Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 13

VỘI VÀNG

*13 câu đầu


Dàn ý:
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nhà thơ lớn, nhà VH’ lớn.
+ Ngay khi bước chân vào làng thơ, đã đc nhìn nhận: nhà thơ mới nhất trong những nthơ mới (HT).
+ Nhà thơ của mùa xuân, tuổi trẻ & TY với 1 hồn thơ khát khao giao cảm với đời (NĐM).
- Luôn duy trì nguồn cx tươi mới, cặp mắt xanh non để nhìn vạn vật -> dòng thơ cho đến cuối đời k hề vơi cạn.
-> Sự đam mê stạo của ông như 1 cuộc chạy đua với thgian, tìm đến sự bất tử trong văn chương.
- In trong tập “Thơ thơ”, tiêu biểu cho thơ XD trước CM
2. Thân bài:
* Luận điểm 1: Khao khát lưu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên
- Trong thơ ca trung đại ít có nhà thơ nào dám khẳng định cái tôi cá nhân của mình một cách táo bạo nhưng khi đến với
phong trào Thơ mới, cái tôi Xuân Diệu đã bộc lộ một cách vô cùng độc đáo:
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi".
 Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm cũng như tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con
người.
 Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền tạo hóa của thi nhân.
 "Nắng" mùa xuân là ánh sáng rực rỡ, ấm áp và tươi vui, "hương" mùa xuân là nơi tinh hoa của đất trời, của vạn
vật kết tinh, hội tụ.
 Hành động "tắt nắng", "buộc gió" là những mong muốn dường như không tài nào thực hiện được bởi lẽ nó đi
ngược lại với những quy luật vốn có của tự nhiên.
- Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất.
 Thi sĩ khao khát giữ lại ánh nắng để "màu đừng nhạt mất", giữ lại gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc hương.
 Điệp cấu trúc "Tôi muốn... để", động từ mạnh "tắt", "buộc" cùng với nhịp thơ nhanh, dồn dập, thể hiện khao khát
mãnh liệt, hối hả, muốn nhanh chóng không để những vẻ đẹp tạo hóa vụt mất khỏi tầm tay.
 Nếu thời gian đi bằng nắng, bằng gió làm nhạt màu, làm phai hương thì nhà thơ muốn níu giữ thời gian ngừng
bước, để màu sắc và hương thơm còn mãi với cuộc đời, để giữ mãi thời tươi xuân thì của tạo vật.
 Cũng bởi thế, khao khát này cũng thể hiện sự ham sống bồng bột đến mãnh liệt và quan niệm về thời gian của
ông: Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trôi qua rồi thì không trở lại nên nhà thơ có khao khát giữ nắng, giữ
gió để tận hưởng hết vẻ đẹp của đất trời.
=> Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vì đóa hoa hương sắc cuộc đời tươi thắm, ngọt
ngào mà mong manh, ngắn ngủi biết bao. Có thể nói đằng sau ước muốn phi lí ấy là một tâm hồn yêu người với thái độ
trân trọng, nâng niu và gìn giữ.
* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp
- Từ thể thơ 4 chữ, nhà thơ chuyển sang những câu thơ 8 chữ, nhịp thơ như trải tỏ ra, chậm rãi, nhẹ nhàng như nhịp tâm
hồn thi sĩ đang tận hưởng những tinh hoa của đất trời mùa xuân
- Điệp ngữ "này đây" được lặp đi lặp lại 5 lần như một lời mời gọi, kết hợp với thủ pháp liệt kê, vừa diễn tả sự giàu có,
phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả.
- "Này đây" là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời, của thiên nhiên trần thế, không phải xa xôi mà gần gũi ngay trước
mắt, không phải ở tương lai hay quá khứ mà ngay trong hiện tại lúc này.
- Điệp từ "của" lặp lại mang tính chất kết nối làm cho bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế lần lượt hiện
ra, lại thêm phần phong phú, giàu có.
- Nhà thơ sử dụng một loạt biện pháp tu từ nhân hoá, dùng những danh từ thuộc về con người ("tuần tháng mật", "khúc
tình si") để miêu tả thiên nhiên, kết hợp với "ong bướm", "yến anh" được gọi tên như đôi như lứa khiến cho vườn xuân
bỗng đầy mộng mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc.
- Tính từ "xanh rì", "phơ phất" giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống
=> Bức tranh xuân không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui, hình ảnh "ánh sáng chớp hàng
mi" và "thần vui" vô cùng gợi cảm. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng
sắc hương của vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng
- Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng người ngất ngây tận hưởng, để thi nhân
tạo hóa thành tình nhân:
"Tháng Giêng non như một cặp môi gần"
 Câu thơ sử dụng nghệ thuật ẩn chuyển đổi cảm giác, hay chính là phép giao thoa mà thơ Mới tiếp thu được từ thơ
ca tượng trưng Pháp
 Đây là câu thơ mới mẻ nhất, hiện đại nhất, đã khái quát được sự hấp dẫn của mùa xuân bằng sự so sánh vô cùng
độc đáo. Nhà thơ cảm thụ thiên nhiên bằng tình lứa đôi, bằng thể xác và tâm hồn.
- Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với "cặp môi gần" căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến
rũ.
 Từ "ngon" được thốt lên đầy khát khao, và đam mê, là sự cảm nhận sâu nhất bằng mọi giác quan
 Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, con người trở thành chuẩn
mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa.
 "Tháng giêng" là một khái niệm thời gian vốn vô hình, nhưng trong phép so sánh vừa táo bạo vừa mang sắc thái
biểu cảm ấy đã trở nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp cặp môi gần của người thiếu nữ.
=> Nhà thơ đã thể hiện quan niệm của mình một cách thật sâu sắc: Nếu trong thơ ca Trung đại, các thi nhân lấy thiên
nhiên để làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người thì đến với Xuân Diệu, con người mới là chuẩn mực cho mọi cái đẹp
tồn tại trên cuộc đời này, và thiên đường không phải là những chốn thiên thai xa xôi, huyễn hoặc nào đó, mà chính là nơi
đây, chính mặt đất trần thế mới là thiên đường của tình yêu, của cái đẹp và của tuổi trẻ.
* Luận điểm 3: Tâm trạng của thi sĩ
- Ngay lúc chàng thi sĩ trẻ đang ngất ngây mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần
thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên "tôi sung sướng" thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với
cảm giác "vội vàng một nửa".
- Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui không trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao.
Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.
=> Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là
linh cảm bất an, băn khoăn âu sầu của nhà thơ vì thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi không trở lại, quả thật Xuân Diệu là
nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian.
3. Kết bài: Khái quát nội dung, nêu cảm nhận cá nhân
Bài làm
Nhà thơ Thế Lữ từng nhận xét khá tinh tế về Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài
người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu
và tuổi trẻ, một trong những nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ mới và được biết đến rộng rãi qua cái biệt danh
“ông hoàng thơ tình” . "Vội vàng" là một trong những bài thơ xuất sắc nhất thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết,
quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu. Đến với 13 câu đầu của bài “Vội vàng” ta sẽ thấy rõ khát vọng táo bạo,
lạ lùng của nhà thơ và hình ảnh mùa xuân – vẻ đẹp thiên đường nơi hạ giới.
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Rút ra từ tập “Thơ thơ” sáng tác năm 1938, “Vội vàng” là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp hồn thơ Xuân Diệu trước cách
mạng tháng 8. Mở đầu bài thơ là khổ thơ ngũ ngôn thể hiện ước muốn cháy bỏng của thi sĩ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Khổ thơ như một khúc ca sôi nổi, thiết tha về những khát khao nảy sinh từ trái tim nhà thơ. Một thái độ oai nghiêm
như muốn đoạt quyền tạo hóa, Xuân Diệu muốn tự mình dập tắt nắng, muốn buộc gió cho sắc hương không phai,
nghĩa là Xuân Diệu muốn lưu giữ mãi hương thơm, muốn cho vẻ đẹp của mùa xuân bất tử trên cõi đời. Điều này vừa
hợp lí bởi nhà thơ “yêu tha thiết cái chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh); nhưng cũng vừa vô lí bởi con người
làm sao có thể cưỡng lại được quy luật của tạo hóa, làm sao nắm bắt, điều khiển được những thứ vốn là ngắn ngủi,
không tồn tại được mãi mãi đó. Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần đã khẳng định ý nguyện của cái “tôi” tha
thiết muốn giữ lấy vẻ đẹp của thiên nhiên; đồng thời làm nổi bật tâm hồn của một nhà thơ yêu đời. Động từ mạnh
"tắt", "buộc" cùng với cách ngắt nhịp vội vã, dứt khoát càng tô đậm mức độ mãnh liệt, nồng nàn của ước vọng trong
tâm hồn ông. Tuy nhiên, ẩn sâu trong khát vọng ngông cuồng, táo bạo ấy lại là một tình yêu cuộc sống đến tha thiết,
khắc khoải. Ông muốn lưu giữ nó bên mình để được thưởng thức một cách trọn vẹn, mãi mãi.
Sau tâm trạng ấy là tiếng reo vui của nhà thơ. Sự mong muốn chiếm lĩnh vẻ đẹp thiên nhiên của Xuân Diệu xuất phát
từ bức tranh thiên nhiên tươi đẹp đang mơn mởn non tơ. Xuân Diệu đã phát hiện ra vẻ đẹp sự sống quen thuộc quanh
ta bỗng trở nên vô cùng hấp dẫn:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần!
Từ câu thơ năm chữ ngắn gọn, khúc thơ bỗng biến thành câu tám chữ liền mạch với hàng loạt biện pháp nghệ thuật
đặc sắc. Khổ thơ như được phổ nhạc với âm điệu sôi nổi, thiết tha như tiếng thác dâng trào. Cũng vẫn là thiên nhiên
non nước ấy thôi, nhưng Xuân Diệu phát hiện ra bao vẻ đẹp bất ngờ, đáng yêu, say đắm. Phép liệt kê, điệp ngữ “này
đây” được lặp lại liên tiếp trong năm dòng thơ liên tiếp đã tô đậm không gian và thời gian thơ, vừa gợi lên sự hiện
hữu của hương sắc rực rỡ thiên nhiên, vừa thể hiện niềm vui sướng tột độ cũng như rộn ràng tận hưởng mùa xuân
của nhà thơ. Hình ảnh ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, cành tơ, yến anh, ánh sáng là những hình ảnh đẹp của cuộc sống
thường nhật, nhưng qua lăng kính lãng mạn và tình yêu cuộc sống của nhà thơ thì những hình ảnh vốn quen thuộc ấy
bỗng tươi sáng, hấp dẫn như cảnh sắc nơi thiên đường. Điệp từ “của” lặp lại khiến câu thơ có vẻ hơi Tây và mới lạ.
Từ “của” kết nối bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường hạ xuống trần thế lần lượt hiện ra. Nhà thơ sử dụng
một loạt biện pháp tu từ nhân hoá, dùng những danh từ thuộc về con người ("tuần tháng mật", "khúc tình si") để
miêu tả thiên nhiên, kết hợp với "ong bướm", "yến anh" được gọi tên như đôi lứa khiến cho vườn xuân bỗng đầy
mộng mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc. Tính từ "xanh rì", "phơ phất"
giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống. Bức tranh xuân không chỉ có cảnh vật
đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui, hình ảnh "ánh sáng chớp hàng mi" và "thần vui" vô cùng gợi cảm.
Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một
ngày hân hoan vui sướng. Nhà thơ dường như muốn nói bằng một cử chỉ vội vàng, dồn dập rằng: Tất cả vẻ đẹp kỳ
diệu, kỳ diệu của mùa xuân và cuộc sống là của ta trong vòng tay ta, vậy còn chờ gì nữa?
Tiếng chim cất lên tưng bừng rộn rã tạo nên một khúc nhạc tình si trong không gian tràn ngập ánh sáng. Mùa xuân
tưng bừng, mùa xuân rộn rã đã dần đến cho nhà thơ một niềm vui, niềm ham muốn nắm bắt và muốn hưởng thụ mỗi
sáng:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Có ai lại so sánh thiên nhiên, so sánh thời gian với con người… Nhưng Xuân Diệu thì có. Đúng là chỉ có nhà thơ
mới, một nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong cách phương Tây, mới có tư duy mới mẻ và táo bạo như vậy.
Nhà thơ so sánh “tháng giêng” với đôi môi căng mọng của người thiếu nữ đang độ thanh xuân. Mùa xuân đẹp và
quyến rũ như đôi môi người thiếu nữ và tháng giêng là tháng đẹp nhất của mùa xuân. Câu thơ sử dụng nghệ thuật ẩn
dụ chuyển đổi cảm giác chỉ với một từ “ngon” đã bộc lộ hết tâm trạng của Xuân Diệu với thiên nhiên: một khát khao,
một cảm nhận riêng đến lạ lùng mà ta chỉ có thể bắt gặp ở Xuân Diệu. Nếu trong thơ ca Trung đại, các thi nhân lấy
thiên nhiên để làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người thì đến với Xuân Diệu, con người mới là chuẩn mực cho
mọi cái đẹp tồn tại trên cuộc đời này. Ông như người họa sĩ tài năng đang đứng trước bức tranh thiên nhiên tươi đẹp
để chỉ cho chúng ta thấy vẻ tươi non, nõn nà như thiếu nữ của mùa xuân. Mùa xuân đẹp và tình tứ, vạn vật đều có
đôi, gắn bó, quấn quýt với nhau một cách thân thiết.
Cuộc sống tốt nhất là ở tuổi trẻ, cuộc đời đẹp nhất là vào lúc tuổi xuân. Người ta nếu không biết trân trọng khi còn
trẻ, con người sẽ không còn thể tận hưởng điều đẹp đẽ ấy. Ngay lúc chàng thi sĩ trẻ đang ngất ngây trong niềm tận
hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên "tôi sung
sướng" thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác "vội vàng một nửa":
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
Dấu hiệu "." giữa câu thơ, chia đôi dòng chữ thành hai luồng cảm xúc. Đang hả hê trong bữa tiệc sắc đẹp trần gian
và reo lên "tôi sung sướng", nhà thơ đã phải ngừng lặng với cảm giác "vội vàng một nửa". Dự cảm mơ hồ về sự
mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân phải sống vội vàng tận hưởng. Xuân Diệu biết mình vội
vàng, bỏ lỡ thanh xuân, bỏ lỡ tuổi trẻ. Rõ ràng là thời gian chưa đuổi tới, mà nhà thơ đã lo sợ sự chảy trôi. Nói như
vậy để thấy rằng nhà thơ Xuân Diệu luôn bị ám ảnh bởi những giai đoạn và quy luật của thời gian. Hai câu thơ như
bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say trong vẻ đẹp của cuộc sống, tình yêu vừa có linh cảm bất an, lo lắng
của nhà thơ. Chợt nhịp thơ chậm lại, trở nên trầm ngâm, sâu lắng bởi sự thật không thể dùng bàn tay để can thiệp:
thời gian qua mau, tuổi trẻ đã đi thì sẽ không trở lại.
Thông thường người ta chỉ tiếc nuối cái gì đã qua, đã mất. Nhưng Xuân Diệu lại tiếc nuối những gì đang có. Tâm
trạng này của Xuân Diệu có nét tương đồng với tâm trạng của Nguyễn Bính:
"Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên"
Khác một điều, nếu thơ Nguyễn Bính là từ cùng một tọa độ mà thương nhớ, thì Xuân Diệu lại cùng một thời điểm
mà thương nhớ. Qua đây, phải nói rằng Xuân Diệu là nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian, không gian.
Qua những đặc sắc về nghệ thuật có thể kể đến như từ ngữ giàu sức biểu cảm, giọng điệu thơ tha thiết, mạnh mẽ, các
biện pháp tu từ được sử dụng linh hoạt, ta có thể thấy được quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu: Cuộc sống trần thế là
thiên đường nơi mặt đất và con người là chuẩn mực của mọi cái đẹp. Đến đây ta đã hiểu được vì sao mà thi sĩ muốn
can dự vào những quy luật muôn đời của tạo hóa, không phải là một ước muốn ngông cuồng nông nổi mà đó là
những khát vọng cháy bỏng của Xuân Diệu, ước muốn bất tử hóa của cái đẹp.
Vội vàng của Xuân Diệu như một bức tranh sống động về cuộc sống tươi đẹp, những rung cảm mãnh liệt trước niềm
vui và hạnh phúc của cuộc sống. Bằng thể thơ tự do phóng khoáng, cách nhìn, cách cảm nhận mới mẻ, táo bạo cùng
nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh, điệp ngữ, sáng tạo hình ảnh thơ độc đáo, đoạn thơ thể hiện chân thật và cụ
thể một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt. Không những thế, Xuân Diệu còn gửi đến người đọc một
quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến: biết quí trọng thời gian, biết quí trọng tuổi trẻ để sống tận hưởng, tận hiến,
sống không nuối tiếc.
*15 câu tiếp
Nhà thơ Thế Lữ từng nhận xét khá tinh tế về Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài
người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu
và tuổi trẻ, một trong những nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ mới và được biết đến rộng rãi qua cái biệt danh
“ông hoàng thơ tình” . "Vội vàng"- rút từ tập “Thơ thơ”- là một trong những bài thơ xuất sắc nhất thể hiện tình yêu
cuộc sống tha thiết, quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu. Và ở khổ thứ hai của bài thơ chính là đoạn văn thể
hiện sâu sắc nhất về triết lý thời gian và cuộc đời của tác giả:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn tha thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Rút ra từ tập “Thơ thơ” sáng tác năm 1938, “Vội vàng” là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp hồn thơ Xuân Diệu trước cách
mạng tháng 8. Quan niệm mới mẻ về thời gian của Xuân Diệu được thể hiện ở những câu đầu khổ 2:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
Nếu như ở khổ thơ đầu của bài, nhà thơ đã phác họa lên một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với ong bướm, hoa cỏ,
đồng nội, yến anh, cùng với đó là tình yêu đến cháy bỏng của người thi sĩ; thì đến khổ thơ thứ hai, tác giả lại thể hiện
sự khắc khoải trước những tốc độ trôi thật nhanh của thời gian. Dường như sâu thẳm trong tâm hồn người thi nhân
ấy, đã có ý thức rất rõ sự vô tình của thời gian trôi đi quá nhanh. Tác giả lỡ sợ rằng “xuân đương tới” rồi xuân cũng
sẽ “đương qua”, xuân còn non không có nghĩa là xuân sẽ không già, bởi mỗi phút giây qua đi như đẩy cuộc đời của
con người thêm ngắn lại. Thời gian, tuổi trẻ, chả bao giờ có thể quay lại, bởi thế mà từng giây đều phải trân trọng,
phải sống một cách vội vàng kẻo lỡ những thanh xuân cuộc đời. Sự phối kết hợp những động, tính từ trái nghĩa “tới”
- “qua”; “ già”- “non”, đã cho thấy cảm quan của thi nhân trước thời gian đầy nhạy bén, tinh tế. Cùng với hàng loạt
câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa và sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch
một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và
tuổi trẻ cũng mất. Mỗi ngày, mỗi tháng năm qua đi đời người thêm phần ngắn lại, khi mà ta không còn thấy được
những vẻ đẹp của mùa xuân nữa nghĩa là đời người không còn, sinh thể vĩnh viễn xa rời cuộc đời.
Cảm nhận được sự vội vã ấy, nhà thơ càng bất an, càng thảng thốt, nghẹn ngào:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Thật vậy, đất trời, vũ trụ bao la là thế, nhưng con người lại nhỏ bé, đời người lại hữu hạn. Phải chấp nhận sự thật dẫu
biết rằng mùa xuân tuần hoàn đấy thôi, nhưng tuổi trẻ đâu có vĩnh viễn mà tuần hoàn theo thời gian, đâu thể thắm lại
những lần như thuở còn sung sức, dồi dào sức khỏe, tràn đầy nhiệt huyết. Sự hạn hữu của đời người với thời gian
được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ
trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi. Nhưng ở đây, Xuân
Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”.Thế nên nỗi tiếc nuối, bâng
khuâng rợn ngợp cả đất trời.
Suy ngẫm về điều đó, Xuân Diệu càng cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ
trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.
Có thể thấy rằng, đây chính là lẽ thường của tạo hoá, một quy luật của vũ trụ mà vạn vật đều không tránh khỏi. Thời
gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi, dường như khắp
không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Tựa như ta nghe thấy có chút gì xao xuyến
rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” ấy .Gió đùa trong lá không phải là những âm
thanh vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc
chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Qua những
hình ảnh nhân hóa như núi sông, con gió, vậy là vạn vật cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó mà
không sao cưỡng lại được.
Xuân Diệu có cách cảm nhận về thời gian khác lạ như vậy, chính là nhờ vào “sự ý thức sâu xa về sự sống của cá
thể”. Quan niệm mới mẻ, đột phá ấy của Xuân Diệu đã khiến cho ta phải trân trọng từng phút được sống, tận hưởng
một cuộc sống trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Qua khổ thơ này, chúng ta đã thấy được niềm khát khao sống mãnh liệt, cháy
bỏng của ông hoàng thơ tình Việt Nam. Từ đó, chúng ta thêm trân trọng những quan niệm nhân sinh, tích cực, tiến
bộ. Như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng
nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền
thống”.
*Khổ cuối:
II. Thân bài
1. Vì sao ở cuối bài thơ, lòng yếu đời, ham sống của tác giả lại bùng lên dữ dội, hối hả, cuồng nhiệt như vậy
- Đó chính là cao trào tình cảm tất yếu phải đến trong mạch thơ Vội vàng của tác giả:
 Mở đầu bài thơ là những biểu hiện của lòng yêu đời, yêu cuộc sống đến si mê, ngây ngất của nhà thơ.
 Tiếp đến, lại là những băn khoăn, lo lắng của nhà thơ khi ông cảm thấy cuộc đời mình ngắn ngủi, tuổi trẻ, tuổi xuân qua
nhanh.
 Trong nỗi băn khoăn, lo sợ đó, nhà thơ thấy rõ nếu không đến nhanh với cuộc sống để tận hưởng thì sẽ mất nó, vì thế
mà ông phải vội vàng đến ngay để ôm ghì lấy nó trong vòng tay của mình.
- Câu thơ bản lề để cho cao trào tình cảm trào ra cuồng nhiệt chính là: "Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm". Đó là lời tự
giục giã của nhà thơ. Chính vì "mùa chưa ngả chiều hôm" nên phải "mau đi
thôi" để đến với cuộc sống đó, để Ta muốn ôm... tất cả những gì có trong cuộc sống đó.
2. Cách sống vội vàng, hối hả, cuồng nhiệt của nhà thơ được biểu hiện như thế nào?
- Nhà thơ muôn ôm ghì, riết chặt cuộc sống trong vòng tay của mình vì sợ mất nó:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu...
- Nhà thơ muốn tận hưởng cuộc sống đó ở những cảm giác cuồng nhiệt, mãnh liệt nhất:
 Từ ôm đến riết, đến say, đến thâu, đến cắn...
 Từ rất nhiều sự vật, hiện tượng của cuộc sống: mây đưa, gió lượn, cánh bướm, tình yêu, cái hôn, non nước, cây, cỏ, mùi
thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng...
 Và rất nhiều cảm giác: chếnh choáng, đã đầy, no nê...
 Diện tận hưởng rất rộng mà cường độ tận hưởng lại rất cao, rõ nhất là trong câu thơ cuối " - Hỡi xuân hồng, ta muốn
cắn vào ngươi!" Chưa bao giờ trong văn chương lại có một tiếng nói thơ ca mới mẻ và táo bạo đến thế. Đó chính là sự
bùng nổ mãnh liệt của "cái tôi - cảm xúc" trong Thơ mới thời kì 1932 - 1941 mà Xuân Diệu là một gương mặt tiêu
biểu. Cả đoạn thơ, đặc biệt câu thơ cuối, đã nói lên rất rõ thần thái của Xuân Diệu.
- Tất cả những điều nói trên đã được thi nhân bộc lộ bằng một tiếng nói thơ đặc sắc, mang tính nghệ thuật cao. Đúng là sự bùng
nổ của "cái tôi - cảm xúc" đã kéo theo sự bùng nổ về nghệ thuật thơ, đem đến những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu ở
đoạn thơ này:
 Cảm xúc dâng trào mạnh mè làm cho âm điệu câu thơ cuồn cuộn, dồn dập, diễn tả được sự vội vàng, hôi hả, cuồng
nhiệt đến với cuộc sống của nhà thơ.
 Dùng nhiều động từ chỉ hành động và chỉ cảm giác mạnh, ngày càng tăng tiến để bộc lộ cái cảm xúc bùng nổ của thi
nhân:
Ôm —> riết -> say -> thâu -> cắn.
chếnh choáng -> đã đầy -> no nê.
Cái gì cũng ở cường độ cao, ở trạng thái mê say, ứ tràn.
+ Sử dụng nhiều điệp từ: ta (5 lần), và (3 lần) cho (3 lần) càng khiến câu thơ thêm dồn dập, cảm xúc thơ dâng trào, và con người
thơ vội vàng, cuống quýt, cuồng nhiệt của Xuân Diệu được bộc lộ rõ với cái thần thái, sắc diện riêng của thi nhân, không thể lẫn
được.
III. Kết bài

Bài làm
Nhà thơ Thế Lữ từng nhận xét khá tinh tế về Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài
người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu
và tuổi trẻ, một trong những nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ mới và được biết đến rộng rãi qua cái biệt danh
“ông hoàng thơ tình”. "Vội vàng"- rút từ tập “Thơ thơ”- là một trong những bài thơ xuất sắc nhất thể hiện tình yêu
cuộc sống tha thiết, quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu. Và cao trào tình cảm của thi phẩm chính là lúc
lòng yêu đời, ham sống của nhà thơ bùng lên dữ dội, hối hả, cuồng nhiệt ở cuối bài:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Rút ra từ tập “Thơ thơ” sáng tác năm 1938, “Vội vàng” là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp hồn thơ Xuân Diệu trước cách
mạng tháng 8. Mở đầu đoạn thơ thứ 3 là lời thúc giục gấp gáp “mau đi thôi” thể hiện sự vội vã:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Cảm quan tiếc nuối của nhà thơ được đẩy lên tới đỉnh cao trong câu: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...” Tiếc
nuối đến bất lực, đến nghẹn ngào, Xuân Diệu chỉ còn cách để chiến thắng thời gian: đó là vội vàng: “Mau đi thôi!
Mùa chưa ngả chiều hôm.” Cụm từ “mau đi thôi” thể hiện giọng điệu, thái độ thúc giục tất cả chúng ta. Nhà thơ
Xuân Diệu muốn nói rằng chúng ta vẫn còn thời gian để sống hết mình, yêu thương. Đặc biệt là bạn đang trong thời
gian tuổi thanh xuân, sức trẻ nồng cháy. Tiếp theo là “mùa chưa ngả chiều hôm”, đừng nghĩ đến việc chia xa, hãy
trân trọng tình yêu đang có.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Câu thơ ba chữ được tách riêng ra đặt chính giữa khổ thơ làm nổi bật lên hình ảnh một cái tôi ham hố đang dang
rộng cánh tay ôm hết, ôm khắp, ôm trọn tất cả sự sống mơn mởn non tơ đang bày ra trước mắt. Điệp ngữ “ta muốn”
còn được lặp lại với mật độ dày đặc ở những câu tiếp theo. Khát khao tận hưởng cuộc sống non tơ đang trào dâng
mãnh liệt ngày càng nồng nàn và cháy bỏng hơn trong trái tim yêu đời đến tham lam của Xuân Diệu. Đại từ nhân
xưng “tôi” bất ngờ chuyển hóa thành “ta”. Trước sự sống rộng lớn bao la của vũ trụ, thi sĩ cần xưng ta chăng? Hay ở
đây thi sĩ đang nói lên khát vọng của bao người, hối thúc, lay tỉnh bao người hãy sống mãnh liệt, hãy sống tận độ
trong từng phút giây cho nên phải xưng “ta”? "Tôi" đến đây đã chuyển hóa thành "ta". Cái tôi cá nhân đã hòa chung
với cái ta chung cộng đồng. Hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng tiến xuất hiện trong các dòng thơ: "ôm",
"riết", "say", "thâu", "cắn" thể hiện sự tấn công mãnh liệt, sự khát khao vô cùng lớn về tình yêu.
Những câu thơ đầu của đoạn cuối đã phần nào thể hiện được châm ngôn, ước nguyện của tác giả. Thế nhưng, chúng
ta chẳng thể nào hiểu được vì sao ông lại có lối suy nghĩ ấy. Những câu thơ tiếp theo sẽ phần nào lý giải được khao
khát của Xuân Diệu.
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Tác giả sử dụng điệp từ “và” kết hợp với “non nước, cây, cỏ rạng” để miêu tả tổng thể cảnh quan thiên nhiên hoang
dã. Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến diễn tả Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh
choáng”, “đã đầy”. Trong cảm xúc dạt dào, trước cuộc sống “mơn mởn” ấy, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời chỉ đẹp khi
sống hết mình, khi đam mê hết mình, khi hòa hết mình vào cái khoảnh khắc tươi đẹp nhất của tuổi đời con người –
tuổi trẻ. Mỗi lần thể hiện khát khao của ông lại mạnh mẽ hơn với mục đích gửi gắm tâm tình đến mọi người.
Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ,
nồng nàn hơn và rồi đến cuối cùng, tác giả phải thốt lên:
“– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
“ Xuân hồng” hai từ thôi mà nghe sao mềm mại thế, nghe đằm thắm thế. Với câu thơ này, Xuân Diệu đã hữu hình
hóa mùa xuân, khiến mùa xuân từ một khái niệm vô hình hiện ra như một trái ngọt, chín bùi, để khát khao tận hưởng
của thi sĩ được bộc lộ trọn vẹn qua động từ mạnh - "cắn". Mùa xuân là cái hữu hình, làm sao thi nhân có thể cắn?
Đúng thi nhân không thể cắn nhưng thi nhân có thể hòa mình vào mùa xuân, có thể say đắm trong cơn tình dịu ngọt
của mùa xuân. Như vậy, cùng với câu thơ "Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần", câu thơ "Hỡi xuân hồng, ta
muốn cắn vào ngươi" đã thực sự chứng minh trong bài thơ này, Xuân Diệu đã làm cả một cuộc cách mạng lớn trong
thi ca để trở thành nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.
Xuân Diệu là một nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới, vì thế tâm hồn ông luôn có những khao khát ham sống
đến tột cùng, thể hiện một tâm hồn trẻ trung, năng động và nhiệt huyết với đời. Nếu muốn được giao cảm với đời
nhiều hơn nữa, không còn cách gì khác ta phải tăng tốc độ và cường độ sống lên nhiều hơn nữa. Đó cũng là một
trong những châm ngôn sống mà thế hệ trẻ cần học hỏi từ Xuân Diệu.
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn le lói suốt trăm năm
Với những câu thơ tự do, giọng thơ sôi nổi, ngôn ngữ thành thục tinh tế, diễn tả tình ý mãnh liệt, táo bạo, đầy xúc
cảm, đoạn thơ đã thành công khắc họa thái độ của nhà thơ đối với cuộc đời. Đó là thái độ sống “vội vàng” trong
niềm mơ ước cháy bỏng, nguyện vọng tận hưởng tất cả cái vui, cái đẹp của cuộc sống khi còn có thể. Qua đó, ta thấy
được tâm hồn yêu cuộc sống, yêu thanh xuân cuồng nhiệt, luôn khát khao hạnh phúc của Xuân Diệu.
Đoạn thơ không chỉ mang tâm tư, quan niệm, khát vọng sống của riêng Xuân Diệu trước mùa xuân mà còn là lời
nhắn gửi, lời kêu gọi, giục giã phải sống hết mình, sống cống hiến, tận hưởng, tận dụng những khoảnh khắc xuân
thời đương nắm giữ trước khi nó nhanh chóng vụt khỏi tầm tay, dẫu muốn níu kéo cũng chỉ còn là mơ tưởng. Lời thơ
mạnh mẽ phóng khoáng, từ ngữ hàm súc, chọn lọc tỉ mỉ, khéo léo vận dụng các biện pháp nghệ thuật, đặc biệt là
phép điệp cùng kết hợp các động từ, tính từ giàu hình ảnh, đoạn thơ nói riêng, và bài thơ nói chung, xứng đáng “là
một trong những bông hoa ngát hương khoe sắc thắm đầu mùa”. (Hoài Thanh)

MÙA XUÂN CHÍN

Dàn ý
1. Mở bài:- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.
2. Thân bài:
a. Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình
- Nhan đề bài thơ: gợi ra sự căng tràn, tròn đầy của mùa xuân.
- Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
b. Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của những phương tiện ngôn ngữ đã được sử
dụng
* Khung cảnh mùa xuân:
- Thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy nhựa sống:
+ Hình ảnh thơ gợi hình gợi cảm: "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang", "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời".
+ Biện pháp tu từ: Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "bóng xuân sang". Đảo ngữ "Sột soạt gió trêu tà áo biếc" với từ láy "sột
soạt" để miêu tả âm thanh của gió thổi tình tứ, trêu đùa tà áo biếc.
+ Nhịp thơ: có sự thay đổi linh hoạt. => Gợi mở không gian.
+ Gieo vần: "vàng" - "sang", "trời" - "chơi" => Không gian rộng lớn.
=> Ngôn từ của bài thơ gợi lên khung cảnh của một mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, rực rỡ và căng tràn sức sống.
- Con người đang độ tuổi xuân rực rỡ:
+ Hình ảnh thơ giàu sức gợi: "đám xuân xanh", "tiếng ca vắt vẻo", "khách xa", "chị ấy".
+ Biện pháp tu từ:
Nhân hóa "tiếng ca" - "vắt vẻo", "hổn hển"
So sánh "tiếng ca" - "lời của nước mây"
+ Nhịp thơ cũng có sự thay đổi để phù hợp với tâm trạng nuối tiếc của nhân vật trữ tình.
=> Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng ca trong trẻo, ngây thơ.
* Tâm trạng của nhân vật trữ tình:
- Câu hỏi tu từ: "- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?"
- Gieo vần "làng" - "chang chang" bày tỏ sự vang vọng trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình.
- Hệ thống từ láy: "Hổn hển", "thầm thĩ", "chang chang", "bâng khuâng".
=> Thể hiện nỗi nhớ quê, khát khao giao cảm với người, với đời.
c. Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác cùng đề tài, chủ đề, thể loại
- So sánh với bài thơ "Mùa xuân xanh" của Nguyễn Bính để thấy được nét độc đáo, hấp dẫn .
3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ.
Bài làm
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ cất lên từ sự hủy diệt để hướng về sự
sống”. Quả đúng là như vậy đọc thơ Hàn Mặc Tử ta luôn thấy một tấm lòng khao khát yêu đời, khao khát sống. Một
trong số đó là bài thơ “Mùa xuân chín”. Bài thơ được rút trong tập “Đau thương” (1938) – được coi là “tiếng thơ
thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo song cũng đầy bí ẩn, đau thương.
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời


Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,


Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây...

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,


Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
- “Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”
Tựa đề bài thơ đầy ấn tượng" Mùa xuân chín", ta nghe như có sự mềm mại, hương thoang thoảng của vị xuân rạo rực
mà không kém phần đằm thắm. Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc
xuân:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.
Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp
từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp
như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh
thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. Biện pháp đảo ngữ và nhân hoá
đã được nhà thơ sử dụng thật tài tình. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió
như đang trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng
khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự
ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu
hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà
thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.
"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mạc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. “Sóng” được kết hợp với thảm có
xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng
tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ
non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái
độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ
xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!
Vạn vật mang sức xuân, làn mưa xuân tưới thêm cho cỏ cây sức sống mới đầy xanh tươi "gợn tới trời" như đang đùa
giỡn với nắng, với gió với mây. Tiếng hát đón xuân của bao cô gái thôn quê đầy tình tứ, mùa xuân đến khiến ai cũng
vui tươi, phấn khởi, tâm hồn đầy trẻ trung, yêu đời.
Giai điệu nhạc cất lên cùng lời ca:
"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi."
“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân
của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng
của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình
yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình
xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện
trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình.
“Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoà trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị
giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời
mãnh liệt. Xuân tình từ thiên nhiên lây lan, giao ứng với xuân tình trong lòng người, cả hai nhập vào nhau trong
cùng một tiếng hát. Là tiếng hát của những cô thôn nữ mà cũng là tiếng hát của nước mây.
Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mạc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến
sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó
có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng
nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc
của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai.
“Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm
kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp
của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của
mình:
“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
-Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi
mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà
chan chứa nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị
ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có
thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Thế nhưng, dù hiểu theo cách
nào, ta cũng thấy một niềm yêu quý và trân trọng của tác giả đối với “chị”. Người con gái xuất hiện trong nét đẹp lao
động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng
mạn biết bao! Ta có thể thấy ánh nắng xuân lúc này càng trở nên long lanh, lấp lánh hơn trong dòng hồi tưởng của
người khách xa quê.
Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. “Mùa xuân chín” là một
bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất.
Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm
hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu.
Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt
vẻo của những nàng xuân trên “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc
“mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái
“xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương.
Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn
những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc
Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.

You might also like