Bai Giai Cac de Con Lai

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 24

TÔI TIN MÌNH CÓ THỂ

Câu 1.
a. Theo văn bản, người thầy đã có sự thay đổi thái độ đối với ước mơ của Monty Roberts như sau:
- Lúc đầu, người thầy bất ngờ, không đồng tình với ước mơ của Monty Roberts và cho rằng ước mơ
của Monty Roberts là viển vông, không thực tế và không thể thực hiện được.
- Sau đó, người thầy đã nhận ra sai lầm của mình và đã công nhận, khen ngợi và lấy ước mơ của
Monty Roberts làm bài học cho mình và học sinh.
b. Phép liên kết được sử dụng trong hai câu văn: Phép thế (anh thế cho Monty Roberts).
c. Quyết định “nộp lại thầy giáo bài làm cũ mà không sửa đổi gì” của Monty Roberts đã thể hiện:
Monty Roberts cho rằng ước mơ của mình là khát vọng rất chính đáng, đầy tâm huyết của bản thân
mình mà chỉ có chính mình mới thực sự hiểu được mình muốn gì và có thể làm được điều gì.
Monty Roberts là một người quyết đoán, có lập trường kiên định, vững vàng, dám nghĩ dám làm và chỉ
có những người như thế mới thành công trong tương lai của chính cuộc đời mình. Bản thân mình là yếu tố
quan trọng tạo nên sự thành công chứ không phải người khác.
d. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo dung lượng theo yêu
cầu:
Có thể theo gợi ý sau:
- Không ai là chuyên gia trong cuộc đời bạn, không ai biết trước tương lai bạn thành công hay thất bại, chỉ
cần bạn dám ước mơ và dám thực hiện nó.
- Nỗ lực hết mình, sống với ước mơ, cần có chính kiến, có bản lĩnh, đừng chấp nhận từ bỏ khi người khác
phán xét về giấc mơ của bạn.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận.
2. Giải thích:
- Năng lực được hiểu là khả năng, là trình độ chuyên môn tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại
hoạt động nào đó với chất lượng cao. Niềm tin vào bản thân là sự tin tưởng vào chính mình, vào năng lực ,
phẩm chất, trí tuệ, giá trị của mình.
- Hai ý kiến trên đã bổ sung cho nhau để làm rõ những vấn đề sau: không thể phủ nhận tầm quan trọng của
niềm tin vào bản thân và cả năng lực thực sự trong quá trình đạt được thành công của mỗi con người.
3. Bàn luận:
a. Niềm tin vào bản thân như một yêu cầu quan trọng đưa con người đến thành công
- Con đường đi đến thành công không hề dễ đi, mà những ai không thực sự tin tưởng vào chính mình sẽ
không thể vượt qua. Niềm tin vào bản thân tạo cho chúng ta thái độ kiên quyết tin tưởng vào khả năng, quyết
định, đường lối, phương pháp của mình, không bị lung lạc bởi những tác động xung quanh.
- Bắt tay vào việc mà thiếu lòng tin sẽ không dám làm, không dám tự mình thực hiện công việc, lệ thuộc vào
sự giúp đỡ của người khác, do đó mà kinh nghiệm và kiến thức không được trau dồi. Chính sự tự tin mở lối chi
các mối quan hệ giữa con người, khiến việc học hỏi, trao đổi, hiểu nhau giữa con người diễn ra thuận lợi, giúp
ta giành được niềm tin của tập thể.
- Gặp lúc khó khăn mà có được lòng tin sẽ có được dộng lực tiếp tục hoàn thành công việc, thậm chí khi hoàn
thành công việc vẫn đủ niềm tin để chịu trách nhiệm với công việc mình đã làm, để rút được kinh nghiệm cho
mình để hoàn thiện hơn ở lần sau.
b. Để thành công, bên cạnh niềm tin vào bản thân, con người cần có năng lực thực sự
- Nếu có năng lực, chúng ta sẽ giải quyết được nhiều khó khăn, vướng mắc trong công việc và học tập, rèn
luyện một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất.
- Năng lực còn thể hiện ở khả năng nhận thức đúng các quy luật, sáng tạo trong giải quyết công việc; luôn làm
chủ được tri thức khoa học và có khả năng hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chuyên môn của
mình. Người có năng lực trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn, có trình độ kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng
hoạt động tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ được giao, có sự hiểu biết thấu đáo và thực hành thành thạo các
công việc mà mình đảm nhiệm. Nói như vậy, không có năng lực sẽ không làm được điều gì cả.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Chúng ta cần phê phán những người xem thường năng lực, niềm tin vào bản thân và cả những người tuyệt
đối hóa một trong hai điều trên. Hai thái độ cực đoan này đều dẫn đến sai lầm, thất bại. Nếu chỉ chú trọng đến
năng lực mà không quan tâm đến rèn luyện phẩm chất sẽ dễ dẫn đến sự lệch lạc trong suy nghĩ và hành động
nhưng nếu đề cao sự tự tin, ý chí mà không quan tâm đúng mức đến việc nâng cao trình độ, năng lực và khả
năng sáng tạo của bản thân thì cũng không thể có nhiều đóng góp tốt cho cộng đồng và xã hội.
- Niềm tin vào bản thân không tự nhiên phát sinh mà đến từ lòng nhiệt huyết, gắn liền với khả năng thực,
giá trị thực của mỗi con người. Vì vậy chúng ta hãy tìm ra những ưu điểm của mình, mạnh dạn nhìn thẳng và
thừa nhận những điểm yếu để làm tiền đề cho lòng tin của mình. Điều quan trọng nhất là ta phải chuẩn bị cho
mình thái độ không sợ thất bại, vì thất bại là thời cơ để học tập, và khi thất bại phải biết tin vào chính mình để
đứng lên. Đồng thời, muốn có được sự tự tin, chúng ta cần rèn luyện khả năng tự lập cao, chính kiến vững vàng.
Trước khi bắt tay vào việc, ta cần xác định phương hướng, tìm hiểu kỹ càng tất cả các mặt của vấn đề, sau khi
đưa ra quyết định của mình thì giữ vững quyết định đó, không để bị lung lạc.

Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Bằng Việt quê ở Hà Tây (nay là Hà Nội), thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ, thường viết về những kỉ niệm, ước mơ gần gũi với cảm xúc tinh tế, giọng điệu trầm tĩnh sâu lắng,
giàu chất suy tư. Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang học ngành Luật ở nước ngoài.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Với đoạn trích này, nhà thơ đã giúp người đọc cảm nhận được niềm tin sâu sắc
mà bà và cháu đã dành cho nhau trong những ngày tháng khó khăn nhất.
2. Phân tích đoạn trích:
a. Nội dung:
 Nhắc lại những kỷ niệm sâu sắc về bà trong suốt thời gian tuổi thơ cháu ở cùng bà.
- Theo dòng cảm xúc hồi tưởng, hình ảnh người bà hiện lên rõ nét, cụ thể với những phẩm chất cao
quý: bình tĩnh, vững lòng, vượt qua mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh, làm niềm tin nơi hậu phương
để người đi xa công tác được yên lòng. Bà là chỗ dựa tinh thần vững chắc. Sống trong những năm chiến
tranh, khi “giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi” được sự “đỡ đần” của bà con hàng xóm, hai bà cháu mới dựng
lại được túp lều tranh, thế nhưng bà vẫn “vững lòng” trước mọi tai họa thử thách:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
- Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp ta hình dung giọng nói, tiếng nói,
tình cảm và suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của người bà, người mẹ Việt Nam yêu nước,
đầy lòng hy sinh, kiên trì nhóm lửa, giữ lửa.
 Suy ngẫm về bà, cuộc đời bà và bếp lửa
- Từ hình ảnh “bếp lửa”, người cháu nghĩ về “ngọn lửa”: ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình thương
“luôn ủ sẵn”, ngọn lửa của niềm tin vô cùng “dai dẳng” bền bỉ và bất diệt. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”,
các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ: “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” (chứa niềm tin dai
dẳng) đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời loạn lạc:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”
- Và những câu thơ tiếp theo là cuộc đời bà nhiều “lận đận”, trải qua nhiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần
mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình.
Vần thơ chứa đựng bao nghĩa nặng tình sâu. Cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”
- Bà không chỉ là người giữ bếp giữ lửa mà còn là người nhóm bếp, thắp lửa:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
- Điệp từ “nhóm” trong 4 câu thơ đã làm sáng bừng lên tâm hồn và khát vọng tuổi thơ từ ngọn lửa
do bà “nhóm” suốt mất chục năm trời. Chính từ đó mà, theo mạch suy ngẫm, nhà thơ đi lên khái quát
rất tự nhiên và hợp lý: “Ôi kỳ diệu và thiêng liêng - bếp lửa”: hình ảnh bếp lửa thật giản dị , bình
thường và phổ biến trong mọi gia đình Việt Nam, nhưng cũng thật cao quý, kỳ diệu và thiêng liêng.
Bếp lửa của bà kì lạ vì không gì có thể dập tắt được, cháy lên trong mọi cảnh ngộ.
b. Nghệ thuật: Ngôn ngữ bình dị, hình ảnh thơ đẹp, mang ý nghĩa biểu tượng, giàu sức biểu cảm; những
điệp từ, điệp ngữ và kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào.
3. Liên hệ, so sánh:
a. Gợi ý tác phẩm/ đoạn trích có thể liên hệ so sánh: Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long).
b. Tương đồng: Cả hai tác phẩm đều đề cao niềm tin, khẳng định giá trị của niềm tin vào bản thân trong
mọi hoàn cảnh dù khắc nghiệt, khó khăn đến mức nào đi nữa.
c. Khác biệt:
 Bếp lửa: Hình ảnh “bếp lửa” và khoảng thời gian tuổi thơ được sống cùng bà đã giúp tác giả duy trì
niềm tin vào tình cảm gia đình, tình yêu cuộc sống. Qua bài thơ, tác giả đã đề cao hình ảnh người phụ nữ Việt
Nam đầy bản lĩnh, vững vàng niềm tin để vượt qua mọi khó khăn, vất vả của cuộc sống.
 Lặng lẽ Sa Pa: Để chuyển tải thông điệp về lý tưởng sống cao đẹp và niềm tin vào sự lựa chọn ấy, tin
vào sự dấn thân trong thời kỳ mới của đất nước, nhà văn đã xây dựng một nhân vật mang tính tiêu biểu là anh
thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu ở trên “đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét” không
một bóng người. Công việc tuy vất vả, khó khăn nhưng anh luôn có tinh thần trách nhiệm cao, luôn đặt nhiệm
vụ của mình trong công việc của tập thể, luôn tin rằng niềm hạnh phúc của bản thân là được hòa mình vào tập
thể, được góp một phần công sức bé nhỏ của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Với những lời
thoại giàu ý nghĩa, những hành động rất thú vị, được đặt trong tình huống gặp gỡ bất ngờ, tác giả đã giúp hình
ảnh nhân vật ghi dấu ấn đậm nét trong người đọc.

Đề 2. HS tự do lựa chọn tác phẩm văn học/ một đoạn trích của tác phẩm để chứng minh cho việc văn học giúp
con người tạo dựng niềm tin vượt lên gian khó để thực hiện ước mơ.
Có thể theo gợi ý sau:
1. Nêu vấn đề:
- Từ đoạn trích trong phần lời bài hát Sống như những đóa hoa (Tạ Quang Thắng) nhận định được
những điều giúp con người tạo dựng niềm tin vượt lên gian khó để thực hiện ước mơ chính là ý chí, nghị
lực và tình yêu cuộc sống.
- Dẫn vào nội dung lựa chọn: với truyện ngắn Lặng lẽ Sapa, nhà văn đã xây dựng một nhân vật mang
tính tiêu biểu là anh thanh niên.
2. Giới thiệu truyện ngắn và nêu ý nghĩa:
- Nguyễn Thành Long là nhà văn có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại ở thể loại truyện
ngắn và bút kí. Các tác phẩm của ông thường tập trung vào hai chủ đề lớn: cuộc đấu tranh chống Mỹ của
nhân dân và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 60 -70 của thế kỷ trước. Truyện
ngắn Lặng lẽ Sa Pa được trích từ tập Giữa trong xanh, là kết quả sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của tác
giả. Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài viết về cuộc sống mới, con người mới.
- Phân tích đặc điểm nhân vật anh thanh niên:
 Có ý chí, nghị lực, có niềm tin vào lý tưởng mà bản thân đã lựa chọn: Làm việc trên “đỉnh Yên
Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét,… làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu”. Công việc còn nhiều
vất vả, khó khăn với “nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây và đo chấn động mặt đất, dự báo
thời tiết hằng ngày để phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu”. Công việc ấy đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính
xác và có tinh thần trách nhiệm cao Nhưng cái gian khổ nhất là phải vượt qua được sự cô đơn, vắng vẻ,
quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao không một bóng người – một hoàn cảnh thật đặc
biệt. Anh nhận thấy rằng “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?”. Câu
nói ấy như một niềm tin, một lý tưởng sống đúng đắn. Ấy là khi con người ta say mê với công việc,
công việc không còn là trách nhiệm nữa mà đã trở thành niềm vui, niềm hạnh phúc, là lẽ sống. Với
anh hạnh phúc chính là khi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, đóng góp một phần công sức của mình
cho thành công của một tập thể. Niềm hạnh phúc của một cá nhân được hòa mình vào tập thể, được
góp một phần công sức bé nhỏ của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ Quốc. “Mình sinh ra là
gì ? Mình đẻ ở đâu ? Mình vì ai mà làm việc ?”.
 Yêu cuộc sống, yêu con người: Sống trong một hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn tình cảm nhưng
chàng trai trẻ biết cách tự tìm niềm vui cho mình. Anh trồng hoa, nuôi gà và làm bạn với sách. Với
anh, đọc sách cũng là một cách trò chuyện. Nhìn các giá sách, vườn hoa đủ các loại chính là những
biểu hiện sự giàu có của một tâm hồn. “Thèm người”, “thèm” được trò chuyện đến nỗi anh phải chắn
một khúc cây ngang đường để xe phải dừng lại và anh sẽ có cơ hội nhìn trông và nói chuyện với mọi
người. Cái sở thích được trò chuyện ấy vẫn còn trong anh khi có đoàn khách thứ hai trong năm đến
thăm, anh khẩn khoản “Còn hai mươi phút, mời bác và cô vào nhà uống chè, cho cháu nghe chuyện.
Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm”. Sự thân thiện được thể hiện trong thái độ cởi mở và bộc trực
của anh trong lần gặp gỡ đầu tiên với người họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Chạy về nhà cắt hoa tặng cô kĩ
sư trẻ, chuẩn bị pha nước trà mời khách, chu đáo rót từng chén trà cho khách. Anh hồ hởi kể cho
những vị khách nghe về công việc của mình, tặng những món quà để làm kỉ niệm. Anh còn là một
chàng trai sống rất tình cảm và chu đáo. Nghe tin vợ bác lái xe bị đau, anh đi đào củ tam thất để làm
quà. Lúc chia tay với những vị khách mới quen, anh tặng họ một làn trứng để ăn trưa.
- Với tình huống truyện rất tự nhiên nhưng thú vị, kết hợp hài hòa tự sự với miêu tả và nghị luận, khắc
họa nhân vật từ nhiều điểm nhìn cùng những đoạn đối thoại, độc thoại tinh tế, chất thơ đậm đà từ khung
cảnh thiên nhiên tươi đẹp đến những lời văn nhẹ nhàng, trong sáng; truyện đã thể hiện niềm yêu mến của
tác giả đối với những con người có lẽ sống cao đẹp đang lặng lẽ quên mình cống hiến cho Tổ quốc, gieo
vào lòng người đọc những cảm xúc tích cực, những suy nghĩ đúng đắn về ý nghĩa cuộc đời khi sống và làm
việc có niềm tin vào cuộc sống, lí tưởng, có khát vọng cao đẹp.
TRAO CHO TÔI ĐÔI CÁNH

Câu 1.
a. Theo văn bản 1, cần có sự phối hợp giữa Thành đoàn với Sở Giáo dục và Ðào tạo để giúp các em học
sinh có thể tham gia nghiên cứu, sáng tạo, để giúp học sinh định hướng và tạo động lực cho các em ngay từ khi
còn học phổ thông.
b. Có 3 lời dẫn trực tiếp trong văn bản 2: “Đừng kéo lê cái khăn nữa, con làm ướt nhẹp cả sàn.”, “Con đi
đi, đừng động vào và làm vỡ bát.”, “Chưa đến tuổi làm việc đó, đừng phí thời gian.”
c. Điểm giống nhau về nội dung giữa hai văn bản: Đều bàn về những tác động tích cực của người lớn hoặc
những người có trách nhiệm dành cho trẻ em để giúp các em có thể làm được nhiều điều ý nghĩa.
Điểm khác nhau:
- Văn bản 1: Đề cập các bên liên quan, có trách nhiệm cần phối hợp với nhau để tạo động lực cho học
sinh có thể tham gia nghiên cứu, sáng tạo.
- Văn bản 2: Nêu quan điểm về việc phụ huynh cần tin tưởng vào con cái để con được cảm nhận thực sự
thấy tình yêu, sự tự do, từ đó có thể sống hạnh phúc hơn.
d. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo dung lượng theo yêu
cầu:
Có thể theo gợi ý sau:
- Có thể tự chăm sóc cho bản thân và chủ động trong một số việc như dậy sớm học bài, tập thể dục, ôn
thi.
- Cần chịu trách nhiệm với những việc mình làm, biết xin lỗi và sửa sai khi có khuyết điểm, biết tôn trọng
và lắng nghe ý kiến của người lớn khi cần sự chỉ dẫn.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận.
2. Giải thích:
- Trách nhiệm được hiểu là phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn; đó
còn là sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn.
- Chúng ta đều biết tuổi trẻ là “mùa xuân của xã hội”, tuy vậy, để người trẻ không sợ trách nhiệm, không
ngừng phát triển và sáng tạo nhiều giá trị hơn nữa nhằm bảo đảm một tương lai thành công, góp phần hoàn
thành nghĩa vụ của mình đối với đất nước, niềm tin của thế hệ trước dành cho họ là một yếu tố vô cùng quan
trọng.
3. Bàn luận:
- Thanh niên Việt Nam hiện nay đứng trước nhiều lựa chọn khó khăn, đối diện hằng ngày với nhiều cơhội và
thách thức mà các thế hệ thanh niên trước đó chưa từng gặp phải. Họ sinh ra và trưởng thành trong thời kỳ đất
nước đổi mới tư duy, mở cửa hội nhập với thế giới, môi trường văn hóa cũng trở nên phức tạp hơn với những
quá trình giao lưu, tiếp biến đa dạng, mạnh mẽ với thế giới và khu vực. Do vậy, để thể hiện sự ủng hộ đối với
thế hệ trẻ, lớp người đi trước phải giúp họ hiểu rằng đoàn viên, thanh niên, nguồn nhân lực trẻ chính là lực
lượng xung kích, nòng cốt trong bảo vệ, xây dựng, phát triển đất nước nói chung. Niềm tin của thế hệ trước
dành cho người trẻ sẽ là động lực để tập hợp, đoàn kết lực lượng thanh niên, là nơi khơi dậy và huy động mạnh
mẽ trí tuệ và hành động thiết thực của họ.
- Thế hệ trước cần trao thanh thiếu niên niềm tin, để họ trải nghiệm và mình chỉ đóng vai trò hướng dẫn. Từ
đó, người lớn có thể phát huy sự sáng tạo trong tư duy và hành động của người trẻ. Trong cuộc đời, ai cũng cần
có một niềm tin để sống tốt hơn, ý nghĩa hơn. Niềm tin sẽ mang lại sức mạnh, giúp ta vượt mọi khó khăn, thử
thách để chinh phục mục tiêu của cuộc sống. Khi người trẻ cảm nhận được sự tin tưởng, họ sẽ giảm áp lực
trong cuộc sống, cảm thấy mục tiêu mình đang theo đuổi có ý nghĩa hơn và môi trường bản thân đang sống, học
tập, làm việc trở nên tích cực hơn.
- Sự tin tưởng chính là chìa khóa để gắn kết người với người hay gắn kết các mối quan hệ. Hơn thế, trong
những mối quan hệ xã hội, sự tin tưởng chính là gốc rễ của mọi vấn đề. Trong thế giới ngày càng bận rộn và
căng thẳng, sự tin tưởng của người khác dành cho mình trong cuộc sống trở thành một nguồn an ủi, động viên
tinh thần vô cùng quý giá. Và người trẻ rất cần sự tin tưởng ấy từ thế hệ trước để đem lại cho họ cảm giác gần
gũi, có thể chia sẻ, có thể tìm thấy nguồn động viên, an ủi, hỗ trợ để can đảm, mạnh mẽ nhận lấy trách nhiệm
của mình.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Tiếp xúc nhanh nhạy và nắm bắt tốt văn hóa ngoại lai, người trẻ cũng bị nó chi phối và tác động mạnh đến
tư tưởng, dẫn đến những hành vi tiêu cực (lối sống thực dụng, buông thả, bắt đầu thích hưởng thụ..). Một bộ
phận không nhỏ thanh thiếu niên đang bị ngộ nhận trong thế giới ngày càng phức tạp, họ bị hấp dẫn bởi hào
quang giả tạo, liều lĩnh, táo bạo, bất chấp, dần bỏ quên những giá trị cơ bản của cuộc sống, của nền tảng gia
đình và tri thức. Với những trường hợp ấy, thế hệ trước phải tìm cách chấn chỉnh, uốn nắn bằng tất cả tình yêu
thương, sự quan tâm.
- Thế hệ trước cần học cách chấp nhận những quan điểm khác biệt và cùng thanh thiếu niên nuôi dưỡng ước
mơ, định hướng tương lai và động viên các bạn tiếp tục theo đuổi mục tiêu của mình. Phải lắng nghe, thấu hiểu
để có cái nhìn công bằng, bao dung, tin tưởng đối với thế hệ trẻ nói riêng và những người trẻ nói chung, cần có
những hành động cụ thể để giúp đỡ, bảo vệ cũng như tạo điều kiện tốt nhất để họ phát huy hết năng lực của bản
thân.
- Bên cạnh đó. thế hệ trẻ cũng cần lắng nghe những khuyên bảo của người lớn trên con đường thực hiện mơ
ước, cần học cách thuyết phục người khác chấp nhận những dự định của mình bằng tất cả sự tự tin, cầu thị và
kiên định.

Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Nguyễn Thành Long là nhà văn có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại ở thể loại truyện ngắn
và bút kí. Các tác phẩm của ông thường tập trung vào hai chủ đề lớn: cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân và
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 60 -70 của thế kỷ trước. Truyện ngắn Lặng lẽ Sa
Pa được trích từ tập Giữa trong xanh, là kết quả sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của tác giả. Đây cũng là tác
phẩm tiêu biểu cho đề tài viết về cuộc sống mới, con người mới.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: đoạn trích miêu tả ánh nắng rực rỡ của thiên nhiên tươi đẹp vùng đất Sa Pa, đã
làm cho trong lòng bạn đọc rạo rực những cảm xúc khó tả.
2. Phân tích đoạn trích:
a. Nội dung: Khung cảnh Sa Pa đẹp tươi, đầy sức sống
- Hình ảnh Sa Pa ở đầu tác phẩm hiện lên với những rặng đào tươi tắn “Sa Pa bắt đầu với những rặng đào.
Và với những đàn bò lang cổ có đeo chuông ở các đồng cỏ trong thung lũng hai bên đường”; với cái đầu màu
hoa cà của hoa tử kinh nổi bật trên màu xanh của rừng, nắng đốt cháy rừng cây, mạ bạc con đèo “Nắng bây giờ
bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng
bạc dưới cái nhìn bao che của cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng”;
“Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào
gầm xe”…
- Bằng vài nét chấm phá điểm xuyết, nghệ thuật nhân hóa, so sánh, tác giả đã khắc họa bức tranh thiên
nhiên Sa Pa với vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, thơ mộng, hữu tình. Nhà văn đã miêu tả bức tranh thiên nhiên bằng
ngôn ngữ trong sáng, mỗi chữ, mỗi câu như có đường nét, hình khối, sắc màu. Có thể nói, vẻ đẹp của thiên
nhiên Sa Pa hoàn toàn tương xứng và hài hòa với vẻ đẹp giàu chất lí tưởng của những con người đang làm việc,
cống hiến ở nơi này.
- Cuối tác phẩm, sau khi anh thanh niên tiễn mọi người về, khung cảnh rừng núi Sa Pa hiện lên với hình
ảnh “nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiếu làm cho bó
hoa càng thêm rực rỡ và làm cho cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo”. Có lẽ ánh nắng ấy không chỉ tả thực buổi
chiều rực rỡ ở Sa Pa mà còn tượng trưng cho nhiệt huyết đang cháy dần lên trong ông họa sĩ và cô kĩ sư sau
cuộc gặp gỡ thú vị vừa qua. Từ đó mới thấy tác phẩm không chỉ mang đến nhiệt huyết cho những con người
đang sống trong không khí cả miền Bắc hồ hởi đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa mà nó còn truyền lửa cho
người đọc của các thế hệ.
b. Nghệ thuật: chất thơ đậm đà từ khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp đến những lời văn nhẹ nhàng, trong sáng.
3. Nhận xét về ý kiến:
- Tác giả đã mượn hình ảnh thiên nhiên để nêu bật những nét ấn tượng về con người gắn với thiên nhiên ấy.
Với nhân vật anh thanh niên, đó chính là lí tưởng sống, là nhiệt huyết cống hiến - ánh nắng thứ hai đã được tác
giả làm rực lên trong lòng người đọc khi đến với tác phẩm. Có thể nói khung cảnh thiên nhiên đều giúp người
đọc nhận thức sâu sắc hơn về giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, cũng như thấm thía hơn tình cảm của tác
giả thể hiện trong đó.
- Từ cuộc gặp gỡ tình cờ đã để lại nhiều dư vị trong lòng bạn đọc như: vẻ đẹp thơ mộng, trong sáng của
thiên nhiên Sa Pa, những nét đẹp giản dị rất đáng mến của người thanh niên, và những tình cảm, cảm xúc mới
nảy nở của ông hoạ sỹ, cô kỹ sư đối với anh thanh niên. Truyện ngắn đã khơi lên trong tâm tư người đọc những
tình cảm và suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống, khi người ta bắt gặp được những ánh sáng
đẹp đẽ toả ra từ cuộc sống, từ tâm hồn người khác; nhận ra cái đẹp tiềm ẩn trong cuộc sống, trong con người.
Chúng ta cần có tinh thần trách nhiệm cao, luôn đặt nhiệm vụ của mình trong công việc của tập thể, luôn xác
định niềm hạnh phúc của bản thân là được hòa mình vào tập thể, được góp một phần công sức bé nhỏ của mình
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
VÀ TÔI CẦN CÓ BẠN

Câu 1.
a. Trong đoạn văn thứ ba, tác giả đã đưa ra những yêu cầu sau cho việc kết bạn: kết bạn cần chân thành,
cần nhẹ nhàng, thân thiết từ từ mới có thể lâu dài; tuy vậy, dẫu thân thiết, chân thành nhưng trong lòng cần
độc lập tự lập, cần có khoảng cách thích hợp.
b. Thành phần biệt lập trong câu: Thành phần tình thái (có lẽ).
c. Nguyên nhân khiến tác giả cho rằng những người bạn tốt cho chúng ta cảm giác “là chính mình một
cách chân thực nhất” khi ở trước mặt họ:
Trước một người bạn tốt, ta không cần phải đề phòng; ta hoàn toàn có thể bày tỏ niềm vui thành công với
họ vì chắc chắn sẽ nhận được từ họ sự ghen tị cũng như thái độ chân thành tán thưởng vận may chứ không phải
lời chê trách vì sự khoe khoang.
Trước một người bạn tốt, ta có thể bộc lộ thật những cảm xúc, suy nghĩ của mình, có thể chia sẻ với họ
những yếu đuối, những bí mật, những ước mơ mà không sợ bị cười nhạo, bị tiết lộ, bị vùi dập.
d. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo dung lượng theo yêu
cầu:
Có thể theo gợi ý sau:
- Thể hiện sự tôn trọng bạn bằng cách nhẹ nhàng với bạn trong từng lời nói, hành động, đặc biệt là khi
bạn đang có việc không vui.
- Tán thưởng những khi bạn bày tỏ niềm vui thành công mà không chút ghen tị, em cần tạo điều kiện cho
bạn cảm giác hạnh phúc khi được “là chính mình một cách chân thực nhất”.
- Cần tin tưởng vào bạn, không có bất cứ điều gì nghi ngờ về sự chân thành của bạn mình.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận.
2. Giải thích:
- Tình bạn là loại tình cảm gắn bó giữa hai người hoặc một nhóm người hợp nhau về tính tình, giống nhau về
sở thích, có chung một quan điểm sống, lý tưởng, ước mơ. Có nhiều loại tình bạn khác nhau nhưng tất cả đều
có vai trò to lớn trong đời sống của mỗi người, đặc biệt đối với lứa tuổi vị thành niên.
- Người bạn chân chính là người đến và ở bên ta lúc ta khó khăn tuyệt vong, tình bạn đẹp thường hình thành,
thử thách trong hoàn cảnh nghiệt ngã. Hơn thế, như ý kiến trong đề đã nhấn mạnh, người bạn đích thực sẽ chỉ
tập trung vào những yếu tố giúp chung ta có được niềm tin vào bản thân, có được cái nhìn lạc quan về con
người và cuộc sống. Như vậy, ý kiến này đã nhấn mạnh vai trò quan trọng cũng như những gì mà một người
bạn tốt có thể mang đến cho chúng ta.
3. Bàn luận:
- Không phải lúc nào trong cuộc sống con người cũng gặp được may mắn, thành đạt. Khi ta thất bại, vấp ngã,
tha hóa, thậm chí phạm tội trở thành kẻ xấu; hoặc khi ta đi tiên phong về nhận thức, hành động, trong một
lĩnh vực nào đó mà bao người xung quanh chưa hiểu hết, chưa đồng tình tiếp nhận…; lúc đó ta bị xa lánh, coi
thường, lên án, kết tội, người thân có thể cũng rời bỏ, mọi người nhạo báng khiến ta cảm thấy chán nản, trống
trải, đau khổ, cô đơn… Đây là thời khắc khó khăn nhất đối với mỗi cá nhân. Người bạn chân chính sẽ đến với
ta ngay lúc ấy.
- Chúng ta tôn trọng những người chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của ta, chính họ là người giúp ta hoàn
thiện mình dần, khắc phục những điểm yếu để phát triển hơn. Tuy vậy, với những người bạn chân chính, họ sẽ
chỉ ra cho chúng ta những điều tích cực phải hướng đến, cho ta những lời khen chính xác, chỉ ra cho ta những
ưu điểm của bản thân, giúp cho ta thấy giá trị của mình, mạnh mẽ hơn, tự tin hơn trong mọi việc, cảm thấy cuộc
sống này còn có nhiều điều cần phấn đấu, nỗ lực để mỗi lúc ta một tốt hơn thêm.
- Người bạn đích thực sẽ là người luôn an ủi, động viên lúc ta gặp khó khăn, là nơi cho ta gửi gắm tâm sự, là
người luôn sẵn sàng sẻ chia mọi điều với ta hay chỉ đơn giản là bờ vai cho ta dựa vào. Con người có thể mắc
những sai lầm. Một người bạn tốt sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn, hoàn thiện nhân cách và sửa chữa những
khuyết điểm của chúng ta. Không có bạn, chúng ta khác gì những người lữ hành cô đơn trên sa mạc hoang vắng
của cuộc đời. Tình bạn đẹp là nguồn động viên lớn lao giúp con người làm nên kì tích trong cuộc đời.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Chúng ta cũng cần lên án tình bạn chưa đẹp hoặc những kẻ nhân danh tình bạn để làm hại người khác như
luôn ghen ghét, đố kỵ, nói xấu nhau, trong quan hệ bạn bè thiếu sự chân thành, tụ tập nhau, lôi kéo nhau tham
gia vào các tệ nạn xã hội; bao che khuyết điểm cho nhau. Chúng ta cũng nên tránh xa những người bạn trọng
vật chất, hư danh và những tình bạn chỉ đơn thuần là sự lợi dụng như vậy. Hãy nhớ rằng tình bạn chỉ đẹp khi đó
là một tình cảm trong sáng, vô tư, chân thành.
- Hiểu được giá trị của tình bạn, mỗi người trong chúng ta cần mở rộng lòng mình để đồng cảm, sẻ chia, để
lắng nghe, cảm thông với bè bạn, đồng thời trau dồi kĩ năng giải quyết vấn đề để có thể giúp đỡ bạn bè trong
những tình huống khó khăn. Chúng ta hãy luôn là người đến bên bạn mình khi bạn mình gặp khó khăn, để
những vòng tay, những sự chia sẻ cảm thông trở nên vô giá.

Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Phạm Tiến Duật quê ở Phú Thọ, là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời
kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch. “Bài
thơ về tiểu đội xe không kính” nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật bao gồm 4 bài được tặng giải Nhất
cuộc thi của báo “Văn nghệ” năm 1969 và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970) sáng tác
trong những ngày cuộc kháng chiến chống Mĩ đầy ác liệt.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Với khổ 3 cũng như khổ 5, 6 của bài thơ đã giúp người đọc khám phá
được tình đồng đội, đồng chí của những người lính trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
2. Phân tích đoạn trích:
a. Nội dung: tình đồng đội, đồng chí của những người lính trong những năm tháng chiến tranh
khốc liệt.
 Khó khăn thử thách càng làm ngời sáng lên vẻ đẹp của người lính
- Qua khung cửa xe không có kính chắn, người lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài và
thử thách khó khăn càng lúc càng nhiều hơn. Vì không có kính nên “có bụi”. Bụi đường Trường Sơn vốn
dày đặc, phủ khắp bốn phía là trở ngại lớn với người lính lái xe.
- “ừ thì”, “chưa cần” là cách mà người lính đáp lại những trở ngại mà thiên nhiên gây ra.Đây là
cách nói đậm chất đời lính tô đậm thái độ lạc quan, hiên ngang chấp nhận thiên nhiên khắc nghiệt, mặc kệ
gió bụi chiến trường. Người lính ung dung như không có chuyện gì. Hai tiếng “phì phèo” càng tô đậm khs
chất ngạo nghễ, ngang tàng của những người chiến sĩ trước hành trình khó khăn gian khổ của chiến trường.
- Tiếng cười “ha ha” đầy sảng khoái. Chính tiếng cười ấy đã xóa nhòa đi những đắng cay nơi
chiến trường. Đó là tiếng cười của ý chí, bản lĩnh can trường trên con đường tiến về tiền tuyến.
 Tình đồng đội, đồng chí của những người lính lái xe
- Giữa sự sống và cái chết nơi chiến trường những người lính lái xe trẻ tuổi gắn bó với nhau thân
thiết như gia đình. Từ cõi chết trở về, từ trong bom rơi đạn lạc, những người chiến sĩ cùng chung lý tưởng
“đã về đây” và càng lúc họ lại càng trở nên thân thiết “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Cái bắt tay
chính là cầu nối quan trọng để kết thêm tình cảm yêu thương gắn bó giữa những người chiến sĩ. Họ bắt tay
để tiếp thêm cho nhau sức mạnh, bắt tay để cùng nhau vượt qua những thử thách đang chờ đợi phía trước,
bắt tay để tiếp thêm cho nhau niềm tin, nghị lực về những nẻo đường chông gai đang chờ đợi, thấm thía
tình cảm keo sơn gắn bó, tình đồng đội, đồng chí ấm nồng giữa những người lính. Nhờ tình cảm yêu
thương gắn bó đó mà dẫu đi qua bao nhiêu năm tháng chiến trường ác liệt họ vẫn bền bỉ vượt qua mọi gian
lao.
- Bếp Hoàng Cầm và chiếc võng Trường Sơn trở thành kí ức khó phai mờ của tất cả những người
lính xưa bởi ở đó chứa đựng những tình cảm ấm nồng của những người chiến sĩ giữa đất trời Trường Sơn
bao la. Bữa ăn dù thiếu thốn nhưng chỉ cần “chung bát đũa” với đồng đội khi ấy đã thực sự là đủ đầy, hạnh
phúc. Những phút nghỉ ngơi trên võng mắc dẫu “chông chênh” nhưng người lính vẫn vững lòng.
- Câu thơ “Lại đi lại đi trời xanh thêm” với năm thanh bằng và điệp ngữ “lại đi” tạo âm điệu
thanh thản, nhẹ nhàng, đã vẽ nên những ngày mai tươi sáng,
những ngày vẫn “xanh thêm” niềm tin chiến thắng.“Trời xanh thêm” vì lòng người phơi phới say mê trước
những chặng đường đã đi và đang đến. “Trời xanh
thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng.
b. Nghệ thuật: thể thơ tự do phóng khoáng, lời thơ đậm chất hiện thực của đời sống chiến trường,
ngôn ngữ thơ giản dị, giàu tính khẩu ngữ, hình ảnh thơ độc đáo , giọng thơ khỏe khoắn đậm chất đời của
người lính trẻ.
3. Liên hệ, so sánh:
a. Gợi ý tác phẩm/ đoạn trích có thể liên hệ so sánh: Đoạn trích “Lũ chúng tôi … Ba năm rồi gửi lại
quê hương” trong bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên.
b. Điểm gặp gỡ:
- Đoạn thơ có những hình ảnh khá tương đồng với đoạn trích trong bài Đồng chí (Chính Hữu): “bọn
người tứ xứ”, “áo vải”, “chân không”,…. Họ là những thanh niên nông dân trong bộ quân phục gắn bó
với nông thôn, đang quen với cuộc sống thanh bình và trong thời kỳ này rất nhiều người còn mù chữ và
tất cả những khó khăn đó đều được khắc phục trong những năm tháng ở quân ngũ.
- Một điểm chung nữa của họ đó chính là lòng yêu nước nồng nàn và sự lạc quan, không sợ hãi, không
ngại khó khăn thử thách, luôn chủ động tìm địch và chiến đấu bằng vũ khí thô sơ. Nhà thơ Hồng Nguyên
tinh tế trong quan sát, cụ thể trong những miêu tả và ghi lại những hình ảnh tiêu biểu vừa tự nhiên, và tô
đậm tình đồng đội, đồng chí của những người lính cách mạng.
- Cả hai đoạn thơ đều tái hiện chân thực cuộc sống nhiều gian khó và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của
người lính nông dân . Điều này giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về giá trị nội dung tư tưởng của
bài thơ, cũng như thấm thía hơn tình cảm của tác giả thể hiện trong tác phẩm.

Đề 2.
HS tự do lựa chọn tác phẩm văn học phân tích để thấy tác phẩm khiến em nhận ra niềm hạnh phúc khi
bên mình luôn có một người bạn thân để chia sẻ, giúp đỡ nhau trong học tập, trong cuộc sống.
Có thể theo gợi ý sau:
1. Nêu vấn đề:
- Mỗi tác phẩm là một thế giới diệu kì chứa đựng trong đó vô vàn những bài học sâu sắc, ý nghĩa.
Nhiều tác phẩm trong số đó khiến em nhận ra niềm hạnh phúc khi bên mình luôn có một người bạn thân
để chia sẻ, giúp đỡ nhau trong học tập, trong cuộc sống.
- Dẫn vào nội dung lựa chọn: tình bạn, tình đồng đội, đồng chí giữa Nho, Thao và Phương Định trong
những năm tháng chiến trường ác liệt trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê cũng là một góc
nhìn thú vị để ta thấm thía giá trị của tình bạn.
2. Giới thiệu đoạn trích và nêu ý nghĩa:
a. Nội dung:
- Trước hết, ta thấy ở các cô gái ấy là những người có chung một lòng, một chí hướng và một trách
nhiệm với dân tộc. Ba cô gái có trong mình một tình yêu nước thiêng liêng, bất diệt; mạnh mẽ từ bỏ cuộc
sống ấm êm để lên đường ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, cống hiến sức mình cho cuộc chiến của dân
tộc đang sôi sục từng ngày. Cũng chính tình yêu nước thiêng liêng ấy đã giúp các cô có động lực vượt
mọi hiểm nguy, khó khăn; có sự dũng cảm, kiên cường, bản lĩnh mạnh mẽ khi đối diện cái chết và hoàn
thành thật tốt công việc của mình.
- Tình đồng đội, đồng chí còn được thể hiện trong sự thấu hiểu tính cách của nhau, quan tâm nhau
đầy chu đáo. Ta vô cùng xúc động và lo lắng cùng nhân vật khi đọc những dòng văn viết trong cảnh
Phương Định chờ đợi Thao và Nho đang trinh sát trên cao điểm. Phương Định cũng luôn dành những lời
đầy tốt đẹp cho những người động đội của mình như Nho và chị Thao. Ba nữ thanh niên xung phong là
những cô gái có tình cảm vô cùng sâu sắc. Đặc biệt trong số đó là tình đồng đội, đồng chí. Ba cô gái
trong tổ trinh sát rất yêu quý những người đồng đội trong tổ và cả đơn vị của mình. Các cô ít bày tỏ cảm
xúc nhưng luôn quan tâm sâu sắc, hiểu rõ tính cách cũng như suy nghĩ của nhau, coi nhau như người
thân trong gia đình. Khi Nho bị thương, chị Thao và Phương Định lo lắng, chăm sóc Nho rất chu đáo.
Phương Định đã bế Nho lên rồi nhanh chóng băng bó vết thương, pha sữa cho Nho uống... Chị Thao thì
cứng cỏi để làm chỗ dựa, điểm tựa cho hai cô em gái. Thế mới thấy họ thấu hiểu, lo lắng cho nhau khi
đồng đội gặp nguy hiểm.
- Cả Nho, Thao, Định đều có những sở thích khác nhau. Nếu Nho thích may vá, thêu thùa, Phương
Định thích hát, bịa ra những lời mới mà hát cho bằng được, đôi khi lại thích ngồi bó gối mơ màng thì
Thao lại vui vẻ với sở thích chép lời bài hát. Tuy mỗi người mỗi sở thích nhưng họ vẫn luôn tôn trọng,
quan tâm đến sở thích của nhau, và vui vẻ với những sở thích của người đồng đội mình.
- Phương Định luôn yêu mến, cảm phục các anh bộ đội nhưng không phải cái kiểu “săn sóc, vồn
vã” mà trong thâm tâm, cô luôn nhủ rằng: “những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng
nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”.
b. Nghệ thuật:
- Câu chuyện được kể qua lời của nhân vật Phương Định, người trực tiếp tham gia vào các sự kiện.
Việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật này giúp nhà văn đi sâu khai thác diễn biến tâm lí nhân vật trong
chiến đấu và trong sinh hoạt, từ đó làm sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp đồng thời phản ánh hiện thực
một cách chân thực.
- Nhân vật Phương Định được khắc họa hết sức sinh động với thế giới nội tâm phong phú, sâu sắc;
những phẩm chất cao đẹp, lí tưởng cống hiến sáng ngời, mang vẻ đẹp của những cô gái thanh niên xung
phong trên tuyến đường Trường Sơn những năm chống Mỹ. Việc kết hợp miêu tả vẻ đẹp anh hùng với
sự bình dị tạo nên những hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ về những cô gái thanh niên xung phong.
c. Ý nghĩa:
- Lấp lánh trong toàn bộ truyện ngắn chính là tình đồng chí cao đẹp. Ở họ luôn luôn có sự đồng nhất
ý chí, quan tâm và yêu thương nhau. Họ là những người lính trẻ dũng cảm, hiên ngang và đầy lạc quan,
yêu đời, giàu mơ ước. Qua hình ảnh các cô gái thanh niên xung phong trẻ ta cảm nhận được những tình
cảm nơi chiến trường mà có bao súng đạn vẫn không thể giết chết được, đó là sự vĩnh cửu của tuổi trẻ,
sự trường tồn của tình đồng chí, đồng đội.
- Trong chiến đấu đó là tình đồng đội đồng chí, còn trong cuộc sống thường nhật đó là tình bạn đẹp.
Từ tình đồng đội đồng chí gắn bó keo sơn ta nhận ra sức mạnh của tình ban trong cuộc sống: Bạn bè là
người mà khi ở cạnh họ bạn cảm thấy rất an toàn, ngăn bạn đừng phạm sai lầm và giúp bạn nếu như bạn
chẳng may sai sót, nắm lấy tay bạn để tiếp thêm cho bạn niềm tin và sức mạnh trong học tập và cuộc
sống.
- Chỉ những người biết hi sinh, chia sẻ, biết nhường nhịn, biết yêu thương cả điều hay lẫn điều dở
của bạn mình, biết có mặt khi ta cần đến, biết lắng nghe những điều đôi khi ta không thể thổ lộ với ai,
biết đỡ ta đứng dậy sau khi vấp ngã, biết kiên quyết chỉ ra sai lầm của ta… đó mới là một người bạn thật
sự. Và đó là một tài sản quí giá nhất trong cuộc đời của mỗi con người chúng ta.
- Mỗi người trong chúng ta ai cũng có một tình bạn đẹp. Chỉ cần mỗi chúng ta cố gắng thêm một
chút để thấu hiểu, sẻ chia thì tình bạn sẽ giúp rất nhiều cho chúng ta trong rèn luyện học tập, sẽ lớn lên
theo tuổi của mỗi người, sáng trong hơn, đẹp đẽ hơn. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đoán biết
trước được. Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng
như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc. Và chính trong những
khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người cần có những người bạn để gắn bó, sẻ chia. Có được tình
bạn đẹp ta như có thêm một nguồn sức mạnh để chống lại những tai ương, giông gió của cuộc đời.
NẾU TÔI LÀ BẠN

Câu 1.
a. Theo văn bản 1, hạnh phúc của học sinh ở trường học là một lời động viên, cảm thông, an ủi của thầy cô
khi trẻ bị điểm thấp, khi trẻ tổn thương, lúc trẻ cô đơn.
b. Phép liên kết được sử dụng trong hai câu văn: Phép nối (từ nối: Vì vậy).
c. Điểm giống nhau: Cả hai văn bản đều đưa ra lời khuyên chúng ta phải biết đặt mình vào vị trí của người
khác để cảm nhận sâu sắc hơn về họ, để chia sẻ và lắng nghe họ nhiều hơn, để tạo các mối quan hệ gắn kết, tôn
trọng, tin tưởng, thấu hiểu, từ đó góp phần xây dựng cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Điểm khác nhau:
- Văn bản 1: Đưa ra lời khuyên người lớn (cha mẹ, thầy cô) phải hiểu được suy nghĩ của trẻ em, quan
tâm cảm xúc của các em từ đó có thể giúp trẻ cảm nhận được hạnh phúc dù là ở trường hay ở nhà.
- Văn bản 2: Đưa ra lời khuyên chúng ta đừng vội phán xét người khác, hãy tôn trọng, yêu thương, chia
sẻ, động viên, khích lệ nhau, hãy biết đặt mình vào vị trí của người khác để tránh sự tổn thương, xung
đột để cuộc đời sẽ nhẹ nhàng hơn với mỗi người.
d. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo dung lượng theo yêu
cầu:
Có thể theo gợi ý sau:
- Chúng ta cần phải biết đặt mình vào vị trí của người khác để gắn kết, tôn trọng, tin tưởng, thấu hiểu họ
hơn.
- Mỗi người cần bỏ tránh việc vội vàng những phán xét tiêu cực về người khác mà không suy nghĩ đến
cảm xúc của họ, dễ khiến họ tổn thương.
- Trẻ em nên tìm cách chia sẻ với người lớn (thầy cô, cha mẹ) mỗi khi có việc cần để nhận được sự thấu
hiểu, quan tâm từ họ.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận.
2. Giải thích:
- Khi xã hội phát triển, cuộc sống của con người chúng ta có quá nhiều thứ để quan tâm, lo lắng, mong đợi.
Vì thế mà trong mỗi gia đình, tính cầu toàn của người lớn, sự kỳ vọng của cha mẹ đặt hết lên vai con cái mà
quên mất bản thân những việc tưởng chừng đơn giản như học tập, các mối quan hệ bạn bè cũng đã tạo nhiều áp
lực lên trẻ em.
- Đặt mình vào vị trí của nhau là thấu hiểu, nhìn nhận, đánh giá, cảm thông với tính cách, lời nói, hành
động, việc làm,… của người khác như là thấu hiểu, nhìn nhận, đánh giá, cảm thông với chính bản thân
mình. Có mối quan hệ gắn kết, nồng ấm với nhau chắc chắn là mơ ước to lớn nhất mà cha mẹ và con cái trong
mỗi gia đình đều mong mỏi. Muốn vậy, việc người lớn đặt mình vào vị trí và suy nghĩ của trẻ là vô cùng quan
trọng.
3. Bàn luận:
- Cha mẹ luôn muốn con cái vâng lời, tuy nhiên cha mẹ lại ít chú ý đến việc con cái cũng cần được người
lớn lắng nghe, cần chia sẻ với người lớn. Đặt mình vào vị trị của trẻ, thấu hiểu nhu cầu được lắng nghe và chia
sẻ với những cảm xúc - khi bắt đầu đến trường, thay đổi môi trường mới, kết bạn,… - tất cả trẻ đều muốn nói
với những thành viên trong gia đình. Khi được lắng nghe, trẻ sẽ dễ dàng bày tỏ mong muốn và nguyện vọng
của bản thân. Nhờ vậy, gia đình sẽ hiểu hơn về tâm lý, cách suy nghĩ và cảm xúc của con cái.
- Con trẻ khó có thể hiểu được mục đích trong lời nói và hành động của người lớn. Để trẻ hiểu hơn về cuộc
sống, cha mẹ cần mềm mỏng và đưa ra lời giải thích khách quan, đúng đắn. Tuy nhiên, rất nhiều phụ huynh
giáo dục con bằng uy quyền và áp đặt con cái nghe lời một cách vô lý. Vai trò của cha mẹ là giúp trẻ đánh giá
mức độ đúng đắn của những vấn đề trong cuộc sống, biết nên làm gì và không nên làm gì. Thay vì áp đặt, cha
mẹ hãy đặt mình vào vị trí của con để hiểu rõ vì sao con lại có suy nghĩ như vậy. Khi thấu hiểu được con cái,
người lớn sẽ có cách ứng xử phù hợp và giúp con thay đổi theo chiều hướng tích cực; đồng thời, việc này sẽ
giúp xây dựng được mối quan hệ đáng tin cậy và thân thiết giữa con với gia đình.
- Đặt mình vào vị trí của con cũng đồng nghĩa với việc cha mẹ quan tâm đến sở thích, mong muốn của con.
Hơn thế, thông qua mong muốn của con cái, phụ huynh cũng hiểu được rằng con thực sự cần gì ở gia đình và
hiểu rõ định hướng tương lai của con. Người lớn thường quy chụp trẻ hư hỏng khi có những suy nghĩ kì lạ và
sai lệch. Tuy nhiên, trẻ hoàn toàn không ý thức hết được suy nghĩ và hành vi của mình. Do đó, gia đình phải
luôn luôn lắng nghe và chú ý đến mong muốn của con để kịp thời điều chỉnh.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Nhiều người con tỏ ra ích kỉ, chỉ biết nghĩ cho bản thân, oán trách cha mẹ, thay vì lắng nghe. Họ không
biết rằng chính sự vô tình, vô tâm ấy đã gây tổn thương nghiêm trọng, khiến đấng sinh thành cảm thấy đau khổ,
hụt hẫng. Phê phán những đối tượng trên, chúng ta cần hiểu là con cái cũng cần đặt mình vào vị trí của cha mẹ
để yêu thương, biết ơn và trân quý cha mẹ nhiều hơn.
- Đối với người lớn, họ đừng để trẻ cô độc một mình; cũng đừng tạo áp lực cho trẻ, hãy hiểu trẻ nhiều hơn
khi có thể; đừng so sánh con mình với con của người khác. Cha mẹ hãy sắm vai là bạn của con để chia sẻ
và lắng nghe con nhiều hơn và đừng bao giờ làm tổn thương con dù là lời nói. Cha mẹ cần phải lắng nghe, thấu
hiểu để có cái nhìn công bằng, bao dung, tin tưởng đối với trẻ em, cần có những hành động cụ thể để giúp đỡ,
bảo vệ cũng như tạo điều kiện tốt nhất để họ phát huy hết năng lực của bản thân.
- Mỗi người cần hiểu rằng chúng ta từ khi sinh ra vốn dĩ đã “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” và chẳng
ai toàn thiện toàn mỹ. Hoàn cảnh sống khác nhau đã chi phối tính cách, suy nghĩ mỗi người khác nhau. Ai cũng
có thể có những lúc đúng, sai; hơn, kém; xấu, tốt,... Thay vì phán xét, chỉ trích, chê bai,… nếu chúng ta biết đặt
mình vào vị trí của nhau thì cuộc đời sẽ trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp. Khi đặt mình vào vị trí của người khác,
chúng ta sẽ có cái nhìn dịu dàng, sẻ chia, tha thứ, bao dung,… với chính cảnh ngộ của họ; chúng ta sẽ không
mắc sai lầm, không phán xét chủ quan, hời hợt.

Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Nguyễn Quang Sáng quê ở An Giang, là nhà văn mà cuộc sống và sáng tác gắn liền với vùng đất Nam Bộ
trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình. Truyện ngắn của ông có cốt truyện khá hấp dẫn, chi tiết
chọn lọc, tình huống đặc sắc và kịch tính cao, đậm chất Nam Bộ với lối viết giản dị, ngôn từ mộc mạc.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Việc bé Thu không chịu chấp nhận ông Sáu ngay từ đầu nằm trong diễn biến
của mạch truyện, góp phần tạo nên yếu tố bất ngờ, ấn tượng ở phút giây vỡ òa trong tiếng gọi “ba” đầy cảm
động khi mọi chuyện hiểu lầm đã qua đi. Diễn biến của truyện cũng đã là nổi bật thông điệp mà tác giả gửi gắm
về đề tài chiến tranh và tình cảm gia đình, giúp tính cách nhân vật được bộc lộ rõ ràng.
2. Làm rõ quan điểm:
a. Hành động của bé Thu góp phần tạo nên tình huống éo le, nhiều bất ngờ của tác phẩm
- Éo le: cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách, cha háo hức con mong đợi, nhưng bé
Thu không nhận ra cha. Đến lúc em nhận ra và bộc lộ tình cảm thắm thiết thì cha của bé Thu lại phải lên đường
chiến đấu. Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn hết tình yêu thương và mong nhớ vào việc làm một chiếc lược ngà để
tặng con gái. Nhưng ông đã hi sinh khi chưa thể tặng món quà ấy cho con gái
- Bất ngờ và cảm động: Trong hai ngày cha ở nhà, bé Thu không nhận ông. Thậm chí em còn có những
hành động phủ nhận rất quyết liệt. Thế nhưng đến khi ông ra đi thì em lại cất lên tiếng gọi “ba” và có những
hành động biểu hiện tình yêu thương, sự lưu luyến đầy xúc động. Người cha tuy không thể tận tay giao món
quà cho con, nhưng người đồng đội của ông đã thay ông làm điều đó, cũng như thay ông chứng kiến sự trưởng
thành của đứa con gái nhỏ mà ông yêu thương tha thiết.
b. Hành động của bé Thu phù hợp với tâm trạng nhiều bối rối, tính cách trẻ con, có chút bướng bỉnh
của nhân vật:
- Những tưởng cuộc hội ngộ sẽ tràn đầy niềm vui, hạnh phúc khi cha được gặp con, gia đình được đoàn tụ
nhưng diễn biến của câu chuyện bất ngờ chuyển hướng. Bé Thu phản ứng lạ kì: “Nghe gọi, con bé giật mình,
tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác lạ lùng”. … Khi người đàn ông mặt thẹo (Anh Sáu) đến gần và lặp lại: “Ba đây
con! Ba đây con!” thì “nó thấy lạ quá, nó chớp mắt lên nhìn … mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên:
“ Má! Má!”.
- Trong 2 ngày đêm tiếp theo, mặc kệ những lời âu yếm, vỗ về của anh Sáu, bé Thu một mực thờ ơ, lạnh
lùng đến mức bướng bỉnh, ngang ngạnh, khó hiểu: “càng vỗ về, con bé càng đẩy ra”, không chịu gọi một tiếng
“ba”, khi bị dọa đánh, bị buộc phải gọi thì nói trống không. Một loạt hành động, thái độ của bé làm ta ngỡ
ngàng. Nó khác hoàn toàn bản tính ngoan ngoãn, lễ phép hàng ngày của em.
- Một hành động rất trẻ con mà cũng rất đáng yêu của con nít. Đó là khi nồi cơm sôi, mẹ nó đi mua thức ăn,
nó lại quá bé, không thể nhắc xuống để chắt nước được. Cô bé chắc chắc chắn phải cầu cầu cứu người lớn. Tình
thế được đặt ra dường như để làm hòa hai cha con, khiến con bé không thể làm mặt lạnh nữa. Chỉ cần cất lên
một tiếng “ba”, nó có thể thoát khỏi thế khó khăn. Nhưng Thu quyết không thỏa hiệp. Cô bé hành động theo sự
bướng bỉnh “loay hoay nhón gót lấy cái vá múc ra từng vá nước, miệng lẩm bẩm”.
- Đỉnh điểm của hành động chối bỏ ấy là trong bữa cơm. Anh Sáu gắp vào chén nó một cái trứng cá to vàng.
“Nó liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe”. Bị ba tát, tưởng đâu
“con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi
gằm xuống. Nghĩ thế nào, nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi
mâm”. Trong giây phút bùng nổ ấy, Thu càng tỏ ra lầm lì, sẵn sàng chịu đựng và bỏ đi. Thu “lặng lẽ đứng dậy”
nhưng lại tạo tiếng động gây chú ý “cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to”. Cô bé mong muốn
được dỗ dành nhưng vẫn giữ sự cố chấp. Thu không thể chấp nhận một người khác thay thế ba nó - người ba
mà nó khắc ghi từ tấm ảnh chụp chung với má nó. Trong sự cứng đầu của con bé còn ẩn chứa cả kí ức đầy kiêu
hãnh về người cha. Chính vì vậy, sự ương ngạnh của bé hoàn toàn không đáng trách. Cô bé còn quá nhỏ, làm
sao có thể thấu hiểu những tình cảnh ác liệt, éo le của người lớn, chiến tranh cũng như chấp nhận những bất
thường xảy ra trong cuộc kháng chiến khốc liệt của dân tộc.
c. Hành động của bé Thu làm nổi bật tình tiết phút chia tay đầy xúc động:
- Thái độ và tình cảm bé Thu khi đưa tiễn ông Sáu và đồng đội thay đổi thật đột ngột, kì lạ đến khó hiểu và
rất cảm động. Trong buổi sáng cha lên đường: “Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và
cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó. Vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn
mặt cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ
thương… đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu
xa”. Một vẻ mặt, ánh mắt và cái nhìn như thế ắt phải chuẩn bị cho cái gì khác lắm sắp xảy ra.
- Đến khi ông Sáu - người luôn âu yếm, làm thân, vỗ về nó trong hai ngày đầu lại chỉ đứng nhìn nó, khe
khẽ nói: “Thôi! Ba đi nghe con!”. Chính cái lời chào tạm biệt ấy đã làm nổ tung mọi kìm nén trong lòng, làm
trào dâng mọi cảm xúc. Nó bỗng kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”. Chỉ khi tiếng kêu đó được thét lên thì mọi
người mới vỡ lẽ ra rằng nó thèm được gọi ba như thế nào. Nguyễn Quang Sáng đã đặc tả rất chân thực, cảm
động: “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng, và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”. Thu đã
“vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó… Nó
vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc: “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở lại với con!”. Cô bé đã
“hôn ba nó cùng khắp,.. hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Sự lưu luyến
vỡ òa này có nguyên nhân của nó: trong đêm bỏ về nhà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay
đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu nay vì vậy được giải tỏa và có cảm giác em đã ân hận khi “thỉnh
thoảng lại thở dài như người lớn”. Vì thế trong lúc này, tình yêu và niềm quyến luyến người cha bùng lên thật
mạnh mẽ và cuống quýt, trong đó có cả lòng hối hận... Đoạn văn thật cảm động, cách tả ấn tượng và phù hợp
với tâm lí trẻ em. Nguyễn Quang Sáng đã tháo gỡ nút thắt rất khéo léo và hợp lí. Hành động ôm hôn thắm thiết,
mạnh mẽ, hối hả của bé Thu như muốn bù đắp tình cảm cho những ngày trước đó.
3. Nêu ra tác động của nhân vật đối với bản thân:
- Hiểu thêm về giá trị của tình cha con (là một trong những tình cảm đẹp nhất và thiêng liêng nhất trong
cuộc sống; mang lại cho con người cảm giác an toàn, ấm áp và yên bình, cũng như giúp cho mỗi người có thể
có được một người bảo vệ, người cố vấn và người đồng hành trong những khó khăn).
- Bản thân cần thể hiện tình cảm, sự quan tâm cha bằng những việc làm cụ thể, thiết thực (dành thời gian
cho cha nhiều hơn, trò chuyện với cha, chia sẻ với ông về cuộc sống cá nhân; tìm hiểu sở thích của cha để ngày
lễ, ngày sinh nhật hay bất cứ dịp nào phù hợp hãy cố gắng đáp ứng; giúp cha pha một ấm trà ngon hay dọn dẹp
nhà cửa khi có thời gian rảnh…).

Đề 2. HS tự do lựa chọn tác phẩm theo quan điểm cá nhân và phù hợp với yêu cầu đề.
Có thể theo gợi ý sau:
1. Nêu vấn đề:
- Ý nghĩa gợi ra từ nhận định của nhà tâm lý Elena Gioioso: Tuổi trẻ là giai đoạn tiếp chuyển đặc biệt của
hành trình phát triển về tâm sinh lý con người. Nó tạo ra những hiện tượng tâm lý hết sức đặc biệt, từ tính cách
đến sự nhìn nhận nhiều vấn đề trong đời sống. Do đó, “xứ sở kì lạ” của tâm hồn tuổi trẻ cần được chia sẻ, cảm
thông, thấu hiểu.
- Dẫn vào tác phẩm lựa chọn: Tác phẩm Những tháng năm rực rỡ của nhà văn Ae-ran Kim ( Hàn Quốc) đã
cho thấy được những điều bộc bạch đáng yêu nhưng đầy ý nghĩa của tuổi trẻ thông qua nhân vật Ah Reum đáng
thương. Tác phẩm gồm có 5 phần và một chương đặc biệt là “Mùa hè thổn thức năm ấy” đã đưa người đọc vào
một thế giới hết đặc bệt của “xứ sở kì lạ” mang tên tuổi trẻ.
2. Giới thiệu tác phẩm và nêu ý nghĩa:
a. Nội dung:
- Đây là câu chuyện về cặp cha mẹ trẻ nhất và đứa con già nhất được kể lại khi thời gian của Ah Reum –
cậu bé mười bảy tuổi mang vẻ già nua của ông lão tám mươi do mắc hội chứng lão hóa sớm, vùng vụt trông đến
giây phút cuối cùng. Còn cha mẹ cậu dường như đâu đó trong tiềm thức vẫn mắc kẹt ở tuổi mười bảy lúc sinh
cậu.
- Nhân vật Ah Reum rất đáng thương khi biết mình mang trong người căn bệnh quái ác này. Dù không biết
liệu mình còn có thể sống đến bao giờ, đón được mấy lần sinh nhật nữa nhưng bằng cả tâm hồn thơ dại, cậu vẫn
sống cho trọn vẹn tháng năm rực rỡ của chính mình. Cuộc đời thì hạn hữu mà lòng cậu thì lại rộng lớn. Biết làm
sao nói cho hết được một cuộc đời nhỏ bé lại chẳng đủ cho những ước mơ hoài bão lớn lao của con người.
- Nghịch lý của Reum là hiểu mình và hiểu chính cuộc sống của mình nhưng cậu vẫn sống lạc quan và mơ
mộng. Giấc mơ không ai đánh thuế, cũng chẳng ai có thể đánh cắp nó, cậu tha thiết nghĩ về tương lai ngày mai
với bạn bè và gia đình thân yêu. Kể về cuộc chiến đấu với bệnh tật, những giờ phút đớn đau của chính mình,
nhưng trang sách “Những tháng năm rực rỡ” lại chưa bao giờ làm chúng ta đau xót. Bởi phủ trùm lên đó là một
tâm hồn non nớt, trẻ trung, yêu đời. Khát khao yêu và mong muốn được bày tỏ tình yêu của mình như bao
người đã khiến cậu bé Reum sống một đời ý nghĩa.
b. Nghệ thuật: Xây dựng hình tượng nhân vật đậm chất nhân văn, xây dựng tình huống truyện độc đáo, nhiều
hấp dẫn.
c. Ý nghĩa: Qua tác phẩm người đọc có cơ hội chữa lành những vết thương đang tồn tại trong tâm hồn mình
bằng sự lạc quan, yêu đời và rạo rực sức trẻ của cậu bé Reum, hiểu được những giá trị cuộc sống khi mình may
mắn hơn bao nhiêu người với cơ thể lành lặn và tâm hồn đầy ắp văn chương, có thể thấu cảm những cung bậc
kì lạ của tuổi trẻ để trải nghiệm, sẻ chia và yêu thương mọi người.
CHO ĐI LÀ CÒN MÃI

Câu 1.
a. Theo văn bản, quán cơm của ông Nam Đồng không khiến những người có hoàn cảnh khó khăn mang
mặc cảm nghèo khổ hay có cảm giác mang ơn vì ông bán cơm với giá rất rẻ (2.000 đồng) cho người khó khăn
chứ không bố thí từ thiện cho họ.
b. Trong văn bản, lời của ông Nam Đồng được tác giả dẫn theo cách gián tiếp.
c. Ông Nam Đồng cho rằng “mạch ngầm” trách nhiệm xã hội và tấm lòng của người Sài Gòn nếu được “khơi
thông (…) bằng tấm lòng, bằng sự tin tưởng, bằng ý nghĩa xã hội thì cái mạch đó nó chảy hoài, chảy miết” vì:
- Như ông Nam Đồng đã nói, người khá giả bỏ một phần vật chất giúp đỡ người khó khăn, người được hỗ trợ
hôm nay thì mai sau sẽ quay lại giúp đỡ những người khác.
- Bất kì một hành động, việc làm nào khi khởi phát và kết nối mọi người bằng niềm tin, bằng tấm lòng thì sự
liên kết này sẽ bền chặt, lâu dài.
d. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo dung lượng theo yêu
cầu:
Có thể theo gợi ý sau:
- Mỗi cá nhân bên cạnh đời sống riêng tư còn cần phải chú ý đến những người xung quanh, có ý thức
cống hiến cho xã hội.
- Khi giúp đỡ người khó khăn, cần chú ý đến “cách cho” bên cạnh “của cho” để tránh làm tổn thương họ
bởi cảm giác đang nhận sự bố thí, thương hại.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận.
2. Giải thích:
- Sống vì người khác là luôn có suy nghĩ và hành động vì người khác, luôn có tấm lòng, tinh thần hết mình
chăm lo cho niềm vui, sự đầy đủ của người khác, biết quan tâm, chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn, vất vả.
- Ý kiến trên đã nhấn mạnh: khi ta chọn lối sống vị tha, chúng ta có thể sẽ có thêm những vất vả, khó khăn,
phải đối mặt với nhiều thử thách, thậm chí có thêm những rắc rối; tuy vậy, đây lại là điều khiến cuộc sống của
chúng ta trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn vì vị tha là cách sống cao quý, đáng trân trọng, mang đến cho mọi
người những điều tích cực.
3. Bàn luận:
a. Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác
- Sống vì người khác đôi khi phải chịu những thiệt thòi, phải hi sinh những quyền lợi của cá nhân, phải dành
cả những điều tốt đẹp cho người khác. Sống vì người khác đôi khi ta có thể phải nhận về mình những điều
không thuận lợi, may mắn, cơ hội có thể sẽ qua mất.
- Sống vì người khác khiến ta sẽ quan tâm đến cảm xúc của họ, những vui buồn trong cuộc đời người khác
có thể ảnh hưởng ít nhiều đến cuộc sống của chúng ta. Thậm chí, đôi khi, những chia sẻ của người khác khiến
ta phải bận lòng, những nỗi niềm riêng tư của họ nhiều khả năng sẽ là gánh nặng tâm lí cho cả chúng ta và họ.
b.Cuộc sống đẹp đẽ và hạnh phúc hơn khi chúng ta sống vì người khác
- Tuy vậy, sống vị tha là một cơ hội tốt để con người nhìn lại chính mình. Có thể khi nhìn lên, chúng ta không
bằng ai, nhưng nếu nhìn xuống, ta sẽ thấy mình may mắn hơn rất nhiều hoàn cảnh khác. Chính vì vậy, lòng
nhân ái sẽ giúp chúng ta bớt đi những tham vọng và biết yêu thương, san sẻ.
- Sống vì người khác là một quan niệm, thái độ tích cực giúp con người hoàn thiện bản thân từng ngày. Khi
quan tâm, yêu thương một người, một hòan cảnh nào đó, ấy chính là lúc ta giúp bản thân mình sống tốt hơn,
được mọi người yêu quí hơn, bớt đi những vị kỉ hẹp hòi để hòa mình, chung tay góp sức cho cộng đồng. Đồng
thời, từ đó, chúng ta cũng nhận ra một ý nghĩa cao đẹp về sự tồn tại của bản thân trong cuộc đời này.
- Khi biết cho đi bạn sẽ nhận lại được sự tri ân từ người khác, nhận lại niềm vui, sự thanh thản trong tâm hồn.
Người biết cho đi luôn khiến mọi người ngưỡng mộ, yêu mến bởi tấm lòng nhân ái, vị tha của họ. Hành động
cho đi bằng sự chân thành, không vụ lợi sẽ làm đẹp tâm hồn và cuộc sống của người trao tặng. Sự sẻ chia mang
đến điều kì diệu cho cuộc sống, làm cho cuộc sống tươi đẹp hơn. Cho và nhận đều mang đến hạnh phúc. Cho
không có nghĩa là mất đi mà đó chính là lúc chúng ta nhận lại rất nhiều dưới muôn vàn hình thức khác nhau.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Hiểu được ý kiến trên, ta phải phê phán những kẻ chỉ biết sống cho bản thân mình, ích kỉ, hẹp hòi, đặt mình
ra ngoài những số phận bất hạnh xung quanh. Cách sống đó có thể tạo cho mình một đời sống tốt cho bản thân
nhưng về lâu về dài chính cá nhân ấy sẽ bị đào thải khỏi xã hội, nhất là trong dân tộc Việt Nam – một đất nước
vốn xem tinh thần nhân ái là một truyền thống quí báu tốt đẹp.
- Trong cuộc sống này, hãy bắt đầu và cố gắng làm những điều tốt đẹp cho người khác ngay từ những việc
nhỏ nhất, Không phải chỉ biết đóng góp tiền của mới là làm từ thiện, đôi khi chỉ một lời hỏi thăm an ủi, một
nghĩa cử thật nhỏ cũng đã là rất tốt đẹp. Hơn thế, ta cần phải nhớ rằng mọi việc làm từ tâm đều phải xuất phát
từ cái tâm trong sáng, chân thành, vô vị lợi thì nó mới mang ý nghĩa thật sự.

Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Thanh Hải quê ở Thừa Thiên – Huế, là một trong những cây bút có công xây dựng nền Tác phẩm văn
học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu, nổi bật với hồn thơ chân chất, bình dị, đôn hậu và chân thành.
Tác phẩm được ra đời tháng 11 năm 1980, in trong tập Thơ Việt Nam 1945 – 1985, khi nhà thơ đang nằm trên
giường bệnh và không bao lâu trước khi ông qua đời. Lúc này, đất nước đã thống nhất, đang xây dựng cuộc
sống mới với muôn ngàn khó khăn, thử thách.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Đoạn trích cần phân tích nêu bật khát vọng của tác giả mong muốn được cống
hiến một cách thầm lặng, miệt mài, bền bỉ tất cả những gì tốt đẹp của mình cho đất nước.
2. Phân tích đoạn trích
a. Khát vọng hiến dâng những gì tốt đẹp của mình cho đất nước
- Từ những cảm xúc hạnh phúc đến niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước, Thanh Hải đã viết ra
những lời ước nguyện, khao khát thật thiết tha, cảm động. Cái “ta” vốn chỉ để nói về mình bỗng như trở thành
cái “ta” chung của nhiều người, khát vọng của nhiều người: được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống
hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
- Điệp ngữ: “Ta làm”, “ta nhập” đặt ở vị trí đầu của ba câu thơ trong phần 3 đã khiến cho nhịp điệu thơ trở
nên nhẹ nhàng hơn nhịp điệu nhộn nhịp trong khổ thơ trước. Từ đó, khiến cho câu thơ như một lời thủ thỉ tâm
tình về ước nguyện hóa thân, hiến dâng cho quê hương, đất nước của nhà thơ.
Bút pháp liệt kê những hình ảnh gần gũi “con chim hót’’, “cành hoa”, “nốt trầm xao xuyến” để thể hiện
nhiều cảm xúc, khát vọng bên trong tác giả. Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những
hình ảnh tự nhiên, giản dị và đẹp: con chim hót để cất tiếng thơ ngợi ca đất nước, làm một nhành hoa đem lại
hương thơm, một nốt nhạc trầm của khúc hòa tấu ngợi ca cuộc đời. Các hình ảnh gợi cho ta liên tưởng về mối
quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người với thiên nhiên, quê hương, đất nước.
b. Khát vọng cống hiến một cách thầm lặng, miệt mài, bền bỉ cho đất nước
- Từ khát vọng sống cao quý, mong muốn được cống hiến cho đời, cho cộng đồng, tác giả đã nâng lên thành
một lí tưởng sống cao cả: nguyện được làm một “mùa xuân nho nhỏ” lặng lẽ dâng đời. Việc sử dụng tính từ
“lặng lẽ” đã khắc họa vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của một tâm hồn, lối sống và nhân cách: Nhiệt tình cống
hiến của tác giả không có sự ồn ào, khoa trương, nhộn nhịp mà chỉ lặng lẽ, âm thầm. Điều đó là minh chứng rõ
ràng cho lối sống đẹp đẽ, khiêm nhường và trong sáng nhất mà con người cần hướng tới trong công cuộc phát
triển đất nước.
- Điệp ngữ “dù là” kết hợp cùng biện pháp tu từ hoán dụ “tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” biến câu thơ trở
thành một lời hứa, lời tự nhủ với chính mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Tác giả muốn ngầm khẳng
định sự tồn tại bền vững của lí tưởng sống cống hiến, hi sinh và khát vọng sống cao đẹp: Mỗi người nên cống
hiến cho cuộc đời chung một nét riêng, cái phần tinh tuý nhất của mình dù là nhỏ bé, một cách lặng lẽ, khiêm
tốn, không kể gì đến tuổi tác.
3. Mở rộng, liên hệ:
a. Gợi ý tác phẩm/ đoạn trích có thể liên hệ so sánh: Đoạn trích “Mai về miền nam thương trào nước mắt
[...] Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.
b. Điểm gặp gỡ:
- Các tác giả đều đã khắc họa được khát vọng cống hiến lặng thầm mà cao quý. Chính tình cảm đó đã làm
bật lên vẻ đẹp con người Việt Nam qua các thời kì thử thách của dân tộc. Bài học về sự cống hiến đó mãi là kim
chỉ nam cho thế hệ trẻ ngày hôm nay.
- Các lựa chọn ngôn ngữ giản dị, chân thành nhưng giàu cảm xúc, phát huy triệt để giá trị của các biện pháp
tu từ (ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ…) trong việc xây dựng hình ảnh thơ đầy sáng tạo, rất chân thực nhưng có ý
nghĩa khái quát, biểu tượng và sức biểu cảm cao; thể thơ tám chữ với giọng điệu vừa trang nghiêm sâu lắng vừa
tha thiết, dạt dào cảm xúc.

Đề 2.
HS tự do lựa chọn tác phẩm văn học/ một đoạn trích của tác phẩm để làm rõ ý nghĩa nội dung được gợi ra
từ bức tranh.
Có thể theo gợi ý sau:
1. Nêu vấn đề:
- Vấn đề được gợi ra từ bức hình: Sống là phải có tình yêu thương, phải biết trao đi yêu thương để cuộc đời
trở nên tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn.
- Dẫn vào nội dung lựa chọn: Thạch Lam là một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam trước Cách mạng.
Ông đã thành công với các tác phẩm truyện ngắn mang phong cách nhẹ nhàng, bình dị, giàu cảm xúc và đậm
chất thơ. Gió lạnh đầu mùa cũng không ngoại lệ. Với cốt truyện đơn giản, tác giả đã truyền đạt một thông điệp
tích cực và trân trọng về tình cảm yêu thương, sự sẻ chia giữa con người trong những ngày đông lạnh giá.
2. Giới thiệu tác phẩm và nêu ý nghĩa:
a. Nội dung
 Khung cảnh mùa đông:
- Để nổi bật chủ đề của tác phẩm, Thạch Lam đã đặt câu chuyện trong tình huống khi cái lạnh đến bất ngờ
“Vừa mới ngày hôm qua giờ trời còn nắng ấm và hanh”, nhưng “qua một đêm mưa rào, trời nổi gió bấc, rồi
cái lạnh ập đến…”.
- Cái lạnh vô tình ấy là yếu tố kích thích tạo ra những tình huống trong câu chuyện. Ngoài ra, để tô điểm
thêm không khí của đất trời trong một ngày đông, tác giả đã tỉ mỉ kể thêm: “đất khô trắng”, “cơn gió vi vu làm
bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi lăn những chiếc lá khô lạo xạo”, “Trời không u ám, toàn một màu trắng đục.
Những cây lan trong chậu, lá rung động và hình như sắt lại vì rét”,“Gió thổi mạnh làm Sơn thấy lạnh và cay
mắt”.
 Tình người ấm áp:
- Hình ảnh mẹ và chị Lan ngồi quạt hỏa lò pha nước chè, cùng chiếc áo bông của Duyên, làm nổi bật tình
cảm mẫu tử và tình anh em sâu đậm. Cái áo bông không chỉ là một mảnh vải, mà là biểu tượng của những kí ức
và tình cảm thiêng liêng trong gia đình. Cuộc sống dư dả của gia đình Sơn không làm cho họ trở nên kiêu kì hay
khinh khỉnh. Ngược lại, Sơn và chị Lan vẫn giữ nguyên tinh thần tốt bụng và sẵn lòng chia sẻ với những đứa trẻ
nghèo nàn ở xóm chợ.
- Thạch Lam chi tiết hóa cuộc sống khốn khó của các em nhỏ như Thằng Cúc, thằng Xuân, con Tí, con Túc,
mô tả chân thực về bộ quần áo rách rưới, môi tím lại và cái gió lạnh làm chúng rung lên. Điểm độc đáo và xúc
động nhất của truyện là sự xuất hiện của Hiên, cô bé đang chịu đựng cảm lạnh trong chiếc áo rách tả tơi. Sơn,
bằng tấm lòng nhân ái, nhớ đến quá khứ nghèo đói của Hiên và quyết định tặng chiếc áo bông cũ. Trong cái rét
buốt ấy, tình thương, sự chia sẻ giữa con người nổi bật: Sơn, cậu bé chính trong truyện, mang trong mình tấm
lòng “thương người như thương thân” khi được sinh ra, lớn lên trong tình yêu thương của những người thân yêu.
Dù sống trong gia đình khá giả, Sơn vẫn chơi cùng bạn bè nghèo. Khi thấy Hiên đang lạnh lùng vì thiếu áo, Sơn
và chị Lan quyết định giúp đỡ.
- Điều bất ngờ nhất là: mẹ Hiên đã tự giác trả lại chiếc áo bông. Hành động của mẹ Hiên và mẹ Sơn, khi
hiểu rõ tình hình, không chỉ làm giảm đi nỗi lo của Sơn và Lan mà còn làm nổi bật sự nhân hậu và sẻ chia trong
cộng đồng. Mẹ Sơn thậm chí còn cho mẹ Hiên vay tiền để may áo cho con, đẩy mọi giới hạn của lòng nhân ái
lên một tầm cao mới. Tấm lòng nhân ái của họ làm rung động trái tim người đọc. Do vậy, Gió lạnh đầu mùa
mang đến những rung động về tình người. Tình thương gia đình và lòng nhân ái với những hoàn cảnh khó khăn
trong xã hội được thể hiện rõ trong câu chuyện.
b. Nghệ thuật:
- Tác phẩm giàu chất trữ tình, với ngôn ngữ nhẹ nhàng, giản dị, chân thực, thiên truyện ngắn giàu chất trữ
tình, bàng bạc chất thơ. Chất trữ tình là một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn và góp vào thành công của
truyện.
- Thạch Lam đã sử dụng tinh tế thủ pháp đối lập, phát huy khả năng quan sát tinh tường, chọn những chi tiết
hết sức tiêu biểu từ màu sắc, âm thanh đến sự chuyển động của cảnh chuyển mùa trong cái lạnh đầu đông để
hoài niệm ở đầu cũng như khung cảnh câu chuyện.
MÁT RƯỢI ÁNH NHÌN

Câu 1.
a. Theo văn bản 1, những cách giúp con người sống lạc quan hơn đó là biết ơn những điều chúng ta đã và
đang nhận được trong cuộc sống của mình, chia sẻ với người khác những gì đã diễn ra trong cuộc sống, từ
những thành công hay thậm chí là những thất bại đau đớn nhất.
b. Thành phần biệt lập trong câu: Thành phần tình thái (chắc chắn).
c. Điểm giống nhau về nội dung giữa hai văn bản: Đều đưa ra lời khuyên về việc mỗi người cần có thái độ
sống lạc quan để có thể vượt qua mọi trở ngại, tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống, hướng đến một tương lai tươi
sáng.
Điểm khác nhau:
- Văn bản 1: Chỉ ra một số việc mỗi người cần làm (biết ơn những điều bạn đã và đang nhận được trong
cuộc sống, chia sẻ những gì đã diễn ra trong cuộc sống, từ những thành công hay thậm chí là những thất
bại đau đớn nhất) để có thể hình thành nên thái độ sống lạc quan.
- Văn bản 2: Khẳng định tầm quan trọng của thái độ sống lạc quan (truyền được nguồn năng lượng tích
cực đến cho người khác, nhanh chóng đi đến thành công, dễ dàng đạt được mục tiêu, có khả năng thích
nghi với mọi hoàn cảnh và vượt qua được những phiền muộn không đáng có, cảm nhận được sâu sắc giá
trị cuộc sống, có cách nhìn sáng suốt, hành động đúng đắn) đối với mỗi người.
d. HS tự do trình bày quan điểm cá nhân, miễn hợp lí và thuyết phục; lưu ý đảm bảo dung lượng theo yêu
cầu:
Có thể theo gợi ý sau:
Đồng ý với ý kiến.
Nguyên nhân:
- Điều này quyết định cách con người nhìn nhận, đánh giá về bản thân và cuộc sống - những điều ảnh
hưởng đến khả năng thành công.
- Thái độ này giúp chúng ta hướng đến những điều tích cực, tốt đẹp, tránh xa cái xấu, cái ác, tâm trạng
tiêu cực - những chướng ngại ngăn cản ta đến với thành công.
- Lạc quan và tự tin tiếp thêm động lực tinh thần cho con người hoàn thành lý tưởng, vượt qua những
khó khăn, thử thách trong cuộc đời.

Câu 2.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận.
2. Giải thích:
- Phàn nàn rằng leo núi quá vất vả chính là thái độ thường thấy của con người khi gặp khó khăn vất vả -
chúng ta thường đổ lỗi cho hoàn cảnh, thường nhìn hoàn cảnh khách quan như một yếu tố tiêu cực ngăn cản ta
đến với thành công. Nghĩ đến khung cảnh tươi đẹp xung quanh khi được nhìn ngắm từ đỉnh núi là cái nhìn đầy
lạc quan, hướng về những điều tích cực, tốt đẹp đang chờ đón sau khi đã vượt qua những thử thách khó nhọc.
- Ý kiến trên đã khẳng định sự cần thiết của thái độ, cái nhìn lạc quan khi đối diện với khó khăn.
3. Bàn luận:
- Đứng trước một khó khăn nào đó, người lạc quan luôn cố gắng tìm kiếm những khía cạnh tốt đẹp của tình
hình, nghĩ đến những kết quả lâu dài, nghĩ đến những gì tốt nhất trong khả năng có thể làm được để cải thiện
tình hình. Họ tin tưởng ở kết quả tốt đẹp mà họ có thể gặt hái, tin rằng những bất lợi rồi cũng sẽ giảm bớt nếu
mình biết khai thác tối đa khía cạnh thuận lợi, dù ít ỏi. Những người lạc quan sẽ mang niềm tin đó vào công
việc, làm việc quyết tâm hơn, hăng say và chịu khó hơn rất nhiều lần để đạt được thành quả mà họ mơ ước.
- Tổn thất lớn nhất của đời người chính là tự giam hãm trong một thái độ sống bi quan. Hay nói cách khác,
mang một thái độ sống bi quan sẽ chẳng khác nào tự mình đang vùi dập cuộc đời mình. Trong cuộc sống theo
nhiều chiều hướng khác nhau, từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, chúng ta sẽ phát hiện ra rất nhiều lý do để
chúng ta có thể sống lạc quan. Sự khác biệt cơ bản giữa người có thái độ sống lạc quan với người có thái độ
sống bi quan cũng chính là ở đó.
- Để thay đổi thái độ của bản thân từ chỗ bi quan trở nên lạc quan, chúng ta hãy thay đổi cách lý giải của
mình về mọi việc. Nhiều khi, chỉ vì cách lý giải nóng vội, nông nổi, hời hợt, hoặc do thành kiến, cố chấp mà
bạn nhìn cuộc sống bằng cái nhìn bi quan. Chiếc chìa khóa để sống lạc quan, đó là ta phải luôn nhìn thấy những
khía cạnh tích cực trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào. Chính những suy nghĩ tích cực của chúng ta sẽ chi
phối tâm trạng, ảnh hưởng đến thái độ của chúng ta. Sự lạc quan sẽ giúp ta thúc đẩy, động viên bản thân làm
việc hiệu quả hơn, khiến áp lực giảm dần, gặt hái được thành quả trong công việc và mang lại niềm hạnh phúc
trong cuộc sống.
4. Bài học nhận thức và hành động:
- Phê phán những kẻ sống bi quan, “chưa thấy sóng cả đã vội ngã tay chèo”, chúng ta càng hiểu rõ giá trị
của thái độ lạc quan - đó là một trong những bí quyết để sống hạnh phúc. Do đó, chúng ta phải cố gắng sống lạc
quan và đừng bao giờ làm cho người khác phải bi quan. Nếu hiện tại chúng ta không gieo thêm được niềm hy
vọng và cũng không đem lại được cho người khác thái độ lạc quan, thì trước mắt chúng ta cũng đừng than vãn
khiến người khác phải nản lòng, thất vọng. Và dĩ nhiên, một khi bạn đã tìm thấy sự lạc quan, bạn hãy truyền sự
lạc quan của mình cho những người còn thiếu lạc quan. Chắc chắn chúng ta sẽ cảm nhận được nhiều niềm vui
trong cuộc sống bằng cách làm cho người khác được hạnh phúc.
- Chúng ta hãy tin rằng mình được sinh ra trên cõi đời này không phải là để mãi bị vùi dập trong đau khổ,
mà là để sống với đời bằng thái độ lạc quan. Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều nên sống lạc quan. Bản thân
chúng ta phải thấy lạc quan thì mới cảm thấy yêu đời, cuộc sống đầy thú vị.

Câu 3.
Đề 1.
1. Giới thiệu vấn đề nghị luận:
- Huy Cận quê ở tỉnh Hà Tĩnh, là một trong những gương mặt nhà thơ xuất sắc của nền văn học hiện đại
Việt Nam. Trích từ tập Trời mỗi ngày lại sáng, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được viết vào tháng 10 năm 1958.
Đây là giai đoạn miền Bắc được giải phóng, nhân dân bắt đầu cuộc sống mới, đồng thời bắt tay vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho chiến trường miền Nam.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Đoạn trích tái hiện không khí đầy lạc quan khi đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng
hôn buông xuống, lao động khẩn trương, hăng say và trở về thắng lợi khi bình minh ló dạng.
2. Phân tích đoạn trích:
a. Nội dung
 Không khí lạc quan lúc ra khơi
- Trong lúc mọi vật nghỉ ngơi thì “đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi” với “câu hát căng buồm cùng gió
khơi”. Thuyền đi không phải một chiếc mà là cả một “Đoàn thuyền”, điều đó chứng tỏ việc ra khơi không hề
đơn lẻ. Đó là sự gắn bó, đoàn kết, tinh thần lao động tập thể là truyền thống từ ngàn xưa của nhân dân ta. Tác
giả đã sử dụng từ “lại” để nói về hoạt động của đoàn thuyền; vừa diễn tả một hoạt động lặp đi lặp lại trong
những khoảng thời gian nhất định vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người
bắt đầu lao động.“Lại ra khơi”, chứng tỏ đây không phải là lần đầu tiên đoàn thuyền ấy ra khơi, nhưng hoạt
động ấy vẫn lặp đi lặp lại thường xuyên như một thói quen thường ngày. Nó ấn định thời gian rất cụ thể, cứ
theo định kì, mỗi khi hoàng hôn buông xuống thì những người ngư dân lại giăng buồm ra khơi.
- Và họ ra khơi không phải trong lặng thầm, yên ắng mà với tiếng hát cất cao vang động cả biển trời. Câu
thơ vừa lãng mạn vừa khỏe khoắn với hình ảnh ẩn dụ “câu hát căng buồm” khi tác giả đã biến cái ảo thành cái
thực tạo khí thế phơi phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền.
 Không khí lao động khẩn trương, hăng say
- Khi sao mờ tức là trời gần sáng, như thế cũng đồng nghĩa với việc buổi lao động của những người ngư
dân trên biển sắp kết thúc. Câu thơ đầu khổ 6 giọng thơ gấp, từ ngữ như được tiết chế để nêu bật không khí
khẩn trương hơn khi thời gian càng gần về sáng không khí càng khẩn trương hơn. “Kéo xoăn tay” là một cụm
từ giàu sức gợi, giúp ta hình dung, bàn tay khỏe khoắn của những người dân chài lưới và cả tốc độ kéo lưới hối
hả để nhanh chóng đưa những “chùm cá nặng” vào bên trong khoang thuyền. Và chỉ với từ “Ta”, tác giả kín
đáo thể hiện sự tự hào, kiêu hãnh của một tập thể đầy sức mạnh chứ không còn là cái ta nhỏ bé, đơn côi giữa cô
đơn đất trời.
- Những “chùm cá nặng” nằm yên trên khoang thuyền với lung linh bao màu sắc sáng tươi: bạc, vàng,
hồng. Chính những màu sắc đó đã nối vào cảnh bình minh đang lên thật ấn tượng. Ánh sáng, niềm vui không
chỉ đem lại từ mặt trời ló dạng mà còn từ thành quả lao động (vảy bạc đuôi vàng) của con người. Những người
ngư dân lại chuẩn bị “lưới xếp buồm lên” quay trở vào bờ trong nắng mai rực rỡ. Hình ảnh “nắng hồng” có thể
tượng trưng cho ánh nắng của một ngày mới, ánh nắng của một cuộc đời mới, cuộc đời tràn đầy niềm vui. Mà ở
đó, những người lao động có thể làm chủ cuộc đời mình và phấn khởi, lạc quan với những thành quả của một
chuyến ra khơi mĩ mãn.
 Không khí tràn đầy cảm hứng khi trở về
- Cũng vẫn là câu hát ở khổ đầu và giờ đây nó đưa đoàn thuyền trở về. Câu thơ được điệp lại, nhưng có vẻ
hối hả hơn với tư thế mới “chạy đua cùng mặt trời”. Biện pháp tu từ nhân hóa vừa phản ánh thói quen của ngư
dân (đưa cá về bến trước khi trời sáng) vừa thể hiện niềm tin tưởng, hi vọng của họ trong công cuộc xây dựng
đất nước. Trong cuộc đua với thời gian con người đã chiến thắng. Khi mặt trời vừa đội biển mà lên, đem màu
đỏ sáng cho đất trời thì đoàn thuyền đã về bến từ lâu, chính ánh nắng ban mai đó đã làm cho thành quả của
những người ngư dân thêm rực rỡ, huy hoàng.
- Biện pháp thậm xưng kết hợp với hoán dụ trong hình ảnh “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” đã vẽ nên
cảnh bội thu và cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người dân vùng biển. Đoàn thuyền đi trên biển, giữa màu hồng
rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn
những mặt trời nhỏ xíu đang tỏa rạng niềm vui. Bài thơ miêu tả cảnh đánh bắt cá trong đêm nhưng lại lung linh
lấp lánh ánh sáng của trăng, sao, của cá, ánh sáng của mặt trời xuống biển. Và bây giờ là ánh sáng của mặt trời
đội biển khiến hai dòng cuối tràn đầy ánh nắng, tràn đầy niềm vui tươi phấn khởi của người dân chài và tinh
thần hào hứng của họ khi về bến với thành quả tuyệt vời.
b. Nghệ thuật: Bằng ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu, gợi tả, gợi cảm, bút pháp lãng mạn được phát huy tối đa giá
trị (với các biện pháp nghệ thuật đối lập, so sánh, nhân hóa, phóng đại), tác giả đã khắc họa bức tranh lao động
khỏe khoắn, sôi nổi có sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người, thể hiện nguồn cảm hứng ngợi ca vô tận về
biển cả lớn lao tươi đẹp và nhiệt tình hăng say vì một đất nước mạnh giàu của những người lao động mới.
3. Nêu ra tác động của đoạn thơ đối với bản thân:
- Đoạn thơ giúp em nhận ra vai trò của sự nỗ lực và lòng lạc quan trong cuộc sống. Hai điều này mang đến
cho ta một cuộc sống tươi đẹp hơn, giúp ta thay đổi bản thân thành một phiên bản khác, tốt hơn và hoàn thiện
hơn. Hơn thế, nỗ lực và lạc quan giúp ta chinh phục mọi nấc thang mục tiêu để vươn đến thành công.
- Con người và giới tự nhiên có mối quan hệ khăng khít với nhau, trong đó giới tự nhiên làm tiền đề cho
con người tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, hiện nay trong quá trình phát triển của mình, con người đang bất
chấp quy luật tác động vào tự nhiên và tự nhiên đang đáp trả những hành động đó của con người. Do vậy, nhận
thức đúng đắn mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, tìm kiếm sự hòa hợp với tự nhiên, trân trọng tự nhiên sẽ
giúp cuộc sống con người ổn định hơn, phát triển bền vững, lâu dài.

Đề 2. HS tự do lựa chọn tác phẩm văn học/ một đoạn trích của tác phẩm để giúp con người luôn là “hoa của
những nụ cười”.
Có thể theo gợi ý sau:
1. Nêu vấn đề:
- Y Phương là nhà thơ của núi rừng, có bản sắc tương đối rõ, một giọng điệu đáng chú ý trong nền thơ Việt
Nam nói chung, nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng. Ông là một cây bút luôn băn khoăn, trăn trở
về ý nghĩa, ý thức giữ gìn giá trị cộng đồng, ông có phong cách riêng bởi khi sáng tác ông luôn đi tìm cái mới,
cái độc đáo.
- Dẫn vào vấn đề nghị luận: Các tác phẩm của ông bao giờ cũng đau đáu tấm lòng hướng về quê hương xứ
sở, về mảnh đất mình sinh ra, dân tộc và đất nước mình. Trong đó bài Nói với con, Y Phương đã khắc hoạ sinh
động hình ảnh người đồng mình lạc quan, vui tươi trong lao động; ý chí mạnh mẽ, lối sống giàu nghị lực cũng
như tự lực tự cường trước khó khăn, gian khổ.
2. Giới thiệu đoạn trích và nêu ý nghĩa:
a. Nội dung
 Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của người đồng mình
- “Đan lờ cài nan hoa” là hình ảnh tả thực công cụ lao động thô sơ, đã được “người đồng mình” trang trí
và trở nên đẹp đẽ. Chi tiết này đã thể hiện sự cần cù, tài hoa và sáng tạo của người dân nơi quê hương tác giả.
Họ có thể khiến cho những nan nứa, nan tre đơn sơ, thô mộc trở thành những “nan hoa” trang trí.
- “Vách nhà ken câu hát” là hình ảnh tả thực lối sinh hoạt trong văn hóa cộng đồng người Tày. Những
“vách nhà” có thêm hát si, hát lượn đã gợi ra một thế giới tâm hồn tràn đầy lạc quan của cộng đồng người miền
cao.
- Sử dụng loạt động từ “cài”, “ken”, tác giả vừa miêu tả sự khéo léo trong các động tác lao động vừa nói
lên sự gắn bó khăng khít, hòa quyện niềm vui của những “người đồng mình” trong cuộc sống thường nhật cũng
như trong lao động.
 Người đồng mình sống vất vả mà mạnh mẽ, khoáng đạt, bền bỉ, gắn bó với quê hương, thủy chung
với nơi chôn nhau cắt rốn
- “Người đồng mình” sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ nhưng lạc quan, chân chất, yêu đời, mạnh
mẽ, khoáng đạt với chí lớn, luôn yêu quý, tự hào và gắn bó với quê hương cho dù quê hương còn cực nhọc, đói
nghèo. Họ biết lấy chiều “cao (để) đo nỗi buồn”, khoảng cách “xa (để) nuôi chí lớn”, không bao giờ lùi bước
trước mọi thử thách, khó khăn, tâm càng sáng, chí càng cao, tầm nhìn càng xa rộng, tràn đầy niềm vui và lòng
lạc quan.
- Nhà thơ gợi ra những đức tính, phẩm chất đáng quý của “người đồng mình” như chấp nhận khó khăn, thử
thách, hồn nhiên, mạnh mẽ, bền bỉ và phóng khoáng (Sống như sông như suối / Lên thác xuống ghềnh). Để
nhắc nhở giáo dục con, người cha nhấn mạnh truyền thống người đồng mình: “Người đồng mình tự đục đá kê
cao quê hương/ Còn quê hương thì làm phong tục”. Câu thơ có hai lớp nghĩa: nghĩa tả thực : “Đục đá kê cao”
là hoạt động có thực thường thấy ở miền núi. Quê hương vốn là khái niệm trừu tượng, chỉ nơi chốn sinh thành
của một người nào đó; nghĩa ẩn dụ: nói “đập đá kê cao quê hương” là muốn khái quát về tinh thần tự tôn, ý
thức xây dựng bảo tồn quê hương, văn hóa, cội nguồn – góp phần tạo nên phong tục, truyền thống đẹp đẽ của
quê hương.
- Lời thơ gân guốc, hình ảnh thơ vừa cụ thể vừa giàu tính khái quát, làm rạng ngời lên vẻ đẹp của con
người quê hương: vẻ đẹp của sự cần cù nhẫn nại, ý chí bền bỉ, nghị lực phi thường vẻ đẹp của sức mạnh tự
cường, tinh thần tự chủ, bằng bàn tay khối óc, bằng ý chí, niềm tin và khát vọng, họ đã làm nên một quê hương
với những truyền thống tốt đẹp, đáng tự hào.
b. Nghệ thuật: Thể thơ tự do, phóng khoáng kết hợp cùng cảm xúc chân thành, mộc mạc đã khiến lời thơ
trở nên ấm áp và thân thiết; cách sử dụng hình ảnh và ngôn từ mang đặc trưng trong lối nói, diễn đạt và tư duy
của người vùng cao, tạo nên sự gần gũi, thân thương; giọng điệu thơ thay đổi khi tâm tình, khi mạnh mẽ,
nghiêm khắc, tạo sự dẫn dắt hợp lý trong mạch cảm xúc, rất phù hợp với lời khuyên của cha nói với con mình.

You might also like