất phù hợp để kể về một huyền thoại tình yêu đầy
ăm ắp những tâm trạng khắc khoải, những cung bậc tình cảm và vì thế bài thơ dễ dàng
được phổ nhạc. Sóng! – là một hình tượng ẩn dụ, là phương tiện bộc lộ tình cảm của
nhân vật “Em”:

“Dữ dội và dịu êm


Ồn ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Một câu chuyện cổ tích về tình yêu được nhà thơ Xuân Quỳnh kể lại. Câu chuyện bắt
đầu từ một con sóng nhỏ chẳng biết xuất phát từ đâu, sóng hiện ra như một con người
có nội tâm nhiều biến động. Hai trạng thái tâm hồn đối lập nhau, giằng xé nhau, buồn
vui lẫn lộn. Sóng chẳng hiểu tại sao mình lại cứ “dữ dội” rồi “dịu êm”, “ồn ào” rồi “lặng
lẽ”.

Phải chăng sóng đang yêu, yêu âm thầm, lặng lẽ? Vâng! Một tình cảm đang rạo rực
trong trái tim người con gái, làm sao ai có thể “định nghĩa được tình yêu”. Một buổi
chiều mộng? Một lần gặp gỡ? Một phút xao động trong tâm hồn? Người con gái hay
chính nhân vật “Em” trong bài đang cố tìm câu giải đáp cho tình yêu, cho sự bâng
khuâng, đối lập của lòng mình. Và rồi chỉ còn một lối thoát: con sóng phải tìm ra tận bể
cũng như “Em” đi tìm nguồn gốc của tình yêu.
Tâm hồn con người là một cõi mênh mông vô tận. Làm sao ta có thể đi xuyên suốt hết
cái cõi vô tận ấy. Và ngay chính trong lúc cõi lòng đang bùng lên ngọn lửa yêu thương
thì cô gái trẻ lại càng trăn trở, bâng khuâng, khắc khoải, dằn vặt với chính lòng mình.
Phải vượt khỏi cái giới hạn chật hẹp này, phải lao mình vào chân trời bao la, những
miền vô tận để hiểu rõ lòng mình. Con sóng đã rời bờ ra đi, đi thật xa, cố tìm hiểu và soi
mình với những con sóng khác để biết được sự huyền diệu của tình yêu, mà hiện tại
đối với sóng vẫn còn là một bí mật. Tình yêu là gì ư? Một nhà thơ Pháp đã từng khẳng
định: “tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi”. Và thế rồi con sóng vẫn đi tìm
mãi, tìm mãi:

“Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Tình yêu cũng như con sóng, vẫn vĩnh hằng với thời gian và tuổi trẻ. Xuân Diệu đã
từng nói:

“Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo


Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu”.

Tình yêu gắn liền với tuổi trẻ. Tuổi trẻ là trái tim dào dạt, đa cảm và rạo rực niềm yêu
thương chất sống. Chính vì thế, mà cái khát vọng tình yêu cứ bồi hồi trong ngực trẻ, nó
cứ thúc đẩy tuổi trẻ đi tìm chân lý yêu đương, cũng như con sóng “ngày xưa và ngày
sau vẫn thế”. Tuy nhiên, câu thơ “bồi hồi trong ngực trẻ” là một câu thơ chưa chín. Thật
ra ngực trẻ hay ngực già… đều nồng nàn và bồi hồi trước tình yêu. Song, sóng và em
cứ tìm mãi mà chẳng hiểu mình, chẳng thể hiểu được tình yêu. Sóng chính là điển hình
của sự nhận thức về cái “quy luật” không thể cắt nghĩa được tình yêu:

“Sóng bắt đầu từ gió


Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”.

Sóng bắt đầu từ gió – Vâng! Gió bắt đầu từ đâu? Tình yêu bắt đầu từ đâu? –“Em” cũng
không biết nữa. Đọc những câu thơ này, ta chợt hình dung cái lắc đầu nhè nhẹ như
một sự bất lực của cô gái. Trong khi người con gái cố đi tìm cội nguồn tình yêu thì tình
yêu trở thành trò chơi ú tim, không tài nào nắm bắt được. Và thế là, muôn đời tình yêu
vẫn là sự bí hiểm. Tình yêu của “Em” giờ đây trở thành nỗi nhớ da diết, giày vò. Nó
choáng đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bề rộng, nó trải dài trong mọi thời
gian. Phạm Đình An đã nhận xét: “Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng lại ở
mức độ yêu buổi đầu giản đơn hò hẹn, non nớt, ngọt ngào, mà là tình yêu hạnh phúc,
tình yêu gắn bó với cuộc sống chung với nhiều đòi hỏi ở chiều sâu tình cảm, với nhiều
chứng minh của thử thách, mang đậm dấu ấn trách nhiệm”. Chính vì thế mà tình yêu
của người “Em”. Ở đây có thể nói không còn bồng bột mà khá chín chắn, có sự can
thiệp của lý trí, có ý thức về mặt tình cảm. Ấy thế mà trong lòng người con gái vẫn trỗi
dậy mãnh liệt một nỗi nhớ muôn hình, muôn sắc:

“Con sóng dưới lòng sâu


Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”.

Nỗi nhớ của “Em”, của tình yêu dữ dội được khởi đầu từ những cái cao cả lớn lao,
không tủn ngủn và tầm thường chút nào! Nỗi nhớ ấy da diết, cuốn lấy tâm hồn người
con gái! Với Xuân Quỳnh là thế: mọi con sóng đều có bờ, mục đích là vỗ vào bờ, nên
khi sóng xa bờ thì phải nhớ bờ, ngày đêm không ngủ được. Cũng như sóng, nỗi nhớ về
“Anh” vẫn dào lên mãnh liệt:

“Lòng em nhớ đến – Anh


Cả trong mơ còn thức”.

Tình yêu đến, tình yêu mang theo một nỗi nhớ vô bờ đến với “Em”, choáng ngợp tâm
hồn “Em”. Tình yêu đã trở nên đậm đà đến thế, và nỗi nhớ lại càng da diết miên man.
“Có không gian nào dài hơn chiều dài nỗi nhớ, có một khoảng mênh mông nào sâu
thẳm hơn tình yêu…”. Vâng! Làm sao đo được nỗi nhớ, làm sao đo được tình yêu!
“Em” vẫn nhớ đến “Anh”, chỉ nhớ về phương anh mà thôi:

“Dẫu xuôi về phương


Bắc Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”.

Tình yêu thật huyền diệu! Điều đáng nói là “Em” biết chủ động, biết gửi trao nỗi nhớ về
hướng xác định: Phương anh! – Phương của tình yêu: “rợp trời thương ấy mấy màu
xanh suốt, mà em nghiêng hết ấy mấy về phương anh, mà em nghiêng hết ấy mấy về
phương anh…”. Tình yêu của người phụ nữ thật mãnh liệt nhưng cũng thật trong sáng,
dung dị, một tình yêu thủy chung và trọn vẹn. Song, để toàn vẹn mối tình ấy, con sóng
phải vượt qua muôn ngàn cách trở:

“Ở ngoài kia đại dương


Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”.

Con sóng muốn tới bờ, phải vượt qua bao giông tố, bão bùng. Em muốn hướng về anh,
phải vượt qua bao cạm bẫy cuộc đời. Suy cho cùng, tình yêu phải cần thử thách tôi
luyện mới thấy rõ giá trị thực sự của nó. Tình yêu muốn tồn tại cũng phải có sự ra đi và
trở lại, phải có sự dồi lên, lắng xuống để cuối cùng trở về với tình yêu hồn nhiên thuở
đầu.
Chính tình yêu của anh đã giúp cho em vượt qua tất cả, đón nhận một tình yêu vĩnh
cửu – tình yêu lớn lao và cao thượng, không mang màu sắc vị kỉ, riêng rẽ mà là hoà
trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng sẽ tồn tại mãi mãi:

“Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”.

Tình yêu sẽ trưởng thành đằm thắm hơn và sẽ vĩnh hằng trong cái đẹp của tạo hoá.
Bài thơ kết thúc rồi mà nhịp điệu êm ái, nhẹ nhàng của tình yêu vẫn còn vương đọng
đâu đây. Bài thơ thành công không chỉ trong việc miêu tả hình tượng “Sóng” mà còn
bộc lộ một tình yêu thật sôi nổi, nỗi khao khát tình yêu của một nhà thơ nữ. Đây chính
là nét mới mẻ trong thơ ca hiện đại Việt nam.

Trong rất nhiều loài hoa thì bông hoa Xuân Quỳnh tỏa ra một hương thơm riêng, một
cách cảm nhận riêng về sóng – biển trong tình yêu. Tình yêu như con sóng mênh
mang, vô tận, song cái đích cuối cùng cũng là một tình yêu thứ nhất, vĩnh hằng mãi
mãi.

1. Khi phân tích bản lĩnh kiên cường của người con gái ở khổ 6, gợi chúng
ta liên tưởng đến câu ca dao:

“Yêu nhau mấy núi cũng trèo

Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”

2. Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong khổ 6, ta cũng từng
bắt gặp vẻ đẹp đó trong thi phẩm “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân
Hương:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son”

Những bài thơ “mượn” sóng để nói về tình yêu:

Ta từng bắt gặp hình tượng sóng trong những câu ca dao xưa:

“Tình anh như sóng dâng cao


Tình em như dải lụa đào tẩm hương”
Vợ chồng A Phủ

1. Nhân vật Mị
a. Sự trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc
- Liên hệ:
+ Khát vọng hạnh phúc và lương thiện của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của
nhà văn Nam Cao.
+ Truyện ngắn “Một con người ra đời” của Maksim Gorki.
Vào năm 1892, ở miền Nam nước Nga, một đoàn người đói khổ kéo nhau đến
Otsemtsiry kiếm việc làm, họ đến vùng ven biển. Trong đoàn người này, có một phụ
nữ trẻ, khỏe mạnh, mang thai sắp đến ngày sinh nở. Chị chuyển dạ và lên cơn đau dữ
dội. Nhờ sự giúp đỡ của một chàng trai, người phụ nữ đã vượt qua đau đớn, sinh được
một bé trai đầu lòng khỏe mạnh kháu khỉnh.
=> Đứa bé đã đem đến cho người mẹ cùng đoàn người đói khổ kia một tia hi vọng để
họ vượt qua những giao lam vất vả và vươn tới hạnh phúc.
- Triển khai viết:
Phải chăng trong tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh? Cô Mị một thời trẻ đẹp, yêu
đời nay đã hoàn toàn an phận trong cuộc sống nô lệ, sống mà như chết ấy? Không,
ngòi bút của nhà văn không chỉ hướng vào cái ảm đạm, mặt đen tối của cuộc đời mà
còn thiết tha hướng tới sự sống và ánh sáng. Tô Hoài đã tìm sâu vào tận cùng của ý
thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật, cho thấy những vẫn còn le lói chút ánh sáng
và hơi ấm của niềm ham sống, của khao khát hạnh phúc. Như dưới lớp tro dày nguội
lạnh kia vẫn ủ chút than hồng, chỉ chờ một ngọn gió thổi đến là bùng lên mãnh liệt.
Trước đó không lâu, trong truyện ngắn “Chí Phèo” ngòi bút nhân đạo của nhà văn
hiện thực xuất sắc Nam Cao từng khơi bùng lên những khát vọng hạnh phúc và lương
thiện ở Chí, một kẻ đã tưởng như không còn đời sống tâm linh con người với một
hình hài không ra con người nữa, kẻ mà người đời gọi là quỷ dữ. Nối tiếp và chảy dài,
Tô Hoài đã góp thêm vào truyền thống nhân đạo của văn học ta một tiếng nói có sức
mạnh khi khắc họa sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc nơi Mị -
một con rùa lùi lũi trong xó cửa. (Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình
mùa xuân và đêm đông cắt dây cởi trói cứu A Phủ).
b. Mị - nạn nhân của xã hội thực dân phong kiến miền núi
- Liên hệ: Em có thể tùy ý lựa chọn các hình tượng nhân vật chịu sự tác động của
hoàn cảnh xã hội.
+ Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu. Nạn nhân của xã hội mới đầy nhọc nhằn, khốn khó.
+ Thị trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. Nạn nhân của nạn đói khủng khiếp và
dữ dội năm 1945.
- Triển khai viết:
Con người nhỏ bé cùng số kiếp nhọc nhằn, họ vẫn đang “vật lộn” với những lo toan
riêng trong đời sống chung, họ lẩn khuất khắp mọi nơi không chỉ trên đất ta. Và rồi
“nhà văn tồn tại trên đời trước hết là để làm công việc như kẻ nâng giấc cho những
người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường … để
bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” - Nguyễn Minh Châu. Với
Tô Hoài, qua những tác phẩm của mình, ông đã làm tròn thiên chức ấy, đặc biệt là với
truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Ở đó ta sẽ thấy một cô Mị - cái mảng sống im lìm, tối
tăm, cực nhọc được phơi bày cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà quan thống lí:
“nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. Năm tháng trôi đi, người con
dâu gạt nợ sống trong nhà thống lí Pá Tra là một chuỗi dài cực nhọc, vất vả nối tiếp
nhau, là sự bóc lột và hành hạ mà Mị phải chịu đựng: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi
nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau tiếp nhau vẽ ra trước
mắt, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại… Con ngựa, con trâu làm còn có
lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu
vào việc cả đêm cả ngày”. Thêm vào sự đọa đày về thể xác ấy, còn là ách áp chế về
tinh thần. Mị bị ràng buộc trong ý nghĩ: bố con Pá Tra đã “trình ma” mình là người
nhà nó rồi, thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi! Mê tín, thần quyền đã
hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị, nó là thứ “thuốc phiện của tinh thần” đối với Mị,
với những người dân bé mọn. Mãi về sau, khi dân mình đã giành được độc lập, chẳng
còn thực dân hay chúa đất, một cuộc sống mới sẽ mở ra với đầy hứa hẹn và hi vọng.
Nhưng trong chính cuộc sống ta hằng mơ ước đó, Nguyễn Minh Châu lại tìm thấy
những số kiếp nhọc nhằn. Một người đàn bà hàng chài cùng cuộc sống bấp bênh;
khốn khó; tệ nạn xã hội: rượu chè, bạo hành gia đình; thậm chí còn là sự bất lực của
công lí… Chồng chất, ngợp thở, thắt lòng! Thời đại nào cũng vậy! Con người sẽ luôn
chịu sự ảnh hưởng của xã hội, chỉ khác là họ ôm những nỗi đau riêng của thời đại đó
mà thôi!

1. Tác giả, tác phẩm


– “Cây đại thụ cuối cùng của lớp tác giả văn xuôi thời kì cách mạng” (Hà
Minh Đức)

– “Bản chất văn chương Tô Hoài là phong cách bút pháp đậm đà bản sắc
dân tộc. Phong cách ấy là sự tích tụ của cả một đời gắn bó với đất nước
và con người nhiều miền quê hương, trân trọng và yêu thương những
con người lao động mang tâm hồn và tính cách của người Việt Nam” (Hà
Minh Đức)

– “Đất và người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều, không thể
bao giờ quên. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng
thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi” (Tô Hoài)

2. Danh phận “con dâu gạt nợ” của Mị khiến ta


liên tưởng tới thân phận “vợ nhặt” của thị trong
truyện ngắn cùng tên của nhà văn Kim Lân.
– Đó đều là danh phận của những người vợ, người con dâu bất hạnh. Nếu
như cuộc hôn nhân của Tràng và thị tuy không mâm cao cỗ đầy, tuy rất
đỗi kì quặc vì chỉ bằng một lời chòng ghẹo vu vợ với bốn bát bánh đúc là
“nên vợ nên chồng”. Dẫu vậy, suy cho cùng cuộc hôn nhân ấy còn được
xuất phát từ sự tự nguyện của người phụ nữ (dù là cùng đường) và sự
đồng thuận của người đàn ông (dù rằng sự đồng thuận ấy chi là “cái tặc
lưỡi: “Chậc, kệ!”). Thì cuộc hôn nhân của Mị lại diễn ra do món nợ truyền
kiếp từ thời cha mẹ để lại, sự ép gả vô nhân đạo của gia đình thống lí, do
sự lừa lọc của A Sử – người mà sau này Mị phải gọi làm chồng.

– Không chỉ vậy, nếu như trong tác phẩm “Vợ nhặt” chuyện nhặt được vợ
của Tràng tuy được diễn ra trong khoảng không gian vẫn lên mùi chết
chóc nhưng vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình người, của khát vọng sống, khát
vọng hồi sinh. Thì cuộc hôn nhân của Mị tuy diễn ra vào đêm tình mùa
xuân thấm đẫm chất thơ của Tây Bắc nhưng cuộc hôn nhân ấy lại đưa cô
vào chốn “địa ngục trần gian”
=> Có thể thấy, dẫu đều là những con người nghèo khổ, bất hạnh song số
phận của Mị có lẽ còn chua chát, cùng cực hơn thị rất nhiều lần.

3. Căn buồng Mị nằm


– gian ngục thất tinh thần giam hãm cuộc sống, khóa chặt tuổi xuân của
Mị khiến ta nhớ tới Lầu Ngưng Bích – nơi giam hãm, chôn vùi tuổi thanh
xuân của Thúy Kiều trong tác phẩm “Truyện Kiều” (Nguyễn Du):

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung


Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Mặc dù cùng bị giam hãm thế nhưng, nếu Thúy Kiều còn được giam hãm
trong một khoảng không gian rộng rãi, thoáng đãng, bao la, bát ngát thì
Mị lại bị giam hãm trong căn phòng chật hẹp, tù túng, nó đen tối như
chính cuộc đời của Mị, nó làm Mị dần mất hết những ý niệm về không
gian, thời gian về cả sự giao tiếp với mọi người.

4. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân ở Hồng


Ngài:
– Buổi sớm mùa xuân tinh khôi trong thơ Nguyễn Du:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
(Truyện Kiều)

– Buổi chiều mùa xuân chứa chan cảm xúc trong thơ Huy Cận:
“Kề bên đường tạnh
Cỏ mọc xanh non Chiều xuân tươi mạnh Gió bay vào hồn”
(Chiều xuân)
=> Nếu như Nguyễn Du và Huy Cận tập trung miêu tả cảnh ngày xuân với
không gian vắng vẻ, thanh tịnh, tập trung vào vẻ đẹp tinh khôi, tinh
khiết, đầy sức sống với sắc xanh là chủ đạo thì mùa xuân trong “Vợ
chồng A Phủ” lại vừa rực rỡ sắc màu, vừa rộn rã âm thanh.

5. Tiếng sáo đêm xuân


– Ý nghĩa của tiếng sáo: Nhà thơ Herman Hesse đã từng viết:

“Tiếng sáo hắt hiu giãi tơ đêm trường

Những bí ẩn sâu xa nơi trần thế

Tháng năm trôi bỗng hiện về lặng lẽ

Tiếng sáo u hoài lòng lữ khách bâng khuâng”

Vâng! Tâm hồn con người tự muôn đời nay vẫn thường tìm thấy sự đồng
điệu trong âm nhạc. Có lẽ cũng bởi thế mà đối với người đồng bào dân
tộc thiểu số, đặc biệt là đồng bào dân tộc Mông ở miền Tây Bắc thì âm
thanh tiếng sao chính là điệu hồn, là tiếng lòng của họ…(phân tích ý
nghĩa lời ca tiếng sáo)

– Âm thanh tiếng sáo – âm thanh của sự hồi sinh đã khiến ta liên tưởng
tới hình ảnh bát cháo hành – hương vị của sự thức tỉnh trong tác phẩm
“Chí Phèo” (Nam Cao). Nếu bát cháo hành do Thị Nở mang đến đã nhắc
nhớ Chí về một thời quá khứ đớn đau với nỗi bất hạnh khi bị ruồng bỏ,
thôi thúc Chí phản kháng với hiện thực để hoàn lương. Thì âm thanh
tiếng sáo lại khiến Mị thổn thức về một thời quá khứ đã qua đi, tiếng sáo
gọi về phần thanh xuân tươi đẹp nhất, thôi thúc Mị sửa soạn đi chơi và
rồi ngay cả khi bị trói đứng, âm thanh tiếng sáo vẫn chập chờn trong đầu
người đàn bà bất hạnh ấy. Có thể nói, trong cuộc sống đôi khi những âm
thanh, những hương vị vô cùng giản dị đời thường nhưng cũng đủ khiến
cho người ta khôn nguôi khắc khoải về một thời đã xa. Tiếng sáo đêm
xuân chính là một trong những âm thanh có sức lay động lòng người
như thế.

6. Khát vọng sống của Mị trong đêm tình mùa


xuân (Khi bị trói đứng) – Khát vọng sống của
nhân vật Liên trong “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam)
– Mị: Bị trói đứng nhưng vẫn im lặng và dường như không biết mình đang
bị trói, Mị quên hết những đau đớn về thể xác, trái tim Mị vẫn theo âm
thanh tiếng sáo vọng lại từ nơi xa, tâm hồn Mị vẫn đi theo những cuộc
chơi, những đám chơi.

– Liên: Là một cô gái sống trong đói khổ nhưng tâm hồn vẫn luôn hướng
về cuộc sống tươi đẹp, luôn khát khao hướng về phía rực rỡ ánh sáng,
rộn rã âm thanh, chờ đợi con tàu từ Hà Nội về với niềm tin về một thế
giới khác tươi đẹp hơn, đáng sống hơn.
=> Suy cho cùng, dù trong bất kì hoàn cảnh nào thì lòng ham sống, khát
vọng hướng về một cuộc sống sáng tươi vẫn luôn là khát vọng lớn lao
nhất trong cuộc đời của mỗi con người.

7. Ý nghĩ: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc


này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn
nhớ lại nữa…”
Bài thơ “Chọn” (Văn Cao):

“Giữa sự sống và sự chết

Tôi chọn sự sống

Để bảo vệ sự sống

Tôi chọn sự chết”


=> Suy cho cùng, muốn chết tức là còn muốn được sống nhưng phải
được sống một cuộc sống cho đáng sống.

8. Sự hồi sinh (sức sống tiềm tàng) của Mị


“Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác
cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, Mị vẫn sống
âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt” (“Cảm nghĩ về truyện “Vợ chồng A Phủ””
_ Tô Hoài)

9. Kết thúc của tác phẩm


– Hành động cắt dây trói cứu A Phủ và bỏ trốn của Mị khiến ta liên tưởng
tới hành động giết Bá Kiến rồi tự sát của Chí Phèo. Cả hai hành động đều
thể hiện sự thức tỉnh, sự hồi sinh sức sống tiềm tàng của người dân lao
động bị áp bức, tố cáo XH đương thời. Tuy nhiên, hành động của nhân
vật Mị thể hiện sự tiến bộ trong nhận thức của người nông dân miền núi,
họ không cam chịu cuộc sống nô lệ nữa mà sẵn sàng vùng lên giải
phóng đồng loại, giải phóng chính mình để tự làm chủ cuộc đời. Còn
hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí Phèo lại thể hiện sự bế tắc,
luẩn quẩn trong cuộc đời, số phận của người nông dân lao động trước
Cách mạng tháng 8/ 1945.
– Kết thúc của “Vợ chồng A Phủ” đồng thời cũng nhắc người đọc nhớ tới
kết thúc trong tác phẩm “Vợ nhặt” (Kim Lân). Cả 2 tác phẩm đều đã mở
ra một tương lai tươi sáng cho người nông dân, đều đã hướng họ tới ánh
sáng của niềm tin, của lòng lạc quan. Bởi lẽ cả Tô Hoài và Kim Lân đều
là những nhà văn cách mạng. Họ được lí tưởng cộng sản soi sáng nên
nhìn thấy được sức mạnh tiềm tàng trong những người dân lao động, họ
cũng đã nhìn ra được hướng đi, hướng giải phóng cho người nông dân.
Đây chính là nét mới mẻ trong nhận thức tư tưởng của Tô Hoài và Kim
Lân so với các nhà văn thời kì trước đó.
Đất nước

- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 - một nhà thơ xứ


Huế và có những đóng góp quan trọng đối với dòng thơ
ca hiện đại Việt Nam.
- Ông học tập và trưởng thành trong những năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, rồi trở về Nam tham
gia chiến đấu chống Mĩ.
- Sau 1975, Nguyễn Khoa Điềm hoạt động văn nghệ và
chính trị ở Huế. Ông được bầu làm Tổng thư kí Hội nhà
văn Việt Nam khóa V và Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông
tin.
- Từ năm 2001 đến 2006, ông là ủy viên Bộ Chính trị, Bí
thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương.

1.2. Phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm


- Là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ
nhà thơ trẻ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn
Khoa Điềm mang đến một tiếng thơ sôi nổi, đầy nhiệt
huyết của tuổi trẻ.
- Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn,
suy tư sâu lắng, giữa chất trữ tình và chất chính luận với
cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức
tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của đất nước,
dân tộc. Năm 2000, ông vinh dự được trao tặng Giải
thưởng Nhà văn về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính: "Đất ngoại ô" (1972), "Mặt đường khát
vọng" (1974), "Ngôi nhà có ngọn lửa ấm" (1986)

2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ "Đất Nước"


"Mặt đường khát vọng" là tập trường ca hùng tráng
được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị -
Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức
tỉnh của tuổi trẻ các vùng đô thị, vùng tạm chiếm miền
Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ,
hướng về nhân dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh
của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa
nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
Đoạn trích "Đất Nước" thuộc chương V của trường ca
"Mặt đường khát vọng". Đây là đoạn thơ tiêu biểu cho
phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm. Với cảm xúc nồng
nàn, suy tư sâu lắng, lối thơ trữ tình chính luận, tác giả đã
thể hiện hình ảnh đất nước tiêu biểu cho thơ ca Việt
Nam.
3. Phân tích chi tiết
3.1. Đất Nước được cảm nhận từ phương diện lịch sử,
văn hóa, chiều sâu của không gian, chiều dài của thời
gian (42 câu thơ đầu)
 9 câu thơ đầu: Lý giải nguồn gốc của Đất Nước/ Đất

Nước có từ bao giờ?


Đất Nước vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca, trở
thành nguồn cảm hứng bất tận, khơi gợi cảm xúc cho
biết bao ngòi bút. Ở mỗi thời đại lịch sử, Đất Nước lại
được định nghĩa theo những quan niệm khác nhau. Đó là
một Đất Nước thiêng liêng, hào sảng, trang trọng, mang
dáng vóc kỳ vĩ khó chạm tới trong thơ Lý Thường Kiệt:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư"
Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô đại cáo" cũng đã khẳng định
sự tồn tại lâu đời của đất nước bằng các yếu tố văn hóa,
văn hiến, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, sự
hiện diện của các triều đại lịch sử và những anh hùng hào
kiệt:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một
phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có."
Hay đó là một đất nước tráng lệ, huy hoàng với tầm vóc
lớn lao, kì vĩ trong thơ Nguyễn Đình Thi:
"Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa"
Và với nhà thơ Thanh Hải, đất nước lại lung linh, kỳ ảo:
"Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước."
Nhưng khi đến với Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, ta
thấy đất nước mình bình dị và thân quen, gần gũi đến lạ
thường. Không chỉ vậy, nhà thơ còn đưa đến một cảm giác mới
mẻ, thấm thía và xúc động về Đất Nước trong quan hệ với cuộc
sống của nhân dân dưới góc độ văn hóa dân gian. "Đất Nước
không phải là những gì trừu tượng, xa lạ, lớn lao mà là những gì
rất đỗi gần gũi, quen thuộc, gắn bó với đời sống và tinh thần
của con người. "
Tác giả mở đầu bài thơ bằng giọng điệu nhẹ nhàng, thủ thỉ, tâm
tình như đưa ta trở về với cội nguồn của Đất Nước:
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi"
Ngay từ câu thơ đầu tiên, ta đã ấn tượng và đặt ra câu hỏi về
hai chữ "Đất Nước", tại sao hai chữ ấy lại được viết hoa? Người
ta thường viết hoa tên riêng và trước giờ các nhà thơ đều
không viết hoa từ đất nước như Nguyễn Khoa Điềm. Phải chăng
nhà thơ xem đất nước như một sinh thể, như một tên riêng,
thể hiện sự trân trọng, yêu kính và ngợi ca Tổ quốc mình. Quả
đúng là như vậy! Khi ta xét đến việc Đất Nước có từ khi ta lớn
lên, từ "ta" như để nói nhân vật trữ tình là thi nhân, mà cũng
như để nói đến chúng ta, một cộng đồng, một dân tộc với bao
thế hệ. "Ta" không rõ là ai, trạng ngữ phiếm định "khi ta lớn
lên" chỉ rõ Đất Nước đã có từ trước đó, tự bao giờ, từ ngàn đời,
sừng sững và hiên ngang, trước khi mỗi chúng ta ra đời và lớn
lên. Vì thế Đất Nước xứng đáng được tôn kính như một sinh
thể, ta dành một tấm lòng nghiêng mình trước non sông.
Sự bình dị không chỉ hiện lên qua nguồn cội của Đất Nước, mà
còn phảng phất ở lời thơ như thủ thỉ, chiêm nghiệm, tâm tình.
Đất Nước chính là không gian nuôi sống, nuôi dưỡng ta từ thuở
ấu thơ đến khi trở về cát bụi. Đất Nước như cái nôi chung của
dân tộc, ru hồn ta mãi xanh tươi.
Tiếp nối câu thơ đầu tiên, câu thơ thứ hai lý giải về cội nguồn
của Đất Nước:
"Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường
hay kể"
Thuở ấu thơ, ai không từng nghe những truyện cổ tích "ngày
xửa ngày xưa" của bà, lời ru âu ơ, ngọt ngào, sâu lắng của
mẹ. Cụm từ "ngày xửa ngày xưa" mà Nguyễn Khoa Điềm sử
dụng thật tinh tế và giàu tình cảm bởi cụm từ ấy đã đi sâu vào
tiềm thức của mỗi người con đất Việt, nó dẫn lối về những
miền xưa cũ thân thuộc, nó gợi cho ta niềm thương nỗi nhớ về
một trời tuổi thơ xanh ngắt, về chiếc nôi êm với bầu sữa mẹ
ngọt lành. Đất Nước hiện hình trong những câu chuyện cổ, gắn
liền với hình ảnh của cô Tâm dịu hiền, chàng Thạch Sanh dũng
cảm, vớ Thánh Gióng oai phong lẫm liệt,...
"Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần."
("Truyện cổ nước mình" - Lâm Thị Vỹ Dạ)
Hình ảnh Đất Nước thật đẹp gắn với vẻ đẹp của con người Việt
Nam cần cù, lam lũ, dũng cảm, kiên cường và giàu tình yêu
thương. Chính không gian văn hóa ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn
bao thế hệ con người Việt Nam.
Rồi "Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn"
Hình ảnh "miếng trầu" tuy nhỏ bé nhưng lại dung chứa cả "cuộc
đời" của một Đất Nước, chứa đựng biết bao tình cảm bình dị
mà thân thương. Câu thơ đã gợi nhớ về câu chuyện cổ tích "Sự
tích trầu cau" từ đời Hùng Vương, ca ngợi tình nghĩa sâu nặng
của anh em, vợ chồng, để rồi từ đó hình thành những phong
tục, tập quán trong giao tiếp "miếng trầu là đầu câu chuyện"
hay trong hôn nhân "miếng trầu nên dâu nhà người", tạo nên
nét đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Lịch
sử 4000 năm của Đất Nước bắt đầu từ những câu chuyện dung
dị mà thấm sâu ấy. Và miếng trầu đã trở thành biểu tượng cho
tình yêu, vật chứng cho đôi lứa và cũng là biểu tượng tâm linh
của người Việt.
Thật độc đáo và khác lạ, Đất Nước lại đi về những miền cổ tích
xa, đi cùng hình ảnh mẹ, hình ảnh bà mà chẳng phải những con
số, những triều đại hào hùng. Từ buổi hồng hoang của lịch sử,
Đất Nước hình thành, trở thành không gian địa lý che chở con
người, rồi con người biết yêu quý Đất Nước, tạo nên những văn
hóa, phong tục đẹp đẽ, gắn kết giữa Đất Nước và con người
mãi bao năm.
Sau ba câu thơ đầu về sự ra đời của Đất Nước, câu thơ thứ tư
sẽ đưa ta về những ngày tháng Đất Nước bắt đầu "lớn lên",
như một con người, quá trình phát triển của Đất Nước cũng có
vô số sự kiện và những giai đoạn đặc biệt:
"Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc"
Câu chuyện Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh đuổi giặc
Ân đã len lỏi vào trang thơ Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả đã
vận dụng thành công chất liệu của nền văn học dân gian,
khai thác hình ảnh Thánh Gióng trong truyền thuyết
"Thánh Gióng", chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre
làng Ngà đánh đuổi giặc ngoại xâm. Vẻ đẹp của Thánh
Gióng như song hành cùng vẻ đẹp của cây tre Việt Nam.
"Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường."
Hình ảnh cây tre đã trở nên quen thuộc ở mỗi làng quê,
là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của con
người Việt thật thà, chất phác nhưng kiên cường, anh
dũng, bất khuất, cho tinh thần đoàn kết, cho sức mạnh
quật khởi và tinh thần yêu nước của dân tộc ta bao đời
nay.
Cụm từ "dân mình" nghe sao thân thương quá đỗi! Hình
ảnh "lớn lên" tựa như sự vươn mình của dân tộc, từ
những ngày đói khổ, năm tháng đau thương đến những
ngày vươn dậy hào hùng, mang sức mạnh quật khởi, kiên
cường; qua những giai đoạn đấu tranh, rồi dựng xây, giữ
gìn, phát triển Đất Nước. "Đất Nước" lớn lên cũng vì thế.
Câu thơ cũng thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc tuyệt vời,
song song với cổ tích và truyền thuyết đã đi vào các trang
sách, vào ký ức của mỗi người dân Việt Nam, qua đó, tác
giả cũng khéo léo nhắc nhở về truyền thống đánh giặc
cứu nước của dân tộc ta. Trong bài thơ "Quang vinh Tổ
quốc chúng ta", Tố Hữu cũng từng có những dòng ngợi
ca:
"Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên, đánh đuổi giặc Ân.
Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt
Chí căm thù rèn thép làm roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại ngòi
Tổ quốc ta quyết không mất nữa!
Phố làng đây, nhà cửa ta đây
Dù tan nát, cháy thành than lửa,
Máu hi sinh phải rửa thù này!"
Hình ảnh Đất Nước được hiện diện ngay trong cuộc sống
của mỗi con người, mỗi gia đình gắn với những tập tục,
thói quen và lối sống tình nghĩa, cần cù chịu khó.
"Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn"
Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện lên với thói quen bới tóc
sau đầu, một vẻ đẹp giản dị, dịu dàng, đằm thắm và chịu
thương, chịu khó, tần tảo trong lao động. Hình ảnh đó
cũng trở thành nét đặc trưng văn hóa, tục búi tóc sau
đầu đưa ta nhớ về một nền văn hóa đậm đà, một thuở
cơ cực vất vả của người phụ nữ Việt Nam.
Không chỉ vậy, Đất Nước còn ngời sáng bởi đạo lí nghĩa
tình thủy chung của đôi lứa. Dù trải qua bao sóng gió, cha
mẹ vẫn thương nhau "gừng cay muối mặn", không bao
giờ thay đổi. Vì lẽ đó, muối - gừng trở thành biểu tượng
cho tình nghĩa gắn bó, thủy chung của vợ chồng.
"Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau."
hay
"Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn
Sáu ngàn ngày cũng xa."
Đạo nghĩa vợ chồng ngàn năm chẳng rời. Một ngày nên
duyên, cả đời ân tình không sao kể xiết. Tình và nghĩa
luôn đi cùng nhau, vợ chồng không chỉ có tình mà còn có
nghĩa, gắn bó và thương nhau trọn đời, như muôn lần
muối vẫn mặn và gừng thì vẫn cay. Đây chính là truyền
thống tốt đẹp của đất nước mình tự bao đời.
Trong những câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã sử dụng các từ
xưng hô quen thuộc trong đời sống mỗi người Việt, từ
"mẹ", "bà", rồi "cha mẹ" - ta như được ở trong một sợi
dây máu thịt gắn bó bởi truyền thống, đều là "con Rồng
cháu Tiên" cùng đoàn kết, thủy chung, yêu thương nhau
thành một truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhưng ta gắn bó với Đất Nước không chỉ bởi những tình
cảm thiêng liêng ấy mà còn ở những tập tục, hình ảnh
quen thuộc gần gũi:
"Cái kèo cái cột thành tên"
Câu thơ khiến ta nhớ về những gian nhà tranh vách lá, cái
kèo, cái cột dựng lên, nghe tiếng kêu"kẽo kẹt" từ đâu
vọng về. "Cái kèo, cái cột" còn chỉ sự hình và phát triển
của ngôn ngữ dân tộc, tiếng nói mà ta đã đánh đổi xương
máu để giữ gìn. Những thân cây, khúc gỗ, những cái cột
cái kèo như có tên tuổi cùng Đất Nước. Bên cạnh đó câu
thơ còn nhắc đến một tập tục rất độc đáo, đó là đặt tên
xấu để dễ nuôi, chóng lớn. Từ tên của những vật dụng
hàng ngày trở thành tên của những đứa trẻ, gửi gắm bao
yêu thương, ước vọng về những mầm non của Đất
Nước.
Và rồi, Đất Nước tiếp tục "lớn lên" với hình ảnh "hạt gạo"
- thức ngọc trời đã nuôi sống biết bao thế hệ:
"Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng."
Hình ảnh hạt gạo "một nắng hai sương" với bốn công
đoạn "xay, giã, giần, sàng" cũng là hiện thân của quê
hương. Thành ngữ "một nắng hai sương đã thể hiện sự
chăm chỉ, chịu thương chịu khó cùng bao vất vả gian nan
trong đời sống nông nghiệp. Hạt gạo được làm ra từ bao
mồ hôi, nước mắt, bao nhọc nhằn lo toan với quá trình
sản xuất tỉ mì xay, giã, giần, sàng. Vẻ đẹp của hạt gạo
trắng trong là kết tinh cho vẻ đẹp tâm hồn của con người
lao động, kết tinh cho vẻ đẹp của Đất Nước gắn với nền
văn minh lúa nước từ ngàn đời nay. Nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm hoàn thành trường ca "Mặt đường khát
vọng" năm 28 tuổi, nhưng những lời thơ vẫn rất sâu sắc
và thiết tha khi nhắc về cội nguồn dân tộc. Ý thơ ở đây
khiến ta nhớ đến bài ca dao quen thuộc:
"Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần."
Và, sau tất cả những hình ảnh vọng về đẹp đẽ, "Đất
Nước có từ ngày đó..." là lời khẳng định chân thành và
chắc chắn. "Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm
tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi
của dân tộc." Những vẻ đẹp vẹn nguyên của một dân tộc,
một Đất Nước anh hùng. Cụm từ "ngày đó" là một ngày
rất xa xôi, nhưng Đất Nước thì luôn thật gần gũi với đời
sống mỗi chúng ta. Ngày xưa ấy, Đất Nước sinh ra và lớn
lên, bên cạnh con người, chở che rồi nuôi nấng, qua bao
không gian, hình thành văn hóa phong tục qua bao thời
gian. Dấu ba chấm cuối câu nối dài những truyền thống
văn hóa văn hiến, phong tục tập quán, thể hiện sự bất
tận, sự trường tồn vĩnh hằng từ xa xưa với Đất Nước.
Chín câu thơ mở đầu khiến người ta lắng lại với cội
nguồn, nghĩ về nước mình với những ân tình đậm đà.
"Nguyễn Khoa Điềm không xác định niên đại theo cách
của các nhà sử học, khảo cổ học để khẳng định sự ra đời
của đất nước mà cắt nghĩa sự ra đời của Đất Nước trong
chiều sâu của lý lẽ - trái tim nhiều yêu thương ngọt ngào,
đằm thắm. Viết về Đất Nước mà lời của tác giả như là
tiếng của người yêu thủ thỉ tâm tình. Đất Nước hiện lên
dung dị, gần gũi, đời thường, khơi dậy trong tâm thức
người đọc cả một bề dày và chiều sâu văn hóa nghìn đời
của dân tộc với những nét rất đặc thù, thiêng liêng và rất
đỗi tự hào."

 33 câu thơ tiếp theo: Định nghĩa về Đất Nước


- Đất nước là gì?
"Một cuộc thám hiểm thật sự không cần một vùng đất
mới mà cần một đôi mắt mới." (Proust) Nghệ thuật là
lĩnh vực của cái độc đáo, mỗi người nghệ sĩ phải tìm ra
cho mình một lối đi riêng để ghi dấu trong lòng độc giả và
khắc tên mình vào dòng chảy thời gian. Người thi sĩ
không thể bước đi trên lối mòn của người khác mà phải
"khơi những nguồn chưa ai khơi". Chính vì vậy, cùng với
chủ đề đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã có những định
nghĩa thật mới lạ. Tách riêng 2 yếu tố Đất - Nước ra khá
đặc biệt, bằng phép chiết tự, nhà thơ trình bày định
nghĩa của mình theo một cách mới mẻ, độc đáo vô cùng.
Đất Nước được hợp thành bởi 3 yếu tố
+ Chiều rộng không gian địa lý, hình thành nên văn hóa
Việt
Trước hết, Đất Nước được đặt trong chiều rộng mênh
mông của không gian địa lý. Với suy luận của tuổi trẻ, nhà
thơ đã chia cắt Đất Nước thành 2 thành tố Đất và Nước
để suy ngẫm và chiêm nghiệm cho sâu sắc. Mở đầu đoạn
thơ này là định nghĩa về "Đất" thật khác biệt:
"Đất là nơi anh đến trường"
"Đất" là con đường đưa anh đến trường, mở ra một
không gian cụ thể của Đất Nước. Những ngôi trường học
thân quen là nơi gắn bó với mỗi con người, nơi ta cảm
nhận được bao tình thương mến của thầy cô, bạn bè,
cung cấp cho ta chân trời tri thức rộng mở để chắp cánh
cho bao ước mơ, khát vọng bay cao, bay xa.
Khái niệm về "Nước" còn gây nhiều bất ngờ hơn:
"Nước là nơi em tắm"
Hình ảnh "giếng nước gốc đa" đâu đó hiện lên, gợi người
đọc liên tưởng đến quê hương, đến làng xóm, những ngõ
quanh co rợp mát bóng tre làng, và cả giếng nước ở đầu
làng. "Nước" là nơi em tắm, hình ảnh bình dị thân thuộc
của làng quê gợi lên những con sông quê hương bên lở
bên bồi, mang phù sa bồi đắp cho những cánh đồng châu
thổ làm nên một vùng văn hóa xứ sở. Đó còn là dòng
sông đã tắm mát tuổi thơ, để con người được đẫm mình
trong không gian trong trẻo, yên bình của thiên nhiên. Và
kỷ niệm của một thời thơ ấu cứ thế lặng lẽ theo ta cho
đến hết cuộc đời.
Hình ảnh "Đất" và "Nước" song hành với nhau, như anh
và em gắn bó, và Đất Nước không chỉ là không gian sinh
hoạt hàng ngày nuôi dưỡng tâm hồn, thể chất mà còn là
nơi in dấu bao kỉ niệm của tình yêu đôi lứa.
"Đất Nước là nơi ta hẹn hò"
Bằng lăng kính của tình yêu đôi lứa nở rộ và rực rỡ nhất,
Đất Nước trở thành không gian riêng tư của anh và em,
là nơi ta hẹn hò với bao bồn chồn, bâng khuâng, xao
xuyến. Đó là nơi anh nắm tay em nói những lời yêu
thương trong bao vụng về, e ngại, khởi đầu cho một tình
yêu đầu đẹp đẽ. Tác giả đã cho thấy đây chính là biểu
tượng cho sự thống nhất, hòa quyện giữa các yếu tố
"Đất" và "Nước", của anh và em, hợp thành một chỉnh
thể, không thể thiếu một trong hai, gợi lên một chiều sâu
suy tưởng: Đất Nước là sự thống nhất giữa cái chung và
cái riêng, cộng đồng và cá nhân, to lớn và nhỏ bé, hiện
thực và huyền thoại... gắn bó bền chặt không thể tách
rời.
Với con mắt của tuổi trẻ, Đất Nước là cõi mộng với
những kỉ niệm dịu ngọt của tình yêu,
"Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm"
"Đất Nước là nơi" - cụm từ này được điệp lại như một sự
nhắc nhở và khẳng định, rằng từng chút một trong sự
lớn lên của tình yêu đôi lứa đều quyện hòa vào trong Đất
Nước. Là nơi dung chứa tình yêu của anh, của em, của
đôi mình, là nơi "em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm", nơi để em chia sẻ những nỗi niềm, suy tư, trăn
trở thầm kín của tình yêu. Hình ảnh chiếc khăn đã trở
thành một biểu tượng của tình yêu, chuyên chở tâm
trạng của người con gái khi yêu.
"Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt."
Hay hình ảnh chiếc khăn còn đi vào thơ Phan Thị Thanh
Nhàn thật tinh tế:
"Giấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm,
Bên ấy có người ngày mai ra trận."
(Hương thầm)
Ở câu thơ này, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn
nhủ về sự đan cài giữa tinh yêu cá nhân với tình yêu đất
nước, tuy hai mà một. Bởi chính những chàng trai, cô gái
trẻ sẽ góp công xây dựng đất nước, cống hiến cho dân
tộc, và sự kết hợp của họ, tình yêu của họ sẽ thổi bùng
sức sống của đất nước, tô đẹp non sông gấm vóc Việt
Nam và làm phong phú cuộc sống mỗi người.
Bằng việc sử dụng những chất liệu văn hóa dân gian như
ca dao, các hình ảnh đặc trưng của quê hương, thôn
xóm, bản làng nước Việt, nhà thơ của "Đất Nước" đã gợi
ra cho độc giả những cách hiểu mới, cách cảm nhận mới
về đất nước mình đang sống. Các biện pháp nghệ thuật
như điệp ngữ, phép chiết tự đã được vận dụng tinh tế,
đem lại sự lý giải vừa như tâm tình, vừa rất hợp lý và
thuyết phục.
Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Đất Nước còn là những
vẻ đẹp từ thiên nhiên, từ những hình ảnh đặc trưng
trong câu ca dao:
"Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi."
Lên núi rồi xuống biển, một lần nữa khái niệm Đất Nước
lại được phân tách và lý giải sống động. Hình ảnh chim
phượng hoàng và cá ngư ông là một hình ảnh nổi bật
trong ca dao xưa:
"Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi Bạc
Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi
Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời
Kẻo mai kia con cá về sông vịnh
Con chim nọ đổi dời về non xanh."
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp tục khơi sâu chất liệu
của văn học dân gian, lấy ý tưởng từ những câu hò Bình -
Trị - Thiên vẽ nên một bức tranh Đất Nước giàu đẹp với
núi sông hùng vĩ, bát ngát biển khơi. "Đất lành chim đậu"
là những hình ảnh đa dạng, phong phú của chim, của cá
tượng trưng cho sự thịnh vượng và trù phú của nước
Việt. Quan hệ đoàn tụ của chim và cá gắn liền với sự hài
hòa giữa Đất và Nước. Nhà thơ đã kể tên những tài
nguyên của Đất Nước trong cảm hứng hào sảng, tự hào
để thức tỉnh mỗi chúng ta ý thức bảo vệ và giữ gìn những
vẻ đẹo huy hoàng, tươi đẹp vốn có của quê hương.
"Dường như không gian Đất Nước còn là không gian tinh
thần, là nơi trở về của những tâm hồn yêu quê hương."
Cũng như con chim phượng hoàng bay về núi, con cá ngư
ông về với biển khơi, mỗi con người cũng luôn hướng về
cội nguồn Đất Nước. "Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ
không lớn nổi thành người". Đất Nước trở thành nơi
thiêng liêng gắn bó máu thịt với mỗi chúng ta như "chim
có tổ, người có tông".
Và trên hết, không gian Đất Nước là "nơi dân mình đoàn
tụ", là không gian sinh tồn của cả cộng đồng:
"Không gian mênh mông
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ"
"Không gian mênh mông" của Đất Nước rộng lớn với núi
sông bờ cõi, với Bắc - Trung - Nam một dải nối liền, là con
đường anh đến trường, là dòng sông em tắm, là giếng
nước, ao làng, là rừng vàng biển bạc bao la. Không gian
ấy trở thành ngôi nhà chung của đại gia đình Việt Nam
qua bao thế hệ, là cội nguồn, quê hương tinh thần của
mỗi con người. Trải qua sự dai dẳng của thời gian 'đằng
đẵng", qua bao sóng gió, dân mình được đoàn tụ, quây
quần. Đó là sự hội ngộ sau những ngày tháng gian khổ,
hay cũng chính là sự trở về với Tổ tiên, tất cả đều được
đoàn tụ trong chiều rộng không gian và chiều dài thời
gian của Đất Nước. 54 dân tộc anh em cùng sinh sống
trên một dải đất hình chữ S, cùng sẻ chia Đất Nước và
góp phần gìn giữ, xây dựng và phát triển Đất Nước không
ngừng. Đất Nước không nhỏ bé riêng tư mà là nơi sinh
tồn của cả cộng đồng dân tộc. Từ "dân mình" thật gần
gũi, thân thiết, như thể tất cả chúng ta đều cùng chung
một gia đình, đều là ruột thịt. Câu thơ của Nguyễn Khoa
Điềm thật có sức gợi làm nao lòng người.
+ Đất Nước ở bình diện lịch sử
Không chỉ tự hào về không gian địa lý của Đất Nước, nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gợi ra chiều dài miên viễn
của thời gian lịch sử. "Thời gian đằng đẵng" là thời gian
vô thủy, vô chung, là quá trình phát triển lâu dài từ trong
quá khứ, tới hiện tại và tương lai. Đó là thời gian từ
"ngày xửa ngàu xưa" trong cõi xa xăm, xa mờ, Đất Nước
đã hiện hữu.
"Từ có vũ trụ
Đã có giang san"
Đất Nước có từ thuở hồng hoang gắn với những câu
chuyện sử thi "Đẻ đất đẻ nước", từ "Sự tích trăm trứng"
hay truyền thuyết "Sơn Tinh Thủy Tinh". Bờ cõi được mở
mang, Đất Nước có từ ngày đó, rồi Đất Nước bắt đầu,
Đất Nước lớn lên... cứ thế hình thành và phát triển qua
lịch sử 4000 năm văn hiến.
Đất Nước hiện ra với một chiều dài "đằng đẵng" xuyên
suốt từ quá khứ, đến hiện tại và tương lai:
"Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau"
Quá khứ của Đất Nước gắn với "những ai đã khuất", với
những con người đã sẵn sàng hi sinh để bảo vệ sự sống
của Đất Nước. Họ có thể là những người anh hùng kiệt
xuất như Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Trãi,... Nhưng
cũng có thể là những con người bình dị, vô danh, là đại
đa số nông dân nghèo khổ "đã đứng lên thành những
anh hùng". Tất cả họ đều đã hiến dâng cuộc đời mình để
hóa thân vào hình hài Đất Nước, viết nên trang sử hào
hùng của dân tộc.
Điệp từ "những ai" là tiếng gọi chung cho tất cả con dân
nước Việt, dù là ông cha ta đã nằm xuống, hay những con
người của hiện tại, chúng ta yêu nhau, cùng "sinh con đẻ
cái", duy trì nòi giống "con Rồng cháu Tiên". Đó là sứ
mệnh, là trách nhiệm "gánh vác phần người đi trước để
lại", tiếp tục sống, giữ gìn dân tộc mình, đất nước mình,
tiếp tục bảo vệ nền độc lập mà ông cha đã dùng máu
xương của mình để dựng xây là gìn giữ. Không chỉ thế, ta
còn tiếp tục phát triển non sông bằng sức trẻ và trí tuệ
được trau dồi không ngừng. Rồi thì, khi chúng ta già đi, ta
lại tiếp nối vòng tuần hoàn ấy, "dặn dò con cháu chuyện
mai sau", câu chuyện của Tổ quốc mình.
Cứ như vậy, thế hệ này đến thế hệ kia, đời này sang đời
khác cùng "dặn dò con cháu chuyện mai sau", cùng lưu
giữ những giá trị tinh thần bền vững như lòng yêu nước,
tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường chống giặc ngoại
xâm, tình cảm nhân ái, thủy chung. Có thể nói, lịch sử
bốn nghìn năm của Đất Nước được hình thành và phát
triển qua cuộc chạy tiếp sức vĩ đại, lớn lao, vĩnh hằng của
các thế hệ con người Việt Nam. Điều đó đã tạo ra sự gắn
kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai giữa thế hệ này
với thế hệ khác.
+ Đất Nước ở chiều sâu văn hóa
Đất Nước trở nên vẹn toàn, đẹp đẽ, và thiêng liêng hơn
trong chiều sâu văn hóa, thống nhất ở cội nguồn và
truyền thống văn hóa của dân tộc:
"Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng"
Nếu như Nguyễn Trãi phát hiện ra Đất Nước qua các
triều đại lịch sử "Triệu, Đinh, Lý, Trần" thì Nguyễn Khoa
Điềm lại đưa ta trở về với cái thuở sơ khai gắn với truyền
thuyết về nguồn gốc tổ tiên. Đất Nước bắt đầu từ thuở
khai thiên lập địa - nhà thơ cảm nhận và lý giải Đất và
Nước theo chiều dài vô tận của thời gian, chiều sâu của
quá khứ lịch sử và phảng phất chất huyền thoại qua
những câu chuyện vọng về. Hình ảnh "chim về", "Rồng ở"
đưa ta về nguồn gốc của người con đất Việt, từ thuở Lạc
Long Quân và Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, năm mươi
con xuống biển, năm mươi con lên non, trở thành 54 dân
tộc anh em của chúng ta bây giờ. Dù là miền ngược, miền
xuôi, dù là Bắc, Trung, Nam, tất cả đều có chung tiếng gọi
"đồng bào" thiêng liêng, đều là con Lạc cháu Hồng, anh
em một nhà. Chúng ta dù trẻ hay già, gái hay trai
đều chung sức, chung lòng hướng về tổ tiên, nhớ ơn
nguồn cội, mang trong tim niềm tự hào dân tộc sâu sắc.
Không chỉ tự hào về cội nguồn văn hóa của Đất Nước,
nhà thơ còn hướng tới những truyền thống văn hóa tốt
đẹp từ ngàn đời nay.
"Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"
Trong dân gian đã từng có câu ca nhắc về mỗi người:
"Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3"
hay
"Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3"
Tiếp nối mạch nguồn văn học dân gian, Nguyễn Khoa
Điềm đã khơi gợi trong mỗi chúng ta ý thức về nguồn
gốc, dòng giống tổ tiên, từ đó biết ơn những thế hệ đi
trước đã làm nên giang sơn đất nước. Hai chữ "cúi đầu"
thể hiện niềm thành kính thiêng liêng, để hướng về lịch
sử các vua Hùng đã có công dựng nước. "Cúi đầu" để tri
ân, để tâm nguyện với lòng mình phải giữ lấy đạo lý
"uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ kẻ trồng cây".
Người Việt dù đi đâu về đâu trên mọi nẻo đường, ở quê
hương hay nơi xứ người nhưng đều một lòng hướng về
quê cha đất tổ như một ngôi nhà chung để họ cùng trở
về trong cái nôi văn hóa đầy yêu thương, gắn bó.
Với lời thơ tự do, đằm thắm ngọt ngào như lời trò
chuyện, tâm tình giữa anh và em, với kiến thức phong
phú và khả năng sáng tạo những yếu tố của văn hóa dân
gian, Nguyễn Khoa Điềm đã nêu ra định nghĩa đa dạng về
Đất Nước từ chiều rộng không gian, chiều dài lịch sử cho
đến chiều sâu văn hóa với một cái nhìn thật mới mẻ, sâu
sắc.
 Đất Nước là sự thống nhất giữa cái riêng và nét chung,

trộn lẫn dung hòa; Đất Nước chính là "máu xương của
mình", mỗi người phải có trách nhiệm với Đất Nước
Đất Nước không chỉ hiện lên ở không gian địa lý, ở chiều
dài lịch sử, chiều sâu văn hóa mà Đất Nước còn có trong
mỗi người, hiện thân trong mỗi con người.
"Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước"
Đất Nước có trong những hình ảnh bình dị, đời thường
của cuộc sống hàng ngày từ miếng trầu bà ăn, hạt gạo ta
trồng, cây tre ven đường hay những con đường đến
trường, nơi ta từng hẹn hò. Và hơn thế, Đất Nước còn
hóa thân trong hình hài của mỗi con người, có trong máu
thịt, trái tim, hơi thở, sự sống của mỗi cá nhân. Cuộc
sống của mỗi người không chỉ là của riêng mà là thuộc về
Đất Nước, đã và đang thừa hưởng, tiếp nối và phát triển
những giá trị văn hóa, vật chất tinh thần của Đất Nước.
Đất Nước cho chúng ta hình hài, cách sống, cách nghĩ, và
cũng chính là những truyền thống văn hóa, đạo lý từ
ngàn đời nay đã làm nên cốt cách, vẻ đẹp tâm hồn bao
thế hệ con người Việt Nam.
Câu thơ vang lên như một niềm vui sướng, tự hào khi tác
giả nhận thức ra rằng dù anh và em chỉ là một phần nhỏ
của Đất Nước nhưng xiết bao yêu thương, gắn bó khi ta
trở thành những côn dân, một phần tử không thể thiếu
trong cộng đồng Đất Nước.
Bên cạnh sự nhận thức và khẳng định Đất Nước hóa
thân, kết tinh trong cuộc sống của mỗi người, nhà thơ
còn cho thấy Đất Nước là sự gắn bó hòa quyện sâu sắc
giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tinh yêu lứa đôi và tình
yêu Tổ quốc.
"Khi hai đứa cầm tay nhau
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn."
Đất Nước là nơi ta từng họ hẹn, là nơi em "đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm. Và giờ đây, Đất Nước là nơi
"hai đứa cầm tay". Cầm tay để trao gửi yêu thương, thề
nguyện đính ước, để trao duyên mặn nồng. Và khi đó
"Đất Nước hài hòa nồng thắm". Tình yêu lứa đôi trở
thành bệ phóng vun đắp cho tình yêu gia đình, yêu quê
hương, yêu đất nước. Hạnh phúc của mỗi cá nhân được
tạo nên bởi niềm hạnh phúc chung của Đất Nước.
"Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi."
Nếu "khi hai đứa cầm tay" biểu thị mối quan hệ gắn bó
giữa cá nhân với cá nhân, giữa anh và em thì "khi hai đứa
cầm tay mọi người" lại khẳng định mối quan hệ đoàn kết,
yêu thương giữa cá nhân với cộng đồng để làm nên hình
ảnh "Đất Nước vẹn tròn to lớn". Từ "hài hòa nồng thắm"
đến "vẹn tròn to lớn" là cả một bước phát triển đi lên của
lịch sử dân tộc, là quá trình tiếp nhận những giá trị bền
vững, thiêng liêng trong đời sống tinh thần, tình cảm của
mấy nghìn năm Đất Nước để rồi tạo ra mối thân tình
đoàn kết của đồng bào, đồng chí. Và cũng từ đó, những
lời dạy tha thiết và nghiêm khắc của cha ông vẫn luôn là
bài học về đạo lí làm người, về tình yêu thương đùm bọc
gắn bó.
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng"
Những câu thơ tiếp theo đã thể hiện niềm tin vào tương
lai của Đất Nước với một viễn cảnh tươi sáng, huy hoàng:
"Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng."
Các từ ngữ "mai này", "lớn lên", "đi xa" trong tháng ngày
mơ mộng đã cho thấy cái nhìn tích cực về một tương lai
tốt đẹp, một hành trình chinh phục ước mơ thật đẹp đẽ.
Lời nhắn nhủ chân thành, thấm thía của tác giả đã hướng
đến thế hệ mai sau, những người sẽ "gánh vác phần
người đi trước để lại", xây dựng Đất Nước giàu đẹp văn
minh, sánh vai với các cường quốc năm châu như lời Bác
Hồ từng căn dặn. Hai chữ "lớn lên" đã đặt kì vọng, niềm
tin vào trí tuệ, bản lĩnh của nhân dân. Và họ sẽ là người
"mang Đất Nước đi xa" đến với chân trời tươi sáng, đến
với "những tháng ngày mơ mộng". Từ một Đất Nước
nghèo khí hôm qua trở thành một Đất Nước huy hoàng,
rực rỡ, thực hiện được những điều mà ngày hôm qua chỉ
là khao khát, hi vọng.
Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ là cảm xúc trào dâng khi
nhà thơ thấm thía sâu sắc ý thức trách nhiệm của cá
nhân với Đất Nước:
"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời"
Lời thơ thủ thỉ tâm tình "em ơi em" như một tiếng gọi
yêu thương , san sẻ với bao niềm vui sướng khi ta nhận
ra "Đất Nước là máu xương của mình". Vì lẽ đó mà ta
phải biết "gắn bó và san sẻ", "phải biết hóa thân" cho
dáng hình xứ sở. Hai từ "phải biết" nhấn mạnh ý thức
trách nhiệm, nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng của mỗi con
người để làm nên "Đất Nước muôn đời". Đó cũng chính
là mệnh lệnh phát ra từ trái tim mỗi con người Việt Nam
yêu nước để rồi nó trở thành lời hiệu triệu mạnh mẽ mà
tha thiết ngân vang. Để bảo vệ từng tấc đất quê hương,
những con người Việt Nam sẵn sàng đấu tranh và "hóa
thân" cho núi sông, cho Đất Nước mãi mãi trường tồn. Ý
thơ đã cho thấy đây là tiếng thơ "mang sức mạnh ý chí và
khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ".
Có như vậy, ta mới có thể bảo vệ và giữ gìn "Đất Nước
muôn đời".
"Ôi tổ quốc khi cần ta chết
Cho mỗi căn nhà ngọn núi, con sông"
Mượn hình thức tâm tình, thủ thỉ của đôi trai gái yêu
nhau, nhà thơ đã gửi gắm, nhắn nhủ đến thế hệ mai sau
trách nhiệm với Đất Nước. Lời thơ ngọt ngào sâu lắng thể
hiện niềm tự hào sâu sắc và tình yêu đối với Đất Nước,
Đất Nước của "những người chưa bao giờ khuất" bởi
"lòng dân ta yêu nước thương nhà".

3.2. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân - Nhân dân đã


hóa thân để làm nên Đất Nước
 Nhân dân làm ra không gian địa lý của Đất Nước
Đoạn trích "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ta
đến với một Đất Nước giản dị mà rất đỗi đời thường, Đất
Nước của nhân dân. Tìm cho mình một lối đi riêng, nhà
thơ đã có những phát hiện thật sâu sắc về địa lý, lịch sử,
văn hóa của Đất Nước gắn với vai trò kiến tạo của nhân
dân. Đoạn thơ là câu trả lời mang tính thẩm mĩ cho câu
hỏi: ai đã làm nên hình sông thế núi, làm ra hình hài Đất
Nước? Từ đó đi đến khẳng định: nhân dân chính là người
làm ra không gian địa lý của Đất Nước.
"Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những
núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng
Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút
non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành
thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang,
Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối ống
ông cha"
Đầu tiên, tư tưởng "Đất Nước của nhân dân" được thể
hiện qua sự biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân
dân - những người đã cống hiến từ điều nhỏ bé nhất cho
Đất Nước. Tác giả đã nêu ra những di tích văn hóa như
Đền Hùng, Hòn Vọng Phu, các địa danh như làng Gióng,
sông Cửu Long, thắng cảnh như núi Bút, non Nghiên,...
hoặc đơn giản chỉ là ruộng đồng, gò bãi, ao đầm trải dài
khắp lãnh thổ từ Bắc vào Nam như phác thảo một tấm
bản đồ văn hóa của Đất Nước.
Nếu những nhà thơ, nhà văn khác ngắm nhìn giang sơn
gấm vóc, thiên nhiên như những kiệt tác của tạo hóa,
những sản phẩm tuyệt vời trong kiến tạo của thiên nhiên
thì Nguyễn Khoa Điềm lại gắn liền nó với đời sống của
nhân dân, với tâm hồn của dân tộc. "Chính nhân dân là
những người đã hóa thân vào từng hình sông, dáng núi
để làm nên vóc dáng, hình hài, cơ thể của Đất Nước, làm
nên linh hồn của các danh lam thắng cảnh, làm nên trầm
tích văn hóa của mỗi địa danh. Từng mảnh đất dòng
sông, ngọn núi đều gắn liền với tính cách, tâm hồn con
người Việt Nam."
Bao thế hệ con người Việt nam đã đóng góp cho danh
lam thắng cảnh của đất nước một sự hóa thân, một ý
nghĩa phủ nhuộm đậm đà cả tâm hồn dân tộc. Núi Vọng
Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định gắn liền với sự
tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá, hòn Trống
Mái cũng là câu chuyện gắn bó nghĩa tình vợ chồng nghĩa
nặng tình sâu. Những vẻ đẹp ấy hòa quyện với nhau bởi
sự thủy chung son sắt trong tâm hồn người Việt Nam nói
chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. "Những
người vợ nhớ chồng" còn gợi ta nhớ về nàng Vũ Nương
trong "Chuyện người con gái Nam Xương", hình ảnh
người phụ nữ sắt son chờ chồng đã in sâu vào nguồn cội
nước non, từ thuở sơ khai đến khi đất nước chiến tranh,
người vợ vẫn sắt son một dạ đợi chồng. Tất cả họ đã
"góp cho Đất Nước" không chỉ là hòn Vọng Phu hay hòn
Trống Mái nữa, danh lam thắng cảnh ấy không đơn thuần
là hai hòn đá chụm vào nhau nữa mà là một câu chuyện
đời làm nên hình hài ấy.
Vẻ đẹp trong tâm hồn người Việt còn là tình yêu nước
nồng nàn, nó đã góp phần làm nên những di tích lịch sử,
những mảnh đất thiêng liêng mà oanh liệt. Gót ngựa của
Thánh Gióng đã để lại cho Đất Nước trăm ao đầm ở vùng
Sóc Sơn ngày nay như hiện thân cho khí phách kiên
cường, bất khuất của người dân Việt Nam, mãi đi vào cõi
bất tử, đẹp đẽ ngời sáng. Hay hình ảnh chín mươi chín
con voi ở Phong Châu đã quần tụ để "góp mình" dựng
đất tổ Hùng Vương là minh chứng cho lòng dân cùng
đồng thuận hướng về một quốc gia thống nhất.
Bên cạnh Sông Hồng "đỏ nặng phù sa" hay sông Mã
"bờm ngựa phi thác trắng", Đất Nước còn có Cửu Long
giang thơ mộng, kiêu sa gắn với một huyền thoại đẫm
màu sắc cổ tích. Những con rồng nằm in từ bao đời nay
để cho Nam Bộ một "dòng sông xanh thắm", dòng sông
chín rồng (Cửu Long) mềm mại chuyển mình qua những
bờ bãi, xóm làng mang phù sa tỏa khắp muôn nơi.
Và nếu không có những người học trò nghèo thì Đất
Nước mình cũng sẽ có núi Bút, non Nghiên gợi lên hình
ảnh Đất Nước nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu
học, tôn sư trọng đạo "Lưng đeo gươm tay mềm mại bút
hoa". Ngay cả con cóc con gà quê hương cũng góp cho
Hạ Long thành thắng cảnh, thành di sản thiên nhiên thế
giới, góp phần đưa vẻ đẹp Đất Nước đến bốn biển năm
châu. Rồi những tên đất tên làng cũng được tạo nên từ
tên của những người bình dị như ông Đốc, ông Trang, bà
Đen, bà Điểm.
Đoạn thơ liên tiếp lặp lại những cụm từ "góp cho Đất
Nước", "góp nên", "góp mình", "góp dòng sông", "góp
cho Hạ Long",... Và chủ thể của những đóng góp ấy là
những người vợ nhớ chồng, những cặp yêu nhau, là
người học trò nghèo, là những người dân,... Tất cả điều
vô danh đó chính là nhân dân qua bao năm tháng đã lặng
lẽ kiến tạo xây dựng nên Đất Nước, in dấu sâu đậm trên
dáng hình của quê hương xứ sở.
"Tâm hồn tôi khi tổ quốc soi vào
Thấy nghìn núi, trăm sông diễm lệ"
(Chế Lan Viên - "Chim lượn trăm vòng")
Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ là sự khái quát sâu sắc
được rút ra từ sự liệt kê các hiện tượng cụ thể ở trên
theo cấu trúc quy nạp. Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến một
chân lý trong đời sống mang tính triết luận hiển nhiên,
sâu sắc.
"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống
ông cha
Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta."
Những câu thơ trên có sự hòa quyện giữa chất trữ tình
đằm thắm, thiết tha và chất chính luận trí tuệ sắc sảo.
Điều đó đã mang lại cái nhìn mới mẻ, độc đáo về những
không gian địa lý của Đất Nước, đồng thời đánh thức tình
yêu quê hương Tổ quốc, lòng biết ơn với những thế hệ đi
trước đã xây dựng núi sông, bờ cõi.
Ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi, ở bất cứ nơi nào trên
đất nước Việt Nam đều phảng phất "một dáng hình, một
ao ước, một lối sống ông cha". Hình ảnh núi sông, rừng
biển, những tên bản, tên làng cũng chính là điệu hồn, là
phong cách, là ước mơ, hoài bão của cha ông qua mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Nếu bốn nghìn năm là dòng thời gian lịch sử đằng đẵng
vô thủy vô chung thì cụm từ "đi đâu ta cũng thấy" lại là
hình ảnh của một Đất Nước mênh mông, rộng lớn với
rừng vàng, biển bạc. Trong dòng chảy bất tận của thời
gian, trong cái mênh mông rộng lớn của không gian là
"Những cuộc đời đã hóa núi sông ta". Từ "hóa" không chỉ
là sự đóng góp lớn lao bởi mồ hôi xương máu của Nhân
Dân mà còn là sự hóa thân kì diệu của những con người
vô danh thầm lặng đã làm nên non sông đất nước. Mỗi
ngọn núi, dòng sông hay gò bãi, ruộng đồng đều có một
phần máu thịt tâm huyết của người xưa. Họ đã khai phá
đất đai bằng đôi bàn tay cần cù, gửi gắm linh hồn mình
vào núi sông để truyền lại cho thế hệ mai sau. Bởi vậy
mỗi danh lam thắng cảnh, mỗi di tích văn hóa trên đất
Việt đều là bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn con
người Việt Nam. Ca ngợi núi sông diễm lệ cũng là ca ngợi,
tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn nhân dân.
Tư tưởng "Đất Nước của nhân dân" trước hết được thể
hiện ở bình diện không gian, nó được tạo nên bởi những
vẻ đẹp tâm hồn, và những tình nghĩa ấy đã làm nên
gương mặt của Đất Nước thật đẹp đẽ và ngời sáng, tạo
nên núi sông hùng vĩ, giang sơn gấm vóc tươi đẹp muôn
đời.
 Đóng góp của nhân dân trên bình diện lịch sử

Bên cạnh những phát hiện mới mẻ, độc đáo về sự đóng
góp của nhân dân trong việc làm ra không gian địa lý của
Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn hướng vào
dòng chảy xa xăm, sâu thẳm của lịch sử để suy tư, chiêm
nghiệm về công sức của nhân dân trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của dân tộc:
"Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước"
Đoạn thơ mở ra với tiếng gọi tha thiết "em ơi em" như
tiếng hát thâm tình, như lời thủ thỉ trò chuyện với "em".
"Em" có thể là người con gái nào đó trong tưởng tượng
của tác giả, cũng có thể là thế hệ trẻ, những người sẽ kế
tục sự nghiệp của cha ông hay chính là sự phân thân của
tác giả để độc thoại với chính mình. Nhà thơ đã đưa ta về
"nhìn rất xa vào bốn nghìn năm Đất Nước", một đất nước
với lịch sử lâu dài, với truyền thống vẻ vang được tạo nên
bởi sức mạnh, sự vĩ đại của nhân dân.
Nghĩ về bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ đã nhận thức
được người làm nên Đất Nước không chỉ là những anh
hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh, bình
dị:
"Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh"
Với những từ ngữ "người người", "lớp lớp", "con gái",
"con trai", "có biết bao người", "người người" đã gợi lên
ấn tượng về sự đông đảo của nhân dân. Hết lớp này đến
lớp khác, bao thế hệ con người Việt Nam đã kế tiếp nhau
viết nên những trang sử hào hùng của Đất Nước.
Ngược dòng chảy thời gian, chúng ta đã trở về với những
người con gái, con trai bằng tuổi chúng ta bây giờ. Khi
hòa bình, họ cần cù lao động, chịu thương chịu khó, sống
giản dị đầy yêu thương. Khi giặc đến, người con trai ra
trận dũng cảm đấu tranh và trở thành anh hùng, còn
người con gái ở nhà "nuôi cái cùng con", trở thành hậu
phương vững chắc. Họ cùng đồng lòng chung sức để
đánh giặc cứu nước, và "ngày giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh" để Đất Nước mãi tự hào với bao tên tuổi của
những nữ anh hùng như Hai Bà Trưng, Võ Thị Sáu,
Nguyễn Thị Minh Khai,...
Cả đoạn thơ không có một tên riêng, chỉ có những người
con gái, cũng không có một triều đại lịch sử, không có cả
tên một người anh hùng dù "những anh hùng cả anh và
em hôm nay đều nhớ". Có lẽ tên tuổi của họ tổ quốc ghi
công, sử sách lưu truyền:
"Những người đã trở thành anh hùng
Những anh hùng cả anh và em đều nhớ"
Còn những con trai, con gái trong "bốn nghìn năm giống
ta lứa tuổi" thì không ai nhớ mặt đặt tên. Họ lặng lẽ hi
sinh mồ hôi, xương máu, hiến dâng tuổi thanh xuân,
hạnh phúc của mình để "làm nên Đất Nước". Họ thầm
lặng và lớn lao, vĩ đại. Và Đất Nước anh hùng được làm
nên bởi những con người bình thường, mộc mạc mà cao
cả:
"Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hồn"

(Nguyễn Đình Thi)


Từ sự hi sinh lặng lẽ và âm thầm của nhân dân, nhà thơ
Nguyễn Đình Thi đã ca ngợi và khẳng định công sức của
những con người đã hóa thân vào Đất Nước:
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước."
Cấu trúc sóng đôi giữa "sống" và "chết", giữa "giản dị" và
"bình tâm" đã gợi lên sự thanh thản, nhẹ nhàng trong sự
ra đi của bao thế hệ con người Việt Nam. Họ sống "giản
dị", chân chất, thật thà và "chết" cũng thật "bình tâm",
sẵn sàng hiến dâng cuộc đời mình để "quyết tử cho tổ
quốc quyết sinh". Họ hi sinh không phải để đời sau tưởng
nhớ, được vinh danh, cũng không phải để ngợi ca mà bởi
tiếng gọi của non sông đất nước "chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh". Lịch sử 4000 năm Đất Nước được viết
bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu của những con
người cao cả ấy.
"Họ" có thể là những người nông dân lam lũ trên đồng
ruộng quen với "việc cuốc, việc cấy, việc cày", làm ra hạt
gạo phải "một nắng hai sương xay giã giần sàng" nhưng
khi giặc đến họ "không đợi ai đòi ai bắt", "sống đánh giặc
chết cũng đánh giặc". "Họ" có thể là những người con
trai đã bỏ lại sau lưng mình gia đình, quê hương và
những người thân yêu để "ra đi đầu không ngoảnh lại" và
có thể sẽ không bao giờ quay trở về. Bao nhiêu con
người, không ai nhớ mặt, cũng không ai để lại tên tuổi.
Trên những nấm mồ vô danh là những dòng chữ đầy xót
xa "Tổ quốc khắc tên anh". Nhưng chính những con
người ấy đã viết nên truyền thống vẻ vang trong lịch sử
của Đất Nước.
Đoạn thơ đã mang đến cho người đọc một nhận thức rất
đơn giản mà thấm thía. Mỗi con người Việt Nam dù nhỏ
bé đều đã góp sức mình để xây dựng Đất Nước làm nên
lịch sử dân tộc. Ta không chỉ cảm nhân được tình yêu
nước sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm mà dường như tình
cảm ấy còn lay động, thức tỉnh bao thế hệ trẻ, khơi dậy ở
họ niềm tự hào về quê hương, đất nước. Cũng chính vì
vậy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thật sự "giúp con
người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin ở bản
thân mình và làm nảy nở khát vọng hướng tới chân lý"
(M. Gorki).
 Nhân dân góp phần làm nên giá trị văn hóa, vật chất

tinh thần
Nhân dân không chỉ là những người làm ra không gian
địa lý, xây dựng nên giang sơn, gấm vóc, làm nên lịch
sử Đất Nước mà còn là những người viết nên truyền
thống vẻ vang, lưu giữ và truyền lại những giá trị vật chất
tinh thần. Mọi vẻ đẹp văn hóa truyền thống đều do nhân
dân tạo ra và giữ truyền:
"Họ giữ và truyền cho ta hạt giống ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than con cúi
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã làng trong mỗi chuyến di dân"
Từ "họ" được nêu lên như một điệp khúc, như nhấn
mạnh vai trò, công lao to lớn của nhân dân với Đất Nước.
Bên cạnh đó là cặp từ "giữ - truyền" được nhắc lại như
khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người, mỗi
thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước "gánh vác
phần người đi trước để lại", "dặn dò con cháu chuyện
mai sau" để đưa "Đất Nước đến những tháng ngày mơ
mộng."
Nhân dân là những người đã giữ và truyền cho ta hạt lúa
ta trồng để Việt Nam bốn nghìn năm gắn liền với hình
ảnh cây lúa và nền văn minh lúa nước. Hạt lúa được làm
ra từ "một nắng hai sương" như là tinh hoa của đất trời,
kết tinh mồ hôi, công sức của người nông dân trên đồng.
Hạt lúa trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp tần tảo của
người nông dân lao động, biểu tượng cho một cuộc sống
thanh bình, ấm no.
Không chỉ giữ lại hạt lúa cho ta trồng, nhân dân còn
truyền "lửa qua mỗi nhà" từ hòn than qua con cúi. Ngọn
lửa là hình ảnh của sự sống, của sự quây quần, đầm ấm
của ánh sáng và khát vọng, của một cuộc sống thịnh
vượng, sum vầy. Thuở xa xưa hình ảnh những người Việt
chuyền lửa cho nhau trong không gian thấm đượm tình
làng nghĩa xóm những khi tắt lửa tối đèn đã gợi lên biết
bao yêu thương. Từ những bếp lửa "ấp iu nồng đượm"
trong gia đình, ngọn lửa đã bước vào cuộc chiến tranh
máu lửa "hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong
nhà dạy đạo kia" để "Đất Nước rũ bùn đứng dậy sáng
lòa". Ngọn lửa còn là hiện thân của lòng yêu nước, ý chí
kiên cường đánh giặc ngoại xâm.
Một trong những nét đẹp văn hóa của Đất Nước là ngôn
ngữ, giọng điệu. Và nhân dân đã "truyền lại giọng điệu
cho con mình tập nói", giữ gìn ngôn ngữ tiếng Việt như
giữ lấy linh hồn của dân tộc. Trải qua bao thăng trầm của
lịch sử, bao biến đổi của thời cuộc nhưng giọng điệu và
tiếng nói của dân tộc không bao giờ thay đổi. Điều đó đã
khẳng định ý thức và tinh thần dân tộc của nhân dân khi
họ nhận ra một chân lí hiển nhiên, còn tiếng nói Đất
Nước quê hương là giữ lại được bản sắc văn hóa của một
dân tộc.
Đồng thời, nhân dân còn lưu giữ lại những địa danh,
những tên xã tên làng như lưu giữ lại những kí ức của lịch
sử qua mỗi chuyến di dân. Họ đã mang theo những tên
xã tên làng thân quen để đặt tên cho những vùng đất
mới mà họ đi qua, những cái tên nặng trĩu tình yêu
thương và nỗi nhớ về cội nguồn, về đất tổ quê cha, về
những truyền thống văn hóa thấm đượm tình yêu
thương. Nhân dân còn xây dựng nền tảng vững chắc cho
con cháu đời sau an cư lạc nghiệp, "đắp đập be bờ cho
đời sau trồng cây hái trái". Những thế hệ đi trước đã vất
vả làm lụng, kiên nhẫn bền bỉ để người đời sau có những
thành quả ngọt ngào.
Và cũng chính nhân dân viết lên truyền thống bất khuất
trước mọi kẻ thù, lưu giữ vẻ đẹp văn hóa ấy qua bao thế
hệ
"Có giặc ngoại xâm thì đánh giặc ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại"
Giọng thơ rắn ròi, đanh thép đã thể hiện tinh thần tự
giác, ý thức trách nhiệm cao độ của nhân dân. Chính họ
đã xông pha trận mạc để đánh đuổi ngoại xâm, sẵn sàng
hi sinh để bảo vệ sự bình yên của Đất Nước, cũng là bảo
vệ những giá trị vật chất và tinh thần quý giá của dân tộc.
 Nhân dân làm nên chiều sâu tư tưởng

Nhân dân đã làm tất cả không quản gian lao, vì một lý


tưởng:
"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần
thoại".
Bốn từ "Đất Nước" được lặp lại, nhấn mạnh "Đất Nước
này là Đất Nước của nhân dân", của những bài ca dao
thần thoại, của nền văn hóa đã đi sâu vào huyết quản và
trái tim. Để rồi Đất Nước ấy đã dạy cho mỗi con người
yêu quê hương, yêu tổ quốc:
"Dạy anh biết "yêu em từ thuở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nguồn từ đâu
Mà khi về Đất nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"
Đất Nước là cái nôi ấp ủ, dạy chúng ta tình yêu thương
gia đình từ tấm bé, dạy ta biết quý công sức mình. Đất
Nước còn dạy ta biết kiên trì, phấn đấu cho mục tiêu phía
trước, nuôi dưỡng ý chí để ngày mai thành công. "Ôi
những dòng sông bắt nước từ đâu", từ nguồn cội nào
đưa câu hát về với Đất Nước? "Người đến khi chèo đò,
kéo thuyền vượt thác" như ông lái đò trên sông Đà của
Nguyễn Tuân, như đoàn thuyền đánh cá trong thơ Huy
Cận,... Tất cả họ đều gợi lên rõ ràng hình ảnh người lao
động góp từng phần nhỏ tạo ra một Đất Nước kì vĩ, tạo
nên "trăm màu trên trăm dáng sông xuôi". Bởi vậy, nhân
dân chính là người đã làm ra Đất Nước!

4. Tổng kết
4.1. Nội dung
Đất Nước được cảm nhận ở nhiều phương diện, từ địa lý,
lịch sử, văn hóa của đất nước. Đồng thời tác giả cũng nêu
lên trách nhiệm của thế hệ trẻ, đặc biệt là thế hệ với
nước nhà.
Cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư
tưởng đất nước của nhân dân. Đất Nước là sự hội tụ, kết
tinh của vẻ đẹp tâm hồn, với bao công sức và cả khát
vọng của nhân dân. Đồng thời nhà thơ khẳng định nhân
dân chính là người làm nên Đất Nước.

4.2. Nghệ thuật


- Thể thơ tự do phóng khoáng vừa độc đáo vừa tự nhiên,
giúp mạch cảm xúc được thể hiện một cách trôi chảy
nhất.
- Vận dụng chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể
loại: từ phong tục, tập quán, ca dao, thần thoại, cổ
tích,...Không lặp lại hoàn toàn mà chỉ chọn một vài từ để
đưa người đọc về với văn hóa dân gian.
- Giọng thơ trữ tình - chính luận, là sự kết hợp giữa cảm
xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về đất
nước và nhân dân.

5. Chất trữ tình - chính luận trong "Đất Nước" của


Nguyễn Khoa Điềm
5.1. Chất chính luận
Chất chính luận được thể hiện ở tư tưởng của tác giả
- Thức tỉnh tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ miền Nam,
dứt khoát lựa chọn đứng về phía nhân dân và Cách
mạng.
- Trong kết cấu: trường ca được xây dựng theo cách lập
luận để trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ? Đất
Nước là gì? Ai là người làm nên Đất Nước

5.2. Chất trữ tình


- Những câu thơ không chỉ bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm
xúc của chủ thể mà còn thấm sâu vào trong cái nhìn,
trong thái độ trân trọng, yêu quý với mỗi hình ảnh, chi
tiết về Đất Nước gắn liền với nhân dân.
- Suy tưởng cũng là một ưu thế, suy tưởng là suy nghĩ,
phát hiện không chỉ nói lên bằng những lời khô khan mà
qua hình ảnh thơ và cảm xúc của chủ thể trữ tình.

6. Một vài nhận định về "Đất Nước"


- Ta bắt gặp một "Chiều Matxcova" thanh bình và tươi
đẹp, một "Dòng Danube xanh" êm đềm và dạt dào sóng,
một Surriento trong "Trở về Surriento" lãng mạn đẹp đến
nao lòng: "Biển hiền hòa lớp sóng đẹp bao la. Đời ta như
rộn vang ngàn câu ca. Ôi đất nước xanh tươi như mộng
đời. Lưu luyến trong tâm hồn bao người..." Chính tình
yêu quê hương bằng những cái rất riêng là khởi nguồn
của tình yêu tổ quốc. Nói như một nhà văn Nga: "Con
suối đổ vào sông, con sông đổ vào đại trường giang
Volga, lòng yêu quê hương bắt đầu lòng yêu tổ quốc". Và
trong từng trang thơ của Nguyễn Khoa Điềm lòng yêu
nước cũng bắt nguồn từ những gì thân thuộc, bình dị
nhất.
- "Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền
thoại, của những anh hùng, nhưng với tôi là của những
con người vô danh, của bản thân."
- "Nói về những điều lớn lao một cách nhỏ nhẹ, nói về
đất nước một cách dịu dàng, ngay cả những cuộc hò hẹn
lứa đôi trong thơ ông, những ngày chiến tranh ấy cũng
mang tầm vóc của dân tộc".
- "Trường ca "Mặt đường khát vọng" hội tụ không chỉ độ
chín của tư tưởng, nhận thức mà còn thể hiện một phong
cách thơ có chât giọng riêng."

You might also like