Professional Documents
Culture Documents
Tây Tiến
Tây Tiến
Nếu như ở đoạn thơ trên Nguyễn Đình Thi viết về khoảnh khắc lên đường chiến
đấu của những chàng trai Hà thành thì ở bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng sẽ là
người tái hiện trực tiếp chặng đường hành quân đầy gian truân, vất vả đó của họ.
Mà chỉ gọi Quang Dũng là nhà thơ thôi thì chưa đủ, bởi ông đa tài lắm, từ viết
văn, làm thơ cho đến vẽ tranh, soạn nhạc. Độc giả biết đến tên tuổi của Quang
Dũng qua những bài thơ nổi tiếng như “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ” và có
thể nói để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất chắc chắn hẳn là bài thơ “Tây Tiến”.
Nói như Chế Lan Viên thì “vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”. Quang Dũng
đã cầm bút đứng hiên ngang như thế trong mấy thập kỷ. “Tây Tiến” đã đưa tên
tuổi ông vào hàng đầu các nhà thơ thời kỳ chống Pháp. Với một hồn thơ đôn hậu,
lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, ông đã thành công trong việc khắc họa hình
tượng nghệ thuật của người lính giữa núi rừng Tây Bắc, vừa bi tráng vừa lãng mạn
vô cùng.
“Hành trình sáng tạo có thể là độc hành trong một giai đoạn nào đó, nó có thể
chưa được tiếp nhận ngay nhưng chính sự độc đáo lại là cái còn mãi.” Vũ Quần
Phương đã dành những lời này để nói về hành trình sáng tác thơ của Quang Dũng,
bởi thơ ông được cho là chưa đủ tiêu chuẩn văn chương thép, chưa rắn rỏi như
súng đạn nơi biên cương nên thời đó làm gì được cấp phép lưu hành. Ấy vậy mà
vẫn được truyền lưu rộng rãi bởi chất liệu bên trong tác phẩm là một bức tranh
chân thực, làm sao có thể ngăn được bước đi của nghệ thuật cho được. Quang
Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến và làm đại đội trưởng từ đầu năm 1947 cho
đến cuối năm 1948 thì phải chuyển đơn vị. Nỗi nhớ ngày một dâng trào và dòng
cảm xúc mãnh liệt đã thôi thúc ông đặt bút sáng tác “Nhớ Tây Tiến” ngay trong
đêm liên hoan mừng công tại Phù Lưu Thanh (Hà Đông). Về sau, bài thơ được
chính tác giả đổi tên thành “Tây Tiến” và chính thức in lần đầu trong tập “Mây
đầu ô” năm 1986. Ông đã giải thích với con trai mình là Quang Vĩnh về sự thay đổi
này: “Tây Tiến, nhắc đến là đã thấy nhớ rồi. Thế nên để chữ nhớ là thừa, không
cần thiết con trai ạ”. Đúng như thế, “Tây Tiến” nghĩa là đoàn quân tiến về phía
tây, chỉ hai từ mà đã làm sống dậy cả một khúc quân hành, cô đọng hơn nhiều,
nỗi nhớ da diết hơn nhiều.
Phần đầu của tác phẩm là nỗi nhớ của Quang Dũng về những cuộc hành quân gian
khổ gắn với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Nhắc đến Tây Tắc ta lại nhớ đến
cuộc vận động văn nghệ sĩ năm nào dùng ngòi bút mở đường tìm thắng lợi, ghi
dấu bao chiến công oanh tác của quân đội ta. Và thế là Quang Dũng mở đầu một
lời gọi tha thiết:
Nỗi nhớ day dứt ấy đã nhanh chóng được khái quát qua địa danh sông Mã, hay
còn được gọi là sông La, con sông như một dòng chảy xuôi ngược kí ức chảy qua
Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa. Một cái cớ vô cùng duyên dáng để Quang Dũng khơi
gợi tâm tư của mình, bao nhiêu kỉ niệm cùng đồng đội cũ, bao giọt nước mắt ly
tan hay vỡ òa thắng trận đều từ đó mà ra. Tiếp tục với một tâm hồn hoài niệm,
điệp từ “nhớ” lúc này phát huy cực điểm tác dụng chính của mình là bộc lộ nỗi
nhớ, ta có thể hình dung về những tháng ngày cùng đồng đội vào sinh ra tử của
tác giả khiến cho nỗi nhớ kia ngày càng thêm cháy bỏng, da diết đến quặn lòng.
Rừng núi Tây Bắc vừa bí ẩn, hoang vuu vừa lãng mạn trong đôi mắt nghệ sĩ trẻ,
“nhớ rừng núi” cũng chính là nhớ về những gương mặt sát cánh trên con đường
hành quân, là nhớ về Tây Tiến. Từ láy “chơi vơi” đặt cuối câu thơ là một sáng tạo
độc đáo, nỗi nhớ không cạn, cũng chẳng tận trời cao, cứ “chơi vơi” lơ lửng, huyền
ảo như một làn sương hoài niệm chẳng lúc nào tan biến. Xuân Diệu cũng từng tận
dụng từ láy đắt giá này trong bài Nhị Hồ:
Là một sự sắp xếp khéo léo hay tình cơ mà điệp vần “ơi” trong các tiếng “ơi”,
“chơi”, “vơi” “hơi” cùng tạo ra một âm hưởng mênh mang như càng thêm mở
rộng chiều kích cho nỗi nhớ. phải chăng là một khúc ca mà lữ khách tốn bao nhiêu
tâm tư để mời gọi, hãy vào đây, hãy nhìn đồng đội thân yêu của tôi đi, họ đã
mạnh mẽ chiến đấu đến chừng nào. Nỗi nhớ càng được khắc họa cụ thể ở hai câu
thơ sau”
Vậy là ở bốn câu thơ đầu, với âm điệu thơ sâu lắng, Quang Dũng đã kết hợp hài
hòa chất hiện thực và lãng mạn, càng cho ta thấy được ngòi bút tài hoa, phóng
khoáng của ông. Nói như nhà thơ Vân Long “Nhà thơ Quang Dũng như “bóng mây
qua đỉnh Việt” và là một áng mây bay qua sống núi nước Việt. Mây Quang Dũng
bay đến đâu, hoa lá cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy”. Con sông chiến
trận qua ngòi bút Quang Dũng cũng trở nên có hồn như vậy đấy.
Những câu thơ tiếp theo được Quang Dũng tận dụng tất cả sự đa tài của mình để
khắc họa địa hình hiểm trở của núi rừng Tây Bắc:
Đây là đoạn thơ được tác giả miêu tả rất thực về con đường hành quân đầy gian
khổ. Ngang tầm với núi rừng hùng vĩ chính là tinh thần quả cảm của những người
lính Tây Tiến. Điệp từ “dốc” kết hợp với từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả
sự quanh co, hiểm trở của địa hình Tây Bắc. Câu thơ bảy chữ mà đến tận năm chữ
được gieo thanh trắc tạo âm điệu trúc trắc, gọi cho người đọc một thế núi cheo
leo, gập ghềnh. Thậm chí chỉ cần đọc câu thơ lên đã hình dung hình ảnh người
lính vất vả, từng hơi thở gấp gáp giữa sườn núi chông chênh. Từ láy “heo hút” ở
đầu câu thơ thứ hai cho thấy sự hoang sơ, vắng vẻ cùng cảm giác bí ẩn, dường
như ta có thể cảm nhận âm vang núi rừng từ bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ. Đảo
ngữ một cách khéo léo đã giúp cho núi Tây Bắc được vẽ ra với khung cảnh đậm
chất hùng vĩ, đỉnh núi cao đến mức ngập vào những cồn mây trắng như ngọn
đuốc hiên ngang phía sau tàn sương mà chiến đấu vậy. Tác giả sử dụng hình ảnh
nhân hóa “súng ngửi trời” góp phần tạo thêm sự thú vị cho bài thơ, vừa có thể
thấy được độ cao chót vót, vời vợi của ngọn núi mà cùng vừa thấy được sự tinh
nghịch, dí dỏm đặc trưng của Quang Dũng – một người lính lạc quan, hài hước.
Điệp ngữ “ngàn thước” cũng là hoán dụ ước đoán phỏng chừng đã gợi sự vô
cùng, vô tận của thế núi. Hai vế tiểu đối trong câu thơ đã vẽ ra một sườn núi dốc
dựng đứng, lên tận cao vót và đổ xuống rất sâu, bao nhiêu là nguy hiểm, bao
nhiêu là gian khó. Thế núi đang “khúc khuỷu” là thế, vậy mà nhìn lưng chừng sườn
núi, “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, câu thơ trải dài toàn thanh bằng mở ra một
không gian xa và rộng. Tưởng chừng như đang đứng ở một vách núi đưa mắt về
phía xa, trong màn sương lại ẩn hiện thấp thoáng những ngôi nhà sàn. Cảnh
tưởng phút chốc lại trở nên lãng mạn biết bao, đâu còn những khung cảnh trần
trụi tàn khốc nữa. Đây cũng là một trong những bằng chứng thi trung hữu họa vô
cùng đắt giá của Quang Dũng.
Như vậy, bốn câu thơ phối hợp hài hòa đã vẽ ra một bức tranh sinh động về con
đường hành quân của những người lính. Cách gieo thanh bằng trắc và sắp xếp
gam màu nóng lạnh đã gợi ra những nét vẽ gân guốc, mềm mại xen kẽ. Khổ thơ
nhờ vậy mà được xoa dịu, đây không hẳn là che giấu đi hiện thực tàn khốc mà là
lấy cái nhìn lạc quan, tâm hồn phiêu lãng của đời trai trẻ để tiến ra chiến trận.
Thế nhưng, dẫu có lạc quan đến mấy cũng không thể nào phủ nhận một sự thật
tàn khốc của chiến tranh:
Là những mất mát, hi sinh, là những lần chia ly âm dương chẳng dám hẹn, nước
mắt chực rơi nhưng phải “trừng mắt” nhìn về phía trước. Và Quang Dũng đã dành
những cảm xúc chân thành nhất để viết:
Hai tiếng “anh bạn” nghe sao thân thương mà chua xót quá, những đồng chí mới
vai kề vai mà quay đi nhìn lại đã chẳng còn nữa. Từ láy “dãi dầu” kết hợp với hình
ảnh hoán dụ “không bước nữa” để giảm đi sự đau thương của những người lính.
Đồng đội vừa đập vai, bôi thuốc, vừa chia nhau bát cơm đang dần ngã xuống. Các
anh biết đồng đội mình mạnh mẽ lắm. Vậy nên dẫu có ngã xuống cũng sẽ ở một
tư thế hiên ngang nhất: “Gục lên súng mũ”, tim đã ngừng đập nhưng tâm hồn
dành cho núi song vẫn còn đó. Anh đã quỳ xuống, ôm súng trong tay, đưa mắt
hướng về đồng đội lần cuối. Bom đạn mù mịt che đi những người mà anh yêu
quý. Cách nói giảm, nói tránh vốn dĩ đã làm giảm bớt sự buồn đau của sự việc, thế
nhưng vẫn giữ được đúng tinh thần thép của những người lính. Khi họ dứt áo ra
đi là đã gạt tình yêu riêng sang một lối nhỏ, toàn tâm toàn ý cho tình yêu đất
nước. Câu thơ của Quang Dũng đã diễn tả đúng chất của âu “quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh”. Như vậy, hiện thực thê lương đâu còn nữa, nay chỉ còn khí thế
hào hùng trong bức tranh đầy bi tráng mà tác giả vẽ lên thôi. Lê Anh Xuân cũng có
những câu thơ:
Ngọn lửa hào hùng trong thơ văn chưa dừng lại ở đó, đồng đội anh chết nhưng
động đội vẫn tồn tại còn đang chiến đấu. Hành trình chưa bao giờ kết thúc:
Phép đảo ngữ “nhớ ôi Tây Tiến” bao gồm từ cảm thán đã nhấn mạnh sự hoài
niệm mãnh liệt về một vùng đất tình người. Hình ảnh ảnh cơm lên khói vừa chân
thật vừa trữ tình, cùng với mùi hương “thơm nếp xôi” của vùng đất Mai Châu đã
khắc họa tình quân dân vô cùng ấm áp. Nhắc đến tình quân dân thì có lần Quang
Dũng chứng kiến người mẹ Hòa Bình tự vắt sữa mình cho đồng đội anh uống,
đồng đội anh lúc ấy bị thương khá nặng. Hóa ra những người lính như Quang
Dũng cầm súng trên tay để bảo vệ những điều bình dị như thế. Tác giả đã vô cùng
sáng tạo khi khi dùng từ “mùa em” đây là một từ từ ghép độc đáo gợi nét trẻ
trung, thể hiện tình cảm của mình và đoàn quân Tây Tiến đối với những con người
nơi đây.
Vậy là qua 14 câu thơ đầu với sự kết hợp hài hòa giữa ngòi bút hiện thực và lãng
mạn, Quang Dũng đã thành công dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, cùng với
đó là nỗi nhớ da diết về những ngày tháng vào sinh ra tử cùng đồng đội. Từ nỗi
nhớ “chơi vơi” lưng chừng trong tâm trí giờ đây đã khẳng định “nhớ ôi Tây Tiến”
là cảm xúc chủ đạo toàn bài. Qua đó, ta có thể thấy tinh thần của những người
lính dẫu có “dãi dầu” hi sinh thì vẫn hi vọng ngày chiến thắng, vẫn kiêu hùng bước
từng bước hiên ngang chẳng hề lo sợ.
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp đã từng nhận xét “Nếu như Chính Hữu viết về
những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp
của người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng
của hình tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp
toàn bích của nó”. Thật vậy nối tiếp bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về đêm liên
hoan văn nghệ vui với đồng bào và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Động từ “bừng lên” là một chi tiết đắt giá khiến cho đêm tối mịt bỗng bừng sáng
với những âm thanh vui tươi, sôi động. Một lần nữa hình ảnh “hoa” xuất hiện lần
này là hoa chúc, hoa của ngọn lửa góp vui cho đêm văn nghệ. Đó là những tâm
hồn lạc quan vì không biết ngày mai có còn tiếp tục được sống hay không nên
cháy hết mình trong đêm. Linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái vùng sơn
cước bất ngờ xuất hiện trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Hai tiếng “kìa em” cùng
với câu hỏi tu từ “tự bao giờ” đã diễn tả tâm trạng bất ngờ phấn khích của những
người lính, vừa ngạc nhiên, thú vị vừa tinh nghịch, đáng yêu. Một từ láy “e ấp” đã
gợi ra nét thanh thoát e thẹn ngại ngùng của những cô gái trẻ. Tuy vui vẻ là thế
nhưng những người chiến sĩ vẫn không quên nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ thiêng
liêng tiến về phía trước phối hợp với nước bạn bảo vệ biên giới Việt – Lào. Vì vậy
mà “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Giọng thơ trở nên vui nhộn, hóm hỉnh, trẻ
trung nhưng không làm mất đi tinh thần khí phách của người lính.
Bức tranh miền Tây sông nước thơ mộng trữ tình của tác giả vẽ ra thật sinh động:
Một không gian mênh mông huyền ảo xuất hiện, chắc hẳn “chiều sương ấy” là
một buổi chiều sương giăng với nhiều kỉ niệm. Ta có thể thấy khi đoàn quân ăn
bước qua nơi này tâm họ đang lặng để nhớ về điều gì xa vời lắm, có thể là đồng
đội vừa mất của họ, có thể là nỗi nhớ miên man về thời thơ ấu về một ánh mắt
gieo bao tương tư chờ đợi. Điệp từ “có” và sự bắt vần giữa các tiếng “ấy”, “thấy”
cùng những câu hỏi tu từ “có thấy” “có nhớ” cho ta biết nhà thơ đang đắm chìm
trong sự hoài niệm. Trong hiện thực tàn khốc của chiến tranh vẫn luôn hiện diện
những khoảng lặng như thế. Tác giả hỏi người nhưng thật ra là tự hỏi lòng mình
tự nói với mình dùng câu hỏi để khẳng định. Quang Dũng đã xuất sắc để người
đọc thấy được luôn có một nỗi nhớ thường trực trong tâm trí ông. Các cụm từ
như “hồn lau”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa đong đưa” đã làm bức tranh
sinh động hơn hẳn. Độc giả có thể hình dung cả vạn bông lau phất phơ theo gió
như có hồn người tiễn chân các anh ra trận. Phía xa là những cô gái Thái với dáng
hình uyển chuyển mềm mại trên chiếc thuyền độc mộc vượt qua dòng lũ sông
Mã. Từ láy “đong đưa” vô cùng duyên dáng đưa câu thơ trở nên có hồn hơn tình
từ hơn. Hình như khung cảnh chiều lộng gió với những nét vẽ đơn sơ, thanh thoát
luôn tạo cảm hứng cho Quang Dũng
Như vậy, đoạn thơ miêu tả cảnh sông nước miền Tây đã mở ra trước mắt người
đọc thế giới của cái đẹp của âm nhạc. Nói như Xuân Diệu thì đọc bài thơ Tây Tiến
“ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”, chất thơ và chất nhạc được
Quang Dũng hòa quyện khéo léo khiến ta cứ say trong một điệu du dương không
cần người sướng. Nếu rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan rơi
vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm say lòng người nhưng dễ nông cạn” (Chế Lan
Viên). Và thơ của Quang Dũng thì vừa sâu vừa có ý vừa say cả nhạc.
Ở những câu thơ tiếp theo, chân dung người lính trên nền hùng vĩ, dữ dội lại càng
thêm phi thường, bi tráng
Đảo ngữ “Tây Tiến đoàn binh” để nhấn mạnh khí chất của đoàn quân trong hồi ức
của nhà thơ, lại nhớ về những ngày đầu những anh lính nuôi dưỡng, quý mái tóc
phi-lô-dốp của mình. Các anh vừa tắm vừa gội đầu, hãnh diện với mái tóc của
mình lắm. Nhưng tại sao lại là “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”? Vì các anh
còn xông pha chiến trận còn đánh giáp lá cà với bọn địch, các anh còn chịu rét mà
rụng tóc. Hiện thực khắc nghiệt buộc những người lính đứng dậy với một diện
mạo mới chẳng còn dáng vẻ thư sinh của chàng trai Hà thành nữa. “Quân xanh
màu lá” cũng là một hình ảnh thực chỉ màu xanh lá ngụy trang trong lối đánh du
kích của quân đội ta và cũng là màu da xanh xao của người lính chịu cơn sốt rét
nhưng vẫn kiên cường.
Câu thơ vừa đối lập lại vừa ẩn dụ vẻ xanh xao trong mắt nhà thơ càng trở thành
tựu văn cường bất khuất. Các anh chiến sĩ giờ đây mang trên mình một khí thế dữ
tợn, oai phong của “chúa sơn lâm”. Cách so sánh này đã từng xuất hiện trong bài
thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão
Bằng bút pháp tả thực Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh trần trụi khốc liệt về
chiến tranh nhưng sự trần trụi ấy lại đậm tính lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà ta vừa
cảm thương vừa khâm phục những người lính vô cùng. Vẫn là theo mô tuýp bài
thơ, sau khi dùng như ý thơ để tả hiện thực bi tráng thì đến tiếp theo là những
câu thơ của một tâm hồn lãng mạn, tài hoa.
Trong những ngày ngập chìm bom đạn khói lửa, những lần suýt chết trong gang
tấc, tâm hồn họ lại nhạy cảm và mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hình ảnh “mắt trừng”
vừa là cách nói cường điệu của bút pháp lãng mạn vừa là hoán dụ. Người đọc có
thể hình dung về người lính trong những đêm nhớ nhà, nhớ quê, họ trằn trọc với
tấm chân tình đã phủ khăn từ rất lâu rồi, họ trằn trọc suy tư về con đường hành
quân ngày mai. Mặt khác “mắt trừng” là cách thể hiện sự căm thù tức giận của
người lính, họ có thể ngã xuống nhưng niềm hi vọng đánh tan giặc thì không bao
giờ dập tắt được. Đều là những chàng trai Hà thành hào hoa lãng tử, họ đã quên
đi mối tình chóng vánh mới nở ở quê nhà yêu dấu để bước chân lên đường chiến
đấu. Phải đánh tan lũ giặc thì mới bảo vệ được người mình yêu, mới cho người
mình thương cuộc sống tự do hạnh phúc. Ở nơi này “dáng kiều thơm” chỉ dám
xuất hiện trong đêm mơ. Câu thơ có vậy mà đã gây ra bút chiến, lại nhớ nhà thơ
Lưu Trọng Lư đã từng viết: “Người Đức họ không cấm thanh niên họ đọc Werther
mà họ vẫn cường, người Anh họ không cấm thanh niên họ đọc Romeo et Juliette
mà họ vẫn mạnh. Tôi dám chắc chỉ có những nhà nhân đạo mới tự cấm lấy mình
thôi. Nếu cầm hết đi như vậy thì còn biết chi là cái hay cái đẹp ở đời” Hai câu thơ
diễn tả tâm trạng rất thật của người lính trên đất Lào, họ gửi nỗi nhớ qua biên
giới cũng chẳng chờ hồi âm chỉ mong chiến thắng.
Nhờ những nét tiêu biểu mà Quang Dũng chọn lọc thật kỹ lưỡng, đoạn thơ thứ ba
đã khắc họa lên tượng đài tập thể của người lính Tây Tiến: vừa bi tráng lại vừa
lãng mạn, nét bút không ngơi nghỉ mà tạo ra khí thế hào hùng. Nói Quang Dũng là
một trong những nhà thơ hàng đầu thời kỳ chống Pháp Quả là không sai.
Hi sinh mất mát trong chiến tranh là điều hiển nhiên, cũng là một điều cấm kỵ
trong giới làm nghệ thuật lúc bấy giờ. Ấy vậy mà qua “Tây Tiến”, lý tưởng quên
mình đó không còn sự bi lụy, thê lương
Có người nói cảm hứng của Quang Dũng đôi lúc sắp chìm vào trạng thái bi thương
thì ngay lập tức được nâng đỡ bởi đôi cánh lý tưởng lãng mạn. Từ láy “rải rác” ở
đầu câu thơ kết hợp với những từ Hán Việt như “biên cương” “viễn xứ” đã làm
bức tranh nhuốm màu tang thương, một sự thật nghiệt ngã và đau lòng. Đối mặt
với bom đạn tinh thần con người có cao đến mấy cũng chỉ tan xương nát thịt.
Cuộc đời của những chàng trai trẻ mãi mãi bỏ lại nơi xa xôi. Dường như, họ đã
phụ lòng chờ đợi của những người ở quê hương yêu dấu. Đảo cấu trúc “chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh” khiến cho giọt nước mắt bi thương kia được hong
khô hẳn. Giờ đây chỉ còn tâm thế cầm chắc súng, hiên ngang sẵn sàng đấu tranh
bảo vệ dân tộc. Hình ảnh hoán dụ “đời xanh” đã gây ra sự quên mình vì tổ quốc
của người lính ở độ tuổi đẹp nhất họ cống hiến sức người thanh xuân của mình
cho sự nghiệp của Tổ quốc. Đúng, đó chính là tinh thần trong câu “quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh”. Từ phủ định “chẳng tiếc” để khẳng định tầm vóc lớn lao lý
tưởng cao đẹp của binh đoàn Tây Tiến. Sương giăng hay khói lửa cũng chẳng làm
mờ đi hình tượng người lính. Tính phi thường trong câu thơ còn nằm ngay ở cái
chết
Nơi chiến trường trận mạc, những người lính nằm xuống cũng chẳng có tấm chiếu
manh để che đậy. Tác giả gọi áo người lính là “áo bào” để bày tỏ sự kính trọng. Họ
vẫn được xem như những vị quan thời xưa được “da ngựa bọc thây” khi tử trận
nơi sa trường. Hiện thực tuy khắc nghiệt nhưng cái chết vẫn trang trọng qua vần
thơ của Quang Dũng.
Nghệ thuật nói giảm “anh về đất” chỉ sự ra đi nhẹ nhàng và lý tưởng. Các anh chỉ
trở về đất mẹ sau một kiếp rong ruổi đầy bụi trần mà thôi. Hình ảnh nhân hóa
“sông Mã gầm lên” kết hợp từ Hán Việt “khúc độc hành” đã tạo ra một giọng thơ
đang hào hùng bi ai bỗng ngay lập tức trở nên bi tráng. “Sông Mã cọp gầm”, ngay
cả chúa rừng xanh cũng thương tiếc cho người lính, rừng thiêng sông núi như
dâng một khúc ca hoành tráng để tiễn đưa vong linh người đã khuất càng làm cho
khí thế đoàn quân thêm phần mạnh mẽ. Đồng đội của họ đã ngã xuống, họ phải
tiếp tục chiến đấu vì lý tưởng vì quê hương, vì trả thù.
Bút pháp lãng mạn kết hợp với cảm hứng bi tráng đã giúp nhà thơ khắc họa chân
thực cái chết của người lính vừa oanh liệt vừa hào hùng. Chân dung người lính
qua câu thơ đã thể hiện nét phi thường từ diện mạo, tâm hồn cho đến khí phách.
“Thơ là thơ đồng thời họa là nhạc là chạm khắc theo một cách riêng” (Sóng Hồng).
Ở đoạn thơ cuối cùng, tác giả mang đến lời thơ gắn bó với Tây Tiến dẫu chỉ bằng
hồi ức:
Đoạn thơ mang nhiều ý nghĩa, song đảo ngữ “Tây Tiến người đi” để thấy tinh thần
quyết chiến của người lính, đã dứt áo ra đi thì chẳng trông mong ngày trở về. Bởi
“đường lên thăm thẳm một chia phôi”, từng mạng từng mạng cứ thế bị bỏ lại phía
sau. Cái giá của chiến thắng thật sự quá đắt. từ láy “thăm thẳm” khiến ta bất giác
rùng mình, lòng can đảm và quyết tâm phải lớn đến mức nào mới nói ra lời đanh
thép như thế. Hoặc có thể thấy tác giả rời đơn vị cũng chẳng hẹn ngày gặp lại,
đồng đội vẫn tiếp tục hành trình nhưng chẳng còn xuất hiện trong tâm trí nhà thơ
nữa. Ông dùng sự dứt khoát để dồn nén nỗi nhớ, đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ tinh
thần quyết thắng của cả toàn quân. “Mùa xuân ấy” hẳn là mùa xuân thành lập,
mùa xuân hi vọng chiến thắng của đoàn quân Tây Tiến. Dẫu phải xa đơn vị nhưng
một lần cùng Tây Tiến đi về Sầm Nứa thì hồn cũng như tâm trí nguyện đi theo họ,
chẳng cần trở về. Chỉ vài câu thơ ngắn ngủi đã tái hiện toàn bộ hành trình chiến
đấu, giọng thơ lãng mạn mà kiêu hùng mấy thập kỷ, “Tây Tiến” vẫn luôn là một
rương kho báu chờ người khai phá. Sự hấp dẫn lôi cuốn và những bí ẩn trong câu
thơ vẫn còn mãi, nó khiến ta “dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi và đọc lại bài
thơ một lần nữa”.
Nói tóm lại, Tây Tiến là bài thơ xuất sắc, đưa “tầm vóc của nhà thơ sánh ngang
tầm chiến lũy”, cho thấy dấu triện riêng của Quang Dũng quả thật vô cùng đắt giá.
Bản viết tay với những con chữ nguệch ngoạc trong đêm Phù Lưu Thanh vẫn còn
nguyên, đó là những con chữ xuất thần mang cả hồn rừng núi Tây Bắc và những
đêm ngày vất cả của người lính. Cuộc đời Quang Dũng bình dị như màn sương
nhưng cốt cách và tinh thần ông lại như ngọn đuốc cháy trong đêm sương ấy vậy.
“Hào khí của thời đại đã chấn động trong tâm hồn anh, và tiếng thơ riêng biệt của
anh có phần âm vang của hào khí ấy”. Hiếm có một bài thơ nào vừa bi tráng vừa
lãng mạn đến như thế, sau này chỉ mong những người khai phá con chữ nâng niu
vần thơ ông một chút. Hãy bắt đầu từ nỗi nhớ, cả đời người nghệ sĩ ấy đều dành
cho hồi ức, hồi ức về những năm tháng chẳng màng bão đạn, mưa giông. Cả đời là
một khúc ca bi tráng, kiêu hùng…
* Tác phẩm
“Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện
thực thì Quang Dũng đã tái hiện về đẹp người lính bằng đôi cánh lãng
mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng… Nếu
thiếu đi cái chất lãng mạn, “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích
của nó.“
“Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm
nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng”.
( Bình giảng Văn học Việt Nam)
Tố Hữu viết về nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng miền xuôi với thiên
nhiên và con người Việt Bắc:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”
Nhưng Quang Dũng trong bài thơ này đã diễn tả nỗi nhớ một cách đầy
mới lạ “nhớ chơi vơi”. Câu thơ vừa vẽ ra được trạng thái cụ thể của nỗi
nhớ vừa hình tượng hóa nỗi nhớ nỗi nhớ da diết, thường trực, ám ảnh,
mênh mông, bao trùm cả không gian và thời gian
Những sự hi sinh ấy đều là của những con người bình dị mà anh hùng.
Chính họ đã góp phần hóa thân thành Đất Nước và làm nên truyền thống
yêu nước, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm:
“Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên đất nước”
– Phong thái “dữ oai hùm” – Mượn hình ảnh con hổ để nói đến khí thế và
sức mạnh dân tộc là một cách nói truyền thống trong thơ ca: “Tam quân
tỳ hổ khí thôn Ngưu” (Phạm Ngũ Lão), “Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng
chói” (Trương Hán Siêu).
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
– Năm 1946 Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định
“Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”. Tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Sóng
Nếu như Xuân Diệu đã từng thổn thức vì tình yêu, dâng hiến trọn đời cho tình yêu,
chạy vội với thời gian để được yêu thì Xuân Quỳnh cũng thế, cũng từng thấp thỏm, lo
âu, đau khổ vì yêu. Nhưng dù sao đi nữa, là phận nữ nhi nên người rất ít tỏ ra táo bạo,
quá mạnh dạn như Xuân Diệu. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta thường bắt gặp hình ảnh con
sóng, chiếc thuyền nói hộ tình yêu… Cũng vì lẽ ấy, suy cho cùng đây chỉ là những chất
liệu dung dị, bình thường nhất trong cuộc sống song lại chứa đựng biết bao là ẩn ý, biết
bao là ẩn tình mà Xuân Quỳnh muốn bày tỏ. Chúng ta đã đến với Sóng của Xuân
Quỳnh để thưởng thức từng vị thương, vị nhớ của một người phụ nữ đang yêu. Người
ta thường ví rằng tình yêu là một bông hoa kì diệu! Vâng! Quả đúng như thế, tình yêu
chưa bao giờ đi theo một hướng xác định. Cũng có lúc, người ta nhìn nhận tình yêu là
cây đàn muôn điệu gảy lên muôn bản nhạc tình, có khi trầm bổng thiết tha, có khi
nghẹn ngào đau đớn, cũng có khi e ấp, nũng nịu, dễ thương. Thì đây, trong bài thơ này,
tình cảm của nhân vật “Em” cũng biến thiên như thế!
“Sóng” là thơ ngũ ngôn, một thể thơ rất phù hợp để kể về một huyền thoại tình yêu đầy
ăm ắp những tâm trạng khắc khoải, những cung bậc tình cảm và vì thế bài thơ dễ dàng
được phổ nhạc. Sóng! – là một hình tượng ẩn dụ, là phương tiện bộc lộ tình cảm của
nhân vật “Em”:
Một câu chuyện cổ tích về tình yêu được nhà thơ Xuân Quỳnh kể lại. Câu chuyện bắt
đầu từ một con sóng nhỏ chẳng biết xuất phát từ đâu, sóng hiện ra như một con người
có nội tâm nhiều biến động. Hai trạng thái tâm hồn đối lập nhau, giằng xé nhau, buồn
vui lẫn lộn. Sóng chẳng hiểu tại sao mình lại cứ “dữ dội” rồi “dịu êm”, “ồn ào” rồi “lặng
lẽ”.
Phải chăng sóng đang yêu, yêu âm thầm, lặng lẽ? Vâng! Một tình cảm đang rạo rực
trong trái tim người con gái, làm sao ai có thể “định nghĩa được tình yêu”. Một buổi
chiều mộng? Một lần gặp gỡ? Một phút xao động trong tâm hồn? Người con gái hay
chính nhân vật “Em” trong bài đang cố tìm câu giải đáp cho tình yêu, cho sự bâng
khuâng, đối lập của lòng mình. Và rồi chỉ còn một lối thoát: con sóng phải tìm ra tận bể
cũng như “Em” đi tìm nguồn gốc của tình yêu.
Tâm hồn con người là một cõi mênh mông vô tận. Làm sao ta có thể đi xuyên suốt hết
cái cõi vô tận ấy. Và ngay chính trong lúc cõi lòng đang bùng lên ngọn lửa yêu thương
thì cô gái trẻ lại càng trăn trở, bâng khuâng, khắc khoải, dằn vặt với chính lòng mình.
Phải vượt khỏi cái giới hạn chật hẹp này, phải lao mình vào chân trời bao la, những
miền vô tận để hiểu rõ lòng mình. Con sóng đã rời bờ ra đi, đi thật xa, cố tìm hiểu và soi
mình với những con sóng khác để biết được sự huyền diệu của tình yêu, mà hiện tại
đối với sóng vẫn còn là một bí mật. Tình yêu là gì ư? Một nhà thơ Pháp đã từng khẳng
định: “tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi”. Và thế rồi con sóng vẫn đi tìm
mãi, tìm mãi:
Tình yêu cũng như con sóng, vẫn vĩnh hằng với thời gian và tuổi trẻ. Xuân Diệu đã
từng nói:
Tình yêu gắn liền với tuổi trẻ. Tuổi trẻ là trái tim dào dạt, đa cảm và rạo rực niềm yêu
thương chất sống. Chính vì thế, mà cái khát vọng tình yêu cứ bồi hồi trong ngực trẻ, nó
cứ thúc đẩy tuổi trẻ đi tìm chân lý yêu đương, cũng như con sóng “ngày xưa và ngày
sau vẫn thế”. Tuy nhiên, câu thơ “bồi hồi trong ngực trẻ” là một câu thơ chưa chín. Thật
ra ngực trẻ hay ngực già… đều nồng nàn và bồi hồi trước tình yêu. Song, sóng và em
cứ tìm mãi mà chẳng hiểu mình, chẳng thể hiểu được tình yêu. Sóng chính là điển hình
của sự nhận thức về cái “quy luật” không thể cắt nghĩa được tình yêu:
Sóng bắt đầu từ gió – Vâng! Gió bắt đầu từ đâu? Tình yêu bắt đầu từ đâu? –“Em” cũng
không biết nữa. Đọc những câu thơ này, ta chợt hình dung cái lắc đầu nhè nhẹ như
một sự bất lực của cô gái. Trong khi người con gái cố đi tìm cội nguồn tình yêu thì tình
yêu trở thành trò chơi ú tim, không tài nào nắm bắt được. Và thế là, muôn đời tình yêu
vẫn là sự bí hiểm. Tình yêu của “Em” giờ đây trở thành nỗi nhớ da diết, giày vò. Nó
choáng đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bề rộng, nó trải dài trong mọi thời
gian. Phạm Đình An đã nhận xét: “Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng lại ở
mức độ yêu buổi đầu giản đơn hò hẹn, non nớt, ngọt ngào, mà là tình yêu hạnh phúc,
tình yêu gắn bó với cuộc sống chung với nhiều đòi hỏi ở chiều sâu tình cảm, với nhiều
chứng minh của thử thách, mang đậm dấu ấn trách nhiệm”. Chính vì thế mà tình yêu
của người “Em”. Ở đây có thể nói không còn bồng bột mà khá chín chắn, có sự can
thiệp của lý trí, có ý thức về mặt tình cảm. Ấy thế mà trong lòng người con gái vẫn trỗi
dậy mãnh liệt một nỗi nhớ muôn hình, muôn sắc:
Nỗi nhớ của “Em”, của tình yêu dữ dội được khởi đầu từ những cái cao cả lớn lao,
không tủn ngủn và tầm thường chút nào! Nỗi nhớ ấy da diết, cuốn lấy tâm hồn người
con gái! Với Xuân Quỳnh là thế: mọi con sóng đều có bờ, mục đích là vỗ vào bờ, nên
khi sóng xa bờ thì phải nhớ bờ, ngày đêm không ngủ được. Cũng như sóng, nỗi nhớ về
“Anh” vẫn dào lên mãnh liệt:
Tình yêu đến, tình yêu mang theo một nỗi nhớ vô bờ đến với “Em”, choáng ngợp tâm
hồn “Em”. Tình yêu đã trở nên đậm đà đến thế, và nỗi nhớ lại càng da diết miên man.
“Có không gian nào dài hơn chiều dài nỗi nhớ, có một khoảng mênh mông nào sâu
thẳm hơn tình yêu…”. Vâng! Làm sao đo được nỗi nhớ, làm sao đo được tình yêu!
“Em” vẫn nhớ đến “Anh”, chỉ nhớ về phương anh mà thôi:
Tình yêu thật huyền diệu! Điều đáng nói là “Em” biết chủ động, biết gửi trao nỗi nhớ về
hướng xác định: Phương anh! – Phương của tình yêu: “rợp trời thương ấy mấy màu
xanh suốt, mà em nghiêng hết ấy mấy về phương anh, mà em nghiêng hết ấy mấy về
phương anh…”. Tình yêu của người phụ nữ thật mãnh liệt nhưng cũng thật trong sáng,
dung dị, một tình yêu thủy chung và trọn vẹn. Song, để toàn vẹn mối tình ấy, con sóng
phải vượt qua muôn ngàn cách trở:
Con sóng muốn tới bờ, phải vượt qua bao giông tố, bão bùng. Em muốn hướng về anh,
phải vượt qua bao cạm bẫy cuộc đời. Suy cho cùng, tình yêu phải cần thử thách tôi
luyện mới thấy rõ giá trị thực sự của nó. Tình yêu muốn tồn tại cũng phải có sự ra đi và
trở lại, phải có sự dồi lên, lắng xuống để cuối cùng trở về với tình yêu hồn nhiên thuở
đầu.
Chính tình yêu của anh đã giúp cho em vượt qua tất cả, đón nhận một tình yêu vĩnh
cửu – tình yêu lớn lao và cao thượng, không mang màu sắc vị kỉ, riêng rẽ mà là hoà
trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng sẽ tồn tại mãi mãi:
Tình yêu sẽ trưởng thành đằm thắm hơn và sẽ vĩnh hằng trong cái đẹp của tạo hoá.
Bài thơ kết thúc rồi mà nhịp điệu êm ái, nhẹ nhàng của tình yêu vẫn còn vương đọng
đâu đây. Bài thơ thành công không chỉ trong việc miêu tả hình tượng “Sóng” mà còn
bộc lộ một tình yêu thật sôi nổi, nỗi khao khát tình yêu của một nhà thơ nữ. Đây chính
là nét mới mẻ trong thơ ca hiện đại Việt nam.
Trong rất nhiều loài hoa thì bông hoa Xuân Quỳnh tỏa ra một hương thơm riêng, một
cách cảm nhận riêng về sóng – biển trong tình yêu. Tình yêu như con sóng mênh
mang, vô tận, song cái đích cuối cùng cũng là một tình yêu thứ nhất, vĩnh hằng mãi
mãi.
1. Khi phân tích bản lĩnh kiên cường của người con gái ở khổ 6, gợi chúng
ta liên tưởng đến câu ca dao:
2. Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong khổ 6, ta cũng từng
bắt gặp vẻ đẹp đó trong thi phẩm “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân
Hương:
Ta từng bắt gặp hình tượng sóng trong những câu ca dao xưa:
1. Nhân vật Mị
a. Sự trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc
- Liên hệ:
+ Khát vọng hạnh phúc và lương thiện của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của
nhà văn Nam Cao.
+ Truyện ngắn “Một con người ra đời” của Maksim Gorki.
Vào năm 1892, ở miền Nam nước Nga, một đoàn người đói khổ kéo nhau đến
Otsemtsiry kiếm việc làm, họ đến vùng ven biển. Trong đoàn người này, có một phụ
nữ trẻ, khỏe mạnh, mang thai sắp đến ngày sinh nở. Chị chuyển dạ và lên cơn đau dữ
dội. Nhờ sự giúp đỡ của một chàng trai, người phụ nữ đã vượt qua đau đớn, sinh được
một bé trai đầu lòng khỏe mạnh kháu khỉnh.
=> Đứa bé đã đem đến cho người mẹ cùng đoàn người đói khổ kia một tia hi vọng để
họ vượt qua những giao lam vất vả và vươn tới hạnh phúc.
- Triển khai viết:
Phải chăng trong tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh? Cô Mị một thời trẻ đẹp, yêu
đời nay đã hoàn toàn an phận trong cuộc sống nô lệ, sống mà như chết ấy? Không,
ngòi bút của nhà văn không chỉ hướng vào cái ảm đạm, mặt đen tối của cuộc đời mà
còn thiết tha hướng tới sự sống và ánh sáng. Tô Hoài đã tìm sâu vào tận cùng của ý
thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật, cho thấy những vẫn còn le lói chút ánh sáng
và hơi ấm của niềm ham sống, của khao khát hạnh phúc. Như dưới lớp tro dày nguội
lạnh kia vẫn ủ chút than hồng, chỉ chờ một ngọn gió thổi đến là bùng lên mãnh liệt.
Trước đó không lâu, trong truyện ngắn “Chí Phèo” ngòi bút nhân đạo của nhà văn
hiện thực xuất sắc Nam Cao từng khơi bùng lên những khát vọng hạnh phúc và lương
thiện ở Chí, một kẻ đã tưởng như không còn đời sống tâm linh con người với một
hình hài không ra con người nữa, kẻ mà người đời gọi là quỷ dữ. Nối tiếp và chảy dài,
Tô Hoài đã góp thêm vào truyền thống nhân đạo của văn học ta một tiếng nói có sức
mạnh khi khắc họa sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc nơi Mị -
một con rùa lùi lũi trong xó cửa. (Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình
mùa xuân và đêm đông cắt dây cởi trói cứu A Phủ).
b. Mị - nạn nhân của xã hội thực dân phong kiến miền núi
- Liên hệ: Em có thể tùy ý lựa chọn các hình tượng nhân vật chịu sự tác động của
hoàn cảnh xã hội.
+ Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu. Nạn nhân của xã hội mới đầy nhọc nhằn, khốn khó.
+ Thị trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. Nạn nhân của nạn đói khủng khiếp và
dữ dội năm 1945.
- Triển khai viết:
Con người nhỏ bé cùng số kiếp nhọc nhằn, họ vẫn đang “vật lộn” với những lo toan
riêng trong đời sống chung, họ lẩn khuất khắp mọi nơi không chỉ trên đất ta. Và rồi
“nhà văn tồn tại trên đời trước hết là để làm công việc như kẻ nâng giấc cho những
người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường … để
bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” - Nguyễn Minh Châu. Với
Tô Hoài, qua những tác phẩm của mình, ông đã làm tròn thiên chức ấy, đặc biệt là với
truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Ở đó ta sẽ thấy một cô Mị - cái mảng sống im lìm, tối
tăm, cực nhọc được phơi bày cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà quan thống lí:
“nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. Năm tháng trôi đi, người con
dâu gạt nợ sống trong nhà thống lí Pá Tra là một chuỗi dài cực nhọc, vất vả nối tiếp
nhau, là sự bóc lột và hành hạ mà Mị phải chịu đựng: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi
nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau tiếp nhau vẽ ra trước
mắt, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại… Con ngựa, con trâu làm còn có
lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu
vào việc cả đêm cả ngày”. Thêm vào sự đọa đày về thể xác ấy, còn là ách áp chế về
tinh thần. Mị bị ràng buộc trong ý nghĩ: bố con Pá Tra đã “trình ma” mình là người
nhà nó rồi, thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi! Mê tín, thần quyền đã
hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị, nó là thứ “thuốc phiện của tinh thần” đối với Mị,
với những người dân bé mọn. Mãi về sau, khi dân mình đã giành được độc lập, chẳng
còn thực dân hay chúa đất, một cuộc sống mới sẽ mở ra với đầy hứa hẹn và hi vọng.
Nhưng trong chính cuộc sống ta hằng mơ ước đó, Nguyễn Minh Châu lại tìm thấy
những số kiếp nhọc nhằn. Một người đàn bà hàng chài cùng cuộc sống bấp bênh;
khốn khó; tệ nạn xã hội: rượu chè, bạo hành gia đình; thậm chí còn là sự bất lực của
công lí… Chồng chất, ngợp thở, thắt lòng! Thời đại nào cũng vậy! Con người sẽ luôn
chịu sự ảnh hưởng của xã hội, chỉ khác là họ ôm những nỗi đau riêng của thời đại đó
mà thôi!
– “Bản chất văn chương Tô Hoài là phong cách bút pháp đậm đà bản sắc
dân tộc. Phong cách ấy là sự tích tụ của cả một đời gắn bó với đất nước
và con người nhiều miền quê hương, trân trọng và yêu thương những
con người lao động mang tâm hồn và tính cách của người Việt Nam” (Hà
Minh Đức)
– “Đất và người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều, không thể
bao giờ quên. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng
thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi” (Tô Hoài)
– Không chỉ vậy, nếu như trong tác phẩm “Vợ nhặt” chuyện nhặt được vợ
của Tràng tuy được diễn ra trong khoảng không gian vẫn lên mùi chết
chóc nhưng vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình người, của khát vọng sống, khát
vọng hồi sinh. Thì cuộc hôn nhân của Mị tuy diễn ra vào đêm tình mùa
xuân thấm đẫm chất thơ của Tây Bắc nhưng cuộc hôn nhân ấy lại đưa cô
vào chốn “địa ngục trần gian”
=> Có thể thấy, dẫu đều là những con người nghèo khổ, bất hạnh song số
phận của Mị có lẽ còn chua chát, cùng cực hơn thị rất nhiều lần.
Mặc dù cùng bị giam hãm thế nhưng, nếu Thúy Kiều còn được giam hãm
trong một khoảng không gian rộng rãi, thoáng đãng, bao la, bát ngát thì
Mị lại bị giam hãm trong căn phòng chật hẹp, tù túng, nó đen tối như
chính cuộc đời của Mị, nó làm Mị dần mất hết những ý niệm về không
gian, thời gian về cả sự giao tiếp với mọi người.
– Buổi chiều mùa xuân chứa chan cảm xúc trong thơ Huy Cận:
“Kề bên đường tạnh
Cỏ mọc xanh non Chiều xuân tươi mạnh Gió bay vào hồn”
(Chiều xuân)
=> Nếu như Nguyễn Du và Huy Cận tập trung miêu tả cảnh ngày xuân với
không gian vắng vẻ, thanh tịnh, tập trung vào vẻ đẹp tinh khôi, tinh
khiết, đầy sức sống với sắc xanh là chủ đạo thì mùa xuân trong “Vợ
chồng A Phủ” lại vừa rực rỡ sắc màu, vừa rộn rã âm thanh.
Vâng! Tâm hồn con người tự muôn đời nay vẫn thường tìm thấy sự đồng
điệu trong âm nhạc. Có lẽ cũng bởi thế mà đối với người đồng bào dân
tộc thiểu số, đặc biệt là đồng bào dân tộc Mông ở miền Tây Bắc thì âm
thanh tiếng sao chính là điệu hồn, là tiếng lòng của họ…(phân tích ý
nghĩa lời ca tiếng sáo)
– Âm thanh tiếng sáo – âm thanh của sự hồi sinh đã khiến ta liên tưởng
tới hình ảnh bát cháo hành – hương vị của sự thức tỉnh trong tác phẩm
“Chí Phèo” (Nam Cao). Nếu bát cháo hành do Thị Nở mang đến đã nhắc
nhớ Chí về một thời quá khứ đớn đau với nỗi bất hạnh khi bị ruồng bỏ,
thôi thúc Chí phản kháng với hiện thực để hoàn lương. Thì âm thanh
tiếng sáo lại khiến Mị thổn thức về một thời quá khứ đã qua đi, tiếng sáo
gọi về phần thanh xuân tươi đẹp nhất, thôi thúc Mị sửa soạn đi chơi và
rồi ngay cả khi bị trói đứng, âm thanh tiếng sáo vẫn chập chờn trong đầu
người đàn bà bất hạnh ấy. Có thể nói, trong cuộc sống đôi khi những âm
thanh, những hương vị vô cùng giản dị đời thường nhưng cũng đủ khiến
cho người ta khôn nguôi khắc khoải về một thời đã xa. Tiếng sáo đêm
xuân chính là một trong những âm thanh có sức lay động lòng người
như thế.
– Liên: Là một cô gái sống trong đói khổ nhưng tâm hồn vẫn luôn hướng
về cuộc sống tươi đẹp, luôn khát khao hướng về phía rực rỡ ánh sáng,
rộn rã âm thanh, chờ đợi con tàu từ Hà Nội về với niềm tin về một thế
giới khác tươi đẹp hơn, đáng sống hơn.
=> Suy cho cùng, dù trong bất kì hoàn cảnh nào thì lòng ham sống, khát
vọng hướng về một cuộc sống sáng tươi vẫn luôn là khát vọng lớn lao
nhất trong cuộc đời của mỗi con người.
Để bảo vệ sự sống
trộn lẫn dung hòa; Đất Nước chính là "máu xương của
mình", mỗi người phải có trách nhiệm với Đất Nước
Đất Nước không chỉ hiện lên ở không gian địa lý, ở chiều
dài lịch sử, chiều sâu văn hóa mà Đất Nước còn có trong
mỗi người, hiện thân trong mỗi con người.
"Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước"
Đất Nước có trong những hình ảnh bình dị, đời thường
của cuộc sống hàng ngày từ miếng trầu bà ăn, hạt gạo ta
trồng, cây tre ven đường hay những con đường đến
trường, nơi ta từng hẹn hò. Và hơn thế, Đất Nước còn
hóa thân trong hình hài của mỗi con người, có trong máu
thịt, trái tim, hơi thở, sự sống của mỗi cá nhân. Cuộc
sống của mỗi người không chỉ là của riêng mà là thuộc về
Đất Nước, đã và đang thừa hưởng, tiếp nối và phát triển
những giá trị văn hóa, vật chất tinh thần của Đất Nước.
Đất Nước cho chúng ta hình hài, cách sống, cách nghĩ, và
cũng chính là những truyền thống văn hóa, đạo lý từ
ngàn đời nay đã làm nên cốt cách, vẻ đẹp tâm hồn bao
thế hệ con người Việt Nam.
Câu thơ vang lên như một niềm vui sướng, tự hào khi tác
giả nhận thức ra rằng dù anh và em chỉ là một phần nhỏ
của Đất Nước nhưng xiết bao yêu thương, gắn bó khi ta
trở thành những côn dân, một phần tử không thể thiếu
trong cộng đồng Đất Nước.
Bên cạnh sự nhận thức và khẳng định Đất Nước hóa
thân, kết tinh trong cuộc sống của mỗi người, nhà thơ
còn cho thấy Đất Nước là sự gắn bó hòa quyện sâu sắc
giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tinh yêu lứa đôi và tình
yêu Tổ quốc.
"Khi hai đứa cầm tay nhau
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn."
Đất Nước là nơi ta từng họ hẹn, là nơi em "đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm. Và giờ đây, Đất Nước là nơi
"hai đứa cầm tay". Cầm tay để trao gửi yêu thương, thề
nguyện đính ước, để trao duyên mặn nồng. Và khi đó
"Đất Nước hài hòa nồng thắm". Tình yêu lứa đôi trở
thành bệ phóng vun đắp cho tình yêu gia đình, yêu quê
hương, yêu đất nước. Hạnh phúc của mỗi cá nhân được
tạo nên bởi niềm hạnh phúc chung của Đất Nước.
"Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi."
Nếu "khi hai đứa cầm tay" biểu thị mối quan hệ gắn bó
giữa cá nhân với cá nhân, giữa anh và em thì "khi hai đứa
cầm tay mọi người" lại khẳng định mối quan hệ đoàn kết,
yêu thương giữa cá nhân với cộng đồng để làm nên hình
ảnh "Đất Nước vẹn tròn to lớn". Từ "hài hòa nồng thắm"
đến "vẹn tròn to lớn" là cả một bước phát triển đi lên của
lịch sử dân tộc, là quá trình tiếp nhận những giá trị bền
vững, thiêng liêng trong đời sống tinh thần, tình cảm của
mấy nghìn năm Đất Nước để rồi tạo ra mối thân tình
đoàn kết của đồng bào, đồng chí. Và cũng từ đó, những
lời dạy tha thiết và nghiêm khắc của cha ông vẫn luôn là
bài học về đạo lí làm người, về tình yêu thương đùm bọc
gắn bó.
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng"
Những câu thơ tiếp theo đã thể hiện niềm tin vào tương
lai của Đất Nước với một viễn cảnh tươi sáng, huy hoàng:
"Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng."
Các từ ngữ "mai này", "lớn lên", "đi xa" trong tháng ngày
mơ mộng đã cho thấy cái nhìn tích cực về một tương lai
tốt đẹp, một hành trình chinh phục ước mơ thật đẹp đẽ.
Lời nhắn nhủ chân thành, thấm thía của tác giả đã hướng
đến thế hệ mai sau, những người sẽ "gánh vác phần
người đi trước để lại", xây dựng Đất Nước giàu đẹp văn
minh, sánh vai với các cường quốc năm châu như lời Bác
Hồ từng căn dặn. Hai chữ "lớn lên" đã đặt kì vọng, niềm
tin vào trí tuệ, bản lĩnh của nhân dân. Và họ sẽ là người
"mang Đất Nước đi xa" đến với chân trời tươi sáng, đến
với "những tháng ngày mơ mộng". Từ một Đất Nước
nghèo khí hôm qua trở thành một Đất Nước huy hoàng,
rực rỡ, thực hiện được những điều mà ngày hôm qua chỉ
là khao khát, hi vọng.
Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ là cảm xúc trào dâng khi
nhà thơ thấm thía sâu sắc ý thức trách nhiệm của cá
nhân với Đất Nước:
"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời"
Lời thơ thủ thỉ tâm tình "em ơi em" như một tiếng gọi
yêu thương , san sẻ với bao niềm vui sướng khi ta nhận
ra "Đất Nước là máu xương của mình". Vì lẽ đó mà ta
phải biết "gắn bó và san sẻ", "phải biết hóa thân" cho
dáng hình xứ sở. Hai từ "phải biết" nhấn mạnh ý thức
trách nhiệm, nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng của mỗi con
người để làm nên "Đất Nước muôn đời". Đó cũng chính
là mệnh lệnh phát ra từ trái tim mỗi con người Việt Nam
yêu nước để rồi nó trở thành lời hiệu triệu mạnh mẽ mà
tha thiết ngân vang. Để bảo vệ từng tấc đất quê hương,
những con người Việt Nam sẵn sàng đấu tranh và "hóa
thân" cho núi sông, cho Đất Nước mãi mãi trường tồn. Ý
thơ đã cho thấy đây là tiếng thơ "mang sức mạnh ý chí và
khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ".
Có như vậy, ta mới có thể bảo vệ và giữ gìn "Đất Nước
muôn đời".
"Ôi tổ quốc khi cần ta chết
Cho mỗi căn nhà ngọn núi, con sông"
Mượn hình thức tâm tình, thủ thỉ của đôi trai gái yêu
nhau, nhà thơ đã gửi gắm, nhắn nhủ đến thế hệ mai sau
trách nhiệm với Đất Nước. Lời thơ ngọt ngào sâu lắng thể
hiện niềm tự hào sâu sắc và tình yêu đối với Đất Nước,
Đất Nước của "những người chưa bao giờ khuất" bởi
"lòng dân ta yêu nước thương nhà".
Bên cạnh những phát hiện mới mẻ, độc đáo về sự đóng
góp của nhân dân trong việc làm ra không gian địa lý của
Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn hướng vào
dòng chảy xa xăm, sâu thẳm của lịch sử để suy tư, chiêm
nghiệm về công sức của nhân dân trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của dân tộc:
"Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước"
Đoạn thơ mở ra với tiếng gọi tha thiết "em ơi em" như
tiếng hát thâm tình, như lời thủ thỉ trò chuyện với "em".
"Em" có thể là người con gái nào đó trong tưởng tượng
của tác giả, cũng có thể là thế hệ trẻ, những người sẽ kế
tục sự nghiệp của cha ông hay chính là sự phân thân của
tác giả để độc thoại với chính mình. Nhà thơ đã đưa ta về
"nhìn rất xa vào bốn nghìn năm Đất Nước", một đất nước
với lịch sử lâu dài, với truyền thống vẻ vang được tạo nên
bởi sức mạnh, sự vĩ đại của nhân dân.
Nghĩ về bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ đã nhận thức
được người làm nên Đất Nước không chỉ là những anh
hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh, bình
dị:
"Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh"
Với những từ ngữ "người người", "lớp lớp", "con gái",
"con trai", "có biết bao người", "người người" đã gợi lên
ấn tượng về sự đông đảo của nhân dân. Hết lớp này đến
lớp khác, bao thế hệ con người Việt Nam đã kế tiếp nhau
viết nên những trang sử hào hùng của Đất Nước.
Ngược dòng chảy thời gian, chúng ta đã trở về với những
người con gái, con trai bằng tuổi chúng ta bây giờ. Khi
hòa bình, họ cần cù lao động, chịu thương chịu khó, sống
giản dị đầy yêu thương. Khi giặc đến, người con trai ra
trận dũng cảm đấu tranh và trở thành anh hùng, còn
người con gái ở nhà "nuôi cái cùng con", trở thành hậu
phương vững chắc. Họ cùng đồng lòng chung sức để
đánh giặc cứu nước, và "ngày giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh" để Đất Nước mãi tự hào với bao tên tuổi của
những nữ anh hùng như Hai Bà Trưng, Võ Thị Sáu,
Nguyễn Thị Minh Khai,...
Cả đoạn thơ không có một tên riêng, chỉ có những người
con gái, cũng không có một triều đại lịch sử, không có cả
tên một người anh hùng dù "những anh hùng cả anh và
em hôm nay đều nhớ". Có lẽ tên tuổi của họ tổ quốc ghi
công, sử sách lưu truyền:
"Những người đã trở thành anh hùng
Những anh hùng cả anh và em đều nhớ"
Còn những con trai, con gái trong "bốn nghìn năm giống
ta lứa tuổi" thì không ai nhớ mặt đặt tên. Họ lặng lẽ hi
sinh mồ hôi, xương máu, hiến dâng tuổi thanh xuân,
hạnh phúc của mình để "làm nên Đất Nước". Họ thầm
lặng và lớn lao, vĩ đại. Và Đất Nước anh hùng được làm
nên bởi những con người bình thường, mộc mạc mà cao
cả:
"Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hồn"
tinh thần
Nhân dân không chỉ là những người làm ra không gian
địa lý, xây dựng nên giang sơn, gấm vóc, làm nên lịch
sử Đất Nước mà còn là những người viết nên truyền
thống vẻ vang, lưu giữ và truyền lại những giá trị vật chất
tinh thần. Mọi vẻ đẹp văn hóa truyền thống đều do nhân
dân tạo ra và giữ truyền:
"Họ giữ và truyền cho ta hạt giống ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than con cúi
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã làng trong mỗi chuyến di dân"
Từ "họ" được nêu lên như một điệp khúc, như nhấn
mạnh vai trò, công lao to lớn của nhân dân với Đất Nước.
Bên cạnh đó là cặp từ "giữ - truyền" được nhắc lại như
khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người, mỗi
thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước "gánh vác
phần người đi trước để lại", "dặn dò con cháu chuyện
mai sau" để đưa "Đất Nước đến những tháng ngày mơ
mộng."
Nhân dân là những người đã giữ và truyền cho ta hạt lúa
ta trồng để Việt Nam bốn nghìn năm gắn liền với hình
ảnh cây lúa và nền văn minh lúa nước. Hạt lúa được làm
ra từ "một nắng hai sương" như là tinh hoa của đất trời,
kết tinh mồ hôi, công sức của người nông dân trên đồng.
Hạt lúa trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp tần tảo của
người nông dân lao động, biểu tượng cho một cuộc sống
thanh bình, ấm no.
Không chỉ giữ lại hạt lúa cho ta trồng, nhân dân còn
truyền "lửa qua mỗi nhà" từ hòn than qua con cúi. Ngọn
lửa là hình ảnh của sự sống, của sự quây quần, đầm ấm
của ánh sáng và khát vọng, của một cuộc sống thịnh
vượng, sum vầy. Thuở xa xưa hình ảnh những người Việt
chuyền lửa cho nhau trong không gian thấm đượm tình
làng nghĩa xóm những khi tắt lửa tối đèn đã gợi lên biết
bao yêu thương. Từ những bếp lửa "ấp iu nồng đượm"
trong gia đình, ngọn lửa đã bước vào cuộc chiến tranh
máu lửa "hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong
nhà dạy đạo kia" để "Đất Nước rũ bùn đứng dậy sáng
lòa". Ngọn lửa còn là hiện thân của lòng yêu nước, ý chí
kiên cường đánh giặc ngoại xâm.
Một trong những nét đẹp văn hóa của Đất Nước là ngôn
ngữ, giọng điệu. Và nhân dân đã "truyền lại giọng điệu
cho con mình tập nói", giữ gìn ngôn ngữ tiếng Việt như
giữ lấy linh hồn của dân tộc. Trải qua bao thăng trầm của
lịch sử, bao biến đổi của thời cuộc nhưng giọng điệu và
tiếng nói của dân tộc không bao giờ thay đổi. Điều đó đã
khẳng định ý thức và tinh thần dân tộc của nhân dân khi
họ nhận ra một chân lí hiển nhiên, còn tiếng nói Đất
Nước quê hương là giữ lại được bản sắc văn hóa của một
dân tộc.
Đồng thời, nhân dân còn lưu giữ lại những địa danh,
những tên xã tên làng như lưu giữ lại những kí ức của lịch
sử qua mỗi chuyến di dân. Họ đã mang theo những tên
xã tên làng thân quen để đặt tên cho những vùng đất
mới mà họ đi qua, những cái tên nặng trĩu tình yêu
thương và nỗi nhớ về cội nguồn, về đất tổ quê cha, về
những truyền thống văn hóa thấm đượm tình yêu
thương. Nhân dân còn xây dựng nền tảng vững chắc cho
con cháu đời sau an cư lạc nghiệp, "đắp đập be bờ cho
đời sau trồng cây hái trái". Những thế hệ đi trước đã vất
vả làm lụng, kiên nhẫn bền bỉ để người đời sau có những
thành quả ngọt ngào.
Và cũng chính nhân dân viết lên truyền thống bất khuất
trước mọi kẻ thù, lưu giữ vẻ đẹp văn hóa ấy qua bao thế
hệ
"Có giặc ngoại xâm thì đánh giặc ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại"
Giọng thơ rắn ròi, đanh thép đã thể hiện tinh thần tự
giác, ý thức trách nhiệm cao độ của nhân dân. Chính họ
đã xông pha trận mạc để đánh đuổi ngoại xâm, sẵn sàng
hi sinh để bảo vệ sự bình yên của Đất Nước, cũng là bảo
vệ những giá trị vật chất và tinh thần quý giá của dân tộc.
Nhân dân làm nên chiều sâu tư tưởng
4. Tổng kết
4.1. Nội dung
Đất Nước được cảm nhận ở nhiều phương diện, từ địa lý,
lịch sử, văn hóa của đất nước. Đồng thời tác giả cũng nêu
lên trách nhiệm của thế hệ trẻ, đặc biệt là thế hệ với
nước nhà.
Cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư
tưởng đất nước của nhân dân. Đất Nước là sự hội tụ, kết
tinh của vẻ đẹp tâm hồn, với bao công sức và cả khát
vọng của nhân dân. Đồng thời nhà thơ khẳng định nhân
dân chính là người làm nên Đất Nước.