Professional Documents
Culture Documents
Vội Vàng
Vội Vàng
Bài làm
Nhà thơ Thế Lữ từng nhận xét khá tinh tế về Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài
người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu
và tuổi trẻ, một trong những nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ mới và được biết đến rộng rãi qua cái biệt danh
“ông hoàng thơ tình”. "Vội vàng"- rút từ tập “Thơ thơ”- là một trong những bài thơ xuất sắc nhất thể hiện tình yêu
cuộc sống tha thiết, quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu. Và cao trào tình cảm của thi phẩm chính là lúc
lòng yêu đời, ham sống của nhà thơ bùng lên dữ dội, hối hả, cuồng nhiệt ở cuối bài:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Rút ra từ tập “Thơ thơ” sáng tác năm 1938, “Vội vàng” là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp hồn thơ Xuân Diệu trước cách
mạng tháng 8. Mở đầu đoạn thơ thứ 3 là lời thúc giục gấp gáp “mau đi thôi” thể hiện sự vội vã:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Cảm quan tiếc nuối của nhà thơ được đẩy lên tới đỉnh cao trong câu: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...” Tiếc
nuối đến bất lực, đến nghẹn ngào, Xuân Diệu chỉ còn cách để chiến thắng thời gian: đó là vội vàng: “Mau đi thôi!
Mùa chưa ngả chiều hôm.” Cụm từ “mau đi thôi” thể hiện giọng điệu, thái độ thúc giục tất cả chúng ta. Nhà thơ
Xuân Diệu muốn nói rằng chúng ta vẫn còn thời gian để sống hết mình, yêu thương. Đặc biệt là bạn đang trong thời
gian tuổi thanh xuân, sức trẻ nồng cháy. Tiếp theo là “mùa chưa ngả chiều hôm”, đừng nghĩ đến việc chia xa, hãy
trân trọng tình yêu đang có.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Câu thơ ba chữ được tách riêng ra đặt chính giữa khổ thơ làm nổi bật lên hình ảnh một cái tôi ham hố đang dang
rộng cánh tay ôm hết, ôm khắp, ôm trọn tất cả sự sống mơn mởn non tơ đang bày ra trước mắt. Điệp ngữ “ta muốn”
còn được lặp lại với mật độ dày đặc ở những câu tiếp theo. Khát khao tận hưởng cuộc sống non tơ đang trào dâng
mãnh liệt ngày càng nồng nàn và cháy bỏng hơn trong trái tim yêu đời đến tham lam của Xuân Diệu. Đại từ nhân
xưng “tôi” bất ngờ chuyển hóa thành “ta”. Trước sự sống rộng lớn bao la của vũ trụ, thi sĩ cần xưng ta chăng? Hay ở
đây thi sĩ đang nói lên khát vọng của bao người, hối thúc, lay tỉnh bao người hãy sống mãnh liệt, hãy sống tận độ
trong từng phút giây cho nên phải xưng “ta”? "Tôi" đến đây đã chuyển hóa thành "ta". Cái tôi cá nhân đã hòa chung
với cái ta chung cộng đồng. Hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng tiến xuất hiện trong các dòng thơ: "ôm",
"riết", "say", "thâu", "cắn" thể hiện sự tấn công mãnh liệt, sự khát khao vô cùng lớn về tình yêu.
Những câu thơ đầu của đoạn cuối đã phần nào thể hiện được châm ngôn, ước nguyện của tác giả. Thế nhưng, chúng
ta chẳng thể nào hiểu được vì sao ông lại có lối suy nghĩ ấy. Những câu thơ tiếp theo sẽ phần nào lý giải được khao
khát của Xuân Diệu.
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Tác giả sử dụng điệp từ “và” kết hợp với “non nước, cây, cỏ rạng” để miêu tả tổng thể cảnh quan thiên nhiên hoang
dã. Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến diễn tả Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh
choáng”, “đã đầy”. Trong cảm xúc dạt dào, trước cuộc sống “mơn mởn” ấy, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời chỉ đẹp khi
sống hết mình, khi đam mê hết mình, khi hòa hết mình vào cái khoảnh khắc tươi đẹp nhất của tuổi đời con người –
tuổi trẻ. Mỗi lần thể hiện khát khao của ông lại mạnh mẽ hơn với mục đích gửi gắm tâm tình đến mọi người.
Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ,
nồng nàn hơn và rồi đến cuối cùng, tác giả phải thốt lên:
“– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
“ Xuân hồng” hai từ thôi mà nghe sao mềm mại thế, nghe đằm thắm thế. Với câu thơ này, Xuân Diệu đã hữu hình
hóa mùa xuân, khiến mùa xuân từ một khái niệm vô hình hiện ra như một trái ngọt, chín bùi, để khát khao tận hưởng
của thi sĩ được bộc lộ trọn vẹn qua động từ mạnh - "cắn". Mùa xuân là cái hữu hình, làm sao thi nhân có thể cắn?
Đúng thi nhân không thể cắn nhưng thi nhân có thể hòa mình vào mùa xuân, có thể say đắm trong cơn tình dịu ngọt
của mùa xuân. Như vậy, cùng với câu thơ "Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần", câu thơ "Hỡi xuân hồng, ta
muốn cắn vào ngươi" đã thực sự chứng minh trong bài thơ này, Xuân Diệu đã làm cả một cuộc cách mạng lớn trong
thi ca để trở thành nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.
Xuân Diệu là một nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới, vì thế tâm hồn ông luôn có những khao khát ham sống
đến tột cùng, thể hiện một tâm hồn trẻ trung, năng động và nhiệt huyết với đời. Nếu muốn được giao cảm với đời
nhiều hơn nữa, không còn cách gì khác ta phải tăng tốc độ và cường độ sống lên nhiều hơn nữa. Đó cũng là một
trong những châm ngôn sống mà thế hệ trẻ cần học hỏi từ Xuân Diệu.
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn le lói suốt trăm năm
Với những câu thơ tự do, giọng thơ sôi nổi, ngôn ngữ thành thục tinh tế, diễn tả tình ý mãnh liệt, táo bạo, đầy xúc
cảm, đoạn thơ đã thành công khắc họa thái độ của nhà thơ đối với cuộc đời. Đó là thái độ sống “vội vàng” trong
niềm mơ ước cháy bỏng, nguyện vọng tận hưởng tất cả cái vui, cái đẹp của cuộc sống khi còn có thể. Qua đó, ta thấy
được tâm hồn yêu cuộc sống, yêu thanh xuân cuồng nhiệt, luôn khát khao hạnh phúc của Xuân Diệu.
Đoạn thơ không chỉ mang tâm tư, quan niệm, khát vọng sống của riêng Xuân Diệu trước mùa xuân mà còn là lời
nhắn gửi, lời kêu gọi, giục giã phải sống hết mình, sống cống hiến, tận hưởng, tận dụng những khoảnh khắc xuân
thời đương nắm giữ trước khi nó nhanh chóng vụt khỏi tầm tay, dẫu muốn níu kéo cũng chỉ còn là mơ tưởng. Lời thơ
mạnh mẽ phóng khoáng, từ ngữ hàm súc, chọn lọc tỉ mỉ, khéo léo vận dụng các biện pháp nghệ thuật, đặc biệt là
phép điệp cùng kết hợp các động từ, tính từ giàu hình ảnh, đoạn thơ nói riêng, và bài thơ nói chung, xứng đáng “là
một trong những bông hoa ngát hương khoe sắc thắm đầu mùa”. (Hoài Thanh)
Dàn ý
1. Mở bài:- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.
2. Thân bài:
a. Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình
- Nhan đề bài thơ: gợi ra sự căng tràn, tròn đầy của mùa xuân.
- Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
b. Phân tích, đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của những phương tiện ngôn ngữ đã được sử
dụng
* Khung cảnh mùa xuân:
- Thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy nhựa sống:
+ Hình ảnh thơ gợi hình gợi cảm: "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang", "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời".
+ Biện pháp tu từ: Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "bóng xuân sang". Đảo ngữ "Sột soạt gió trêu tà áo biếc" với từ láy "sột
soạt" để miêu tả âm thanh của gió thổi tình tứ, trêu đùa tà áo biếc.
+ Nhịp thơ: có sự thay đổi linh hoạt. => Gợi mở không gian.
+ Gieo vần: "vàng" - "sang", "trời" - "chơi" => Không gian rộng lớn.
=> Ngôn từ của bài thơ gợi lên khung cảnh của một mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, rực rỡ và căng tràn sức sống.
- Con người đang độ tuổi xuân rực rỡ:
+ Hình ảnh thơ giàu sức gợi: "đám xuân xanh", "tiếng ca vắt vẻo", "khách xa", "chị ấy".
+ Biện pháp tu từ:
Nhân hóa "tiếng ca" - "vắt vẻo", "hổn hển"
So sánh "tiếng ca" - "lời của nước mây"
+ Nhịp thơ cũng có sự thay đổi để phù hợp với tâm trạng nuối tiếc của nhân vật trữ tình.
=> Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng ca trong trẻo, ngây thơ.
* Tâm trạng của nhân vật trữ tình:
- Câu hỏi tu từ: "- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?"
- Gieo vần "làng" - "chang chang" bày tỏ sự vang vọng trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình.
- Hệ thống từ láy: "Hổn hển", "thầm thĩ", "chang chang", "bâng khuâng".
=> Thể hiện nỗi nhớ quê, khát khao giao cảm với người, với đời.
c. Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác cùng đề tài, chủ đề, thể loại
- So sánh với bài thơ "Mùa xuân xanh" của Nguyễn Bính để thấy được nét độc đáo, hấp dẫn .
3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ.
Bài làm
Nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn từng nhận định: “Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thơ cất lên từ sự hủy diệt để hướng về sự
sống”. Quả đúng là như vậy đọc thơ Hàn Mặc Tử ta luôn thấy một tấm lòng khao khát yêu đời, khao khát sống. Một
trong số đó là bài thơ “Mùa xuân chín”. Bài thơ được rút trong tập “Đau thương” (1938) – được coi là “tiếng thơ
thuộc loại trong trẻo nhất của Hàn Mặc Tử”, trong trẻo song cũng đầy bí ẩn, đau thương.
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.