Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 60

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – Nguyễn Tuân

Đề 1: Cảm nhận của anh chị về đoạn trích sau


Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách
thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái
yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ
bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình
như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt
phụt đèn điện.
Lại như quăng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hang cây số nước xô đá, đá xô song, sóng xô gió. Cuốn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái
giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc.
Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga
cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà
phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ác ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi
nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống,
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới
thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
I. Mở bài
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường
về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút “Sông Đà”. Tác phẩm đã khắc hoạ
vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng
sông. Trích đoạn trên thuộc phần đầu đoạn trích Người lái đò sông Đà trong sách giáo khoa, nhà văn
Nguyễn Tuân đã khám phá con sông Đà nguyên sơ đầy cá tính với tính cách hung bạo.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” in trong tập tuỳ bút “Sông Đà”. Tác phẩm được viết trong thời kì xây
dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến
chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống
với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến
cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện những điểm quý
báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn
Tây Bắc.”
2. Phân tích nội dung
- Sông Đà bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một vùng núi ác, đến gần
nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. Sông có tổng cộng 73 con thác dữ và có tổng chiều dài là 983 km.
Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp, như một cố nhân
“lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
- Vẻ nguy hiểm của sông không chỉ được thể hiện qua thác ghềnh mà đó còn là “đá bờ sông, dựng vách
thành… tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của
dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại trở nên xiết vô cùng. Cứ thử
tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng
nước và đá đập cho tan xác mà thôi. Nhà văn Nguyễn Tuân hình dung một cảnh tượng rất đỗi hoang sơ bằng
cách liên tưởng đến hình ảnh của chốn thị thành, có hè phố, có khung cửa sổ trên “ cái tầng nhà thứ mấy nào
vừa tắt phụt đèn điện”.
- “Quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió
gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy” .
Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, kết cấu trùng điệp “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” như mô phỏng hình
ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập
xuống, cuồn cuộn ghê rợn trên mặt ghềnh, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. Cách
dung từ “đòi nợ xuýt” vô cùng độc đáo của nhà văn cho thấy sự ngang ngược, vô lý của sông Đà hung bạo.
- Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. Nó lôi tuột mọi vật
xuống đáy sâu. Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết người! Những âm thanh ghê rợn, man rợ như tiếng loài
thủy quái hung tợn đầy ám ảnh: “Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “những cái giếng sâu nước ặc
ặc lên như vừa rót dầu sôi vào” khủng bố tinh thần con người. “Không thuyền nào dám men gần những cái
1
hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt quãng sông”, “chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng
qua cái giếng sâu”, “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống”,
“có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và
đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Cách so sánh, liên tưởng
của Nguyễn Tuân thật thú vị! Nhà văn đã lấy hình ảnh “ô tô sang số nhấn ga” trên “quãng đường mượn cạp
ra ngoài bờ vực” để ví von với cách chèo thuyền …
3. Nghệ thuật
Nguyễn Tuân đã vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật và cả ngoài ngành nghệ thuật để
miêu tả dòng sông hung bạo. Các biện pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng bất ngờ. “Cái tôi” tài hoa, uyên
bác trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, câu văn. Tác giả đã sáng tạo hình ảnh mới lạ, độc đáo đầy tinh tế
với sự biến hóa linh hoạt, khi tầng tầng lớp lớp, khi ngắn gọn đột ngột để thể hiện cảm xúc, diễn tả đối
tượng. Với thể loại tùy bút pha ký đầy tính khoa học, xác thực không chỉ hướng nội để thể hiện cảm xúc, suy
tư, diễn tả thế giới nội tâm của tác giả mà còn hướng ngoại để phản ánh hiện thực cuộc sống, ghi chép thành
tích xây dựng, chiến đấu của nhân dân ta.
III. Kết bài
Với Nguyễn Tuân, sông Đà mang một vẻ đẹp hoàn mĩ, trở thành một sinh thể sống động, có hồn. Dòng sông
vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình. Phải là một con người yêu mến tự hào trước vẻ đẹp của thiên
nhiên đất nước, nhà văn mới có thể miêu tả được Sông Đà như thế. Có thể nói, qua lời văn ca ngợi sông
nước Đà giang, ta thấy được sự gắn bó của Nguyễn Tuân đối với quê hương đất nước. Tác phẩm Người lái
đò sông Đà tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Tác giả quan niệm cái đẹp phải là cái
gây cảm giác mạnh, đập mạnh vào cảm giác người đọc. Cho nên đẹp thì phải đến mức tuyệt mỹ, dữ dội phải
đến mức khủng khiếp. Sông Đà đúng là thứ Vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc mà nhà văn luôn khao khát
kiếm tìm và thể hiện trong các sáng tác của mình.

Đề 2: Cảm nhận của anh chị về đoạn trích sau


Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La.Trên song bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng
bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên
mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những
cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho
nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng
qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ác ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh
ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền
trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy
tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm
giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình
cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh
nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng
quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông
xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim
cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem
phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái
cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
I. Mở bài
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường
về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút “Sông Đà”. Tác phẩm đã khắc hoạ
vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng
sông. Trích đoạn trên thuộc phần đầu đoạn trích Người lái đò sông Đà trong sách giáo khoa, nhà văn
Nguyễn Tuân đã khám phá con sông Đà nguyên sơ đầy cá tính với tính cách hung bạo ở những cái hút nước
sâu nguy hiểm.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung (xem đề 1)
2. Phân tích nội dung
- Sông Đà bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một vùng núi ác, đến gần nửa đường xin nhập
quốc tịch Việt Nam. Sông có tổng cộng 73 con thác dữ và có tổng chiều dài là 983 km. Qua cái nhìn của
Nguyễn Tuân, con sông Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp, như một cố nhân “lắm bệnh lắm
chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Nếu như trước đó, nhà văn
2
đưa chúng ta khám phá những cảnh đá bờ sông dựng vách thành, quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng cây
số với “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” thật hùng vỹ, tráng lệ thì đến đoạn này tác giả lại đưa ta vào
khám phá những cái hút nước sâu bí ẩn và ghê rợn.
- Vị trí những cái hút nước nằm ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Chúng xuất hiện thật bất ngờ
không báo trước như đánh úp người lái đò: “Trên sông bỗng có những cái hút nước”.
- Sự hung bạo, tàn độc đến ghê rợn của nó được cảm nhận ở nhiều góc độ: từ trên nhìn xuống mặt nước sông
“giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “những cái hút xoáy tít đáy”, từ
dưới lòng sông nhìn ngược lên “vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải,…
thành giếng xây toàn nước sông xanh ve một áng thủy tinh đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp
vào…”
- Những âm thanh ghê rợn, man rợ như tiếng loài thủy quái hung tợn đầy ám ảnh, khủng bố tinh thần con
người: “Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào”. Với cách dùng từ tượng thanh và kết hợp các thanh trắc “sặc”, “ặc ặc”, nhà văn Nguyễn Tuân đã
khiến người đọc như được nghe thấy âm thanh của một con thủy quái khổng lồ đang bị bóp cổ. Điều đó đã
khiến chúng ta sởn gai ốc khi nghe cái âm thanh quái lạ của cái hút nước này.
- Để làm rõ nỗi sợ hãi, Nguyễn Tuân không kể hay tả nữa mà đã bắt người đọc phải chiêm nghiệm tự mình
phải trải qua nỗi sợ hãi khi nhà văn nhấn mạnh cái dữ dội ấy qua góc nhìn điện ảnh, với những vị thế khác
nhau:
+ Ở vị thế người quay phim: Dám ngồi trên chiếc thuyền thúng cùng với máy quay, để cái hút nó hút cả
thuyền, cả người và máy quay xuống tít đáy thế rồi quay ngược ống kính lên thu ảnh.
+ Ở vị thế người xem phim: “người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy
mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”. Nó giống
như chúng ta đang sợ hãi ghì chặt lấy mép ghế khi phải ngồi xem cái cảnh tượng hãi hùng của một thước
phim 3D.
- Sự chết chóc do những hút nước ấy hiện ra thật khủng khiếp khi nhà văn so sánh: “ trên mặt cái hút xoáy tít
đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”, rồi tường thuật: “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là
những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống”, “có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở
khuỷnh sông dưới”.
- Giải pháp: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để
lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ
vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu…”. Cách so sánh, liên tưởng của Nguyễn
Tuân thật thú vị! Nhà văn đã lấy hình ảnh “ô tô sang số nhấn ga” trên “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ
vực” để ví von với cách chèo thuyền…
→ Những cái hút nước được nhà văn cảm nhận bằng các giác quan khác nhau: thị giác là những hình ảnh
liên tưởng độc đáo và mới lạ; thính giác: tiếng của hút nước với nhiều cung bậc.
3. Nghệ thuật (xem đề 1)
III. Kết bài (xem đề 1)

Đề 3: Cảm nhận của anh chị về đoạn trích sau


Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước
thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế
rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc
sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong
lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có
chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như
tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xoá càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới
trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tuỳ theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông
Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên song. Đám tảng đám hòn chia
làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu
để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là
sơ hở nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước
sóng luồng với đánh khuỷu quật vu hồi lại Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng
được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái
3
thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn
bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới.
I. Mở bài
- Tác giả, tác phẩm (xem đề 1)
- Ở trích đoạn trên nhà văn Nguyễn Tuân đã khám phá con sông Đà nguyên sơ đầy cá tính với tính cách
hung bạo ở đá thác và thạch thủy trận nguy hiểm.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung (xem đề 1)
2. Phân tích nội dung
- Sông Đà bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một vùng núi ác, đến gần nửa đường xin nhập
quốc tịch Việt Nam. Sông có tổng cộng 73 con thác dữ và có tổng chiều dài là 983 km. Qua cái nhìn của
Nguyễn Tuân, con sông Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp, “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng
đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Nếu như trước đó, nhà văn đưa chúng ta khám phá
những cảnh đá bờ sông dựng vách thành, quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số với “nước xô đá, đá
xô sóng, sóng xô gió”, những cái hút nước sâu bí ẩn và ghê rợn thì đến đây Nguyễn Tuân tiếp tục đưa người
đọc đến bọn đá thác và thạch thủy trận.
- Tính cách hung bạo và sự hiểm độc của sông Đà qua thác nước và thạch trận được miêu tả ngay từ âm
thanh đằng xa vọng lại: “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo
to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng
gằn mà chế nhạo”. Tác giả sử dụng phép nhân hóa, miêu tả âm thanh tiếng thác bằng ngôn từ chỉ trạng thái
con người. Sự tăng dần sắc thái cảm xúc và âm lượng từ oán trách, van xin, đến chế nhạo khiến sông Đà
hiện ra như sinh thể sống vừa gầm gào, vừa đe dọa uy hiếp con người.
- Thủ pháp so sánh kỳ thú: “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”
thể hiện cái “ngông” đầy tài hoa của Nguyễn Tuân khi dùng lửa tả nước, dùng rừng tả sông gây ấn tượng
sống động cả về mặt thị giác, thính giác và xúc giác. Liên tưởng táo bạo ấy qua quyền năng của ngôn từ đã
tạo nên một khúc nhạc giao hưởng hùng tráng của thiên nhiên, khiến Sông Đà hiện lên thật hung tợn, đáng
sợ tới đỉnh điểm ngay từ phía xa.
- Ấn tượng hơn khi thác nước hiện ra trước mắt. Tác giả như reo lên thích thú: “Tới cái thác rồi” thể hiện
sức hấp dẫn kỳ lạ của sông Đà và niềm khao khát say mê chiêm ngưỡng của nhà văn đối với dòng sông Đà.
- Vẻ đẹp kỳ vỹ hiện ra đầu tiên là nước thác trắng xóa: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá
cả một chân trời đá”. Tính từ “trắng xóa” gây ấn tượng về sự dữ dội của sóng, của nước, của độ cao và
chiều rộng của con thác. Cùng với cảnh tượng ấy là “chân trời đá” chất chồng, trùng điệp hung vỹ của đá
thác sông Đà.
- Điều khủng khiếp nhất chưa phải là thác nước mà là thạch thủy trận sông Đà – thứ “mang diện mạo và tâm
địa kẻ thù số một” đối với con người. Nó đã bày ra trùng trùng lớp lớp trùng vi thạch trận bọc lót cho nhau
“mai phục ngàn năm” với nhiều cửa tử và chỉ có duy nhất một cửa sinh: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai
phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu
này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
- Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá như có một gương mặt riêng: hòn thì ngổ ngáo, hiếu
chiến “mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”,
hòn thì ngỗ ngược, hòn thì nhăn nhúm méo mó; mỗi hòn một dáng “nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở
thích tự động của đá to đá bé”; mỗi hòn một nhiệm vụ “đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang
trên sông; hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, (...) giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu
nữa; những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi (...) phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu
diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”.
→ Dụng công quan sát và sử dụng trường từ vựng hết sức giàu có, phong phú về hành động (nhổm cả dậy,
vồ lấy, chặn ngang, dụ, đánh khuýp quật vu hồi, đánh tan, tiêu diệt), tính cách (ngỗ ngược), hình sắc (nhăn
nhúm, méo mó, to, bé), tư thế (đứng, ngồi, nằm).
- Sự phối hợp chặt chẽ giữa nước thác và đá trên sông: Đội quân thạch giang đủ loại lớn bé, đủ tư thế ngồi,
nằm, đứng nhưng hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó và hiếu chiến. Mỗi hòn đá đều nhận đúng vị trí: Đám đá
tảng thì chia làm ba hàng chặn ngang trên sông; hàng tiền vệ có hai hòn canh cửa; ở tuyến ba là những
boong-ke chìm và pháo đài đá nổi. Với mỗi vị trí là một nhiệm vụ: Đám đá tảng sẽ ăn chết cái thuyền đơn
độc; hai hòn đá canh ở hàng tiền vệ sẽ dụ cái thuyền đi vào sâu nữa; những boong-ke chìm và pháo đài đá
nổi phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân
thác. Nhiệm vụ nào của đám thạch giang trên Sông Đà cũng hung hãn, quyết liệt, cũng thể hiện một quyết
tâm tiêu diệt con thuyền đối phương đến cùng để giành chiến thắng.
4
→ Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ của sông Đà. Đó chính là sức mạnh của thiên
nhiên mà con người cần chinh phục. Đó cũng chính là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp.
3. Nghệ thuật (xem đề 1)
III. Kết bài (xem đề 1)

Đề 4: Cảm nhận của anh chị về đoạn trích sau:


Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chi ấy bóp chặt lấy hạ bộ
người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm
lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái, mặt méo bệch đi
như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tia, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn
chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh
táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ
mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã cầm chắc binh pháp của thần sông
thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra
năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên
thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá.
Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng
mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa
ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này đứa thì
ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã
bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sống thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tỉu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái
thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái
đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng
thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được lượn được. Thế là hết thác…
I. Mở bài
- Tác giả, tác phẩm (xem đề 1)
- Đoạn trích trên miêu tả một cuộc vượt thác leo ghềnh ngoạn mục của người lái đò để chiến thắng trùng vi
thạch trận. Qua đó, thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với con người lao động Việt Nam.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung (xem đề 1)
2. Phân tích nội dung
- Nếu như trước đó, nhà văn đưa chúng ta khám phá hình tượng con sông Đà hung bạo với đá dựng vách
thành, quãng mặt ghềnh Hát Loóng, hay những hút nước sâu ghê rợn, thì đến đây tác giả tiếp tục đưa người
đọc khám phá tính cách ấy của con sông qua trùng vi thạch thủy trận. Thế nhưng thiên nhiên càng hung bạo
bao nhiêu lại càng làm tôn vinh giá trị số một của người lao động - người lái đò trong tư thế chinh phục và
chiến thắng thiên nhiên bấy nhiêu.
* Cảm nhận vẻ đẹp của ông đò trong đoạn trích
- Sông Đà hiểm nguy là thử thách lớn với ông lái đò:
+ Trùng vi thạch trận thứ nhất: “Nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ
phía tả ngạn sông”. Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán
chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền”…Sóng thác đánh đòn hiểm độc nhất, luồng
nước bóp chặt hạ bộ người lái đò; khiến ông bị thương, mặt méo bệch... Mặt sông tích tắc lòa sáng lên,
tiếng hỗn chiến của đá nước thác…
→ Ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi. Trên con thuyền sáu bơi
chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ông đò thực là một chiễn sĩ dũng
cảm, rất bình tĩnh nén mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù.
+ Trùng vi thạch trận thứ hai: Rất nham hiểm, xảo quyệt, sông Đà tăng thêm cửa tử, bố trí cửa sinh lệch sang
bên phải để đánh lừa ông lái. Như thú dữ, dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh. Bọn thủy quân xô ra định
kéo thuyền vào tập đoàn cửa tử.
→ Ông lái đò không một phút ngừng tay nghỉ mắt, ông đò thay đổi chiến thuật. Với khí thế cưỡi đến cùng
như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ông đò ghì cương bám chắc lấy luồng nước đúng, phóng nhanh vào cửa
sinh mà lái miết một đường chéo. Hành động của ông lão thành thạo, chính xác, dũng mãnh trong từng động
5
tác, đúng là tay lái ra hoa, điêu luyện của người nghệ sĩ. Bằng trí dũng, nghị lực kiên cường, người lái đò đã
đánh bại dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh.
+ Trùng vi thạch trận thứ ba: Ít cửa hơn, nhưng bên phải bên trái đều là cửa tử. Luồng sống ở ngay giữa bọn
đá hậu vệ.
→ Như một lão tướng, dày dạn kinh nghiệm, dũng cảm, nhanh gọn, dứt khoát, ông đò bình tĩnh tiến vào trận
địa, rồi bất ngờ phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa. Con thuyền như một mũi tên lao vút xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa lái được, lượn được qua cổng đá cánh mở cánh khép. Thế là qua luồng chết, thế là hết
cửa tử, ra đến cửa sinh Ông đò uy nghi rạng rỡ trở về từ cõi chết. Ông đã chiến thắng thiên nhiên làm chủ
cuộc đời. Cuối cùng thiên nhiên phải khuất phục dưới sự tài ba và lòng dũng cảm tuyệt vời của con người.
* Quan niệm về con người của nhà văn Nguyễn Tuân
- Nếu như trước cách mạng, ngòi bút Nguyễn Tuân thường hướng tới những con người đặc tuyển thì sau
cách mạng, ông đi tìm cái đẹp trong người lao động bình thường như ông lái đò sông Đà.
- Ông tiếp cận con người ở nét tài hoa, nghệ sĩ. Nét tài hoa của con người không chỉ có trong hoạt động sáng
tạo nghệ thuật, mà bất cứ ngành nghề nào khi con người đạt đến trình độ khéo léo, điêu luyện thì họ sẽ bộc
lộ nét tài hoa, nghệ sĩ đáng trân trọng. Trong đoạn trích này, Nguyễn Tuân chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ
ở ông lái đò.
- Trước cách mạng, nhà văn thường khám phá vẻ đẹp thiên lương, thú chơi cao, đến sau cách mạng, ông đi
sâu phản ánh vẻ đẹp thể chất và tâm hồn của con người, mà ông gọi “chất vàng mười đã qua thử lửa” của
những người lao động bình dị. Quan niệm mới về người anh hùng, hình ảnh ông lái hiện lên với tư cách
người anh hùng trong lao động - nghệ sĩ làm chủ thiên nhiên.
3. Nghệ thuật
Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Bằng cách tạo nên tình huống đầy thử thách, sử dụng ngôn
ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, hoàn toàn phù hợp với đối tượng, tác giả đã khắc họa được sự
từng trải, thông minh, dũng cảm và gan dạ của ông lái đò. Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ
thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh ngầm, nhân
hóa, cường điệu… Câu chữ tuôn chảy ào ạt, điệp điệp trùng trùng tạo ra một bức tranh chiến trận hoành
tráng về không gian, ấn tượng về hình ảnh hiểm nguy, gay cấn về tình huống… Kết hợp với phong cách sử
dụng nhiều loại hình nghệ thuật, nhiều ngành nghề, trong đoạn viết này Nguyễn Tuân đã cho thấy cách viết
của ông như kịch bản phim và qua bàn tay đạo diễn, nó tạo ra sự sống động hồi hộp âu lo, thán phục…
III. Kết bài
Bằng ngòi bút tài hoa uyên bác, cái nhìn cảnh vật phải thật hùng vỹ hoặc phải thật mỹ lệ, và cách tiếp cận
con người thiên về phương diện tài hoa nghệ sỹ, Nguyễn Tuân đã ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và con người
lao động Tây Bắc của Tổ Quốc: thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng nhưng con người Tây Bắc mới thật xứng
đáng là vàng mười của đất nước ta. Tác phẩm như bài ca lao động của con người đang góp sức mình dựng
xây đất nước…

Đề 5: Cảm nhận của anh chị về đoạn trích sau:


Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách
nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu
bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời
kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông
Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao
sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi,
thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với
từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va
cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã
xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước
Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như
da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu
về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực
Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
I. Mở bài
- Tác giả, tác phẩm (xem đề 1)

6
- Dưới ngòi bút của tác giả, sông Đà hiện lên như một nhân vật với hai tính cách: Hung bạo và trữ tình.
Đoạn văn “Tôi có bay tạt ngang sông Đà.... bản đồ lai chữ” đã thể hiện rõ vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của
dòng sông.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung (xem đề 1)
2. Phân tích nội dung
- Sau khi nhà văn đưa chúng ta khám phá hình tượng con sông Đà hung bạo với đá dựng vách thành, quãng
mặt ghềnh Hát Loóng, hay những hút nước sâu ghê rợn, những trùng vi thạch thủy trận. ngòi bút của tác giả
đã tập trung miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông từ trên cao và trong một thời gian dài.
- Góc nhìn từ trên cao, Sông Đà mang vẻ đẹp của một mỹ nhân.
+ Dòng chảy uốn lượn của con sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là
giống như mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo
đốt nương xuân”. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho
nhan sắc mĩ miều: màu sắc tinh khôi của hoa ban tinh khiết, màu đỏ chói lọi điểm xuyết trên mái tóc trữ tình
của người thiếu nữ → sự sinh sôi nảy nở và tràn ngập sức sống. Tất cả bức tranh ấy được bao phủ bởi một
tấm voan lụa mềm mại, huyền ảo của “khói núi Mèo đốt nương xuân”
- Sông Đà được ngắm nhìn qua nhiều thời gian khác nhau. Nhà văn phát hiện ra những sắc màu tươi đẹp và
đa dạng của dòng sông. Màu nước biến đổi theo mùa, mỗi mùa có vẻ đẹp riêng trong cách so sánh rất cụ thể:
+ Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh. Tác giả dừng lại
giải thích rõ hơn màu xanh không phải xanh canh hến.
+ Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ
giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.
+ Đặc biệt, nhà văn khẳng định chưa bao giờ con sông có màu đen như thực dân Pháp đã “đè ngửa con sông
ta ra đổ mực Tây vào”, và gọi bằng cái tên lếu láo Sông Đen.
 Thể hiện tình yêu, niềm tự hào trước vẻ đẹp của dòng sông của đất nước, quê hương, xứ sở.
3. Nghệ thuật
Nguyễn Tuân đã vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật và cả ngoài ngành nghệ thuật để
miêu tả dòng sông thơ mộng, trữ tình. Những câu văn mềm mại giàu chất thơ, chất họa và chất nhạc. Các
biện pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng bất ngờ. “Cái tôi” tài hoa, uyên bác trong việc sử dụng từ ngữ, hình
ảnh, câu văn. Tác giả đã sáng tạo hình ảnh mới lạ, độc đáo đầy tinh tế với sự biến hóa linh hoạt. Với thể loại
tùy bút pha ký đầy tính khoa học, xác thực không chỉ hướng nội để thể hiện cảm xúc, suy tư, diễn tả thế giới
nội tâm của tác giả mà còn hướng ngoại để phản ánh hiện thực cuộc sống, ghi chép thành tích xây dựng,
chiến đấu của nhân dân ta.
III. Kết bài
Với Nguyễn Tuân, sông Đà mang một vẻ đẹp hoàn mĩ, trở thành một sinh thể sống động, có hồn. Dòng sông
vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình. Phải là một con người yêu mến tự hào trước vẻ đẹp của thiên
nhiên đất nước, nhà văn mới có thể miêu tả được Sông Đà như thế. Có thể nói, qua lời văn ca ngợi sông
nước Đà giang, ta thấy được sự gắn bó của Nguyễn Tuân đối với quê hương đất nước. Tác phẩm Người lái
đò sông Đà tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Tác giả quan niệm cái đẹp phải là cái
gây cảm giác mạnh, đập mạnh vào cảm giác người đọc. Cho nên đẹp thì phải đến mức tuyệt mỹ, dữ dội phải
đến mức khủng khiếp. Sông Đà đúng là thứ Vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc mà nhà văn luôn khao khát
kiếm tìm và thể hiện trong các sáng tác của mình.

Đề 6: Cảm nhận của anh chị về đoạn trích sau:


Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này
cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh
không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hưu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh
đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt
Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi
không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hưu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái
tiếng nói riêng của con vật lành: hỏi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi
sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông
đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy
nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ
7
thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những
giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn
những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.
I. Mở bài
- Tác giả, tác phẩm (xem đề 1)
- Dưới ngòi bút của tác giả, sông Đà hiện lên như một nhân vật với hai tính cách: Hung bạo và trữ tình.
Đoạn văn “Thuyền tôi trôi trên trên sông Đà.... trên dòng sông” đã thể hiện rõ vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của
dòng sông.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung (xem đề 1)
2. Phân tích nội dung
- Sau khi nhà văn đưa chúng ta khám phá hình tượng con sông Đà hung bạo, ngòi bút của tác giả đã tập
trung miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông. Trước đó, nhà văn đã đưa người đọc tiếp cận dòng
sông thơ mộng từ trên cao một cách tổng quan như một sợi dây thừng dài ngoằn ngoèo, đặc biệt đẹp như
một áng tóc trữ tình của thiếu nữ khi ngồi trên máy bay quan sát, đến đoạn này nhà văn lại quan sát nét dịu
dàng dòng sông qua dáng vẻ và tâm hồn khi đến gần hơn, cụ thể khi ngồi trên thuyền trôi trên sông Đà.
- Cảnh ven sông lặng tờ hoang dã
+ Điểm nhìn từ con thuyền: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”, dòng sông đã được quan sát và miêu tả một cách
chi tiết, cụ thể. Câu văn với sáu thanh bằng gợi cảm giác nhẹ nhàng êm ái.
+ Quang cảnh ven sông hiện lên với sự êm đềm, tĩnh lặng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, từ “lặng tờ” được lặp lại hai lần nhấn mạnh
không gian hoàn toàn yên tĩnh không một chút động và du khách có cảm giác chìm đắm vào không gian quá
khứ đời Trần, đời Lê. Không chỉ có thế, nhà văn thêm một lần khẳng định cái không gia tuyệt đối vắng lặng
ấy: “Mà tinh không một bóng người”
+ “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô... nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”
Theo dòng trôi của con thuyền người đọc đi vào thế giới hoang sơ tĩnh mịch, Nguyễn Tuân láy lại cái điệp
ngữ “thuyền tôi trôi” để gợi một dòng sông êm đềm, thơ mộng, ta tưởng như nhịp chảy của dòng sông đã
hòa vào nhịp điệu của câu văn để ru hồn người “lạc vào thời tiền sử” đẹp như “một nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa”
+ Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong sự tươi mới, tinh khôi, tràn ngập sức sống. Bao trùm cảnh vật là một
màu xanh hoang sơ của những nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”. Đoạn văn đẹp như một bức
tranh lụa nhờ việc sử dụng rất nhiều định ngữ: “cỏ gianh đẫm sương đêm”, “lá ngô non đầu mùa”... chính
những hình ảnh thi vị ấy đã kéo dòng sông hiện đại trở về gần với thực tại hơn.
+ Tác giả bắt trọn từng khoảnh khắc và mọi chuyển động: “Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm”, “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên
một mũi đò”, rồi “hươu vểnh tai”. Tất cả những khoảnh khắc và chuyển động ấy đều gợi lên sự tinh khôi,
thuần khiết của thiên nhiên.
+ Nghệ thuật điệp cấu trúc và biện pháp so sánh “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” đã trừu tượng hóa, thơ mộng hóa cảnh bờ bãi sông đà, đồng thời kết dính
hai câu thành một bè thơ gợi cảm, bồng bềnh, vấn vương cảm xúc hoài cổ. Nguyễn Tuân đã tìm về vẻ đẹp
xưa trong cái ngày hôm nay → tình yêu quê hương xứ sở.
- Sau khi miêu tả quanh cảnh ven sông, tác giả tập trung miêu tả cảnh sắc dưới lòng sông.
+ Hình ảnh “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” như manh sức nặng của
một tâm hồn đang hòa vào cũng cảnh vật. Một câu văn có cả màu sắc, đường nét và đặc biệt cách miêu tả
của nhà văn cũng vô cùng độc đáo. Biện pháp nghệ thuật so sánh cùng với nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi
lên không gian tĩnh mịch đến độ người ta có thể nghe thấy cả tiếng cá quẫy đuôi làm đàn hươu phải giật
mình và ông khách sông Đà cũng chợt tỉnh mộng để quay về thực tại.
+ Dòng sông đã được nhân hóa với những nét tính cách của con người, trôi chậm như “ nhớ thương những
hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc” và “con sông như đang lắng nghe giọng nói êm êm
của người về xuôi”.
- Nguyễn Tuân nhìn sự vật dưới phương diện văn hóa, lịch sử, thẩm mỹ. “Dải sông Đà bọt trắng lênh đênh -
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”. Tác giả đã phát hiện ra sông Đà với vẻ đẹp tình tứ lãng mạn, vẻ đẹp đậm đà
bản sắc văn hóa bởi nó được gắn với câu thơ rất mực tài hoa của thi sĩ Tản Đà.
- Tác giả khao khát hướng tới tương lai của sông Đà:
+ Say đắm trong cái tĩnh mịch của dòng sông nhưng nhà văn vẫn “thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-
lê của chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu”. Nguyễn Tuân cách nói vừa tô đậm
ấn tượng về một không gian lặng lẽ, mơ màng đến độ phải “thèm giật mình” để rũ mình khỏi giấc mộng xưa.
8
+ Qua đó Nguyễn Tuân còn gửi gắm cái khao khát được thấy sự đổi mới của đất Tây Bắc hoang dã trong
không khí xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong những năm 1960.
 Đoạn văn thể hiện được vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà nói riêng và của thiên nhiên Tây Bắc
nói chung. Đồng thời thấy được tình yêu thiên nhiên cũng như những nét đặc sắc tiêu biểu trong phong cách
nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
3. Nghệ thuật
Nguyễn Tuân đã vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật và cả ngoài ngành nghệ thuật để
miêu tả dòng sông thơ mộng, trữ tình. Những câu văn mềm mại giàu chất thơ, chất họa và chất nhạc. Các
biện pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng bất ngờ. “Cái tôi” tài hoa, uyên bác trong việc sử dụng từ ngữ, hình
ảnh, câu văn. Tác giả đã sáng tạo hình ảnh mới lạ, độc đáo đầy tinh tế với sự biến hóa linh hoạt. Với thể loại
tùy bút pha ký đầy tính khoa học, xác thực không chỉ hướng nội để thể hiện cảm xúc, suy tư, diễn tả thế giới
nội tâm của tác giả mà còn hướng ngoại để phản ánh hiện thực cuộc sống, ghi chép thành tích xây dựng,
chiến đấu của nhân dân ta.
III. Kết bài
Với Nguyễn Tuân, sông Đà mang một vẻ đẹp hoàn mĩ, trở thành một sinh thể sống động, có hồn. Dòng sông
vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình. Phải là một con người yêu mến tự hào trước vẻ đẹp của thiên
nhiên đất nước, nhà văn mới có thể miêu tả được Sông Đà như thế. Có thể nói, qua lời văn ca ngợi sông
nước Đà giang, ta thấy được sự gắn bó của Nguyễn Tuân đối với quê hương đất nước. Tác phẩm Người lái
đò sông Đà tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Tác giả quan niệm cái đẹp phải là cái
gây cảm giác mạnh, đập mạnh vào cảm giác người đọc. Cho nên đẹp thì phải đến mức tuyệt mỹ, dữ dội phải
đến mức khủng khiếp. Sông Đà đúng là thứ Vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc mà nhà văn luôn khao khát
kiếm tìm và thể hiện trong các sáng tác của mình.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG – Hoàng Phủ Ngọc Tường


Đề 1: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn trích sau, từ đó anh chị nhận xét cái tôi của nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường:
[...] Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc
về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó là một bản trường ca của rừng già,
rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực
bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên
rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan
phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong
sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự
sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc
đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm
khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông
Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó
mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở mọi cửa rừng và ném chìa khoá trong những
hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
I. Mở bài
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người nghệ sỹ gắn bó với Huế và dòng sông Hương. Nhà văn có vốn hiểu
biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, chuyên viết về bút ký, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều; lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã
đặt tên cho dòng sông? trích trong bút ký cùng tên. Nội dung chính thể hiện vẻ đẹp nên thơ của dòng sông
Hương và tình yêu thương của tác giả đối với thiên nhiên đất nước. Vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong
bút ký được nhà văn cảm nhận ở nhiều phương diện và góc độ. Cụ thể ở đoạn: “Trong những dòng sông
đẹp… dưới chân núi Kim Phụng” Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận vẻ đẹp sông Hương nơi thượng
nguồn, đồng thời từ đó, đoạn trích bộc lộ cái tôi tài hoa, uyên bác, yêu thiên nhiên đất mước của nhà văn.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: Ai đã đặt tên cho dòng sông? được viết tại Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên.
- Tóm tắt tác phẩm: Sông Hương dường như chỉ thuộc về một thành phố duy nhất. Ở thượng nguồn, con
sông được ví với một bản trường ca của rừng già. Nó mang mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành
người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Khi trở về với đồng bằng, sông Hương lại trở nên trầm mặc
như triết lí, như cổ thi. Đến khi qua thành phố Huế, sông Hương trôi đi thật chậm chảy lặng lờ như điệu
slow. Dòng sông này cũng đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của mình. Có một nhà thơ
9
từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu hỏi với trời,
với đất, một câu thật bâng khuâng: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
- Ý nghĩa nhan đề: Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã dẫn dắt người đọc đến với cội nguồn tên gọi
của dòng Hương thơ mộng, đồng thời lý giải tên dòng sông bằng một huyền thoại mỹ lệ của người dân làng
Thành Chung. Lấy tên nhan đề cho bài bút ký dưới hình thức của một câu hỏi nhằm mục đích dẫn dắt, gợi
mở người đọc về nguồn gốc tên gọi của dòng sông, nói lên những khát vọng, niềm tự hào của con người khi
muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây dựng, vun đắp cho văn hóa, lịch sử của xứ Huế. Nhan đề cũng thể
hiện được niềm biết ơn đối với những con người đã khai phá vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của
đất nước.
2. Nội dung chính
* Vẻ đẹp sông Hương khi ở thượng nguồn
- Mở đầu đoạn trích bằng một câu khẳng định vẻ đẹp riêng và độc đáo duy nhất của sông Hương: “ Trong
những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một
thành phố duy nhất”. Dòng sông Hương mang vẻ đặc biệt trước tiên đến từ góc nhìn địa lý, như tác giả nói
có rất nhiều con sông đẹp mà ông từng biết duy chỉ có Hương giang là thuộc về một thành phố. Chính vì
thuộc về một thành phố duy nhất nên sông Hương đã tạo nên một nền văn hóa xứ sở riêng biệt của thành
phố Huế trầm mặc, mộng mơ và nên thơ không ở đâu có vào đâu được.
- Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn được tác giả cảm nhận với hai đặc điểm: Mãnh liệt và dịu dàng,
đằm thắm. Trước tiên, từ khi còn ở thượng nguồn, dòng sông là “một bản trường ca của rừng già, rầm rộ
giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn ”
vượt qua những chặng đường gian nan thử thách. Thủ pháp so sánh sông Hương như một “bản trường ca
của rừng già” để thấy được độ hoành tráng, tráng lệ và đầy bí ẩn của dòng sông có nguồn gốc từ rừng sâu
đại ngàn, núi cao và vực thẳm. Dòng sông ấy, ở tại nơi mình sinh ra, có lúc bùng cháy mãnh liệt như đoạn
cao trào của một bản nhạc giao hưởng mê đắm lòng người. Để lột tả vẻ đẹp mãnh liệt ấy, nhà văn sử dụng
những động từ, tính từ mạnh “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy” kết hợp với so sánh “như cơn lốc vào
những đáy vực bí ẩn”. Nhịp văn tràn đầy cảm xúc, dồn dập và mãnh liệt, giống như cá tính của cô gái sông
Hương ấy, đầy cuồng si với sức mạnh thật hùng vĩ, cuồng say.
- Mới mãnh liệt ấy thôi, sông Hương bỗng lại có lúc dịu dàng, đằm thắm như một khoảng lặng của bản nhạc
giao hưởng để người nghe có thời gian cảm nhận hết được vẻ đẹp của nó và để cảm xúc của mình thăng hoa:
“cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng ”.
Chỉ có màu đỏ rực rỡ đó mới miêu tả hết được vẻ đẹp sông Hương vừa man dại, quyến rũ lại vô cùng nồng
nàn. Khi vào tới lòng Trường Sơn, sông Hương được tác giả nhân hóa “nó đã sống một nửa cuộc đời của
mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Có lẽ vượt qua những khó khăn, thử thách đã hun
đúc cho “cô gái” ấy một tính cách mạnh mẽ, gan dạ và một tâm hồn tự do, phóng khoáng đến thế. Thủ pháp
nhân hóa làm nổi bật lên cái vẻ sôi nổi tràn đầy sức sống của dòng sông, mang đến cả những hình dung về
một dòng chảy lắt léo, ưa khám phá, ưa tự do được rừng già Trường Sơn hun đúc.
→ Tính chí dương hùng tráng và nét dịu dàng, đắm say, trữ tình chí âm của dòng sông đã dung hợp, bổ
khuyết cho nhau để tạo nên một Hương giang kỳ vĩ, cá tính và gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
- Phóng khoáng, tự do nhưng không buông thả mà đầy cá tính. Bởi dòng sông khi trải qua cả nửa chặng
đường đời, sông Hương đã trở thành người con gái của rừng già, kìm hãm sức mạnh bản năng của chính
mình. Để rồi khi xuôi theo dòng chảy, rời xa thượng nguồn, Hương giang mang một sắc đẹp “dịu dàng, trí
tuệ”, trở thành người mẹ của “một vùng văn hoá xứ sở”. Bằng ngòi bút tinh tế, khéo léo của mình tác giả
nhân hoá dòng sông như một người mẹ, “người mẹ ấy” đã nuôi sống những đứa con bằng tất những tinh tuý
mình có, bồi đắp phù sa, nuôi lớn đứa con trở nên trù phú, rộng lớn, bao la. Từ đó, nhà văn cũng nhắc nhớ
con người biết ơn trước sự hy sinh của bà mẹ Hương Giang ngàn đời.
- Phần cuối của đoạn trích, nhà văn đã lý giải vì sao mình lại tìm đến tận thượng nguồn, nơi khai sinh sông
Hương, ấy là bởi: “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không
hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương”. Đó là dòng sông duy nhất thuộc thành phố Huế, nó đã trải
qua biết bao thăng trầm gian truân nhưng lại chẳng muốn bộc lộ cho ai thấy, nó muốn giữ kín cho riêng
mình nên đã đóng kín cửa tâm hồn lại và “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.
Chính lẽ đó, sông Hương mang vẻ đẹp vang bóng một thời của cố đô Huế xa xưa, vẻ đẹp bí ẩn, quyến rũ,
nồng nàn hơn bao giờ hết.
* Cái tôi của nhà văn: Đoạn trích nói riêng, và xuyên suốt tác phẩm nói chung, đã cho người đọc thấy một
cái tôi tinh tế qua sự quan sát dòng sông trên nhiều góc độ khác nhau, miêu tả dòng sông trên nhiều phương
diện; là nhà văn có lối viết tài hoa, uyên bác; đồng thời là cái tôi của người nghệ sỹ có tình yêu tha thiết, say
đắm với thiên nhiên Huế và đất nước.

10
* Nghệ thuật: Đặc sắc trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật sông Hương qua thể loại bút ký; văn
phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa. Sức liên tưởng kỳ diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa
lý, lịch sử, văn hoá nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân. Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển
chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu tư như: So sánh, nhân hoá, ẩn dụ,… Có sự kết
hợp hài hoà cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan: chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân, khách quan
là đối tượng miêu tả - dòng sông Hương. Soi bóng tâm hồn với tình yêu say đắm, lắng sâu niềm tự hào tha
thiết quê hương xứ sở vào đối tượng miêu tả khiến đối tượng trở nên lung linh, huyền ảo, đa dạng như đời
sống, như tâm hồn con người.
III. Kết bài
Hình ảnh dòng Hương giang có lẽ đã in sâu trong lòng Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông dành cho nó cả một
tình cảm sâu nặng, sự yêu thương da diết. Tác giả cảm nhận dòng sông qua nhiều vẻ đẹp, nhiều khía cạnh
khác nhau, cụ thể là vẻ đẹp nơi thượng nguồn qua đoạn trích trên, với lối viết nhẹ nhàng, mộc mạc, dòng
sông cứ thế đi vào lòng người đọc theo mạnh cảm xúc dâng trào không thể dứt ra. Ông đã vận dụng thành
công thể bút ký để tạo nên một tác phẩm có giá trị to lớn cho nền văn học Việt Nam.

Đề 2: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn trích sau, từ đó anh chị nhận xét cái tôi của nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa
đồng Châu Hoá đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một
cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm
kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam
bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt
Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi thiên Mụ, xuôi
dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu
dưới chân núi Ngọc Trản sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như
thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn
nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những
ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm
của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những
lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ
bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến
lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những sớm
làng trung du bát ngát tiếng gà...
I. Mở bài
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người nghệ sỹ gắn bó với Huế và dòng sông Hương. Nhà văn có vốn hiểu
biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, chuyên viết về bút ký, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều; lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã
đặt tên cho dòng sông? trích trong bút ký cùng tên. Nội dung chính thể hiện vẻ đẹp nên thơ của dòng sông
Hương và tình yêu thương của tác giả đối với thiên nhiên đất nước. Vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong
bút ký được nhà văn cảm nhận ở nhiều phương diện và góc độ. Cụ thể ở đoạn trên Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi về đến châu thổ, ngoại vi thành phố Huế, đồng thời từ đó, đoạn trích
bộc lộ cái tôi tài hoa, uyên bác, yêu thiên nhiên đất mước của nhà văn.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: Xem đề 1
- Ý nghĩa nhan đề: Xem đề 1
2. Nội dung chính
* Vẻ đẹp sông Hương khi ở vùng đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế
- Ngay sau khi ra khỏi rừng già, thủy trình của sông Hương đến với cánh đồng Châu Hóa thơ mộng cùng
cảnh vật những ngôi làng ngoại ô kinh thành Huế. Chảy khỏi rừng già, sông Hương được “hun đúc” để
mang một vẻ đẹp khác, không còn cuồng si, hoang dại nữa mà thay vào đó, sông Hương lại trở thành một
người con gái đẹp mang vẻ đẹp thật dịu dàng. Đó là khi nó tiến tới vùng đồng bằng và ngoại vi thành phố
trước khi thực sự đặt chân vào Huế.
- Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của tác giả, mở đầu đoạn trích miêu tả cuộc hành trình của dòng sông từ
thượng nguồn về tới Huế giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một cô gái
11
đẹp trong câu chuyện cổ tích lãng mạn về tình yêu: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến
đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Hình ảnh được nhân cách
hóa, liên tưởng thú vị tới truyện cổ tích “Nàng công chúa ngủ trong rừng”. Hai chữ “mơ màng” gợi tả hình
ảnh một giấc ngủ đẹp và đầy quyến rũ của dòng sông, dòng sông như tỉnh như mơ, như thực như mộng.
Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được liên tưởng như người con gái đẹp trẻ
trung, căng tràn sức sống bừng tỉnh sau một giấc ngủ với mộng đẹp dài hàng thế kỷ. Nó thể hiện một vóc
dáng mới, sức sống mới, đầy khát khao và lãng mạn: “sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng
giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”.
- Hành trình đến với người tình mong đợi của người gái đẹp khá gian truân và nhiều thử thách. Nhưng trong
quá trình ấy sông Hương lại như có cơ hội hoàn thiện và phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình – vẻ đẹp gợi cảm
với những đường cong tuyệt mỹ của người gái đẹp ra từ cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại “ qua điện Hòn
Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển sang hướng Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi
đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần
về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc
Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Câu
văn sử dụng phép liệt kê: điện Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ… mang đến
cho người đọc những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của xứ Huế cũng như vốn hiểu biết sâu rộng, kiến thức
địa lý phong phú của nhà văn. Tác giả sử dụng nhiều động từ chỉ đường nét khiến ta hình dung về dòng chảy
trữ tình của con sông thật sống động: qua, chuyển sang, vòng qua, vẽ một hình cung, ôm lấy chân đồi, xuôi
dần… Hệ thống động từ đặc tả dòng chảy ấy làm sông Hương hiện lên chân thực, sắc nét, có hồn như một
sinh thể sống động và giàu sức sống. Đó là một quá trình gian nan và đầy thử thách của dòng sông để chủ
động tìm tới “người tình nhân đích thực” là thành phố Huế. Bằng lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa
dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn những khúc
quanh, ngã rẽ của con sông. Tác giả đã vẽ lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu yêu kiều và rất tạo hình
của sông Hương khi nó ở ngoại vi thành phố Huế. Ông không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy
tự nhiên của con sông mà quan trọng hơn là biến cái thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm người yêu” của
một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ.
- Quan sát ở điểm nhìn gần hơn: Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường
Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm. Dòng chảy ấy dù
uốn quanh, lượn vòng nhưng lưu tốc vẫn còn mạnh mẽ. Hai chữ “vượt qua” gợi hành trình nhọc nhằn, gian
truân; và sắc nước “xanh thẳm” là phần thưởng xứng đáng có được sau hành trình nhọc nhằn ấy. Để khi về
đến những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, dòng sông đã phần nào được kiềm chế sức mạnh. Thủy trình
dòng sông lúc này trôi qua cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, có hình khối: “Nó trôi đi giữa hai dãy đồi
sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo”. Dòng sông
lúc này “mềm như tấm lụa”. Những dãy đồi núi với những điểm cao đột ngột đã tạo nên những phản quang
đầy màu sắc “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Màu sắc dòng nước thay
đổi theo từng thời điểm trong ngày đều rực rỡ, tươi sáng như một đóa phù dung. Điều ấy chứng tỏ Hương
Giang là một cô gái đẹp rất điệu đà và đáng yêu.
- Đoạn trích khép lại bằng hai câu văn miêu tả sông Hương mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết lý, như cổ thi”.
Khi chảy qua miền lăng tẩm đền đài – nơi yên nghỉ của các triều vua, sông Hương như trầm mặc hẳn đi, bởi
nó đang đi qua một giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u
tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu: “Bốn bề núi
phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Các từ ngữ như “u tịch”, “âm u”, “thiên cổ”,
“vạn niên” gợi không khí cổ kính và cũng như phần nào giải thích cho vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương.
- Và cuối cùng, khi sông Hương nhận thấy những dấu hiệu từ xa của thành phố qua âm thanh “tiếng chuông
chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những sớm làng trung du bát ngát tiếng gà...” nó trở nên
bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung. Hai chữ “phẳng lặng” gợi hình ảnh mặt nước trong trẻo, yên bình, không
gợn sóng. Hai chữ “ngân nga” gợi âm thanh ngân vang, luyến láy, như kéo dài ra mênh mang trong cõi vô
thường. Từ láy “bát ngát” đặt giữa “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà” gợi ra không gian bao la
mang vẻ đẹp bình dị, hiền hòa, lắng đọng như đưa người đọc trôi mênh mang vào một cõi huyền ảo.
* Cái tôi của nhà văn Xem đề 1
* Nghệ thuật Xem đề 1
III. Kết bài Xem đề 1

12
Đề 3: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn trích sau, từ đó anh chị nhận xét cái tôi của nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của những
vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tân nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối
đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành
trăng non. Giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến;
đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như
vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành
phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và
cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương toả đi khắp phố thị, với những cây đa,
cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm
những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn
thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước,
khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ đồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi
đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới
ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân,
thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon
của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền
Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của
tuổi dại; ôi, tôi muốn hoá làm một con chim như đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi
cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người
bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã
khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi,
chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho
huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác trăm qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội
rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên
mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
I. Mở bài
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người nghệ sỹ gắn bó với Huế và dòng sông Hương. Nhà văn có vốn hiểu
biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, chuyên viết về bút ký, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều; lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã
đặt tên cho dòng sông? trích trong bút ký cùng tên. Nội dung chính thể hiện vẻ đẹp nên thơ của dòng sông
Hương và tình yêu thương của tác giả đối với thiên nhiên đất nước. Vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong
bút ký được nhà văn cảm nhận ở nhiều phương diện và góc độ. Cụ thể ở đoạn trên Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi về đến thành phố Huế, đồng thời từ đó, đoạn trích bộc lộ cái tôi tài hoa,
uyên bác, yêu thiên nhiên đất mước của nhà văn.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: Xem đề 1
- Ý nghĩa nhan đề: Xem đề 1
2. Nội dung chính
* Vẻ đẹp sông Hương khi đến thành phố Huế
- Sông Hương vui hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long: Vượt qua muôn vàn
khó khăn, cuối cùng sông Hương cũng đến nơi mà nó cần đến, cũng gặp được “thành phố tương lai” mà nó
mong đợi, có lẽ vì thế mà con sông “tươi vui hẳn lên”, đồng thời “ kéo một nét thẳng thực yên tâm theo
hướng tân nam - đông bắc”. Mở đầu đoạn văn bằng thủ pháp nhân hóa cho thấy sự thay đổi tâm trạng của
sông Hương như thế nào: vui tươi và yên tâm.
- Sông Hương cập bến thành phố thân yêu giữa những “thuyền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”
để rồi Sông Hương đã gặp cầu Tràng Tiền trên đường về. Tác giả thấy nhịp cầu với hình bán nguyệt in ngần
trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Có thể nói liên tưởng, so sánh ấy thật hợp lý và bất ngờ
và cũng thật nên thơ bởi so sánh ấy đã nói được hình dáng, màu sắc của cây cầu và dường như nhịp cầu có
phản chiếu một ít ánh sáng. Hình bán nguyệt bừng sáng ở phía xa ấy như vành trăng non để liên tưởng có
tiếp ở người đọc là ánh mắt của người thiếu nữ. Sau đó nó “giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên”. Đến đây,
con sông giống như một cô gái đẹp e lệ, dịu dàng nghiêng mình chào Huế “… sông Hương đã uốn một
cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”, “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. So sánh này thật là
độc đáo, tài hoa và tinh tế làm nổi bậc tính dịu dàng, trầm mặc của con sông Hương khi chảy vào thành phố.
Tác giả đã so sánh với những cái khá mơ hồ nhưng lại gợi được những liên tưởng: cô gái ấy thuận tình
13
nhưng lại không nói ra vì e lệ. Điều này làm ta liên tưởng đến nét đẹp của cô gái xứ Huế tình tứ, duyên dáng
mà vẫn e lệ, vẫn kín đáo.
- Và hơn nữa để làm nổi bật tính chất này, nhà văn đã tiếp tục so sánh sông Hương với sông Xen của Pari,
sông Đa- nuýp của Budapet; nhưng những dòng sông ấy vừa giống lại vừa khác với Hương Giang. Đó đều
là những dòng sông gắn liền với thủ đô, kinh đô nhưng sông Hương vẫn khác với hai con sông đó ở chỗ
sông Hương không hoàn toàn gắn với những gì hiện đại mà còn đánh thức được linh hồn dân tộc, gắn
với những xóm thuyền, với nhưng ánh lửa thuyền chài. Sông Hương chảy giữa lòng thành phố ở đây ta như
thấy có sự đan cài giữa quá khứ với hiện đại. Sự cận kề và đan xen ấy tạo nên nét đặc thù cho xứ Huế và
sông Hương: “Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khép phố
thị, với những cây đa, cây cừ cổ thụ tỏa vẫn lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn
lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố
hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn
lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt
hồ yên tĩnh”.
- Miêu tả dòng sông giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn kênh tiếp cận là âm nhạc .
Sông Hương trong lòng thành phố Huế còn như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Trong tiếng Anh,
“slow” nghĩa là chậm và sông Hương như một giai điệu trữ tình chậm rãi chỉ dành riêng cho Huế mà thôi.
Có thể thấy, nhà văn đã tinh tế khi nhìn ra một đặc trưng của Hương Giang. So với các dòng sông khác ở
Việt Nam và thế giới, lưu tốc của sông Hương không nhanh. Điều này đã được nhà văn lý giải từ đặc
điểm địa lý: “những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước
khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên
tĩnh”. Để làm nổi bật hơn cái đặc trưng này, nhà văn đã liên tưởng, so sánh sông Hương với sông Nêva –
con sông chảy băng băng lướt qua trước cung điện Petecbua cũ để ra bể Ban-tích. Lưu tốc của con sông này
nhanh đến mức “không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông
theo”. Mượn câu nói của Hêraclít – nhà triết học Hy Lạp, trong một cách nói thật hình ảnh “khóc suốt đời
vì những dòng sông trôi quá nhanh”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến một kiến giải khác, hết sức thú vị
và độc đáo về lưu tốc của dòng sông mà ông yêu quý. Đó là cách lý giải từ trái tim: sông Hương chảy chậm,
điệu chảy lững lờ là vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố
thân thương trước khi phải rời xa.
* Cái tôi của nhà văn Xem đề 1
* Nghệ thuật Xem đề 1
III. Kết bài Xem đề 1

Đề 4: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn trích sau, từ đó anh chị nhận xét cái tôi của nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh
đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà
hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông
này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bám âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du
đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời
Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi nghe con gái
đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”... Đến câu ấy, người nghệ
nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”
Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng
trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh của tre trúc và của những vườn
cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt
sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây
chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa
cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và
rất giống con người ở đây; và để nhân cách hoá nó lên, tôi gọi đây là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín
đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại
tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn
nhớ...”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân
nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương Xứ Sở.
I. Mở bài

14
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người nghệ sỹ gắn bó với Huế và dòng sông Hương. Nhà văn có vốn hiểu
biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, chuyên viết về bút ký, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều; lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã
đặt tên cho dòng sông? trích trong bút ký cùng tên. Nội dung chính thể hiện vẻ đẹp nên thơ của dòng sông
Hương và tình yêu thương của tác giả đối với thiên nhiên đất nước. Vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong
bút ký được nhà văn cảm nhận ở nhiều phương diện và góc độ. Cụ thể ở đoạn trên Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã cảm nhận vẻ đẹp sông Hương ở phương diện văn hóa và trước khi chia tay với thành phố Huế, đồng thời
từ đó, đoạn trích bộc lộ cái tôi tài hoa, uyên bác, yêu thiên nhiên đất mước của nhà văn.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: Xem đề 1
- Ý nghĩa nhan đề: Xem đề 1
2. Nội dung chính
* Vẻ đẹp sông Hương ở phương diện văn hóa (âm nhạc) và trước khi chia tay thành phố Huế
- Sông Hương qua cảm nhận của tác giả chủ yếu được nhìn nhận theo chiều không gian, theo dòng chảy của
con sông. Nhưng sẽ thật là thiếu sót nếu không nói đến vẻ đẹp của Hương Giang từ bình diện thời gian
mà vẫn gắn với kinh thành, với đêm khuya trên dòng sông. Hay nói cách khác, viết về sông Hương giữa
lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên một nét đẹp văn hoá đặc trưng gắn liền với dòng sông
thơ mộng này. Đó là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên dòng sông Hương. Ở góc nhìn âm
nhạc này, tác giả gọi sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ai đã từng có dịp đến Huế
thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem các nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya
mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, trong
cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là chính nó khi “sinh thành trên mặt nước” của Hương Giang “trong một
khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Ở đây có cái thú vị,
cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng cũng có quy luật của nghệ thuật biểu
diễn trên không gian sông nước. Nhà văn thật có lí khi cho rằng không thể nghe tiếng nhạc Huế ban ngày,
nghe ở nhà hát mà dứt khoát phải nghe lúc đêm khuya ở một khoang thuyền. Khi ấy, tiếng đàn sẽ hòa điệu
với tiếng nước rơi trên mái-chèo để tạo nên một sự cộng hưởng lạ lùng. Từ đây, tác giả mới có liên tưởng
đến Nguyễn Du. Thi hào có lẽ đã sống với những phiến trăng sầu, những đêm trên sông Hương với bao nỗi
niềm, nghe tiếng đàn để có được câu thơ: Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới xa nửa vời
mà một nghệ nhân gắn bó với cổ nhạc xứ Huế nửa thế kỷ qua đã quả quyết đó chính là Tứ đại cảnh (một bản
nhạc cổ Huế, tương truyền do vua Tự Đức sáng tác). Dòng sông Hương là nơi sinh thành cổ nhạc Huế với
những điệu nam ai, nam bình không thể nào quên. Đó là môi trường diễn xướng để tiếng nước rơi trên mái
chèo làm tôn thêm tiếng đàn. Môi trường ấy đã nuôi dưỡng hồn thơ của một thi hào để từ đó có những câu
thơ tuyệt diệu về tiếng đàn đi suốt cuộc đời nàng Kiều.
- Ra khỏi kinh thành Huế, sông Hương mang vẻ đẹp của người tình dịu dàng và chung thủy . Sông
Hương chính là hiện thân của một người tình đằm thắm, dịu dàng. Nhưng dòng sông có bao giờ tự ý đứng
lại theo ý muốn để được ở lại nơi nó có thiện cảm như vùng đất Huế mến thương. Do vậy, sông Hương mới
dành cho Huế một cái ôm thật nồng thắm trước lúc giã biệt: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về
hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố Huế
để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ ”. Thế nhưng dù có
níu kéo đến như thế nào thì đã tới lúc, sông Hương phải rời xa thành phố. Tuy nhiên sự lưu luyến, bịn rịn
khiến dòng sông như cũng chùng chình, dềnh dàng rồi cương quyết “rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp
lại thành phố lần cuối”. Cách “rẽ ngoặt” ấy của dòng Hương giang được tác giả khéo léo gọi là nỗi vương
vấn và cả sự lẳng lơ rất duyên dáng, kín đáo trong tình yêu. Phải chăng khúc lượn này, sông Hương có cái gì
rất lạ với tự nhiên và rất giống con người. Chính dòng chảy mang niềm quyến luyến ấy đã khiến tác giả gợi
nhớ đến hình ảnh của nàng Kiều trong đêm tình tự trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề. Thật không có
sự so sánh nào hay hơn khi nói về con sông mang tình người, tình son sắt thủy chung của lứa đôi: “ Còn non,
còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ…” lời thề của lứa đôi, lời thề của dòng sông đã trở thành giọng hò dân
gian của xứ Huế. Sâu xa hơn nữa. lời thề ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với
quê hương xứ sở thân thương.
* Cái tôi của nhà văn Xem đề 1
* Nghệ thuật Xem đề 1
III. Kết bài Xem đề 1

15
Đề 5: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn trích sau, từ đó anh chị nhận xét cái tôi của nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
[...] Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn
là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó
mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc
Đại Việt qua những thế kỉ trung đại. Thế kỉ mười tám, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú xuân của người
anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi
nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
Cùng với niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã nhận được những lời chia
buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn phá mà đế quốc Mĩ đã chụp lên những di sản văn hoá của nó. “Các
trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hoá, học thuật và về chính quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế
là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố Luân Đôn, Pa-ri và Béc-lin... Một số
trong các di sản đó đã bị phá huỷ lúc Thành Nội Huế bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự
mất mát của một viện bảo tàng hay một thư viện ở Mỹ. Sự phá huỷ những di sản này cũng có tính chất giống
như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu Âu khi một số công trình của nền văn minh Hy Lạp và La
Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại”. Đó là sự đánh giá đầy phẫn nộ của chính người Mỹ, Ra-
pha-en Li-tao-ơ, Noóc-man U-phốp và nhóm giáo sư Đại học Coóc-nen, trong một tác phẩm khoa học đầy
mùi thuốc nổ và hoá chất độc mang tên Cuộc chiến tranh không quân ở Đông Dương.
Tháng trước, tôi được dịp có mặt trong cuộc tiếp đón ở Thành uỷ Huế chào mừng đoàn đại biểu của Hội
nghị tổng kết chiến tranh, tại thành phố. Thay mặt Quân uỷ Trung ương, đồng chí Đại tướng phát biểu:
“Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng
đáng cho Tổ quốc”... Đồng chí nói, đầu cúi xuống ngực, hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ kính cẩn của
người già mắt ngấn lệ; và người nghe, tất cả đều lặng đi trong cảm xúc đột ngột của một lời thề.
I. Mở bài
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người nghệ sỹ gắn bó với Huế và dòng sông Hương. Nhà văn có vốn hiểu
biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, chuyên viết về bút ký, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều; lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã
đặt tên cho dòng sông? trích trong bút ký cùng tên. Nội dung chính thể hiện vẻ đẹp nên thơ của dòng sông
Hương và tình yêu thương của tác giả đối với thiên nhiên đất nước. Vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong
bút ký được nhà văn cảm nhận ở nhiều phương diện và góc độ. Cụ thể ở đoạn trên Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã cảm nhận vẻ đẹp sông Hương ở phương diện lịch sử, đồng thời từ đó, đoạn trích bộc lộ cái tôi tài hoa,
uyên bác, yêu thiên nhiên đất mước của nhà văn.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: Xem đề 1
- Ý nghĩa nhan đề: Xem đề 1
2. Nội dung chính
* Vẻ đẹp sông Hương ở phương diện lịch sử
- Sau vẻ đẹp sông Hương trên góc nhìn văn hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tiếp tục nhìn nhận sông Hương ở
bề dày lịch sử. Sông Hương ghi tên mình từ thuở sơ khai, từ thời đại các vua Hùng nó được coi là “dòng
biên thùy xa xôi của đất nước”. Trong thời kỳ trung đại, sông Hương mang tên Linh Giang, có nhiệm vụ bảo
vệ biên giới tổ quốc. Trong thế kỷ mười tám, sông Hương “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của
người anh hùng Nguyễn Huệ”. Sông Hương đã sống hết thế kỷ mười chín bi tráng với máu của các cuộc
khởi nghĩa. Từ đây, sông Hương tiếp tục đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám, trải qua chiến dịch Mậu
Thân và cuộc tổng tiến công 1975 và Huế là một trong ba nơi giành thắng lợi vẻ vang nhất, cách mạng tháng
Tám đã phủ lên sông Hương một lớp hào quang chói lọi với chiến công lật đổ thành trì chế độ phong kiến và
sự đô hộ của Pháp….
- Tự hào và vinh quang nhưng cũng đau thương khi nhắc lại sự kiện Huế bị Mỹ ném bom, các di sản Huế bị
phá hủy qua giọng văn nghẹn ngào trước những mất mát vả xen lẫn phẫn uất trước tội ác của Mỹ. Cách so
sánh vừa tương phản: “Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một viện bảo tàng hay một thư
viện ở Mỹ”, vừa tương đồng: “Sự phá huỷ những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra
đối với nền văn minh châu Âu khi một số công trình của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại” cho thấy
những tổn hại của di sản Huế dưới bom đạn phá hoại của Mỹ nặng nề như thế nào.
→ Như vậy, sông Hương luôn vận động xuyên suốt tiến trình lịch sử Việt Nam. Nó vừa là chứng nhân lịch
sử vừa phải gánh vác trên vai nhiệm vụ lịch vụ lịch sử đầy vinh quang. Bởi thế sông Hương đã được gọi là
“dòng sông của thời gian ngân vang” vì nó chứa đựng những âm hưởng hào hùng, bi tráng của lịch sử dân
tộc.
16
- Kết thúc đoạn trích bằng một sự kiện Hội nghị tổng kết chiến tranh với lời tri ân và hành động kính cẩn ghi
nhận công lao của Hương Giang cũng như thành phố Huế đối với lịch sử của một vị Đại tướng: “Lịch sử
Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho
Tổ quốc”.
- Đoạn văn chủ yếu sử dụng thủ pháp nhân hóa: sông Hương đã sống, dòng sông viễn châu đã chiến đấu
oanh liệt, nó vẻ vang soi bóng, nó sống hết lịch sử… kết hợp với liệt kê mốc thời gian lịch sử từ xa tới gần:
thời các vua Hùng, thế kỷ XIV với người anh hùng Nguyễn Trãi, thế kỷ XVIII với người anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ, thế kỷ XIX với những cuộc khởi nghĩa và thời đại Cách mạng với những chiến công rung
chuyển… nhằm khẳng định và tôn vinh sông Hương vừa là chứng nhân lịch sử, vừa đóng góp cho lịch sử
đầy vinh quang của đất nước.
- Điểm nhanh các mốc lịch sử theo chiều thời gian đã cho thấy bề dày lịch sử của dòng sông song hành với
vận mệnh phát triển của đất nước. Nhìn vào những mốc son cũng như những đau thương mất mát của dòng
sông này ta thấy lịch sử Huế và con người Huế: đau thương nhưng quật khởi, bi tráng nhưng cũng vô cùng
hào hùng, hiển hách.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm kiếm rất nhiều tư liệu lịch sử về sông Hương trong đó có cả những kiến
thức mà không mấy người biết đến kể cả những người sống lâu năm tại Huế.
* Cái tôi của nhà văn Xem đề 1
* Nghệ thuật Xem đề 1
III. Kết bài Xem đề 1

Đề 6: Cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn trích sau, từ đó anh chị nhận xét cái tôi của nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi
nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường,
làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nắng đem
ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm
lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các
cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống
như tấm voan huyền ảo của thiên nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông...
Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng
sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá
riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “Dòng sông trắng - lá cây xanh”
trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời
xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ
Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu. Và ở đây,
một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.
Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân
cầu hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng:
- Ai đã đặt tên cho dòng sông?
I. Mở bài
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người nghệ sỹ gắn bó với Huế và dòng sông Hương. Nhà văn có vốn hiểu
biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, chuyên viết về bút ký, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều; lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã
đặt tên cho dòng sông? trích trong bút ký cùng tên. Nội dung chính thể hiện vẻ đẹp nên thơ của dòng sông
Hương và tình yêu thương của tác giả đối với thiên nhiên đất nước. Vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong
bút ký được nhà văn cảm nhận ở nhiều phương diện và góc độ. Cụ thể ở đoạn trên Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã cảm nhận vẻ đẹp sông Hương ở phương diện văn hóa và thi ca, đồng thời từ đó, đoạn trích bộc lộ cái tôi
tài hoa, uyên bác, yêu thiên nhiên đất mước của nhà văn.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: Xem đề 1
- Ý nghĩa nhan đề: Xem đề 1
2. Nội dung chính
* Vẻ đẹp sông Hương ở phương diện văn hóa
- Sông Hương với lịch sử là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời.
Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: “Khi nghe lời gọi, nó biết
17
cách tự hiến mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái
dịu dàng của đất nước”. Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân
vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm
chứa trong nó cả nền văn hoá phi vật thể của Huế. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, sắc áo điều lục - màu tím
mà người Huế ưa thích vốn là màu của sương khói trên sông Hương. Nó tựa một tấm voan huyền ảo đến từ
thiên nhiên. Dòng sông cũng góp phần làm nên vẻ đẹp êm đềm, phẳng lặng của người Huế. Từ đầu đoạn
trích, miêu tả về sông Hương, nhưng không phải như một phong cảnh đẹp mà tác giả khắc họa nó giống như
một con người xứ Huế (cô gái, mẹ hiền…) gần gũi, thân thiết, giàu tình cảm.
- Sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông
Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp
lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Dòng sông trở thành nàng thơ trong tâm hồn thi sĩ với vẻ đẹp đa
dạng, biến ảo, không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nhà thơ. Quả đúng vậy! Có biết bao văn
nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương. Ở thơ Tản Đà, đó là “dòng sông trắng, lá cây xanh”
tha thướt, mơ màng. Ở thơ Cao Bá Quát nó hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh”. Ở thơ Bà Huyện Thanh
Quan nó là “nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng”. Có sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ
Tố Hữu. Điều kỳ diệu là nhà văn đã nhìn thấy sông Hương trong mối quan hệ với Kiều: “Và ở đây, một lần
nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều”. Cách so sánh, liên tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa
các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết trong văn chương muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong
cách nghệ thuật của nhà văn giàu chất thơ.
- Giá trị nghệ thuật của đoạn văn tăng lên qua từng chi tiết và cuối cùng thì thăng hoa bằng câu chuyện về
một nhà thơ già: “Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu
thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng: Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Để
rồi đến phần này của bài kí, tác giả lý giải tên dòng Hương Giang bằng huyền thoại đầy chất thơ: Người làng
Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây có một huyền thoại kể rằng, vì yêu quý con sông xinh đẹp,
nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sống cho làn nước thơm tho mãi
mãi. Giai thoại này không phải ai cũng biết, kể những người đã sống lâu năm ở Huế. Khi tác giả kể về giai
thoại này, câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ít nhiều đã được giải đáp.
* Cái tôi của nhà văn Xem đề 1
* Nghệ thuật Xem đề 1
III. Kết bài Xem đề 1

VỢ CHỒNG A PHỦ - Tô Hoài


Đề 1: Cảm nhận nhân vật Mị trong đoạn trích sau:
Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên
tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng
nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta thường nói: Nhà Pá Tra làm
thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều
thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi
hỏi ra mới rõ cô ấy không phải là con gái nhà Pá Tra: Cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.
Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ, cũng không ai nhớ. Nhưng
người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mị về làm người nhà quan thống lí. Ngày xưa, bố
Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem
nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người
vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.
Mở Bài :
Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, ông là một cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam.
Tô Hoài có vồn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần
thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình, lay động lòng người. “Vợ
chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện nói về cuộc sống tối tăm, khổ nhục và
quá trình tự vùng lên đấu tranh kẻ thù, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi cao Tây Bắc dưới ách
thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mỵ có sức ám ảnh
đối với người đọc. Đoạn văn trên nói về cuộc đời tăm tối của Mị trong nhà thống lý Pá Tra.
Thân Bài:
1. Giới thiệu chung

18
- Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà
văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thăm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập
“Truyện Tây Bắc”.
- Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Vì
món nợ truyền kiếp của gia đình, Mị trở thành con dâu gạt nợ - thực chất là nô lệ cho nhà thống lý. Lúc đầu,
suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không
thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lý. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi
bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong
buồng tối. A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị
đánh đập, phạt vạ rồi trở thành nô lệ. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên
A Phủ đã bị thống lý trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng
thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài
tới Phiềng Sa và được giác ngộ cách mạng.
2. Nội dung chính
- Mị trước khi về làm dâu nhà thống lý vốn là cô gái vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, hiếu thảo. Với những
phẩm chất tốt đẹp ấy, Mị xứng đáng được hưởng hạnh phúc và hoàn toàn có khả năng đem lại hạnh phúc
cho người khác. Nhưng trong một xã hội bất công vô nhân đạo thì càng cao quý bao nhiêu, người ta lại càng
bị dập vùi một cách phũ phàng.
- Mở đầu truyện ngắn, Tô Hoài sử dụng giọng văn trầm buồn nhưng đầy ám ảnh để đưa người đọc vào
thế giới Tây Bắc trước ngày giải phóng. Như một câu chuyện cổ tích từ thuở nào đó xa xưa lắm, Tây Bắc
hiện ra với hai giai cấp đối lập nhau: một bên là thống lí Pá Tra (giai cấp thống trị), một bên là “cô con gái”
tên Mị (giai cấp bị trị) đang sống lầm lũi, buồn tủi trong căn nhà sang giàu nhưng độc ác, bất lương.
Mị xuất hiện không “ồn ào”. Cô ngồi lặng im với công việc thường nhật: “Quay sợi gai”. Cách giới
thiệu nhân vật của Tô Hoài không chỉ dừng lại ở việc “giới thiệu” mà đã như mở ra, như muốn nói với người
đọc về thân phận “không bình thường” của Mị. Mị “ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”.
Tại sao lại là “tảng đá”, “tàu ngựa” mà không phải là sự vật khác. Phải chăng vì tảng đá bất động, nặng nề,
câm nín có nét tương đồng với sự u uất trong tâm hồn người đàn bà đang ngồi quay sợi? Và phải chăng tàu
ngựa – những con vật phận tôi đòi suốt đời phải chịu đòn roi của chủ cũng có nét tương đồng với thân phận
của cô gái ấy? Việc quay sợi của cô gái không có gì nặng nhọc nhưng tâm thế người ngồi quay sợi lại gợi
cảm giác vô cùng nặng nề.
- Sau khi khái quát, Tô Hoài quan sát nhân vật từ điểm nhìn cận cảnh: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười
rượi”. Gương mặt chính là sự phản chiếu của suy nghĩ, tâm hồn. Mị được miêu tả với vẻ mặt “cúi” xuống và
“buồn rười rượi”. Điều đáng nói là khuôn mặt cúi và buồn ấy không phải là do những tác động của hoàn
cảnh tức thời, ngẫu nhiên nào đó để có thể tươi tắn lại ngay mà đây là vẻ mặt thường trực “lúc nào cũng thế”
của Mị. Trên khuôn mặt cúi xuống và không bộc lộ một chút cảm xúc, nghĩ suy ấy, làm sao nhận ra một tia
hạnh phúc? Chỉ có những người không thể vui, không thể hạnh phúc, mới có vẻ mặt đó. Đó là khuôn mặt
nói lên sự lạnh lẽo, vô cảm của đời sống tâm hồn. Khuôn mặt héo hắt của một tâm hồn lay lắt.
- Tô Hoài đặt nhân vật Mị trong hoàn cảnh đối lập với gia cảnh nhà chồng. Một bên là sự giàu có, tấp
nập trong nhà thống lý, một bên là nỗi buồn khổ, sự cô độc, lẻ loi của Mị: “Nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của
dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất
làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy
không phải là con gái nhà Pá Tra: Cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra”. Làm dâu nhà giàu, ai chẳng
nghĩ đó là một sự may mắn, ai chẳng nghĩ kẻ may mắn ấy sẽ cả đời sung sướng an nhàn. Vậy nhưng, may
mắn ấy sao lại không dành cho Mị?
→ Cách giới thiệu nhân vật của Tô Hoài không khỏi khiến cho người đọc tò mò muốn tìm hiểu rõ hơn
cảnh ngộ của Mị, muốn biết đằng sau khuôn mặt buồn khổ kia là những u uất, uẩn khúc gì trong tâm hồn.
- Sau khi giới thiệu, nhà văn quay ngược lại thời gian qua khứ để lý giải nguyên nhân làm dâu nhà
thống lý của Mị. Đó không phải là câu chuyện bình thường để rồi có thể lãng quên theo thời gian. Mị có thể
không nhớ, không ai nhớ Mị làm dâu nhà thống lý bao năm. Nhưng nguyên nhân của bi kịch đó thì những
người nghèo ở Hồng Ngài ai cũng biết. Mị lấy A Sử không phải vì tình yêu, dù rằng bất cứ cuộc hôn nhân
nào cũng cần có tình yêu. Mị lấy A Sử, làm dâu nhà giàu vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ trong ngày cưới.
Không đủ tiền sính lễ, bố Mị phải vay nhà thống lý, mỗi năm trả lãi một nương ngô mà tận đến khi già vẫn
chưa trả hết nợ. Mẹ Mị chết, nợ thì vẫn còn. Ý chừng muốn xin đứt cô gái trẻ trung, xinh đẹp này về làm
phận tôi đòi, thống lý đã nói với cha Mị cho Mị về làm dâu gạt nợ.
- Mị trong câu chuyện này không chỉ là nạn nhân của nạn cho vay nặng lãi, mà còn là nạn nhân của hủ
tục “cướp vợ” phi nhân bản tồn tại bao đời gây ám ảnh kinh hoàng trong tâm hồn những cô gái trẻ. Chỉ vì
19
món nợ của cha mẹ và phong tục hôn nhân kỳ lạ của người Mông mà Mị trở thành “con dâu gạt nợ” nhà
thống lý, vợ của A Sử. Tiếng là con dâu nhà quan nhưng kỳ thực Mị bị đối xử chẳng khác gì thân phận tôi
đòi. Tại ngôi nhà quyền lực mà u ám này, Mị bị bóc lột sức lao động, phải làm việc quần quật cả ngày lẫn
đêm. Mị còn bị hành hạ về mặt thể xác, cô có thể bị trói, bị đánh đập bất cứ lúc nào. Chưa hết, Mị còn bị
cầm tù, bị xiềng xích về mặt tâm hồn. Lúc nào cô cũng bị cái ma của nhà thống lý ám ảnh. Bao nhiêu khổ
đau ở nhà thống lý đã biến Mị từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời, trở thành một người đàn bà bị tước mất linh
hồn.
3. Đánh giá
- Nội dung: Đoạn trích phác họa hình ảnh nhân vật Mị với sự u uất, câm lặng như bị lẫn, bị chìm vào
thế giới đồ vật vô tri, không cảm giác. Đặt nhân vật trong bối cảnh đó, Tô Hoài phần nào hé mở cho người
đọc về cuộc sống tủi cực, cảnh ngộ éo le của nhân vật.
- Nghệ thuật: Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, ngôn ngữ kể chuyện chuyện linh hoạt, mang phong vị
miền núi đậm đà; những nét đặc sắc mang dấu ấn riêng trong cách xây dựng chân dung nhân vật. Nhân vật
Mị được giới thiệu một cách tự nhiên, thoát khỏi mạch thời gian luyến tính, gợi nhiều ấn tượng, khơi dậy sự
hứng thú, khám phá nơi người đọc. Nhân vật không chỉ được miêu tả trực tiếp qua dáng vẻ, tư thế mà còn
được khắc họa qua những đồ vật, sự vật đầy sức gợi. Nhân vật còn được tiếp cận qua nhiều điểm nhìn: Từ
xa, bên ngoài đến tiến gần hơn vào bên trong để thâm nhập nhân vật. Không những vậy, giọng kể trầm buồn
kết hợp với thủ thuật tạo sự đối lập, mâu thuẫn giữa khung cảnh chung và hoàn cảnh riêng để dần dần vén
bức màn bí mật về một phận người... đã khiến cho đoạn văn mở đầu truyện có sức ám ảnh lớn đối với người
đọc.
Kết bài
Câu chuyện của Mị nói lên cuộc sống tối tăm, cùng cực của những con người lao động vùng Tây Bắc.
Từ góc quay rất hẹp, từ một chi tiết của cuộc sống thường nhật, Tô Hoài dã khát quát bức tranh rộng lớn của
Tây Bắc với những gam màu đen tối, đau thương. Ở nơi đó, lũ chúa đất, thực dân luôn đè đầu cưỡi cổ, đọa
đày cả thể xác và tinh thần của những người lao động nghèo. Dưới ách áp bức tầng tầng lớp lớp đó, những
người nghèo chỉ biết cúi đầu cam chịu nhẫn nhục thân phận đau đớn. Giọng kể tưởng như bình thản, lạnh
lùng mà tiếng nói tố cáo các thế lực tàn bạo thì mạnh mẽ, quyết liệt. Không những vậy, qua đoạn trích,
người đọc còn cảm nhận được tấm lòng cảm thông, thương xót của nhà văn dành cho Mị nói riêng và những
người dân lao động nghèo Tây Bắc nói chung. Đó là tiền đề để nhà văn ca ngợi, khẳng định sức sống, sự
phản kháng dữ dội của họ ở phần sau của truyện. Giá trị hiện thực cũng như nhân đạo của tác phẩm là ở chỗ
đấy.

Đề 2: Cảm nhận nhân vật Mị trong đoạn trích sau:


Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn nghĩ đến Mị có thể ăn lá
ngón tự tử. Ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng
là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc
ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau,
mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến
mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi.
Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai
cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có
một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là
sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì
thôi.
Mở bài :
Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, ông là một cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam.
Tô Hoài có vồn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần
thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình, lay động lòng người. “Vợ
chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện nói về cuộc sống tối tăm, khổ nhục và
quá trình tự vùng lên đấu tranh kẻ thù, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi cao Tây Bắc dưới ách
thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mỵ có sức ám ảnh
đối với người đọc. Đoạn văn trên nói về cuộc đời tăm tối của Mị trong nhà thống lý Pá Tra.
1. Giới thiệu chung

20
- Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà
văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thăm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập
“Truyện Tây Bắc”.
- Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Vì
món nợ truyền kiếp của gia đình, Mị trở thành con dâu gạt nợ - thực chất là nô lệ cho nhà thống lý. Lúc đầu,
suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không
thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lý. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi
bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong
buồng tối. A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị
đánh đập, phạt vạ rồi trở thành nô lệ. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên
A Phủ đã bị thống lý trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng
thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài
tới Phiềng Sa và được giác ngộ cách mạng.
2. Nội dung chính
- Mị trước khi về làm dâu nhà thống lý vốn là cô gái vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, hiếu thảo. Với những
phẩm chất tốt đẹp ấy, Mị xứng đáng được hưởng hạnh phúc và hoàn toàn có khả năng đem lại hạnh phúc
cho người khác. Nhưng trong một xã hội bất công vô nhân đạo thì càng cao quý bao nhiêu, người ta lại càng
bị dập vùi một cách phũ phàng.
- Trước hết, Mị hiện lên trong đoạn trích là một người vô cảm, cạn kiệt sức sống, đến cả cái chết Mị
còn chẳng màng nghĩ tới nữa, bởi cuộc sống của Mị bây giờ chẳng khác gì kiếp nô lệ, súc vật
+ Mở đầu đoạn văn gợi ấn tượng về thời gian làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý của Mị: “ Lần lần, mấy
năm qua, mấy năm sau,…”. Đó là quãng thời gian chỉ là mấy năm nhưng dài đằng đẵng do cuộc đời nô lệ
vất vả, chịu hành hạ cả thể xác và tinh thần.
+ Trước đây, Mị từng muốn ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị chấp nhận kiếp sống làm dâu
gạt nợ. Có nghĩa trước đó mấy năm, trong Mị vẫn còn tồn tại khát vọng sống. Nhưng nay, bố Mị chết, “Mị
cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”, điều ấy đồng nghĩa với khát vọng sống đã tiêu
tan theo những năm tháng làm dâu gạt nợ.
+ Vì đâu mà khát vọng sống ấy không còn nữa? Là vì: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Hai chữ
“quen khổ” đầy da diết, khắc khoải. Nó phản ánh thực trạng của Mị: bị chai lỳ về cảm xúc. Môi trường độc
địa ấy, hay cường quyền và thần quyền đã tước đi khát vọng sống của Mị, khiến Mị quen dần và không biểu
hiện phản kháng. Rõ ràng, hoàn cảnh đã tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận của Mị. Qua đó, người
đọc càng cảm thông và thương cho số phận của Mị.
+ Để cụ thể hơn thực trạng của Mị, nhà văn để Mị tự bộc lộ tâm trạng, suy nghĩ của mình: “Bây giờ Mị
tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái
tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Ngay cả Mị cũng “tưởng mình cũng là
con trâu, mình cũng là con ngựa”, câu văn chất chứa nỗi xót xa cùng cực của Tô Hoài dành cho nhân vật
của mình. Thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận “trâu ngựa”. Con trâu con ngựa suốt tháng suốt năm
phải làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn ngủi. Thủ pháp vật hóa đã làm cho
cuộc đời Mị hiện lên thật bi đát và chẳng còn ra con người nữa.
+ Từ hồi về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị quanh quẩn trên nương “bẻ bắp”, “hái củi”,
“bung ngô”, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Đoạn văn sử dụng biện pháp liệt
kê, đưa ra hàng loạt những công việc nặng nhọc mà một thân phận nô lệ như Mị phải làm: hái thuốc phiện,
giặt đay, xe đay, đi nương bẻ bắp, hái củi, bung ngô… Thời gian làm việc, cũng như cuộc đời làm dâu gạt
nợ của Mị như một vòng tròn khép kín, cứ lặp đi lặp lại, không hy vọng gì sự đổi thay: “những việc giống
nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”. Công việc của Mị nặng nhọc đến nỗi một lúc hai
công việc, hơn cả trâu ngựa: “Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để
tước sợi”. “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này
vùi vào việc cả đêm cả ngày” Mị bây giờ đã trở thành một cỗ máy vô thức, bị động trong guồng quay của
kiếp nô lệ.
- Cuộc đời làm dâu nhà thống lý đâu chỉ bị bóc lột sức lao động, Mị còn bị đè nén về tinh thần. Không
gian Mị ở chính là ngục thất tinh thần giam hãm cuộc đời và tuổi xuân của Mị khiến lý trí và trái tim Mị bị
đóng băng, nguội lạnh.
+ Mị không nói, hay Mị cũng chẳng buồn và chẳng muốn nói, bởi cuộc sống hiện tại của Mị đâu còn
niềm vui hay điều gì đáng để quan tâm! Một lần nữa, thủ pháp vật hóa lại được Tô Hoài sử dụng. Từ láy
“lùi lũi” là một từ láy vừa gợi hình vừa gợi cảm, gợi tả dáng vẻ bần thần, lặng lẽ cô đơn của Mị. Ta càng
thấy quặn lòng và thương cho Mị hơn bao giờ hết. Nhà văn Tô Hoài đã khơi lên ở độc giả niềm trắc ẩn, khát
vọng khôi phục và bảo vệ cái cao cả, cái tốt đẹp của cuộc đời.
21
+ Không chỉ hiện lên với sự vô thức trong công việc mà ngay cả ở trong thói quen sinh hoạt cũng như
thế. Mị lầm lũi xung quanh căn buồng của Mị, nơi mà “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn
tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Căn phòng hiện lên với
sự u ám, tối tăm, ánh sáng như bị triệt tiêu. Ở trong ấy, con người dường như bị cuống vào trạng thái luẩn
quẩn, vô vọng, mất hết ý niệm về thời gian và không giaan. Căn phòng ấy dường như là một nhà tù, ngục
thất tinh thần giam hãm cuộc sống và khóa chặt tuổi xuân của Mị. Ở trong ấy, Mị chẳng khác nào một tù
nhân phải chịu án tù chung thân. Nhà thống lí Pá Tra đúng là không có chỗ cho lương tri và tình người.
+ Ở bên ngoài căn phòng ấy là không gian mênh mông của núi rừng Tây Bắc, là sự tự do; còn bên
trong là sự tù túng, chật hẹp và giam hãm. Mị “trông ra đến bao giờ chết thì thôi”. Dường như là Mị đang
hướng về sự sống, về phía có ánh sáng le lói, yếu ớt với mong muốn vượt ngục hay chăng? Câu văn như vẽ
ra ranh giới giữa sự sống và cái chết mà con người ta muốn giải thoát lại không thể thoát giải, đành phải bất
lực và vô vọng. Sự trông ra và ngóng vọng của Mị như để lại một khoảng lặng trong tâm trí người đọc. Liệu
rằng số phận của Mị sẽ mãi như vậy, hay một lúc nào đó Mị sẽ trỗi dậy tháo cũi sổ lồng để giải thoát cho
bản thân mình? Đoạn trích khép lại mà mở ra bao nhiêu suy ngẫm và trăn trở trong lòng người đọc.
3. Đánh giá
- Nội dung: Tô Hoài đã mạnh mẽ tố cáo và lên án tội ác của bọn chúa đất miền núi đã khiến người nông
dân nghèo lâm vào cảnh khổ cực, sống cũng không bằng chết. Đồng thời, nhà văn còn bày tỏ niềm cảm
thông, xót xa và thương cảm cho số phận của họ. Đó chính là tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài.
- Nghệ thuật: Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, ngôn ngữ kể chuyện chuyện linh hoạt, những câu văn giàu
cảm xúc, giàu chất thơ, đậm chất phong vị miền núi. Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, đặt nhân
vật vào kịch tính để bộc lộ những tính cách điển hình. Miêu tả tâm lý nhân vật xuất sắc, đạt đến “phép biện
chứng tâm hồn”. Dựng cảnh và tả cảnh sinh động, chân thực, đặc sắc, đặc biệt là cảnh thiên nhiên.
Kết bài :
Câu chuyện của Mị nói lên cuộc sống tối tăm, cùng cực của những con người lao động vùng Tây Bắc.
Từ góc quay rất hẹp, từ một chi tiết của cuộc sống thường nhật, Tô Hoài dã khát quát bức tranh rộng lớn của
Tây Bắc với những gam màu đen tối, đau thương. Ở nơi đó, lũ chúa đất, thực dân luôn đè đầu cưỡi cổ, đọa
đày cả thể xác và tinh thần của những người lao động nghèo. Dưới ách áp bức tầng tầng lớp lớp đó, những
người nghèo chỉ biết cúi đầu cam chịu nhẫn nhục thân phận đau đớn. Giọng kể tưởng như bình thản, lạnh
lùng mà tiếng nói tố cáo các thế lực tàn bạo thì mạnh mẽ, quyết liệt. Không những vậy, qua đoạn trích,
người đọc còn cảm nhận được tấm lòng cảm thông, thương xót của nhà văn dành cho Mị nói riêng và những
người dân lao động nghèo Tây Bắc nói chung. Đó là tiền đề để nhà văn ca ngợi, khẳng định sức sống, sự
phản kháng dữ dội của họ ở phần sau của truyện. Giá trị hiện thực cũng như nhân đạo của tác phẩm là ở chỗ
đấy.

Đề 3: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích sau
Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho.Trẻ em đi hái bí
đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều quanh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài, người ta thành lệ cứ ăn Tết khi
gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúcmưa xuân xuống thì đi vỡ nương
mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.
Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm
sặc sỡ (…). Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng
ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của
người đang thổi.
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm
sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy.
Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp
đồng vẫn cònnhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa.
Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy
nhìn người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi
bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc
lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.
Mở bài:
22
Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, ông là một cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam.
Tô Hoài có vồn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần
thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình, lay động lòng người. “Vợ
chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện nói về cuộc sống tối tăm, khổ nhục và
quá trình tự vùng lên đấu tranh kẻ thù, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi cao Tây Bắc dưới ách
thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mỵ có sức ám ảnh
đối với người đọc. Đoạn văn trên miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị khi những đêm tình mùa xuân tới.
Thân bài:
1. Giới thiệu chung
- Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà
văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thăm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập
“Truyện Tây Bắc”.
- Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Vì
món nợ truyền kiếp của gia đình, Mị trở thành con dâu gạt nợ - thực chất là nô lệ cho nhà thống lý. Lúc đầu,
suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không
thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lý. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi
bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong
buồng tối. A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị
đánh đập, phạt vạ rồi trở thành nô lệ. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên
A Phủ đã bị thống lý trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng
thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài
tới Phiềng Sa và được giác ngộ cách mạng.
2. Nội dung chính
- Mị trước khi về làm dâu nhà thống lý vốn là cô gái vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, hiếu thảo. Với những
phẩm chất tốt đẹp ấy, Mị xứng đáng được hưởng hạnh phúc và hoàn toàn có khả năng đem lại hạnh phúc
cho người khác. Nhưng trong một xã hội bất công vô nhân đạo thì càng cao quý bao nhiêu, người ta lại càng
bị dập vùi một cách phũ phàng. Giai cấp thống trị, cụ thể là nhà thống lý Pá Tra, đã dùng cường quyền và
thần quyền đè nén, áp chế sự phản kháng của Mị. Tưởng chừng như sức sống của Mị đã bị tê liệt. Nhưng
không, trong Mị vẫn âm ỉ một sức sống tiềm tàng chỉ chờ cơ hội là bùng cháy. Và cơ hội ấy đã đến vào một
đêm mùa xuân, ngọn gió xuân đã thổi bùng ngọn lửa cháy từ lâu trong Mị.
- Sức sống tiềm tàng: là sức sống nội tại bên trong, có sẵn ở bên trong nhưng bị che lấp. Nó như một
hòn than âm ỉ cháy trong lớp tro nguội lạnh và khi có điều kiện thì sẽ bùng cháy. Mị giống như cây hoa đào
hoa mận Tây Bắc: trước mùa xuân thì gầy guộc mong manh nhưng lại ẩn chứa một sức sống mãnh liệt ở bên
trong để chờ ngày mùa xuân mà bung nở màu hoa đẹp nhất. Sức sống của Mị trỗi dậy dưới sự tác động của
nhiều nguyên do.
* Trước tiên là do phong cảnh thiên nhiên đầy thơ mộng của Tây Bắc. Những hình ảnh, màu sắc nên
thơ lay động lòng người: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các
nhà kho”; “Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa”; “Hồng Ngài năm
ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”.
- Tiếp đến là những phong tục tập quán và không khí chuẩn bị cho những ngày xuân. Những chiếc váy
hoa rực rỡ sắc màu của cô gái H’Mông trên mỏm đá “những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe
như con bướm sặc sỡ”. Không khí ngày xuân mang dấu ấn đặc trưng đậm hương vị núi rừng Tây Bắc: mùa
xuân đến trai gái tìm nhau để tỏ tình, họ tụ tập “đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy”... Tất cả
đều mê mải, say sưa trong tiếng sáo dìu dặt, tình tứ...
- Âm thanh: tiếng sáo “thiết tha, bổi hổi” gọi bạn tình réo rắt là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân,
lặp đi lặp lại như một bài ca về sức sống bất diệt của con người.
- Một nguyên nhân nữa tác động đến sức sống của Mị, đó là men rượu: “Ngày tết, Mị cũng uống rượu.
Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Đó là cách uống của người thưởng xuân? Chắc chắn không phải
vậy. Uống rượu thưởng xuân phải uống từ từ, nhấm nhá, nhấm nháp để tận hưởng và đón nhận hương vị
xuân. Đó là cách uống của người khát rượu, thèm rượu? Không đúng, đã từ lâu Mị chẳng thèm khát gì. Tô
Hoài viết: “Ngày Tết Mị cũng uống rượu”, mọi người uống, Mị cũng uống. Mị uống theo thói quen ngày
xuân của người Mèo. Cách uống ừng ực từng bát ấy giống như giống như Mị uống cho bõ tức, cho nuốt hận
tủi hờn.
→ Tất cả đều gợi nên không khí đón xuân háo hức ở Hồng Ngài. Đúng lúc gió rét rất dữ dội, thế nhưng
bất chấp cái khắc nghiệt của thời tiết, không khí đón xuân ở Hồng Ngài vẫn rất náo nức, tưng bừng. Cả thiên
nhiên và con người đều bừng lên sức sống.

23
* Tâm trạng Mị: những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh trở lại. Có
thể nói, tâm trạng và hành động của Mị đã được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế và xúc động.
- Dưới tác động của cảnh sắc mùa xuân, những sinh hoạt ngày Tết, trong men rượu, đặc biệt là âm
thanh tiếng sáo có công nhất trong việc dìu hồn Mị từ cõi quên đến cõi nhớ: “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi
bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc
lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị ”.
Tiếng sáo được miêu tả chi tiết, từ xa tới gần, từ hiện thực trôi vào quá khứ: ngoài đầu núi – đầu làng – tiếng
sáo Mị thổi ngày trước….
- Nhà văn cũng rất chú ý miêu tả tiếng sáo. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người
H’Mông, thay họ nói lên tình cảm trong lòng “Anh ném pao em không bắt. Em không yêu quả pao rơi rồi”
Đó là phương tiện giao duyên hữu hiệu của các chàng trai dối với cô gái trong bản làng, là cách tỏ tình đặc
biệt của người con trai miền núi. Toàn bộ lời bài hát chính là lời ca ngợi tình yêu trai gái tự do – cái mà Mị
đã mất đi do bị cướp về làm dâu gạt nợ.
- Nghe tiếng sáo mùa xuân vọng về, lòng Mị “thiết tha, bổi hổi”. Tiếng sáo giao duyên ấy đã dẫn lối
tâm hồn Mị trở về với kí ức của những ngày tự do xưa “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi...”. Điều này chứng tỏ
Mị đã ý thức được về sự tồn tại, về cuộc đời của mình. Mị không còn sống một cách bất động, vô hồn ở nhà
thống lý. Mị đã khẳng định sức sống mãnh liệt đang trỗi dậy trong tâm hồn.
3. Nghệ thuật
- Nghệ thuật: Dựng cảnh và tả cảnh sinh động, chân thực, đặc sắc, đặc biệt là cảnh thiên nhiên. Nghệ
thuật trần thuật hấp dẫn, ngôn ngữ kể chuyện chuyện linh hoạt, những câu văn giàu cảm xúc, giàu chất thơ,
đậm chất phong vị miền núi qua việc miêu tả thiên nhiên, phong tục, những rung động sâu xa trong tâm hồn
nhân vật... Đặc biệt ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật xuất sắc, đạt đến “phép biện chứng tâm hồn”. Nhà văn
đã đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để Mị tự độc thoại nội tâm và khẳng định thuyết phục về sức
sống tiềm tàng mãnh liệt. Nhà văn như hóa thân vào nhân vật để tạo nên “tiếng nói bên trong” thuyết phục,
khách quan.
Kết bài:
Đoạn trích trên thấm đẫm tính nhân văn cao cả. Qua sự trỗi dậy của nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân, Tô Hoài khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy
bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng
sống tự do và hạnh phúc. Giá trị nhân đạo sâu sắc ấy đã mang đến cho người đọc những ấn tượng đậm nét
và mang đến sức sống lâu bền cho tác phẩm. Đoạn văn không chỉ góp phần tô đậm tính cách nhân vật mà
còn thể hiện một cách xúc động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.

Đề 4: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích sau
Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy
nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng
sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị
uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi
theo Mị. Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết , Mị vẫn ngồi trơ một mình
giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng. Chẳng
năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái của
sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những
đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi
ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón
trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà
tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…
A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn
trắng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó còn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ.
Cũng chẳng bao giờ Mị nói gì.
Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ông mỡ, sắn một miếng, bỏ thêm voà đĩa đèn cho
sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc. Mị với
tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy
Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
24
Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói tay Mị. Nó xách cả
một thúng sợi đay ra trới đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột. Mị không cúi,
không nghiêng được đầu nữa. Trói xong. A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra
khép cửa buồng lại.
Trong bóng tối, Mị đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe
thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt
pao nào!” Mị vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe
tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng
con ngựa.
Mở bài:
Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, ông là một cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam.
Tô Hoài có vồn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần
thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình, lay động lòng người. “Vợ
chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện nói về cuộc sống tối tăm, khổ nhục và
quá trình tự vùng lên đấu tranh kẻ thù, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi cao Tây Bắc dưới ách
thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mỵ có sức ám ảnh
đối với người đọc. Đoạn văn trên miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị khi những đêm tình mùa xuân tới.
Thân bài:
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác (xem đề 1).
- Tóm tắt tác phẩm (xem đề 1).
2. Nội dung chính
- Mị trước khi về làm dâu nhà thống lý vốn là cô gái vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, hiếu thảo. Với những
phẩm chất tốt đẹp ấy, Mị xứng đáng được hưởng hạnh phúc và hoàn toàn có khả năng đem lại hạnh phúc
cho người khác. Nhưng trong một xã hội bất công vô nhân đạo thì càng cao quý bao nhiêu, người ta lại càng
bị dập vùi một cách phũ phàng. Giai cấp thống trị, cụ thể là nhà thống lý Pá Tra, đã dùng cường quyền và
thần quyền đè nén, áp chế sự phản kháng của Mị. Tưởng chừng như sức sống của Mị đã bị tê liệt. Nhưng
không, trong Mị vẫn âm ỉ một sức sống tiềm tàng chỉ chờ cơ hội là bùng cháy. Và cơ hội ấy đã đến vào một
đêm mùa xuân, ngọn gió xuân đã thổi bùng ngọn lửa cháy từ lâu trong Mị.
- Sức sống tiềm tàng: là sức sống nội tại bên trong, có sẵn ở bên trong nhưng bị che lấp. Nó như một
hòn than âm ỉ cháy trong lớp tro nguội lạnh và khi có điều kiện thì sẽ bùng cháy. Mị giống như cây hoa đào
hoa mận Tây Bắc: trước mùa xuân thì gầy guộc mong manh nhưng lại ẩn chứa một sức sống mãnh liệt ở bên
trong để chờ ngày mùa xuân mà bung nở màu hoa đẹp nhất.
* Sức sống của Mị trỗi dậy dưới sự tác động của nhiều nguyên do: phong cảnh thiên nhiên đầy thơ
mộng của Tây Bắc vào mùa xuân, những phong tục tập quán và không khí chuẩn bị cho những ngày tết.
- Một nguyên nhân nữa tác động đến sức sống của Mị, đó là men rượu: “Ngày tết, Mị cũng uống rượu.
Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Đó là cách uống của người thưởng xuân? Chắc chắn không phải
vậy. Uống rượu thưởng xuân phải uống từ từ, nhấm nhá, nhấm nháp để tận hưởng và đón nhận hương vị
xuân. Đó là cách uống của người khát rượu, thèm rượu? Không đúng, đã từ lâu Mị chẳng thèm khát gì. Tô
Hoài viết: “Ngày Tết Mị cũng uống rượu”, mọi người uống, Mị cũng uống. Mị uống theo thói quen ngày
xuân của người Mèo. Cách uống ừng ực từng bát ấy giống như giống như Mị uống cho bõ tức, cho nuốt hận
tủi hờn.
- Âm thanh: tiếng sáo “thiết tha, bổi hổi” gọi bạn tình réo rắt là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân,
lặp đi lặp lại như một bài ca về sức sống bất diệt của con người.
* Tâm trạng Mị: những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh trở lại. Có
thể nói, tâm trạng và hành động của Mị đã được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế và xúc động.
- Dưới tác động của cảnh sắc mùa xuân, những sinh hoạt ngày Tết, trong men rượu, đặc biệt là âm
thanh tiếng sáo có công nhất trong việc dìu hồn Mị từ cõi quên đến cõi nhớ: “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi
bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc
lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị ”.
Tiếng sáo được miêu tả chi tiết, từ xa tới gần, từ hiện thực trôi vào quá khứ: ngoài đầu núi – đầu làng – tiếng
sáo Mị thổi ngày trước….
- Nhà văn cũng rất chú ý miêu tả tiếng sáo. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người
H’Mông, thay họ nói lên tình cảm trong lòng “Anh ném pao em không bắt. Em không yêu quả pao rơi rồi”
Đó là phương tiện giao duyên hữu hiệu của các chàng trai dối với cô gái trong bản làng, là cách tỏ tình đặc
biệt của người con trai miền núi. Toàn bộ lời bài hát chính là lời ca ngợi tình yêu trai gái tự do – cái mà Mị
đã mất đi do bị cướp về làm dâu gạt nợ.
25
- Nghe tiếng sáo mùa xuân vọng về, lòng Mị “thiết tha, bổi hổi”. Tiếng sáo giao duyên ấy đã dẫn lối
tâm hồn Mị trở về với kí ức của những ngày tự do xưa “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi...”. Điều này chứng tỏ
Mị đã ý thức được về sự tồn tại, về cuộc đời của mình. Mị không còn sống một cách bất động, vô hồn ở nhà
thống lý. Mị đã khẳng định sức sống mãnh liệt đang trỗi dậy trong tâm hồn.
- Tâm trạng của Mị lúc này có sự tương tranh giữa một bên là sức sống tiềm tàng, một bên là ý thức về
thân phận nô lệ hiện hữu:
+ Sức sống tiềm tàng: cái năng nổ, khát khao, náo nức về sự tái sinh: “lòng Mị đang sống về ngày
trước” hay “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước ”, ý
thức và ám ảnh về tuổi xuân lớn dần lên: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.
+ Ý thức về thân phận hiện hữu: ở Mị vẫn còn lo lắng, day dứt, tủi hờn về thân phận: lòng phơi phới
mà vẫn theo quán tính, Mị bước vào buồng, “ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trắng
trắng”. Hình ảnh cái buồng kín chỉ có một cửa sổ, “một lỗ vuông bằng bàn tay” cứ trở đi trở lại trong tác
phẩm. Nó trở thành một nỗi ám ảnh, day dứt người đọc.
- Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. “Bao nhiêu người có chồng cũng
đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử và Mị lại không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Không thể
cam chịu mãi kiếp nô lệ, kiếp làm dâu gạt nợ nên Mị đã muốn ăn lá ngón cho chết ngay. Mị muốn chết để
không phải đối diện với thực tại, không phải nhớ lại quá khứ cùng với những ước mơ khao khát của mình.
Sau bao nhiêu năm, Mị nhận thức được kiếp sống đau đớn, nô lệ, thậm chí cô lại muốn chết để thoát khỏi
cuộc sống đầy đọa, đau khổ ở nhà thống lí Pá Tra. Hiện tại Mị đau đớn ê chề, tủi nhục, Mị muốn chết “Nếu
có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Mị muốn phản
kháng lại hoàn cảnh, không chấp nhận cuộc sống trâu ngựa này nữa. Đó là khi sức sống tiềm tàng đã được
đánh thức.
- Tiếng sáo của tình yêu tuổi trẻ lại thôi thúc Mị: “Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài
đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…”
Tiếng sáo dìu hồn Mị theo những đám chơi. Khát vọng sống mãnh liệt được đẩy lên đến cao độ bởi sự
trỗi dậy của sức sống tiềm tàng.Tâm hồn Mị diễn biến rất phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn. Mị
đang sống trong nghịch lý giữa thân phận con dâu gạt nợ và niềm vui phơi phới muốn đi chơi Tết.
- Như người mộng du, vượt thoát hoàn cảnh để tìm lại chính mình. Mị đến góc nhà, tay lấy ống mỡ,
xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng… Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong
vách… Mị rút thêm cái áo. Mị làm tất cả, thật bình thản và quyết liệt như ngày xưa, khi trong đầu Mị đang
rập rờn tiếng sáo.
- Ý định giải thoát của Mị không thành: Trông thấy Mị, A Sử biết rằng Mị muốn đi chơi. Hắn thẳng tay
vùi dập tàn nhẫn sự trở về đó: A Sử bước lại, nắm lấy Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một
thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống mặt, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị
không cúi, không nghiêng đầu được nữa…
- Tuy nhiên những cánh cửa buồng khép chặt, những làn dây trói chặt không sao chói được tâm hồn
Mị. Mọi vũ lực bạo tàn của A Sử đều trở nên vô nghĩa. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết
mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi, những đám chơi. Rồi
Mị vùng bước đi, mạnh mẽ, quyết liệt, sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do đã trỗi dậy mãnh liệt. Sức sống
ấy cứ trào ra ngoài ra sợi dây trói. Nhưng rồi Mị chợt bừng tỉnh, những làn dây chói cứa vào ra thịt đau dứt,
xót xa, đau đớn đến tê tái. Tiếng sáo tha thiết, dìu dặt tắt lịm, chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vách nhức nhối ai
oán. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
3. Nghệ thuật
- Nghệ thuật: Dựng cảnh và tả cảnh sinh động, chân thực, đặc sắc, đặc biệt là cảnh thiên nhiên. Nghệ
thuật trần thuật hấp dẫn, ngôn ngữ kể chuyện chuyện linh hoạt, những câu văn giàu cảm xúc, giàu chất thơ,
đậm chất phong vị miền núi qua việc miêu tả thiên nhiên, phong tục, những rung động sâu xa trong tâm hồn
nhân vật... Đặc biệt ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật xuất sắc, đạt đến “phép biện chứng tâm hồn”. Nhà văn
đã đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để Mị tự độc thoại nội tâm và khẳng định thuyết phục về sức
sống tiềm tàng mãnh liệt. Nhà văn như hóa thân vào nhân vật để tạo nên “tiếng nói bên trong” thuyết phục,
khách quan.
Kết bài:
Đoạn trích trên thấm đẫm tính nhân văn cao cả. Qua sự trỗi dậy của nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân, Tô Hoài khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy
bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng
sống tự do và hạnh phúc. Giá trị nhân đạo sâu sắc ấy đã mang đến cho người đọc những ấn tượng đậm nét
26
và mang đến sức sống lâu bền cho tác phẩm. Đoạn văn không chỉ góp phần tô đậm tính cách nhân vật mà
còn thể hiện một cách xúc động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.

Đề 5
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích sau:
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo.
Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu ra
dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm.Mỗi đêm, nghe
tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy
mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa,
hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với
ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp.Nhưng đêm sau
Mỵ vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông
sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại.
Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia.
Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng
người ta đến chết,nó bắt mình chết cũng thôi,nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà
này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia
việc gì mà phải chết. A Phủ ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Mở bài :
Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, ông là một cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam. Tô
Hoài có vồn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần
thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình, lay động lòng người. “Vợ
chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện nói về cuộc sống tối tăm, khổ nhục và
quá trình tự vùng lên đấu tranh kẻ thù, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi cao Tây Bắc dưới ách
thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mỵ có sức ám ảnh
đối với người đọc. Đoạn văn trên miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị khi những đêm mùa đông trên núi cao
dài và buồn.
Thân bài :
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác (xem đề 1).
- Tóm tắt tác phẩm (xem đề 1).
2. Nội dung chính
- Mị trước khi về làm dâu nhà thống lý vốn là cô gái vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, hiếu thảo. Với những
phẩm chất tốt đẹp ấy, Mị xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Nhưng trong một xã hội bất công vô nhân đạo
thì càng cao quý bao nhiêu, người ta lại càng bị dập vùi một cách phũ phàng. Giai cấp thống trị, cụ thể là
nhà thống lý Pá Tra, đã dùng cường quyền và thần quyền đè nén, áp chế sự phản kháng của Mị. Đặc biệt sau
đêm tình mùa xuân, sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy nhưng bị A Sử trói đứng tàn nhẫn, tưởng chừng như
sức sống ấy không còn cơ hội cựa quậy. Nhưng không! Trong một đêm mùa đông, Mị đã gặp A Phủ - một
người có số phận tương đồng, cũng từ một con người tự do bị giai cấp thống trị với chiêu thức cũ biến thành
nô lệ – sức sống tiềm tàng của Mị như được tiếp sức và họ đã cùng nhau vùng dậy và bỏ trốn.
- Hoàn cảnh A Phủ lúc này cũng phải ở nhà thống lí Pá Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này sang
đêm khác, ngày này sang ngày kia, và có thề bị trói cho đến chết trong thời tiết khắc nghiệt, đói khát.
* Diễn biến tâm lí Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ
- Mị có thói quen thức sưởi lửa suốt những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. “ Nếu không có bếp lửa
kia thì Mị đến chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần ”. Từ chỉ thời
gian “mỗi đêm, không biết bao nhiêu lần”: thói quen lặp đi lặp lại như một bản năng, ăn vào vô thức. Đó là
bản năng tìm tới hơi ấm, ánh sáng. “Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa”: điệp từ “chỉ” diễn tả nét nghĩa tồn
tại ít ỏi. Trong văn hóa nhân loại, ngọn lửa thường là vật biểu trưng cho ánh sáng, sự sống. Ở đây, ngọn lửa
ngầm ẩn sự hiện hữu tuy tối thiểu nhưng dai dẳng của sức sống trong Mị.
* Diễn biến tâm lí Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ
- Lúc đầu, chứng kiến A Phủ bị trói, Mị có trạng thái thản nhiên đáng sợ: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng
đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi”, “vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Ba chữ “cũng thế thôi” tách
27
riêng thành một nhịp, lời văn nửa trực tiếp đã tái hiện chính xác thái độ lạnh lùng của nhân vật. Nghĩa là cô
không chỉ khước từ quyền sống của chính mình mà còn không quan tâm đến cả sự sống của đồng loại. Có
lúc A Sử đi chơi đêm về, ngứa tay ngứa chân, “đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp”, nhưng đêm sau Mị vẫn
tiếp tục ra sưởi lửa như đêm trước. Bởi lẽ ngọn lửa đã là người bạn, là cứu cánh của Mị - “Mị chỉ biết chỉ
còn ở với ngọn lửa”. Đó là thái độ thản nhiên đáng sợ vì không có tình đồng loại.
- Nguyên nhân Mị thản nhiên, lạnh lùng: Một là, cảnh người bị trói đến chết không phải là hiếm hoi ở nhà
thống lý. Hai là, cuộc sống bao năm làm con rùa lùi lũi trong xó cửa đã tạo cho Mị một sức ì, một quán tính
cam chịu, nhẫn nhục quá lớn. Ba là, nỗi đau của Mị quá lớn, Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác
lẫn tinh thần nên cô đã trở nên chai sần vô cảm, mất khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ khốn cùng
của người khác. Mị chẳng khác gì “tảng đá”.
- Khi chứng kiến những dòng nước mắt của A Phủ: Đó là lúc thời gian đã khuya, nhà đã ngủ yên, Mị trở dậy
thổi lửa. Ánh lửa bùng lên, Mị lé mắt trông sang thì chứng kiến “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại” của A Phủ đã tác động mạnh đến tâm lý của Mị.
+ Đầu tiên, giọt nước mắt ấy đưa cô từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ lại đêm năm trước mình cũng bị
A Sử trói đứng như vậy, nước mắt chảy xuống mà không thể lau đi được. Từ ký ức đau buồn ấy, cảm xúc
trở về với Mị. Cô thấy thương thân mình: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết
cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”.
+ Từ thương thân, Mị nhận ra tội ác của bọn chúng một cách rõ ràng: “Chúng nó thật độc ác”. Điều này là
một bước tiến trong nhận thức và tình cảm của nhân vật. Mị đã thể hiện thái độ phản kháng, không còn chấp
nhận sự áp chế của thần quyền và cường quyền nữa.
+ Đầu tiên, giọt nước mắt ấy đưa cô từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ lại đêm năm trước mình cũng bị
A Sử trói đứng như vậy, nước mắt chảy xuống mà không thể lau đi được. Từ ký ức đau buồn ấy, cảm xúc
trở về với Mị. Cô thấy thương thân mình: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết
cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”.
+ Mị nhận thấy sự khác biệt giữa mình và A Phủ. Vì tin là mình đã bị ma nhà thống lý Pá Tra nhận mặt nên
cô ý thức được sự ràng buộc của đời mình, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Còn với A Phủ, Mị
nhận rõ sự bất công: “Người kia việc gì mà phải chết thế”. Ý thức rõ được hậu quả khi một ngày kia A Phủ
trốn được rồi thì mình sẽ bị trói và chết bên cái cọc ấy nhưng Mị không thấy sợ. Dù không nói ra một cách
rõ ràng nhưng những suy nghĩ của Mị đã cho thấy cô chấp nhận cái chết về phía mình để tìm cách cho A
Phủ được sống. Đến đây có thể thấy lòng thương người đã lớn tới mức Mị quên đi sự sống của bản thân đế
đổi lấy sự sống cho người khác.Tâm lý này đã ánh lên vẻ đẹp cao thượng vị tha trong tâm hồn Mị.
- Đánh giá nội dung:
+ Qua diễn biến tâm lý của nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định: bạo lực không thể đè bẹp, hủy
diệt khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Chỉ có điều là để có được sự sống, tự do, hạnh phúc, con
người đã phải trải qua nhiều tủi nhục, đắng cay.
+ Tái hiện nhân vật Mị trong thế cùng A Phủ đối đầu với bọn lang đạo, địa chủ miền núi Tây Bắc, Tô Hoài
đã lên án giai cấp thống trị bất nhân được thực dân Pháp bảo trợ đã chà đạp lên quyến sống, quyền hạnh
phúc của những người dân lương thiện. Đồng thời, Tô Hoài cũng đã đồng cảm, xót thương sâu sắc trước
những nỗi đau tê buốt, xé lòng; đặc biệt là ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp, sức sống diệu kỳ của những
kiếp nông nô lầm than, tủi nhục - trong mọi cảnh ngộ, họ luôn luôn tìm cách vươn lên bằng khát vọng tự do,
hạnh phúc, bằng sức mạnh yêu thương và sự dẫn đường chỉ lối của cách mạng sau này.
3. Nghệ thuật
Dựng cảnh và tả cảnh sinh động, chân thực, đặc sắc. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, ngôn ngữ kể chuyện
chuyện linh hoạt, những câu văn giàu cảm xúc, giàu chất thơ, đậm chất phong vị miền núi qua việc miêu tả
thiên nhiên, phong tục, những rung động sâu xa trong tâm hồn nhân vật... Đặc biệt ngòi bút miêu tả tâm lý
nhân vật xuất sắc, đạt đến “phép biện chứng tâm hồn”. Nhà văn đã đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật
để Mị tự độc thoại nội tâm và khẳng định thuyết phục về sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Nhà văn như hóa
thân vào nhân vật để tạo nên “tiếng nói bên trong” thuyết phục, khách quan.
Kết bài:
Đoạn trích trên thấm đẫm tính nhân văn cao cả. Qua sự trỗi dậy của nhân vật Mị trong đêm mùa đông dài và
buồn trên núi cao, Tô Hoài khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh
phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi
khát vọng sống tự do và hạnh phúc. Giá trị nhân đạo sâu sắc ấy đã mang đến cho người đọc những ấn tượng
đậm nét và mang đến sức sống lâu bền cho tác phẩm. Đoạn văn không chỉ góp phần tô đậm tính cách nhân
vật mà còn thể hiện một cách xúc động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A
Phủ.

28
Đề 6
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đoạn trích sau:
Ðám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình. Mị tưởng tượng
như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mị đã cởi trói
cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mị cũng không thấy
sợ...Trong nhà tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng như A Phủ biết có
người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi như rắn thở, không
biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào
được một tiếng "Ði ngay..." rồi Mị nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có
thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vung lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối.Trời tối lắm. Mị vẫn băng
đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc. Mị thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại vừa thở vừa nói:
- Ở đây chết mất,
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
Mở bài :
Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, ông là một cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam.
Tô Hoài có vồn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần
thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình, lay động lòng người. “Vợ
chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện nói về cuộc sống tối tăm, khổ nhục và
quá trình tự vùng lên đấu tranh kẻ thù, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi cao Tây Bắc dưới ách
thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mỵ có sức ám ảnh
đối với người đọc. Đoạn văn trên miêu tả diễn biến tâm trạng của và hành động của Mị khi cởi trói cho A
Phủ.
Thân bài:
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác (xem đề 1).
- Tóm tắt tác phẩm (xem đề 1).
2. Nội dung chính
- Mị trước khi về làm dâu nhà thống lý vốn là cô gái vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, hiếu thảo. Với những
phẩm chất tốt đẹp ấy, Mị xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Nhưng trong một xã hội bất công vô nhân đạo
thì càng cao quý bao nhiêu, người ta lại càng bị dập vùi một cách phũ phàng. Giai cấp thống trị, cụ thể là
nhà thống lý Pá Tra, đã dùng cường quyền và thần quyền đè nén, áp chế sự phản kháng của Mị. Đặc biệt sau
đêm tình mùa xuân, sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy nhưng bị A Sử trói đứng tàn nhẫn, tưởng chừng như
sức sống ấy không còn cơ hội cựa quậy. Nhưng không! Trong một đêm mùa đông, Mị đã gặp A Phủ - một
người có số phận tương đồng, cũng từ một con người tự do bị giai cấp thống trị với chiêu thức cũ biến thành
nô lệ – sức sống tiềm tàng của Mị như được tiếp sức và họ đã cùng nhau vùng dậy và bỏ trốn.
- Hoàn cảnh A Phủ lúc này cũng phải ở nhà thống lý Pá Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này
sang đêm khác, ngày này sang ngày kia, và có thề bị trói cho đến chết trong thời tiết khắc nghiệt, đói khát.
* Diễn biến tâm lý của Mị trước khi cởi trói cho A Phủ
- Đêm mùa đông đến, Mị thổi lửa hơ tay, kể cả lúc bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản
nhiên ra sưởi lửa như đêm trước. Bởi lẽ ngọn lửa đã là người bạn, là cứu cánh của Mị - “Mị chỉ biết chỉ còn
ở với ngọn lửa”.
- Ban đầu, trước cảnh A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm bởi cảnh trói người đến chết như
thế ở nhà thống lí là chuyện bình thường. Vả lại, có lẽ “ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen khổ rồi” nên cái
khổ của người khác cũng thế thôi. Có nghĩa nỗi đau của Mị quá lớn nên mất đi sự cảm thông cho người
khác. Nhưng khi chứng kiến dòng nước mắt của A Phủ, đã đánh thức quá khứ đau đớn của mình, Mị thấy
thương xót cho mình. Từ nỗi thương mình, Mị chuyển qua nỗi thương người. Mị nhận ra sự độc ác và bất
công của cha con thống lý.
- “Đám than đã vạc hẳn lửa” đó là thời điểm đã sắp về sáng nhưng Mị không tiếp tục thổi lửa và cũng
chưa đứng lên. Trong nội tâm Mị đang vận động: “Mị nhớ lại đời mình. Mị tưởng tượng như có thể một lúc
nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải
trói thay vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy”. Lúc này Mị đã có đủ thời gian để suy nghĩ và nhận thức rõ hậu
quả của hành động cứu A Phủ. Nhưng “trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ”. Dù không nói
29
ra một cách rõ ràng nhưng những suy nghĩ của Mị đã cho thấy cô chấp nhận cái chết về phía mình để tìm
cách cho A Phủ được sống. Đến đây có thể thấy lòng thương người đã lớn tới mức Mị quên đi sự sống của
bản thân đế đổi lấy sự sống cho người khác.Tâm lý này đã ánh lên vẻ đẹp cao thượng vị tha trong tâm hồn
Mị.
- Từ suy nghĩ và nhận thức đã dẫn đến hành động cởi trói cho A Phủ của Mị:
+ Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng như A Phủ biết có người bước lại... “ Mị
rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Mị hành động một cách thận trọng “rón rén” nhưng dứt khoát và
táo bạo “rút con dao nhỏ,... cắt dây mây”. Trong lúc hành động, Mị chỉ hướng vào A Phủ mà không hề nghĩ
đến mình: “A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng như A Phủ biết có người bước lại...”. Hành động xong,
Mị chỉ thì thào một tiếng giục A Phủ: “Đi ngay”.
+ Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị bắt đầu hiện thực hóa cuộc lội ngược dòng ý thức cá nhân. Sự
sống và cái chết gần trong tấc gang, buộc Mị phải thực sự đối đầu với sự lựa chọn. Hoặc là trở thành cái xác
thay thế cho A Phủ, hoặc là mạo hiểm làm một cuộc giải thoát “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn đứng
riêng ra một dòng, là những giây phút quyết định cả cuộc đời và số phận của Mị. Đó như là một bản lề khép
mở hai phần đời của Mị: nô lệ - tự do, sống - chết, bóng tối - ánh sáng. Cuối cùng, sức sống tiềm tàng và
khao khát tự do đã chiến thắng “Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Bước chân
của Mị bây giờ không có sự đàn áp nào của cường quyền, thần quyền ngăn cản nổi “Ở đây thì chết mất”.
Qua hành động chạy theo A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc nhất, thể
hiện tiếng nói cứu lấy con người từ trong tận cùng đày ải, đau thương “Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu
sống mình”.
- Tóm lại, diễn biến tâm trạng trong đêm cởi trói cho A Phủ mang tính chuyển biến mạnh mẽ, đánh dấu
một cuộc lội ngược dòng táo bạo. Đây là hệ quả tất yếu sau những gì diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở
Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát mình khỏi những gông
xiềng của cả cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống
và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.
- Đánh giá nội dung:
+ Qua diễn biến tâm lý của nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định: bạo lực không thể đè bẹp,
hủy diệt khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Chỉ có điều là để có được sự sống, tự do, hạnh phúc,
con người đã phải trải qua nhiều tủi nhục, đắng cay.
+ Tái hiện nhân vật Mị trong thế cùng A Phủ đối đầu với bọn lang đạo, địa chủ miền núi Tây Bắc, Tô
Hoài đã lên án giai cấp thống trị bất nhân được thực dân Pháp bảo trợ đã chà đạp lên quyến sống, quyền
hạnh phúc của những người dân lương thiện. Đồng thời, Tô Hoài cũng đã đồng cảm, xót thương sâu sắc
trước những nỗi đau tê buốt, xé lòng; đặc biệt là ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp, sức sống diệu kỳ của
những kiếp nông nô lầm than, tủi nhục - trong mọi cảnh ngộ, họ luôn luôn tìm cách vươn lên bằng khát vọng
tự do, hạnh phúc, bằng sức mạnh yêu thương và sự dẫn đường chỉ lối của cách mạng sau này.
3. Nghệ thuật
Dựng cảnh và tả cảnh sinh động, chân thực, đặc sắc. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, ngôn ngữ kể
chuyện chuyện linh hoạt, những câu văn giàu cảm xúc, giàu chất thơ, đậm chất phong vị miền núi qua việc
miêu tả thiên nhiên, phong tục, những rung động sâu xa trong tâm hồn nhân vật... Đặc biệt ngòi bút miêu tả
tâm lý nhân vật xuất sắc, đạt đến “phép biện chứng tâm hồn”. Nhà văn đã đi sâu vào thế giới nội tâm của
nhân vật để Mị tự độc thoại nội tâm và khẳng định thuyết phục về sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Nhà văn
như hóa thân vào nhân vật để tạo nên “tiếng nói bên trong” thuyết phục, khách quan.
Kết bài :
Đoạn trích trên thấm đẫm tính nhân văn cao cả. Qua sự trỗi dậy của nhân vật Mị trong đêm mùa đông
dài và buồn trên núi cao, Tô Hoài khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng
hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không
mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc. Giá trị nhân đạo sâu sắc ấy đã mang đến cho người đọc những ấn
tượng đậm nét và mang đến sức sống lâu bền cho tác phẩm. Đoạn văn không chỉ góp phần tô đậm tính cách
nhân vật mà còn thể hiện một cách xúc động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ
chồng A Phủ.

VỢ NHẶT
Đề 1: Cảm nhận về đoạn văn sau:
Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội
chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ.

30
Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái
thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một
người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt
thì sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi
xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con
thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu
không bằng lòng.
Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào lên:
- Anh Tràng ơi! - Tràng quay đầu lại. Nó cong cổ gào lên lần nữa - Chồng vợ hài.
Tràng bật cười:
- Bố ranh!
Người đàn bà có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo. Ngã tư xóm
chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp
súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ
đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.
Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm. Họ đứng cả
trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối
của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của
họ. Một người thở dài. Người khác khẽ thì thầm hỏi:
- Ai đấy nhỉ? ... Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên?
- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.
- Quái nhỉ?
Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc:
- Hay là vợ anh cu Tràng? Ù khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo
để.
- Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này
không?
Họ cùng nín lặng.
Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, thị càng ngượng
nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Hắn cũng biết thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt
cứ vênh lên tự đắc với mình.
Mở bài:
Kim Lân là nhà văn có sở trường trong thể loại truyện ngắn, những tác phẩm của ông thường hướng
đến đời sống nông thôn và tập trung vào hình tượng người nông dân. Người nông dân trong những trang văn
của Kim Lân là những người nghèo khổ, bị đặt trong những tình huống éo le nhưng vẫn bộc lộ được những
phẩm chất tốt đẹp, đó là tình thương, là khát khao hạnh phúc, là niềm tin vào tương lai. Trong Vợ nhặt của
Kim Lân, tình huống truyện đã giúp nhà văn xây dựng bộc lộ sâu sắc tính cách và tâm lý nhân vật. Đồng
thời gúp ông bộc lộ tâm tư tình cảm và những điều mà bản thân ông muốn gửi gắm cho bạn đọc. Truyện
cũng thế mà hấp dẫn hơn.
Thân bài:
1. Giới thiệu chung
- Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945,
với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này
ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình
1954 ông mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa dề là Vợ nhặt.
- Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo
xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở
sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ
diễn ra âm thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết
đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chỉ có cháo loãng, rau chuối thái rối chấm với muối. Mẹ chồng
đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu
chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho
thóc của Nhật chia cho người nghèo.
2. Nội dung chính
- Tình huống của Vợ nhặt thể hiện ngay ở tên truyện. Một anh nông dân “nhặt” được vợ như nhặt được
đồ vật, một thứ rác rưởi nào đó. Mà nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai, lại là dân
31
ngụ cư. Vậy mà chỉ “tầm phơ tầm phào” mấy câu mà có vợ theo về. Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để
làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui
sướng vì sự kiện to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan. Mình
cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!
- Mở đầu đoạn trích là bối cảnh Tràng nhặt được vợ: “Cái đói tràn đến xóm ngụ cư tự lúc nào”. Đó là
một sự thật hiển nhiên đến đau lòng. Hậu quả của nạn đói thật ghê gớm: Những gia đình từ Nam Định, Thái
Bình “bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Người
sống chỉ còn “dật dờ” và “như bóng ma”. Kinh khủng hơn khi tác giả đặt hình ảnh người còn sống “nằm
ngổn ngang khắp lều chợ” bên cạnh hình ảnh “người chết như ngả rạ”, “bốn năm cái xác nằm còng queo
bên đường”. Cái ranh giới giữa sống và chết thật mỏng manh! Một cõi dương đã lởn vởn cõi âm. Không khí
tối tăm, ảm đạm, thê lương: “Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Thật
đau xót cho tình cảnh dân tộc ta lúc bấy giờ!
- Thật là trớ trêu! Trong cảnh đói khát và thê lương ấy, Tràng lại lấy vợ! Cảnh anh Tràng đưa cô vợ
nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và
lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người
lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một
ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi
thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.
- Trước hết tình huống nhặt vợ đã khiến nhân vật trong cuộc là Tràng ngạc nhiên với ngay bản thân
mình. Trên đường “rước dâu” về nhà: “Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ
một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với cách miêu tả ấy dường như trước mắt người đọc là một anh
Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân phận, một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh. Niềm
hạnh phúc trong lòng tràn ra cả bên ngoài vẻ khuôn mặt, ánh mắt và nụ cười. Tràng tự hào về bản thân đã
nhặt được vợ một cách hiển hách như một anh chàng đào hoa thật sự. Chẳng tốn kém và hơi sức, chỉ qua hai
câu nói đùa mà có vợ theo hẳn hoi.
- Tiếp đến là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn phở khác thường và
người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau
ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: “ Anh
Tràng ơi, chông vợ hài!” Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu
ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ
thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư
đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho
Tràng: “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này
không?”. Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hy vọng vượt lên cái chết.
- Cuối cùng, tình huống trên cũng tác động đến nhân vật người vợ nhặt. Trên đường về nhà chồng tâm
trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với
mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ: “Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng
con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn ”.
Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu,
thiếu tự tin: “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Cái vẻ “thèn thẹn” của thị trên đường “rước dâu” ấy khác
hẳn với vẻ chỏng lỏn, chao chát khi lần thứ hai gặp Tràng đòi ăn. Đó phải chăng là vẻ đẹp của cô dâu trong
ngày rước dâu về nhà chồng.
Đánh giá nội dung và tình huống nghệ thuật:
Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong đoạn trích nói riêng, tác phẩm nói chung là một tình huống éo le, trớ
trêu, không biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ, nhưng rồi
anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Hàng
xóm vui nhưng cũng lo thay cho anh. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa
vây. Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ
dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết
chừng nào!
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhân vật Tràng, nhà văn đã đặt nhân vật
vào tình huống truyện độc đáo từ đó làm nổi bật tính cách của nhận vật cũng như chủ đề, tư tưởng của
truyện; diễn biến tâm lý được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách
nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
Kết bài :
Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn sâu xa của tác phẩm.
Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền phong kiến tay sai nhưng từ câu
32
chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm
khốc có một không hai trong lịch sử nước ta khiến cho hơn hai triệu người chết đói và thân phận con người
trở nên rẻ rúng như cái rơm, cái rác. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp tinh thần ẩn
giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi
là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hy vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là
giá trị nhân văn làm nên sức sống lâu dài của tác phẩm.

Đề 2: Cảm nhận về đoạn văn sau


Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những
búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài. Tràng xăm
xăm bước vào trong nhà, nhấc tấm phên rách sang một bên, thu dọn những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn
cả trên giường, dưới đất. Hắn quay lại nhìn thị cười cười:
- Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!
Thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng vỗ vỗ xuống giường đon đả:
- Ngồi đây!... Ngồi xuống đây, tự nhiên...
Người đàn bà theo lời hắn ngồi mớm xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng ngượng nghịu. Tràng đứng tây
ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét bước vội
mấy bước ra sân gắt lên:
- Sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết!
Hắn loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Thị vẫn ngồi mớm
ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần.
Hắn nghĩ bụng: “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?... Ồ sao nó lại buồn thế nhỉ?...”. Hắn nhổ vu vơ một bãi
nước bọt, tủm tỉm cười một mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không
phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm
phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng…
Mở bài:
Kim Lân là nhà văn có sở trường trong thể loại truyện ngắn, những tác phẩm của ông thường hướng đến đời
sống nông thôn và tập trung vào hình tượng người nông dân. Người nông dân trong những trang văn của
Kim Lân là những người nghèo khổ, bị đặt trong những tình huống éo le nhưng vẫn bộc lộ được những
phẩm chất tốt đẹp, đó là tình thương, là khát khao hạnh phúc, là niềm tin vào tương lai. Tiêu biểu là đoạn
văn Tràng đưa người vợ nhặt vào nhà chờ ra mắt bà cụ Tứ - mẹ Tràng: “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong
nhà…, ấy thế mà thành vợ chồng…”.
Thân bài
1. Giới thiệu chung
Hcst (đề 1)
Tóm tắt tác phẩm (đề 1)
2. Nội dung chính
- Sau tình huống Tràng nhặt vợ như nhặt được đồ vật, một thứ rác rưởi nào đó mà chỉ “tầm phơ tầm phào”
mấy câu mà có vợ theo về. Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự
sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tâm trạng của anh và người vợ nhặt trong khi chờ
ra mắt bà cụ Tứ thật đặc sắc.
* Tâm trạng nhân vật thị - người vợ nhặt
- Về đến nhà chồng, thị e dè ngượng ngùng xen lẫn lo lắng trước gia cảnh của Tràng. Nhìn thấy ngôi
nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, thị nén một tiếng thở dài: “Thị
đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao
ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách.
Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của
thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách nhiệm của mình đối với việc cùng
chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
- Người vợ nhặt là một người phụ nữ tự trọng, có ý thức về phẩm giá. Vào trong nhà, thị “ngồi mớm ở
mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Cái tư thế “ngồi mớm ở mép giường” là thế ngồi
bấp bênh, không ổn định được tác giả nhấn lại đến hai lần. Đó không phải là tư thế ngượng ngùng, e thẹn, ý
tứ của cô dâu khi bước vào nhà chồng đó sao? Cái thẹn thùng ấy khác hẳn khi Tràng gặp thị lần thứ nhất:
“Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” rồi thị “liếc mắt, cười tít”. Hay cái lần thứ hai: “Thị
ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa…”. Tệ hại hơn cả là khi thị vứt toẹt sỹ diện đòi
33
ăn: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” và “ngồi sà xuống…, cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng
truyện trò gì”.
- Rõ ràng thị là nạn nhân của cái đói. Thị bị nạn đói dồn vào cảnh ngộ bi thảm nên trở nên liều lĩnh, trơ
trẽn, chấp nhận theo không người đàn ông. Cái chỏng lỏn, đanh đá của thị là do cái đói khổ, ngu dốt mà ra,
không phải do bản chất bên trong thiếu lương thiện. Trong bi thảm, người vợ nhặt vẫn có biểu hiện ý tứ,
mực thước, có ý thức giữ gìn phẩm giá. Trong bi thảm, nhân vật người vợ nhặt vẫn âm thầm nuôi
dưỡng niềm khát khao cuộc sống gia đình, niềm mỏi mong chính đáng về cuộc sống ngày mai.
* Diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng
- Thái độ của Tràng đối với thị thật ân cần, niềm nở “Hắn quay lại nhìn thị cười cười”, “vỗ tay xuống
giường đon đả”. Tình yêu và niềm hạnh phúc cũng đã khiến Tràng từ một người thô kệch, cục mịch mà biết
nói những lời có cánh đon đả mời thị ngồi, thái độ nhiệt tình, niềm nở, ân cần.
- Lúc đầu Tràng thấy ngượng nghịu, rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”, nhưng
đó chỉ là cảm giác thoáng qua. Hạnh phúc lớn lao khiến Tràng lấy lại được thăng bằng.
- Hành động Tràng “loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà”,
hay gắt lên: “Sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết!” cho thấy Tràng nôn nóng, chờ đợi để được
giới thiệu vợ với mẹ. Hành động ấy cho thấy niềm khao khát hạnh phúc và trân trọng hạnh phúc mà bất ngờ
mình có được.
- Trong lúc đợi bà cụ Tứ về, Tràng cũng biết quan tâm đến tâm trạng người vợ nhặt: thấy thị buồn thì
hắn nghĩ bụng: “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tuy nhiên những thắc mắc ấy trôi đi thật nhanh. Tràng lại
vui được ngay “Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình”. Đúng là khát vọng về hạnh phúc,
về cuộc sống chẳng bao giờ là chán nản. Hạnh phúc gia đình giản dị đơn sơ đã làm Tràng thay đổi. Niềm
hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng không tin nổi: “Đến bây giờ hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra
hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Đó là tâm trạng ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người trong cuộc.
Đánh giá nội dung
Viết về sự đổi thay trong tâm lý của nhân vật người vợ nhặt, của Tràng, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng,
ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở
đây. Cũng qua hình ảnh hai nhân vật trên, Kim Lân đã góp tiếng nói lên án, tố cáo tội ác tày trời của bọn
phong kiến, phát xít, thực dân đã đẩy dân tộc ta vào hoàn cảnh khốn cùng. Giá trị của một con người trở nên
rẻ rúng, người ta có thể nhặt được vợ, thậm chí có vợ theo. Nhưng con người Việt Nam dù trong hoàn cảnh
nào họ cũng biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau để hướng về tương lai hi vọng trông chờ.
Nghệ thuật :
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhân vật Tràng, nhà văn đã đặt nhân vật
vào tình huống truyện độc đáo từ đó làm nổi bật tính cách của nhận vật cũng như chủ đề, tư tưởng của
truyện; diễn biến tâm lý được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách
nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
Kết bài:
Qua việc xây dựng nhân vật người vợ nhặt và Tràng, cụ thể là đoạn Tràng đưa thị về nhà chờ ra mắt mẹ, nhà
văn đã làm nổi bật ý nghĩa hiện thực và nhân văn sâu xa của tác phẩm: Lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời
của thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói thảm khốc có một không hai trong lịch sử nước ta khiến
cho hơn hai triệu người chết đói và thân phận con người trở nên rẻ rúng như cái rơm, cái rác. Quan trọng
hơn cả là truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của
những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn khát vọng hạnh phúc, luôn
hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên sức sống lâu dài của tác
phẩm.

Đề 3: Cảm nhận về nhân vật bà cụ tứ trong đoạn văn sau


Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc
nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường
thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy
cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn
nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.
Tràng tươi cười:
- Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện cái đã nào.
Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần nữa:
- U đã về ạ!
Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường.
34
Tràng nhắc mẹ:
- Kìa nhà tôi nó chào u.
Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp:
- Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng
là cái số cả...
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa
ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong
nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm
của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?
Mở bài :
Kim Lân là nhà văn có sở trường trong thể loại truyện ngắn, những tác phẩm của ông thường hướng đến đời
sống nông thôn và tập trung vào hình tượng người nông dân. Người nông dân trong những trang văn của
Kim Lân là những người nghèo khổ, bị đặt trong những tình huống éo le nhưng vẫn bộc lộ được những
phẩm chất tốt đẹp, đó là tình thương, là khát khao hạnh phúc, là niềm tin vào tương lai. Truyện ngắn “Vợ
nhặt” đã dựng lên một tình huống độc đáo: anh cu Tràng nghèo khổ, xấu xí, ế vợ bỗng dưng lại nhặt được
vợ giữa nạn đói khủng khiếp. Tình huống dở khóc, dở cười, vui mà tội nghiệp, mừng mà vừa tủi vừa lo đã
làm nổi bật tâm trạng của các nhân vật trong truyện, trong đó có tâm trạng bà cụ Tứ – một người mẹ nghèo
khổ nhưng nhân hậu, bao dung được thể hiện trong đoạn văn: “Bà lão phấp phỏng… cơn đói khát này
không”.
Thân bài:
1. Giới thiệu chung
- Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với
nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay
trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông
mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa dề là Vợ nhặt.
- Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo xe bò
thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở
chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra
âm thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo
gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chỉ có cháo loãng, rau chuối thái rối chấm với muối. Mẹ chồng đãi con
trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện
của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc
của Nhật chia cho người nghèo.
2. Nội dung chính
- Truyện lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945. Giữa lúc nạn đói tràn đến xóm ngụ cư, Tràng đưa vợ
nhặt về nhà khiến cho tất cả dân xóm ngụ cư ngạc nhiên. Dĩ nhiên, Bà cụ Tứ - mẹ của Tràng - không chỉ
ngạc nhiên mà còn biết bao nhiêu cảm xúc vui buồn, lo lắng đan xen trước tình huống éo le ấy.
- Bà cụ Tứ là một nhân vật xuất hiện muộn trong truyện, già yếu và nghèo khó. Xuất thân của hai mẹ con bà
là dân ngụ cư, cái nghèo đeo bám. Dấu ấn của sự nghèo khó, khắc khổ như in hằn lên cái dáng lưng còng,
tướng đi lọng khọng của bà. Tuy nghèo khổ, nhưng ở nhân vật bà cụ Tứ lại có vẻ đẹp tâm hồn vô cùng đáng
trân trọng. qua diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong đoạn trích, người đọc đã cảm nhận được một tình mẫu tử
thiêng liêng và tình người ấm áp.
* Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong cảnh “đón dâu”
- Trước hết là tâm lý ngạc nhiên. Đầu tiên bà ngạc nhiên vì sự đon đả khác lạ của Tràng nên bà “phấp
phỏng”, có nghĩa là tâm lý bất an, lo lắng, băn khoăn, không biết điều gì đón đợi mình phía trước. Thứ đến
là vì sự xuất hiện của người đàn bà lạ trong nhà. Bởi thế đôi chân bà theo con mà cứ “ đứng sững lại”. Nếu
như anh cu Tràng sau những giây phút “chợn” thì anh ta đi thẳng vào niềm vui, tâm lý phát triển theo chiều
thẳng đứng. Còn bà cụ Tứ thì sau giây phút ngạc nhiên của bà là một tâm lý phức tạp, tâm lý phát triển theo
đường cong.
Căn nhà tuềnh toàng rách nát của bà bấy lâu nay chỉ có bà và anh con trai, họ mạc thì đã thất tán nên sự xuất
hiện của người đàn bà lạ kia quả là một sự kiện. Hàng loạt những câu hỏi nghi vấn dồn dập trong óc bà
“Quái! Sao có người đàn bà nào đứng trong nhà mình thế nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường
thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục. Ai thế nhỉ? ”. Phải, làm sao bà
ngờ được lại có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng năm đói mòn đói mỏi, nhà lại nghèo mà con trai bà lại
dẫn không về một người vợ. Mọi việc đến với bà quá nhanh. Chính bởi tình huống hết sức đặc biệt này của
câu chuyện “vợ nhặt”, mọi diễn biến nội tại đã được đẩy lên đến cao trào, trở thành một sợi chỉ xuyên suốt
35
làm cho mạch tác phẩm đi theo một chiều hướng rất logic của tâm lý nhân vật. Chính vì vậy sự ngạc nhiên
đó kéo dài rồi đến lúc bà không dám tin đó là sự thật, bà khẽ “ hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn nhưng hình
như nó lại nhoèn ra mãi”.
Căn nhà tuềnh toàng rách nát của bà bấy lâu nay chỉ có bà và anh con trai, họ mạc thì đã thất tán nên sự xuất
hiện của người đàn bà lạ kia quả là một sự kiện. Hàng loạt những câu hỏi nghi vấn dồn dập trong óc bà
“Quái! Sao có người đàn bà nào đứng trong nhà mình thế nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường
thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục. Ai thế nhỉ? ”. Phải, làm sao bà
ngờ được lại có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng năm đói mòn đói mỏi, nhà lại nghèo mà con trai bà lại
dẫn không về một người vợ. Mọi việc đến với bà quá nhanh. Chính bởi tình huống hết sức đặc biệt này của
câu chuyện “vợ nhặt”, mọi diễn biến nội tại đã được đẩy lên đến cao trào, trở thành một sợi chỉ xuyên suốt
làm cho mạch tác phẩm đi theo một chiều hướng rất logic của tâm lý nhân vật. Chính vì vậy sự ngạc nhiên
đó kéo dài rồi đến lúc bà không dám tin đó là sự thật, bà khẽ “ hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn nhưng hình
như nó lại nhoèn ra mãi”.
- Bà buồn vì tự thấy mình chưa làm tròn bổn phận của người mẹ. Bởi cuộc đời của một người mẹ không chỉ
sinh con ra, nuôi con lớn lên mà còn có trách nhiệm gầy dựng gia đình cho con, chăm lo cháu chắt, còn bà
chỉ có hai bàn tay trắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,
những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì …”. Bà xót xa vì không thể làm tròn bổn phận
của người mẹ: không lo nổi chuyện đại sự cho con. Giờ đây, giữa lúc người chết đói “ như ngả rạ”, lại có
người theo con trai mình về làm vợ. Người mẹ bị dồn vào cảnh túng quẫn, khó xử, không biết lấy gì cúng tổ
tiên, trình làng khi con đã có vợ.
Nhà văn đã bỏ lửng suy nghĩ của bà bằng ba dấu chấm. Ba dấu chấm như là những nốt lặng trong tâm hồn
người mẹ mà ở đó sự tủi thân tủi phận dâng trào hơn bao giờ hết. Nhà văn đã để nhân vật của mình khóc:
“Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà đã rỉ xuống hai dòng nước mắt”, đó là dòng nước mắt cơ cực của cuộc đời
và cũng là những giọt nước mắt đã cạn kiệt vì cuộc đời mẹ đã khóc quá nhiều.
- Kim Lân như một nhà quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của mình chớp lấy thần cảnh,
thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim một đời vất vả của người mẹ già, và trên cái
khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra hai dòng nước mắt khô héo: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau
sống được qua cơn đói khát này không”. Trong chữ “chúng nó”, người mẹ đã đi từ lòng thương con trai để
ngầm chấp nhận người đàn bà lạ làm con dâu của mình. Khác với Tràng, nỗi lo của người trẻ tuổi chỉ thoáng
đến rồi đi rất nhanh, bà cụ Tứ lo cho con bằng nỗi lo của người mẹ nghèo từng trải đã biết thế nào là đói
khát. Bởi vậy nỗi lo càng trở nên đớn đau đến quặn thắt.
*Đánh giá nhân vật :
Bà cụ Tứ xuất hiện trong truyện chỉ có một đêm và non buổi sáng hôm sau. Chừng ấy thời gian vừa đủ cho
một người ngủ dậy muộn. Nhưng đối với người mẹ nghèo khổ kia, quả là rất dài. Chừng ấy thời gian, song ở
bà, có biết bao buồn vui, mừng tủi, cay đắng, âu lo, lẫn hy vọng. Người mẹ ấy đã sống trọn tất cả đời sống
bên trong của một người con. Qua diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ, độc giả đã khám phá ra những
phẩm chất tốt đẹp của nhân vật. Hình ảnh bà cụ Tứ chính là điển hình cho người phụ nữ nghèo từng trải và
hiểu đời, rất mực thương con, nhân hậu, bao dung và vị tha. Trong cái đói, mà bản thân hai mẹ con còn
không biết nuôi nổi mình không mà gia đình lại có thêm một thành viên mới, chắc chắn sự sống sẽ éo le hơn
nhiều, vậy mà bà cụ Tứ vẫn dang tay rộng chấp nhận một nàng dâu mới, đó là tình người sâu sắc. Bà cụ Tứ
còn là hiện thân của niềm lạc quan, tin vào tương lai. Đây chính là những nét đẹp điển hình của người phụ
nữ Việt Nam.
*Nghệ thuật:
Tác phẩm thành công ở nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc
đáo từ đó làm nổi bật tính cách của nhận vật cũng như chủ đề, tư tưởng của truyện; diễn biến tâm lý được
miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật
hấp dẫn, kịch tính…
Kết bài:
Qua nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn cảm thông, chia sẻ với số phận con người. Từ đó gián tiếp tố cáo bọn thực
dân, phong kiến, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp với nhân dân ta. Đồng thời tác giả cũng trân trọng
phẩm chất tốt đẹp của người lao động, khẳng định sức sống mãnh liệt trong tâm hồn họ và thể hiện niềm tin
tương lai vào cuộc sống của con người. Có thể nói, nhân vật bà cụ Tứ là một nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp
tình người và lòng nhân ái mà Kim Lân đã gửi gắm trong tác phẩm “Vợ nhặt”. Thành công của nhà văn là
đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lý khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc
biệt .Vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. “Vợ nhặt” là ca về tình
người của những người nghèo khổ, đã biết sống cho ra người ngay giữa thời túng đói quay quắt.

36
Đề 4: Cảm nhận về nhân vật bà cụ tứ trong đoạn văn sau
Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt.
Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà
con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua
khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng
phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ
vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết
thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc
trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở
nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài
dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...
- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ
nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:
- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ
cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau
lúc này, u thương quá...
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.

Mở bài:
Kim Lân là nhà văn có sở trường trong thể loại truyện ngắn, những tác phẩm của ông thường hướng đến đời
sống nông thôn và tập trung vào hình tượng người nông dân. Người nông dân trong những trang văn của
Kim Lân là những người nghèo khổ, bị đặt trong những tình huống éo le nhưng vẫn bộc lộ được những
phẩm chất tốt đẹp, đó là tình thương, là khát khao hạnh phúc, là niềm tin vào tương lai. Truyện ngắn “Vợ
nhặt” đã dựng lên một tình huống độc đáo: anh cu Tràng nghèo khổ, xấu xí, ế vợ bỗng dưng lại nhặt được
vợ giữa nạn đói khủng khiếp. Tình huống dở khóc, dở cười, vui mà tội nghiệp, mừng mà vừa tủi vừa lo đã
làm nổi bật tâm trạng của các nhân vật trong truyện, trong đó có tâm trạng bà cụ Tứ – một người mẹ nghèo
khổ nhưng nhân hậu, bao dung được thể hiện trong đoạn văn: “Bà lão khẽ thở dài… bố mẹ trước kia
không?...”.
Thân bài:
1. Giới thiệu chung
Hcst (đề 3)
Tóm tắt tác phẩm (đề 3)
2. Nội dung chính
- Truyện lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945. Giữa lúc nạn đói tràn đến xóm ngụ cư, Tràng đưa vợ
nhặt về nhà khiến cho tất cả dân xóm ngụ cư ngạc nhiên. Dĩ nhiên, Bà cụ Tứ - mẹ của Tràng - không chỉ
ngạc nhiên mà còn biết bao nhiêu cảm xúc vui buồn, lo lắng đan xen trước tình huống éo le ấy.
- Bà cụ Tứ là một nhân vật xuất hiện muộn trong truyện, già yếu và nghèo khó. Xuất thân của hai mẹ con bà
là dân ngụ cư, cái nghèo đeo bám. Dấu ấn của sự nghèo khó, khắc khổ như in hằn lên cái dáng lưng còng,
tướng đi lọng khọng của bà. Tuy nghèo khổ, nhưng ở nhân vật bà cụ Tứ lại có vẻ đẹp tâm hồn vô cùng đáng
trân trọng. qua diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong đoạn trích, người đọc đã cảm nhận được một tình mẫu tử
thiêng liêng và tình người ấm áp.
* Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ khi “nhận dâu”
- Sau khi ngạc nhiên và biết bao cảm xúc vui buồn lẫn lộn: thương con, tủi phận trước sự việc Tràng giới
thiệu vợ, tâm lý bà cụ Tứ từ tủi thân đến lòng xót thương khi hướng về nàng dâu mới.
- Mắt bà “đăm đăm nhìn người đàn bà” như để nhận mặt người đồng hành khốn khổ trong cuộc đời khổ
nghèo, rồi xót thương vì: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà
con mình mới có vợ được”. Bà thừa hiểu có nằm mơ thì thằng con mình cũng chẳng cưới được vợ. Mà người
ta có cưới vợ thì cũng phải cưới một cách hiển hách, còn Tràng lại đi nhặt vợ. Nói như vậy không có nghĩa
là bà khinh thường người con dâu mà ngược lại trái tim của người mẹ ấy bao dung hơn bao giờ hết. Bà tỏ ra
rất gần gũi và chân tình “Nhìn người đàn bà đứng vân vê tà áo đã rách bợt”, mà “lòng đầy xót thương”.
37
Chính tình cảm ấy đã xóa đi rất nhiều mặc cảm cho người con dâu. Trả lại danh dự cho người phụ nữ “mang
tội theo trai” (Kim Lân).
- “Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con...”. Câu văn thật cảm động! Nó vừa nhoi nhói
một tình cảm tủi hờn, ai oán cho số kiếp, vừa như cố nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước một sự việc đã rồi, lại
vừa rưng rưng, xao xuyến một niềm vui. Những lời độc thoại cứ như đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ,
vừa khắc khoải, dạt dào, vừa bao la, vỗ về đầy tình mẫu tử, hoà trong đó là là những rung cảm xót xa trong
trái tim nhân đạo của Kim Lân. Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và vui mừng lại đi kèm nỗi lo lắng.
Làm sao không lo cho được khi mà nạn đói đang diễn ra, cái chết đang cận kề. Đời bà thì đã già, có chết
cũng chẳng tiếc nuối gì, nhưng còn các con dù sao thì cuộc đời vẫn còn dài nhưng liệu chúng nó có nuôi nổi
nhau qua cơn đói này không?
- “Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con...”. Câu văn thật cảm động! Nó vừa nhoi nhói
một tình cảm tủi hờn, ai oán cho số kiếp, vừa như cố nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước một sự việc đã rồi, lại
vừa rưng rưng, xao xuyến một niềm vui. Những lời độc thoại cứ như đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ,
vừa khắc khoải, dạt dào, vừa bao la, vỗ về đầy tình mẫu tử, hoà trong đó là là những rung cảm xót xa trong
trái tim nhân đạo của Kim Lân. Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và vui mừng lại đi kèm nỗi lo lắng.
Làm sao không lo cho được khi mà nạn đói đang diễn ra, cái chết đang cận kề. Đời bà thì đã già, có chết
cũng chẳng tiếc nuối gì, nhưng còn các con dù sao thì cuộc đời vẫn còn dài nhưng liệu chúng nó có nuôi nổi
nhau qua cơn đói này không?
- Tấm lòng người mẹ thật bao dung nhân hậu: không chút coi thường, không một chút khinh rẻ chỉ còn lại
là sự đồng cảm, xót thương. Bà cụ nói: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng
lòng”. Đẹp biết bao hai tiếng “mừng lòng” của bà lão nói với các con. Chữ “mừng” thật là đắc địa, có vẻ như
không đâu vào đâu của người già cả, nhưng lại lột tả đúng cái thần thái của một tấm lòng vị tha cao quý
đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu đi dòng nước mắt xót thương vì sợ phiền lòng cho chính người
mình đang thương xót.
- Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó
là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm... Bà cụ cố nén nỗi
buồn, nỗi lo động viên con tin ở sự sống và tương lai: “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có
ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Lời động viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của một bà mẹ
nông dân từng trải, nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ vững
vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái đói, cái chết. Câu nói ấy chỉ có thể thốt lên từ một tấm
lòng cao cả, tràn ngập tình thương.
- Sau khi khuyên nhủ con, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của bà, ông lão, cô con gái út, bóng tối như trùm
lên hai con mắt của bà. Nhưng với vai trò của mình, bà không cho phép mình thất vọng vào lúc này.
- Người mẹ là chỗ dựa tinh thần cho người con, bà cụ Tứ không giúp gì được cho đôi vợ chồng son về vật
chất nhưng bà là chỗ dựa tinh thần cho các con. Kim Lân đã để bà cụ Tứ thổi sức sống vào các con bằng
triết lý dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Triết lý ấy cũng là kinh nghiệm sống của bà, sự từng trải
của một người mẹ đã kinh qua bao khó nhọc trong đời. Chính triết lý ấy đã làm bừng lên sức sống, bừng lên
tia hi vọng và làm ấm lòng đôi vợ chồng son. Đó cũng là lời động viên chí tình, chí nghĩa mà bà muốn nhen
lên trong lòng con sức mạnh vượt qua nạn đói.
- Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta tưởng như có cái vẫy tay
đầy thân thương sau câu nói này: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Còn đâu là ranh
giới giữa mẹ chồng - nàng dâu?
- Tình yêu với con và dâu dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt: “Kể có ra làm được dăm
ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo... lấy nhau lúc này u thương quá...”. “Lúc này” ở đây chính là
thời điểm năm 1945 - cái mốc in dấu một nạn đói khủng khiếp đã đi vào lịch sử: hơn hai triệu đồng bào ta
chết đói. Ấy vậy mà, “như bèo gặp nước”, vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng
cái đói, cái khổ. Thử hỏi sao lòng người mẹ không đau đáu. Biết bao cảm xúc trong tâm hồn người mẹ
nghèo nên khiến “bà cụ nghẹn ngào không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Đó là dòng
nước mắt đã cạn kiệt của người mẹ đã trải qua một đời quá nhiều cơ cực.
*Đánh giá nhân vật như đề 3
*Nghệ thuật như đề 3
*Kết bài như đề 3

Đề 5: Cảm nhận về nhân vật Tràng trong đoạn văn sau


Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở
trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
38
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con
mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có
cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn
gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong.
Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối
đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi
từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm
thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia
đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng,
phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận
phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự
phần tu sửa lại căn nhà.
Mở bài:
Kim Lân là nhà văn có sở trường trong thể loại truyện ngắn, những tác phẩm của ông thường hướng đến đời
sống nông thôn và tập trung vào hình tượng người nông dân. Người nông dân trong những trang văn của
Kim Lân là những người nghèo khổ, bị đặt trong những tình huống éo le nhưng vẫn bộc lộ được những
phẩm chất tốt đẹp, đó là tình thương, là khát khao hạnh phúc, là niềm tin vào tương lai. Truyện ngắn “Vợ
nhặt” đã dựng lên một tình huống độc đáo: anh cu Tràng nghèo khổ, xấu xí, ế vợ bỗng dưng lại nhặt được
vợ giữa nạn đói khủng khiếp. Tình huống dở khóc, dở cười, vui mà tội nghiệp, mừng mà vừa tủi vừa lo đã
làm nổi bật tâm trạng của các nhân vật trong truyện, trong đó có chính tâm trạng Tràng – người trong cuộc –
một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị, biết
hướng tới tương lai tươi đẹp, được thể hiện trong đoạn văn: “Sáng sớm hôm sau… tu sửa lại căn nhà”.
Thân bài:
1. Giới thiệu chung
Hcst (đề 3)
Tóm tắt tác phẩm (đề 3)
2. Nội dung chính
- Truyện lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945. Giữa lúc nạn đói tràn đến xóm ngụ cư, Tràng đưa vợ
nhặt về nhà khiến cho tất cả dân xóm ngụ cư ngạc nhiên. Ngay chính bản thân Tràng cũng còn ngờ ngợ: “ Ra
hắn đã có vợ rồi đấy ư?...”. Chính hạnh phúc và tình thương đã làm thay đổi Tràng hoàn toàn theo hướng
tích cực. Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. Ta thấy rõ điều đó qua đoạn trích từ
buối sáng hôm sau đêm tân hôn khi Tràng tỉnh dậy.
- Mở đầu đoạn trích, nhà văn giới thiệu thời điểm Tràng ngủ dậy: “Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào,
Tràng mới trở dậy”. Đó là buổi sáng đầu tiên khi Tràng có vợ, Tràng sung sướng chìm đắm trong men
say tình yêu, hạnh phúc. Chất men say ấy khiến cho Tràng cảm thấy “êm ái lửng lơ như người vừa ở trong
giấc mơ đi ra”. Dường như trong khoảnh khắc hạnh phúc ấy, Tràng như quên tất cả hiện thực đói khổ,
những tủi cực của tháng ngày đã qua. Hạnh phúc đến quá đỗi bất ngờ nên việc có vợ đến hôm nay khiến
Tràng vẫn chưa hết ngạc nhiên: “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.
Tràng ngạc nhiên cũng phải! Vì chỉ qua hai lần gặp gỡ và mấy câu bông đùa với bốn bát bánh đúc mà Tràng
có được vợ mà lại vợ theo hẳn hoi như một anh chàng đào hoa thực thụ. Ai có thể ngờ được chuyện hôn sự
hệ trọng của đời người lại đến với Tràng một cách tình cờ như vậy. Thì ra cái đói cũng có thể se duyên cho
con người!
- Không chỉ ngạc nhiên vì việc mình đã có vợ, Tràng còn ngạc nhiên đến ngỡ ngàng trước sự thay đổi
trong ngôi nhà của mình. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn Tràng ngủ dậy muộn mà dưới bàn tay vun
vén của mẹ và vợ, “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” của hôm
trước nay đã trở nên gọn gang, sạch sẽ, trở thành mái ấm thật sự: “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được
quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một
góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp.
Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch”. Những cảm nhận về sự thay đổi xung quanh cho thấy
Tràng có những quan sát, nhận thức sâu sắc về thế giới xung quanh chứ không phải là anh Tràng vô tâm
nữa. Tình yêu đã khiến cho anh trưởng thành.
- Trong Tràng cũng xuất hiện những trạng thái cảm xúc mới mẻ. Dường như đây là lần đầu tiên Tràng
cảm nhận được lòng mình đang rung lên niềm xúc động chân thành, thấm thía khi chứng kiến những sinh
hoạt hết sức đời thường, bình dị. Nhìn thấy hình ảnh người mẹ “đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham
nhở”, nghe âm thanh quét sân của vợ “từng nhát sàn sạt trên mặt đất”, long Tràng dấy lên nỗi niềm “thấm
thía cảm động”. Đó là niềm xúc động của một con người vừa nhận ra hạnh phúc thật giản dị, đời thường,
39
chẳng cần xa xôi, to tát. Dường như Tràng đã có những cảm nhận của một người trưởng thành trong, nó
khác với anh Tràng hôm trước còn đùa chơi với đám trẻ con trong xóm ngụ cư.
- Hạnh phúc gia đình cũng làm thay đổi nhận thức, suy nghĩ của Tràng. Từ một anh chàng ngờ nghệch, ăn
nói cộc lốc, Tràng đã thay đổi thành người con, người chồng thực sự. Giờ đây Tràng đã trở thành một người
con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm. Thấy mẹ và vợ đang dọn dẹp, quét tước nhà cửa, trong lòng
hắn dấy lên tình cảm yêu thương gắn bó đối với ngôi nhà – tổ ấm của mình: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn
thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Hai cữ “lạ lùng” nói lên sự đổi thay lớn lao trong suy nghĩ
của Tràng. Tình cảm với gia đình của Tràng không hề hời hợt, bâng quơ mà đã trở thành máu thịt, là mạch
kết nối bền chặt trong lòng Tràng.
- Từ nhận thức mình đã có một gia đình, Tràng nghĩ đến điều xa xôi hơn: “Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ
cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Đó là khát vọng thầm kín mà vô cùng mãnh liệt: khát
vọng về một mái ấm gia đình – khát vọng đời thường giản dị mà thiêng liêng, cảm động biết bao! Bình
thường Tràng chẳng thể lấy nổi vợ, chẳng thể có được mái ấm đơn sơ như thế. Nhưng bây giờ, cái đói đã
mang hạnh phúc đến cho hắn và cái khát vọng kia là sự thật chứ không còn xa vời nữa. Vậy nên trong lòng
Tràng, một lần nữa lại tràn ngập “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột”. Lần này, Tràng vui sướng
không phải vì có được vợ, mà lớn lao hơn, hắn có một gia đình
- Suy nghĩ ấy, khiến lần đầu tiên hắn thấy mình đã trưởng thành “bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”.
Nhận thức về sự trưởng thành kéo theo nhận thức về bổn phận và trách nhiệm với gia đình. Đó là quy luật
tất yếu. Tràng cũng vậy, “hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Có lẽ ý thức bổn
phận là phạm trù ý thức vừa mới định hình trong Tràng, từ khi hắn nhận thức được sự thiêng liêng của hai
tiếng “gia đình”. Hắn đã thật sự trưởng thành, trở thành người đàn ông của gia đình.
- Không chỉ thay đổi trong suy nghĩ, ý thức, trách nhiệm với gia đình của mình, Tràng còn thể hiện
qua hành động: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn
nhà”. Cái dáng vẻ “xăm xăm” ấy nói lên quyết tâm, sự nhiệt thành, bao tình yêu của hắn dành cho gia đình.
Hành động ấy trước đây đâu phải là hành động thường nhật của Tràng, đó là sự chuyển biến lớn. Chính
niềm hạnh phúc được sống trong tình yêu thương, tình mẹ con vợ chồng hòa thuận đã nhen nhóm trong long
hắn biết bao ước vọng về hạnh phúc, bao niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi tốt đẹp hơn.
*Đánh giá nhân vật:
- Có thể coi đây là bước ngoặt trong cuộc đời của Tràng. Hành động này là sự thay đổi tính cách và số phận
của Tràng. Từ một con người đau khổ sang một con người hạnh phúc, từ một con người ngây dại thàn một
con người có ý thức. Thế tức là Tràng đã được phục sinh tâm hồn nhờ có vợ.
- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Khi chưa có
nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ, trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.
Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ
sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu
hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những
người như Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.
*Nghệ thuật:
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt là diễn biến tâm
trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo được khơi mạch từ tình huống truyện độc đáo. Từ tình huống ấy, nhà
văn cho thấy được sự thay đổi trong tính cách, tâm trạng của Tràng ở buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ bằng
cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn kết hợp với kể, tả mộc mạc, giản dị.
Kết bài:
Qua nhân vật Tràng, cụ thể ở đoạn trích trên, nhà văn Kim Lân không chỉ đồng cảm sâu sắc với số phận
cùng khổ của người nông dân nghèo trước CMT8, mà còn phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn họ. Đó là vẻ
đẹp của tình người, của khát vọng hạnh phúc. Đoạn trích đã diễn tả thành công sự thay đổi trong tâm trạng
của nhân vật Tràng: từ bất ngờ, bỡ ngỡ đến hạnh phúc tột cùng; từ vô tâm đến trưởng thành ở mọi mặt. Sự
đổi thay ấy nói lên sức mạnh của tình yêu thương, sức mạnh của khát vọng hạnh phúc có thể biến điều
không thể thành có thể. Qua đó, nhà văn thể hiện sự đồng cảm, trân trọng với khát vọng hạnh phúc của con
người để từ đó khẳng định: Dù trong tình huống bi thảm tới đâu, dù cận kề cái chết, con người vẫn khao
khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và hy vọng vào tương lai. Đây cũng là chiều
sâu tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA – Minh Châu


Đề 1: Cảm nhận những khám phá, suy nghĩ của nghệ sỹ Phùng trong hai đoạn văn sau:
Trong phần mở đầu truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn Nguyễn Minh Châu viết:
40
(1) Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của
một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim, lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ: một chiếc
thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi. Có lẽ suốt
một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy : trước mặt tôi là một
bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con
ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy
nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh
một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản
và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chẳng biết ai
đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính
mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm
hồn. ( … )
Và kết thúc:
(2) Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi. Không
những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là
trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện
lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu
hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển
cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn
mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc
chắn, hòa lẫn trong đám đông…
Mở bài
- Nguyễn Minh Châu là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Ông luôn thiết tha
truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.
- Chiếc thuyền ngoài xa in trong tập Bến quê, tác phẩm đem đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con
người.
- Hai đoạn văn trên nằm ở phần đầu và phần cuối tác phẩm. Đoạn thứ nhất là phát hiện thứ nhất của nghệ sỹ
nhiếp ảnh Phùng về khoảnh khắc đắt giá “trời cho” mà người nghệ sỹ cả đời bấm máy mới bắt gặp một lần
trong đời: đó là một bức tranh về chiếc thuyền ngoài xa. Đoạn thứ hai là bức ảnh đen trắng được chọn trong
bộ lịch năm ấy. Qua hai đoạn văn, Nguyễn Minh Châu thể hiện triết lý và những khám phá về mối quan hệ
khăng khít giữa nghệ thuật và đời sống.
Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được sáng tác vào năm 1983, trong hoàn cảnh.
- Tóm tắt tác phẩm: Chiếc thuyền ngoài xa là một câu chuyện gửi gắm nỗi niềm trăn trở giữa nghệ thuật và
cuộc sống đạo đức. Phùng - một nhiếp ảnh đã đến vùng biển miền Trung để săn được những bức ảnh đẹp
của thiên nhiên. Sau nhiều ngày chờ đợi, anh cũng đã có được bức ảnh đắt giá. Nhưng đằng sau bức ảnh ấy
là một hiện thực mà Phùng phải suy ngẫm, người đàn bà bị chồng hành hạ và đánh đập nhưng lại không bỏ
chồng vì cuộc sống của họ còn có nhiều điều người ngoài không thể biết được. Phùng nhận ra rằng luật pháp
và chánh án cũng không thể giúp đỡ cuộc sống của người đàn bà này. Anh nhận ra giá trị sâu sắc về cuộc
sống, rằng mình phải nhìn nhận sự vật nhiều chiều chứ không phải chỉ qua một cái nhìn đầy cảm quan từ vẻ
bề ngoài của nó.
2. Nội dung chính
* Đoạn 1
- Hoàn cảnh của nghệ sĩ Phùng: theo yêu cầu của trưởng phòng, anh đến một vùng ven biển miền Trung
chụp ảnh cho cuốn lịch năm sau.
- Quan sát, cảm nhận của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng về khung cảnh tự nhiên vùng biển, anh phát hiện một
chuyện lạ: một chiếc thuyền lưới vó tiến thẳng vào chỗ anh: “Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào.
… chèo thẳng vào trước mặt tôi”.
- Nghệ sĩ Phùng phát hiện ra một vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ
anh chỉ có diễm phúc gặp được một lần, đó là vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng, vẻ đẹp giản dị, toàn bích:
“…trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu… hướng mặt vào bờ”.
- Phùng thực sự xúc động, ngỡ ngàng, bối rối trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển lúc bình minh. Anh
“ngất ngây” trong sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc
của khám phá và sáng tạo: “Tất cả khung cảnh ấy… như có cái gì bóp thắt vào”.

41
- Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, Phùng đã bắt gặp cái tận Thiện,
tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn
của cuộc đời: “Chẳng biết ai đó… trong ngần của tâm hồn”.
* Nghệ thuật: sử dụng câu văn ngắn, dài linh hoạt, lối so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, các hình
ảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn, khả năng quan sát tinh tế…
* Đoạn 2
- Tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa của Phùng có giá trị nghệ thuật cao, có giá trị cả về mặt thương mại lẫn
nghệ thuật, được những người có con mắt thẩm mỹ và chuyên môn đánh giá cao: “Những tấm ảnh tôi mang
về… rất bằng lòng”.
- Tấm ảnh có giá trị lâu bền, được mọi người yêu thích, được treo rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình
sành nghệ thuật. Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức Phùng đã bỏ ra để “phục kích” nhiều ngày mới
“chộp” được: “Không những trong bộ lịch năm ấy… sành nghệ thuật”.
- Nghệ sĩ Phùng đặc biệt ấn tượng về hiệu ứng màu sắc lúc anh chụp ảnh, là niềm hân hoan khi anh phát
hiện ra vẻ đẹp tuyệt trần của ngoại cảnh. Phải chăng tác giả muốn nói sau khi tước bỏ mọi lớp sơn hào
nhoáng bên ngoài, cái chất thật của cuộc đời khi hiện ra chỉ là hai màu đen trắng nhưng nó không hoàn toàn
xám xịt, đen tối mà nếu để hết tâm trí nhìn ngắm, người ta vẫn có thể phát hiện ra những điểm hồng nào đó
như cuộc đời thầm lặng, vô danh của người phụ nữ kia … có rất nhiều phẩm chất đáng quý: “…tuy là ảnh
đen trắng… màu hồng hồng của ánh sương mai”. Đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu
tượng nghệ thuật.
- Đối với nghệ sĩ Phùng tuy chụp được tấm ảnh toàn Mĩ nhưng dường như tâm trạng của anh vẫn còn nhiều
băn khoăn ray rứt. Bởi vì mỗi lần “ngắm kĩ” rồi lại “nhìn lâu hơn”, Phùng còn nhìn thấy từ tấm ảnh, đằng
sau tấm ảnh, hình ảnh người đàn bà hàng chài, những con người khốn khổ… Đó là hiện thực đời sống của
con người sau chiến tranh; về số phận con người lam lũ, vất vả, bất hạnh trong cuộc sống đời thường. Nghệ
thuật phải bắt nguồn từ cuộc đời, từ hiện thực đời sống; sự trung thực, dũng cảm của người nghệ sỹ trong
sáng tạo: “…và nếu nhìn lâu hơn… đang bước ra khỏi tấm ảnh”.
- Hình ảnh người đàn bà cứ hiện lên trong sự gợi nhớ của Phùng sau mỗi lần ngắm nhìn vẻ đẹp của bức ảnh,
anh luôn bị ám ảnh bởi cuộc sống gia đình hàng chài. Đó là một người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ
đời. Chị là đại diện cho những kiếp người lao động vất vả trăm chiều: “… một người đàn bà vùng biển cao
lớn… kéo lưới suốt đêm”.
- Những bước đi chắc chắn hòa lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin của Phùng
về sự hòa nhập của họ trong hành trình đi lên của cuộc sống.
* Nghệ thuật: ngoài những câu văn ngắn còn có câu văn dài ngắt ra nhiều vế thể hiện nhiều ý của hiện thực
đời sống con người, phép điệp từ ngữ, phép thế… được sử dụng thích hợp…
* Mối liên hệ giữa hai đoạn văn
- Tấm ảnh nghệ thuật chiếc thuyền ngoài xa đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, đằng sau nó còn có những
cuộc sống, thân phận đầy bi kịch, những mảnh đời lam lũ, vất vả, đói nghèo…
- Giữa nghệ thuật và cuộc sống vẫn còn một khoảng cách. Phùng muốn thấu hiểu, chia sẻ, cảm thông nhiều
hơn với nỗi đau của người khác bằng tất cả tấm lòng, vì thế mà anh “ngắm kĩ” rồi “nhìn lâu hơn” tấm ảnh
quen thuộc của mình. Đằng sau bóng dáng thấp thoáng ẩn hiện của người phụ nữ này là trái tim nhân đạo
của người nghệ sĩ.
- Phùng muốn nghệ thuật gắn liến với cuộc đời, nếu không thì tấm ảnh đẹp như mơ kia mãi mãi vẫn chỉ là
CTNX!
- Ngoài ra đoạn trích cũng bộc lộ quan điểm về cái đẹp, về trách nhiệm của người nghệ sĩ đối với nghệ thuật
và cuộc đời:
+ Người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá và sáng tạo, biết rung động trước cái đẹp…
+ Nghệ thuật và cái đẹp có thể bắt nguồn từ những điều bình dị, đơn giản xung quanh cuộc sống chúng ta.
+ Cái đẹp có chức năng thanh lọc tâm hồn, giúp con người trở nên tốt đẹp hơn.
+ Người nghệ sỹ phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều và phải biết kéo gần khoảng cách giữa nghệ thuật và
đời sống, nghệ thuật phải gắn liền với đời sống.
- Xây dựng tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện sâu sắc về đời sống và con người; tình huống
nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc đời.
- Nghệ thật khắc họa nhân vật, Phùng là kiểu nhân vật tư tưởng để tác giả gửi gắm những trăn trở về sứ
mệnh của nghệ thuật; những chuyển biến về nhận thức của nghệ sỹ Phùng góp phần làm nổi bật chủ đề - tư
tưởng của tác phẩm; cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt phù hợp với tính cách nhân vật.
- Nghệ thuật kể chuyện: sinh động; người kể chuyện là nhân vật Phùng tạo ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo,
có khả năng khám phá đời sống; lời kể khách quan, chân thực, thuyết phục.
Kết bài
42
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa, cụ thể qua hai đoạn văn cho thấy Phùng là một người nghệ sĩ khát khao đi
tìm kiếm cái đẹp nhưng anh không vì thế mà quay lại sự thật của cuộc đời. Điều đáng quý nhất ở Phùng đó
là tấm lòng dành cho con người trong cuộc sống. Qua đó, nhà văn đã bộc lộ những lo lắng, trăn trở của mình
về nhân cách, đời sống con người, bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm nghệ
thuật của Nguyễn Minh Châu.

Đề 2: Cảm nhận nhân vật người đàn bà làng chài trong đoạn trích sau
(1) Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng… chạy nhào tới.
(2) Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn… cả hai người lại trở về chiếc thuyền.
Mở bài
- Nguyễn Minh Châu là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Ông luôn thiết tha
truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.
- Chiếc thuyền ngoài xa in trong tập Bến quê, tác phẩm đem đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con
người. - Đoạn văn trên là phát hiện thứ hai của nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng về cảnh bạo lực của một gia đình
hang chài. Có thể nói ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm đã được nhà văn thể hiện sinh động thông qua một tình
huống truyện mang ý nghĩa khám phá và phát hiện về đời sống một cách sâu sắc.
Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác (xem đề 1)
- Tóm tắt tác phẩm (xem đề 1)
2. Nội dung chính
- Ngay sau tình huống thứ nhất, Phùng phát hiện ra cảnh đẹp tuyệt mỹ trên bờ biển về chiếc thuyền ngoài xa:
“toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích
khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp chặt vào”. “Trong giây phút bối rối,
tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn”. Tình huống truyện diễn biến rất nhanh dường như kịp thời cứu câu chuyện khỏi
sự nhàm chán có khả năng xảy ra. Nếu như phát hiện thứ nhất của Phùng mang tính khám phá thì phát hiện
thứ hai mang tính nghịch lý.
- “Ngay lúc ấy”, tức là ngay vào lúc Phùng thỏa mãn với hình ảnh anh coi là trời cho thì một biến cố đảo lộn
tất cả. “Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ chúng tôi đứng. Một người đàn ông và một
người đàn bà rời chiếc thuyền”. Từ chiếc ngư phủ tuyệt đẹp mà anh thầm cảm thán ngay lúc trước ấy, bước
ra một người đàn bà xấu xí, cam chịu, theo sau là người đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác: “ Người đàn bà
trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô
kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn
ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân
chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào
cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”
- Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua lời giới thiệu của Phùng. Đọc đến hết câu chuyện, người ta vẫn
không hề biết tên người đàn bà ấy. Bởi phải chăng chị là đại diện, là hiện thân cho hàng trăm hàng ngàn
những số phận người đàn bà ở những vùng biển khác nhau, cũng cơ cực như thế, cũng vô danh, cũng phải
sống trong khắc nghiệt và thống khổ như thế?
- Người đàn bà ấy qua lời kể của Phùng vô cùng ấn tượng, không phải bởi vẻ đẹp mà bởi vì xấu xí, thô kệch,
không hề ưa nhìn. Đó là người đàn bà “xấu, rỗ mặt” lại mang “thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển,
cao lớn với những đường nét thô kệch”. Không chỉ thế, ở mụ, người ta thấy toát lên một sự lam lũ, một dáng
vẻ kham khổ của một người phụ nữ nhà quê “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt
và dường như buồn ngủ” và “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”.
- Tạo hoá dường như đã trút hết những bất hạnh của cuộc đời lên con người chị, từ ngoại hình xấu xí, đến sự
nghèo khổ, đến số phận đau đớn. Đọc từng câu chữ, người ta thấy ở đó là niềm thương cảm sâu sắc mà
Nguyền Minh Châu muốn gửi gắm. Ông cảm thông, thấu hiểu, thương xót cho những số phận bất hạnh của
người đàn bà ấy. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở sự thương cảm ngoại hình, ông còn đi sâu khám phá thêm
về cuộc sống, số phận của người đàn bà ấy, để thương cảm hơn cho số phận con người.
- Tiếp đến việc hai vợ chồng thuyền chài lên bờ, người đàn ông và người đàn bà sửa soạn cho một sự việc
rất ngạc nhiên: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra chiếc thắt lưng
của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhua họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão
trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa
đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái
43
giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Người đàn bà với
một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.
- Đó là sự thật đau lòng đến đáng kinh ngạc. Hiện thực trần trụi mở ra trước mắt Phùng… Thì ra đằng sau
cái đẹp tuyệt mỹ mà Phùng vừa mới phát hiện lại là khung cảnh vô cùng tàn nhẫn, nơi mà bạo lực gia đình
diễn ra hết sức khủng khiếp. Người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục lẳng lặng đi trước, còn người đàn ông đi
phía sau, không nói một lời, nhưng bỗng nhiên trở nên hùng hổ, mặt mũi đỏ gay dùng ngay chiếc thắt lưng
vụt tới tấp vào người vợ.
- Bên cạnh người đàn bà hàng chài, ta cũng không thể không nhắc đến Phùng, một người nghệ sĩ tài hoa,
nhạy cảm trước cái đẹp. Khi phát hiện ra cảnh đắt trời cho, trong lòng anh xúc cảm trào dâng: rung động,
tâm hồn được thanh lọc, hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, lôi máy ảnh ra bấm liên thanh… Không chỉ vậy anh
còn là người có trách nhiệm, có tấm lòng với cuộc đời và con người. Phùng từng là người lính, từng cầm
súng đấu tranh cho tự do, bảo vệ cho con người nên anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh đánh đập
dã man của người đàn ông với vợ của mình, anh đã ném chiếc máy ảnh, phương tiện tác nghiệp của người
nghệ sĩ để lao vào ngăn cản người đàn ông để bảo vệ người đàn bà.
- Ngoài ra, anh còn là người nghệ sĩ luôn trăn trở với thiên chức nghề nghiệp của mình. Anh phát hiện ra cái
đẹp tuyệt mỹ, nhưng đằng sau cái đẹp lại là cái xấu, là hiện thực trần trụi. Chiếc thuyền ngoài xa chính là
hình ảnh cuộc đời khi nhìn ở xa, khi quan sát với cái nhìn hời hợt. Bởi vậy, cần nhìn nhận con người, sự việc
thấu đáo, toàn diện. Cùng với đó là một sự chiêm nghiệm của người nghệ sỹ sáng tạo: đó là nghệ thuật phải
gắn liền với cuộc sống, không được xa rời cuộc sống và phải quay trở về để phục vụ cuộc sống.
Nghệ thuật
- Xây dựng tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện sâu sắc về đời sống và con người; tình huống
nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc đời.
- Nghệ thật khắc họa nhân vật, sử dụng ngôn ngữ linh hoạt phù hợp với tính cách nhân vật.
- Nghệ thuật kể chuyện: sinh động; người kể chuyện là nhân vật Phùng tạo ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo,
có khả năng khám phá đời sống; lời kể khách quan, chân thực, thuyết phục.
Kết bài: Truyện Chiếc thuyền ngoài xa, cụ thể qua đoạn văn cho thấy Phùng là một người nghệ sĩ khát khao
đi tìm kiếm cái đẹp nhưng anh không vì thế mà quay lại sự thật của cuộc đời. Điều đáng quý nhất ở Phùng
đó là tấm lòng dành cho con người trong cuộc sống. Qua đó, nhà văn đã bộc lộ những lo lắng, trăn trở của
mình về nhân cách, đời sống con người, bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm
hồn người dân lao động. Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu.

Đề 3: Cảm nhận vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hang chài trong đoạn văn sau
“Đang ngồi cúi xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với
một vẻ ban đầu ngơ ngác.
...
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...”
Mở bài
- Nguyễn Minh Châu là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Ông luôn thiết
tha truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.
- Chiếc thuyền ngoài xa in trong tập Bến quê, tác phẩm đem đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con
người.
- Đoạn văn trên là câu chuyện người đàn bà ở tòa án. Qua đoạn trích, tác giả đã tìm thấy một trong
những hạt ngọc ẩn giấu ấy trong tâm hồn người đàn bà hàng chài, đồng thời thể hiện lòng xót thương,
nỗi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sỹ.
Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác (xem đề 1)
- Tóm tắt tác phẩm (xem đề 1)
2. Nội dung chính
- Hoàn cảnh của người đàn bà hàng chài: Không có tên cụ thể → không phải là trường hợp cá biệt mà
hiện thân cho biết bao người phụ nữ làm nghề chài lưới. Ngoại hình xấu xí, “trạc ngoài 40 tuổi, thân hình
cao lớn, thô kệch”, “gương mặt với những nốt rỗ chằng chịt”. Hoàn cảnh nghèo túng, đông con, thuyền chật.
Đó là nỗi khổ vật chất và tinh thần. Chị luôn phải đối diện với chuỗi ngày dài hiểm nguy, đói khát và bị
hành hạ thường xuyên cả về thể xác lẫn tâm hồn: gã chồng lấy việc lấy vợ làm phương thức giải tỏa uất ức
“trút cơn giận ... người đàn bà”, “3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng”.
44
→ Người đàn bà là hiện thân cho kiếp người phụ nữ vùng biển bất hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số
phận đen đủi dồn đến chân tường.
- Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hy sinh .
Nếu như lúc ban đầu mới đến toà, người đàn bà hàng chài tỏ ra sợ sệt, lúng túng, một lạy quý toà, hai lạy
quý toà. Nhưng sau khi nghe lời khuyên của chánh án Đẩu thì trở nên mạnh dạn và chủ động hơn: “Đang
ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên, nhìn thẳng vào Phùng và chánh án Đẩu”, thay đổi cách
xưng hô: “chị - các chú”. Điệu bộ hết vẻ khúm núm, sợ sệt, ngôn ngữ cũng khác hẳn: “… Lòng các chú tốt,
nhưng các chú đâu phải người làm ăn… cho nên các chú đâu có biết cái việc của các người làm ăn lam lũ,
khó nhọc” chị bác bỏ tức khắc lời đề nghị ly hôn của vị chánh án Đẩu và của nhà báo Phùng. Nguyên nhân
của thay đổi ấy chính là vì chị đã cảm nhận thấy thiện ý của hai người? Hay đơn giản là sự cảm thông của
chị trước sự nông nổi, ngây thơ, không hiểu hết của họ? Sự sắc sảo của chị chỉ bộc lộ trong phút chốc rồi lại
là người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng thực ra chị đang thể hiện sự cảm thông và khiêm tốn trước hai
người vị thế xã hội hơn chị nhưng còn trẻ và non nớt sự đời. Qua lời kể của chị: “Từ nhỏ tuổi tôi đã là một
đứa con gái xấu, lại rỗ mặt,… Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không
bao giờ đánh đập tôi” cho thấy chị là người có cái nhìn bao dung với người chồng mình. Chị thấy người
đàn ông đáng thương, đáng được cảm thông; chính cuộc sống nghèo khổ đã biến anh ta thành kẻ ác. Đồng
thời chị cũng nhận mọi lỗi về mình: “cái lỗi chính là đám đàn bà chúng tôi ...”, “giá tôi đẻ ít đi”. Chị luôn
coi chồng là người bạn đời thân thiết: cùng chèo chống con thuyền trong lúc phong ba, cùng nuôi con, mưu
sinh trong cõi đời cơ cực, ...
- Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời. Trước cái nhìn đầy
thành kiến về việc “đi lính ngụy” và ngây thơ trong giải pháp “lên bờ mà ở”, hay việc không thể hiểu chuyện
“bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu... Giá mà
lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà
đánh...” của Phùng và Đẩu, chị trở nên sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời: việc làm nhà trên đất, ở một chỗ đâu có
thể làm nghề thuyền lưới vó. Chị hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bỏ người
chồng vũ phu, tàn bạo. Song chị càng càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Chị rút ra từ cuộc đời nhọc
nhằn và lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của cuộc sống đời thường: “đám đàn bà hàng chài
ở thuyền chúng tôi cần phải có đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế như vậy, cần có
một người đàn ông để chống chọi, để làm một chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu.
- Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi. Cuộc
sống của người đàn bà ấy đau khổ quá nhiều và hạnh phúc thì quá hiếm. Chị cũng hiểu được rằng được làm
mẹ là một niềm tự hào: “Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên
phải gánh lấy cái khổ”. Chính vì điều này mà chị rất nâng niu, chắt chiu hạnh phúc, “những giây phút vợ
chồng con cái vui vẻ hòa thuận” bên nhau. Niềm vui lớn nhất của người đàn bà là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi
chúng nó được ăn no”. Với những kiếp người nhọc nhằn đó nói đến niềm vui quá ư là xa xỉ. Sự tận tụy hy
sinh cho chồng, cho con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đây chính là sức mạnh mạnh mẽ
nâng đỡ người đàn bà: “Lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên một nữ cười”. Quan
niệm hạnh phúc của người ta nhiều khi thật giản đơn, khát vọng hạnh phúc nhỏ bé quá mà vẫn nằm ngoài
tầm tay của họ.
* Đánh giá nội dung, tư tưởng
- Cuộc đời của người đàn bà hàng chài không phải là một cuộc đời riêng rẽ mà là cuộc đời chung của rất
nhiều con người Việt Nam ta thời bấy giờ, là cuộc đời của rất rất nhiều người phụ nữ miền biển từ bao đời
nay, đắng cay khổ cực, nhẫn nhục và hy sinh nhiều điều vì gia đình. Thế nhưng ẩn khuất sâu bên trong cái
vẻ lam lũ, xấu xí và thô kệch ấy là một tâm hồn rất đáng trân trọng và đáng quý, họ có tấm lòng yêu thương
gia đình, con cái sâu sắc, biết thấu hiểu, hy sinh và sẻ chia, suy cho cùng cuộc đời họ là chuỗi những hi sinh
cho những con người bên cạnh mình, họ luôn rộng lượng vì người khác còn để bản thân mình bị thiệt thòi
mà vẫn luôn cảm thấy hạnh phúc. Mở ra cho người đọc những góc nhìn mới, những tư duy mới mẻ về cuộc
đời và số phận của con người trong xã hội.
- Qua câu chuyện người đàn bà ở tòa án huyện, Nguyễn Minh Châu giúp ta nhận ra cái phức tạp ở đời sống
con người với những hiện tượng không dễ để đánh giá, những mối quan hệ không dễ để cắt nghĩa, lý giải.
Đối mặt với cuộc sống như thế, người nghệ sỹ phải có một cái nhìn vừa tỉnh táo, vừa thấu suốt nhân tình bởi
chỉ có cái nhìn như thế mới có thể phát hiện ra những khiếm khuyết, những điều tệ hại cần loại bỏ trong con
người và cả những vẻ đẹp ẩn chứa trong vẻ ngoài thô kệch. Những phát hiện về vẻ đẹp của con người trong
tác phẩm đã đem lại cho người đọc một cảm giác ấm áp, một niềm tin vào con người sau những đắng chát
và gai góc của cuộc sống.
Nghệ thuật

45
- Nguyễn Minh Châu đã rất chú trọng trong việc miêu tả nhân vật. Tác giả đã dùng biện pháp đối lập giữa
hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữ ấy để làm nổi bật lên những phẩm
chất cao thượng đáng được ngợi ca. - Xây dựng tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện sâu sắc về đời
sống và con người; tình huống nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc đời.
- Nghệ thật khắc họa nhân vật, sử dụng ngôn ngữ linh hoạt phù hợp với tính cách nhân vật.
- Nghệ thuật kể chuyện: sinh động; người kể chuyện là nhân vật Phùng tạo ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo,
có khả năng khám phá đời sống; lời kể khách quan, chân thực, thuyết phục.
Kết bài
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa, cụ thể qua đoạn văn nói về câu chuyện người đàn bà hàng chài ở tòa án, tác
giả không chỉ bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của con người mà còn là cái nhìn ấm áp trước vẻ
đẹp tâm hồn con người lao động, thức tỉnh con người về cách nhìn nhận cuộc đời. Qua cuộc đời của người
đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự
nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Truyện đậm chất
tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

ĐỀ 4: Cảm nhận những suy nghĩ và khám phá của nghệ sỹ Phùng trong đoạn văn sau
Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều
nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ , tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi
vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và
nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn
bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt
sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên
mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…
Mở bài
- Nguyễn Minh Châu là một trong số “những nhà văn mở đường tài hoa và tinh anh nhất”. Ông luôn thiết tha
truy tìm những hạt ngọc ẩn giấu nơi bề sâu tâm hồn.
- Chiếc thuyền ngoài xa in trong tập Bến quê, tác phẩm đem đến cái nhìn đúng đắn về cuộc sống và con
người.
- Đoạn kết tác phẩm nói về tấm ảnh trắng đen được chọn trong bộ lịch năm ấy và những suy nghĩ, khám phá
của nghệ sỹ Phùng về nghệ thuật và cuộc sống đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc đặc
biệt là giá trị mà nó mang lại cho độc giả.
Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác (xem đề 1)
- Tóm tắt tác phẩm (xem đề 1)
2. Nội dung chính
* Vẻ đẹp và ý nghĩa thực của bức ảnh đối với Phùng
- Tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa của Phùng có giá trị nghệ thuật cao, có giá trị cả về mặt thương mại lẫn
nghệ thuật, được những người có con mắt thẩm mỹ và chuyên môn đánh giá cao: “Những tấm ảnh tôi mang
về… rất bằng lòng”.
- Tấm ảnh có giá trị lâu bền, được mọi người yêu thích, được treo rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình
sành nghệ thuật. Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức Phùng đã bỏ ra để “phục kích” nhiều ngày mới
“chộp” được: “Không những trong bộ lịch năm ấy… sành nghệ thuật”. Đó là một cảnh đắt trời cho, một vẻ
đẹp toàn bích hiếm có, mà có lẽ đời nghệ sĩ khó có thể gặp lần hai. Thế nhưng đằng sau đó là cả một câu
chuyện, cả một cuộc đời nhiều đau khổ, cả một góc khuất của xã hội lúc bấy giờ:
+ Cảnh một người đàn bà làng chài xấu xí, thô kệch bị người chồng cục súc vũ phu hành hạ, nhiếc móc
không thương tiếc.
+ Cảnh đớn đau khi người phụ nữ câm lặng chịu nhục, đứa con trai chấp nhận tiếng bất hiếu để bảo vệ mẹ.
+ Là cả một câu chuyện rất dài về cuộc đời của một người đàn bà miền biển với đức hy sinh và vẻ đẹp tâm
hồn trân quý.
- Nghệ sĩ Phùng đặc biệt ấn tượng về hiệu ứng màu sắc lúc anh chụp ảnh, là niềm hân hoan khi anh phát
hiện ra vẻ đẹp tuyệt trần của ngoại cảnh. Phải chăng tác giả muốn nói sau khi tước bỏ mọi lớp sơn hào
nhoáng bên ngoài, cái chất thật của cuộc đời khi hiện ra chỉ là hai màu đen trắng nhưng nó không hoàn toàn
xám xịt, đen tối mà nếu để hết tâm trí nhìn ngắm, người ta vẫn có thể phát hiện ra những điểm hồng nào đó
như cuộc đời thầm lặng, vô danh của người phụ nữ kia … có rất nhiều phẩm chất đáng quý: “…tuy là ảnh
46
đen trắng… màu hồng hồng của ánh sương mai”. Đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu
tượng nghệ thuật.
- Bản thân Phùng khi đứng trước bức ảnh để đời ấy, anh không chỉ có cảm nhận của một người nghệ sĩ đơn
thuần yêu cái đẹp, mà nó còn là một bài học, một phát hiện mới trong cuộc đời:
+ Đối với vẻ đẹp toàn bích, hiếm có của bức ảnh anh dường như lại không hài lòng, thậm chí có phần hụt
hẫng và tiếc nuối.
+ Bởi vì mỗi lần “ngắm kĩ” rồi lại “nhìn lâu hơn”, Phùng còn nhìn thấy từ tấm ảnh, đằng sau tấm ảnh, hình
ảnh người đàn bà hàng chài, những con người khốn khổ… Đó là hiện thực đời sống. Nghệ thuật phải bắt
nguồn từ cuộc đời, từ hiện thực đời sống: “…và nếu nhìn lâu hơn… đang bước ra khỏi tấm ảnh”.
* Hình ảnh người đàn bà làng chài sau bức ảnh
Hình ảnh người đàn bà cứ hiện lên trong sự gợi nhớ của Phùng sau mỗi lần ngắm nhìn vẻ đẹp của bức ảnh,
anh luôn bị ám ảnh bởi cuộc sống gia đình hàng chài. Đó là một người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ
đời. Chị là đại diện cho những kiếp người lao động vất vả trăm chiều sau chiến tranh: đói nghèo, khổ cực,
lam lũ: “… một người đàn bà vùng biển cao lớn… kéo lưới suốt đêm”. Hình ảnh người đàn bà hàng chài thể
hiện nhận thức một cách rõ rệt của nghệ sỹ Phùng về thực trạng cuộc sống nhân dân và những trăn trở về
một giải pháp để thay đổi nó.
* Cái nhìn lạc quan, tràn đầy niềm tin của nghệ sỹ Phùng
“Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…”. Hình
ảnh người đàn bà hang chài là biểu tượng của những con người vô danh, thầm lặng trong dòng chảy cuộc
sống, số phận của nhân vật. Những bước đi chắc chắn hòa lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài thể
hiện niềm tin của Phùng về sự hòa nhập của họ trong hành trình đi lên của cuộc sống.
* Mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống
Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lí tưởng như nghệ
thuật. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng bị ám ảnh mỗi khi nhìn lại tấm ảnh, vì có thể anh nghĩ rằng tấm ảnh
đó sang trọng quá, xa cách quá với cuộc sống của những người lao động nghèo khổ kia. Nó chỉ là cái vỏ bọc
của những mảnh đời bất hạnh mà những người không trực tiếp chứng kiến như anh thì sẽ không bao giờ cảm
nhận được một cách đầy đủ đằng sau tấm ảnh kia chứa đựng những gì. Giữa nghệ thuật và cuộc sống vẫn
còn một khoảng cách. Anh muốn thấu hiểu, chia sẻ, cảm thông nhiều hơn với nỗi đau của người khác bằng
tất cả tấm lòng, vì thế mà anh “ngắm kĩ” rồi lại “nhìn lâu hơn”, Phùng muốn đào bới những gì trong một tấm
ảnh rất quen thuộc của chính mình? Âu đó cũng là cái tâm của người say mê nghệ thuật. Có lẽ vì vậy mà
Phùng dường như còn muốn làm điều gì xa hơn, cụ thể hơn chăng để cho nghệ thuật gắn liền với cuộc đời.
Bằng không thì tấm ảnh đẹp như một giấc mơ đó mãi mãi vẫn là Chiếc thuyền ngoài xa!
* Quan niệm về nghệ thuật của nhà văn
Những ấn tượng của Phùng đã thể hiện quan điểm nghệ thuật của tác giả: nghệ thuật không thể xa cách với
hiện thực nhọc nhằn, cay cực của con người. Nghệ thuật phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp
phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Người nghệ sĩ phải có tấm lòng
biết trăn trở về số phận; phải nhìn cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và và phải dũng cảm
nhìn thẳng vào hiện thực. Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính phải là tác phẩm thể hiện
được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi
người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và quá trình
lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ.
Nghệ thuật:
- Truyện được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn: mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà
ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện. Giọng văn trầm lắng, suy tư, nhiều dư vị,
nhiều liên tưởng bất ngờ
- Xây dựng tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện sâu sắc về đời sống và con người; tình huống
nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc đời.
- Nghệ thật khắc họa nhân vật, sử dụng ngôn ngữ linh hoạt phù hợp với tính cách nhân vật.
- Nghệ thuật kể chuyện: sinh động; người kể chuyện là nhân vật Phùng tạo ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo,
có khả năng khám phá đời sống; lời kể khách quan, chân thực, thuyết phục.
Kết bài
Đoạn kết không chỉ khép lại câu chuyện mà còn mở ra một hướng mới cho số phận của con người. Đoạn kết
đã tổng hợp lại toàn bộ ý đồ của tác giả cho những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật. Đó là cái
nhìn đa chiều, ở các cự li khác nhau, để phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài của cuộc sống và con người. Phải
chăng sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin vào cuộc
sống, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao dung của người phụ nữ?

47
Đó không phải là vẻ đẹp chói chang, hào nhoáng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam
lũ của đời thường.

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT - Lưu Quang Vũ

Đề 1: Phân tích đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt, từ đó rút ra triết lý nhân
sinh mà nhà viết kịch Lưu Quang Vũ gởi gắm.
Hồn Trương Ba: (ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy) Không! Không! Tôi không muốn sống như thế
này mãi! (nhìn chân tay, thân thể) Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái
thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình
thù riêng nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!
Xác hàng thịt: (bắt đầu) Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách
ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác...
Hồn Trương Ba: A, mày cũng biết nói kia à? Vô lý, mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mà chỉ
là xác thịt âm u đui mù...
Xác hàng thịt: Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói
ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của
ông đấy!
Hồn Trương Ba: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có
cảm xúc!
Xác hàng thịt: Có thật thế không?
Hồn Trương Ba: Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn
ngon, thèm rượu thịt…
Xác hàng thịt: Tất nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: Khi ông ở bên nhà tôi... Khi ông đứng bên cạnh
vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại... Đêm hôm đó, suýt nữa thì...
Hồn Trương Ba: Im đi! Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày...
Xác hàng thịt: Thì tôi có ghen đâu! Ai lại ghen với chính thân thể mình nhỉ! Tôi chỉ trách là sao đêm ấy ông
lại tự dưng bỏ chạy, hoài của!... Này, nhưng ta nên thành thật với nhau một chút: Chẳng lẽ ông không xao
xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông
lâng lâng cảm xúc sao? Để thoả mãn tôi, chẳng lẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì? Nào, hãy thành thật
trả lời!
Hồn Trương Ba: Ta... ta... đã bảo mày im đi!
Mở bài
Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt Nam những năm tám mươi
của thế kỷ XX. Ông được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại.
Tác phẩm của ông toát lên một ý vị triết lý và nhân sinh về đời người, kiếp người. Ông có nhiều tác phẩm
kịch gây chấn động
dư luận, trong đó có vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Trong đoạn trích (cảnh 7) của vở kịch, tác giả đã
diễn tả sâu sắc bi kịch “tha hóa” của nhân vật Hồn Trương Ba, một con người phải sống “bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo”. Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, được
sáng tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả. Từ cốt truyện dân gian, Lưu
Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục
sống bình thường, hạnh phúc khi hồn được nhập vào thân xác anh hàng thịt. Ở đây, tác giả lại
tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò của Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên
ngoài một nẻo”.
- Tóm tắt tác phẩm: Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh
nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời
khuyêncủa “tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục
sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch
cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác
hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt,
đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác
giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương
48
Ba.
2. Nội dung chính
- Đoạn trích là phần đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hang thịt, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở
kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân
vật Hồn Trương Ba ngàycàngtrở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình,
muốn thoát ra khỏi nghịch cảnh trớ trêu. Đó là bi kịch “tha hóa” của hồn Trương Ba.
- Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba “ ngồi ôm đầu
một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: “Không. Không! Tôi không muốn sống
như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! chán lắm rồi!”. Tư thế “ôm đầu”
diễn tả những dằn vặt nội tâm trong thời gian dài và đi đến một quyết định dứt khoát, mang tính bản lề: “vụt
đứng dậy”. Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu cảm
thán ngắn “chán lắm rồi!”, điệp từ “không” dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải. Hồn bức bối bởi
không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa.
Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm: “Cái thân thể kềnh càng thô lỗ Ba cũng càng lúc càng
rơi vào trạng thái tuyệt vọng.
→ Sự phân tách và đối đầu giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt rước hết có thể hiểu là sự tranh cãi quyết
liệt giữa một bên là hồn Trương Ba (tượng trưng cho sự cao khiết, cho đạo đức, cho “phần Người” chân
chính của mỗi con người) và một bên là xác hàng thịt (tượng trưng cho bản năng, cho những ham muốn trần
tục, là “phần Con” tầm thường ẩn nấp trong mỗi con người).
- Nội dung lời nói của hồn Trương Ba:
+ Hồn có cơ hội bày tỏ tâm trạng uất ức, tức giận vì phải chung sống với xác thô lỗ, tầm thường, dung tục.
Hồn cũng không che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với xác: “Mày không có tiếng nói, mà chỉ là xác thịt
âm u đui mù...”, “Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm
xúc!”; kẻ có nhu cầu vật chất thấp kém gần với con thú: “Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất
cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…”; sức mạnh thể chất gắn với sự tàn bạo…
+ Hồn cũng phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng định linh hồn có đời sống riêng: “Ta vẫn
có một đời sống riêng: Nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…” Tưởng rằng, hồn sẽ phần nào giải tỏa được
nỗi đau khổ bị dồn nén bấy lâu khi có cơ hội cất lên tiếng nói của mình.
-Nội dung lời nói của Xác hàng thịt:
+ Xác âm u, đui mù nhưng có thể lấn át, sai khiến, thậm chí đồng hóa linh hồn cao khiết. Hồn không thể còn
nguyên vẹn, trong sạch, khi phải chung sống và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục: cái đêm khi
ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa
thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là “phàm tục”. Đó là cái lần
ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”,… Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến
Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Rõ ràng, Hồn Trương Ba đã nhiễm những thói hư tật xấu
của xác hàng thịt.
+ Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lý lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng:
nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…”. Trong cuộc đối thoại này xác không bị động, không nhún nhường.
Ngược lại, xác hoàn toàn chủ động, thắng thế nên có thái độ khi thì ngạo nghễ, thách thức, hể hả tuôn ra
những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, châm chọc, khi thì ranh
mãnh với những câu hỏi mang tính phản biện đầy bỡn cợt, châm chọc. Những lý lẽ và dẫn chứng mà Xác
hàng thịt đưa ra khiến Hồn Trương Ba không thể phủ nhận được. Trong khi đó, Hồn chỉ buông những lời
thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
→ Như vậy, Hồn Trương Ba đau đớn, dằn vặt, khao khát khẳng định mình vẫn là mình, nhưng cuối cùng
phải thừa nhận rằng, mình đang sống nhờ thể xác kẻ khác và bị thể xác đó điều khiển, dẫn đến sự tha hoá
không có cách gì chuyển biến được. Bi kịch của Hồn Trương Ba, vì thế, không những không được giải tỏa,
mà còn trở nên đau đớn, xót xa hơn.
* Đánh giá ý nghĩa triết lý nhân sinh từ cuộc đối thoại
- Được sống làm người là rất quý giá song được sống đúng là mình, sống trọn vẹn giá trị mà mình vốn có và
theo đuổi còn quý giá hơn.
Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác và tâm hồn.
- Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người, mặt khác ông vạch ra
quan niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và những nhu cầu của thể xác.
- Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số phận, chống lại sự giả
tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
→ Tư tưởng có ý nghĩa thực tế rất cao bởi đây không chỉ là vấn đề của nhân vật Trương Ba mà còn là vấn
đề của con người hiện đại.
49
Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng cuộc đối thoại:
+ Tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc dẫn dắt xung đột kịch, giàu tính biểu tượng. Đó là xung đột giữa
cái phàm tục với cái thanh cao, giữa nội dung và hình thức, giữa linh hồn và thể xác. Đây cũng là xung đột
dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người.
+ Xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời thoại giàu tính cá thể và
hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài và hành động bên trong.
+ Sắc thái đa dạng của lời thoại, ngôn ngữ kịch: vừa có màu sắc mỉa mai, dí dỏm, vừa mang tính chất triết lý
nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân vật, sát với đặc trưng thể loại.
Kết bài
Tóm lại, trong đoạn trích, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện một cách sâu sắc và sinh động bi kịch của nhân
vật Hồn Trương Ba, bi kịch của một con người không được sống toàn vẹn mà mình phải sống “bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo”. Tác giả cũng gửi gắm sự cảnh báo của mình: khi con người sống trong sự
dung tục thì chắc chắn dung tục sẽ ngự trị và thắng thế, dẫn con người đi vào sự tha hóa, lấn át dần những sự
thanh cao, trong sạch và tốt đẹp.
Qua bi kịch của Hồn Trương Ba, nhà viết kịch tài năng đã gửi tới độc giả nhiều thế hệ những triết lý nhân
sinh sâu sắc về hạnh phúc, sự sống và cái chết, đồng thời phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống
lúc bấy giờ, góp phần đấu tranh chống lại sự tha hoá ở mỗi con người trong đời sống hiện nay.
Đề 2: Phân tích đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân, từ đó rút ra triết lý nhân sinh mà
nhà viết kịch Lưu Quang Vũ gởi gắm
Mở bài
Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt Nam những năm tám mươi
của thế kỷ XX. Ông được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại.
Tác phẩm của ông toát lên một ý vị triết lý và nhân sinh về đời người, kiếp người. Ông có nhiều tác phẩm
kịch gây chấn động dư luận, trong đó có vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Trong đoạn trích (cảnh 7) của
vở kịch, tác giả đã diễn tả sâu sắc bi kịch “bị chối bỏ” (không được thừa nhận) của nhân vật Hồn Trương Ba.
Qua đó, nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ cũng gởi gắm triết lý nhân sinh sâu sắc.
Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, được
sáng tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả. Từ cốt truyện dân gian, Lưu
Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lý nhân văn về cuộc đời
và con người. Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc khi hồn
được nhập vào thân xác anh hàng thịt. Ở đây, tác giả lại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ,
giày vò của Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” và người thân xa lánh.
- Tóm tắt tác phẩm: (xem đề 1)
2. Nội dung chính
- Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và người thân: ngay sau cuộc đối thoại với xác
hàng thịt, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Lúc này Hồn Trương Ba trong
xác anh hàng thịt đang ngồi lặng lẽ bên cái chõng thì người thân xuất hiện.
- Đầu tiên là người vợ bước vào hỏi: “Cái Gái chưa về hả ông?” Hồn Trương Ba thẫn thờ trả lời: “Chưa”.
Vợ Trương Ba tiếp tục giải thích: “Nó sang nhà cu Tị từ sớm. Cu Tị bị ốm nặng”. Hồn Trương Ba không
giấu sự ngạc nhiên nói: “Ốm nặng? Vậy mà tôi không biết”. Hai lời thoại đầu chỉ mang tính giao tiếp thông
thường chẳng một dấu hiệu gì mang đến cơn sóng gió tiếp theo cho Trương Ba lúc này thì từ lời thoại thứ
ba: “Ông bây giờ con biết đến ai nữa. Cu Tị ốm thập tử nhất sinh… Khổ thằng bé ngoan là thế… Cái thân
tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh”. Đây là sự thay đổi hoàn toàn cảm xúc của cái hờn trách, giận dỗi
và chua xót của cái tủi thân tủi phận mà bất lực.
Không để vợ nói tiếp nữa, Hồn Trương Ba cắt ngang: “Sao bà lại nói thế?”. Nghe chồng nói, người vợ đi
thẳng vào vấn đề mà bà đang ấm ức: “Tôi nói thật đấy… Ông Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kĩ… Có lẽ tôi phải
đi”. Hồn Trương Ba hỏi lại: “Đi đâu?”. Người vợ tiếp tục nói thực lòng với bao hờn dỗi: “ Chưa biết! Đi cấy
thuê làm mướn… đi biệt để ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt… Còn hơn là thế này? ”. Nghe
vợ nói, Hồn Trương Ba chỉ còn biết kêu gào: “Bà! Sao lại đến nông nỗi này?”. Đó là sự bất lực, đau đớn của
hồn Trương Ba trước lời nói của người vợ. Để rồi người vợ phải lên tiếng giải thích: “Chỉ tại bây giờ… ông
đâu còn là ông Trương Ba nữa… Thằng Cả đã quyết định bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng cửa
hàng thịt”. Hồn Trương Ba quá ngạc nhiên nói: “Thật sao? Không được!”. Nghe chồng phản đối bà vợ:
“Ông bảo không được nhưng tôi biết sự thể sẽ dẫn đến như vậy. Ông sẽ đành ưng chịu như vậy”

50
Người vợ của Trương Ba dù rất mực yêu thương chồng, giàu lòng vị tha nhưng cuối cùng vẫn rơi vào sự bế
tắc. Đối với người vợ, Trương Ba trong xác anh hàng thịt đã dần trở thành một kẻ vô tâm, vô tình, chỉ biết
đến bản thân, một kẻ vị kỷ. Những dấu ba chấm kết hợp với câu cảm thán và các từ “rưng rưng… khóc…”
đã diễn tả đầy đủ sự buồn bã, bất lực. Trong cuộc đối thoại với vợ, Hồn Trương Ba chỉ sử dụng câu ngắn,
câu hỏi liên tiếp cùng với đó là các câu cảm thán đã cho thấy sự thảng thốt, ngỡ ngãng tê xót của ông. Kết
thúc đợt thoại này Hồn Trương Ba chỉ còn biết ngồi xuống tay ôm đầu.
- Khi Hồn Trương Ba ngẩng lên thì thấy cái Gái đứng trước mặt. Thái độ cái Gái “với cái nhìn lặng lẽ, soi
mói” cho thấy sự ngờ vực của nó đã lên tới đỉnh điểm. Ông đã kêu đứa cháu như là để cầu cứu: “Gái,
cháu!”. Đó đã không còn chỉ là lời gọi thông thường nữa mà là tiếng kêu của một trái tim được phát ra từ
miệng khát khao có một điểm tựa, sự đồng cảm cầu cứu. Có lẽ lúc đó hồn Trương Ba tưởng rằng đứa cháu
gái bé bỏng sẽ sà vào lòng thì trái lại, cái Gái đã phản ứng quyết liệt và dữ dội: Hành động “ lùi lại” của nó
đã tạo nên một khoảng cách không chỉ về mặt không gian mà còn cả về tâm hồn giữa ông và cháu, sau đó lại
nói: “Tôi không phải là cháu của ông”. Câu nói phủ định tình thân như là gáo nước lạnh phũ phàng tạt thẳng
vào mặt Hồn Trương Ba. Nhưng Hồn Trương Ba vẫn giữ bình tĩnh dịu giọng nhẫn nhục giải thích, khẳng
định: “Ông đúng là ông nội cháu”.
Thế nhưng cái Gái càng quyết liệt hơn, nó khẳng định mạnh mẽ đồng thời kèm theo lời đe dọa: “Ông nội tôi
chết rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông! Ông dám nhận là ông nội, dám đụng
vào cây cối trong vườn của ông nội tôi”. Trước sự quyết liệt ấy, Hồn Trương Ba cố chứng minh và giải
thích: “Dù sao... Cháu... Sáng nào ông cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài vườn, cháu không thấy
sao: Chỉ có ông nội cháu mới biết quý cây như thế...”. Cố giải thích cho đứa cháu thì Trương Ba càng về sau
giọng nói càng ngập ngừng; những dấu ba chấm xuất hiện liên tục đã là sự ngập ngừng bế tắc không giải
thích được. Trước lời giải thích và bằng chứng của Hồn Trương Ba, cái Gái cũng đưa ra lý lẽ và bằng chứng
nhưng là để phủ định: “Ông mà quý cây à? Sáng qua, tôi để ý lúc ông chiết cây cam, bàn tay giết lợn của
ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm! Ông nội
đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy!”.
Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người
ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực
khước từ tình thân. Chính vì quá yêu thương nên giờ đây nó không thể chấp nhận, cũng không thể nào mở
lòng mình đớn nhận con người trước mặt mình cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái
xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội.
Nó còn hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc,
cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến
thành sự kết tội, ruồng bỏ xua đuổi người thân yêu: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi”.
→ Như vậy cái Gái là người yêu thương gắn bó với ông hết mực. Ông mất, đêm nào nó cũng khóc, nâng niu
từng chút kỉ niệm của ông. Bây giờ lại phản ứng dữ dội. Những lời nói của đứa cháu nhỏ, thêm một lần nữa
xoáy khoét vào nỗi đau sâu thẳm của ông, để ông cảm nhận thấm thía bi kịch bị chính những người thân yêu
chối bỏ.
- Cuối cùng là cuộc đối thoại với chị con dâu. Sau cuộc đối thoại với cái Gái, chị con dâu ở trong nhà bước
ra nghe thấy những lời cuối cùng con. Chị vừa gọi theo con gái: “Gái, quay lại đây, Gái”. Sợ cha chồng
buồn, chị lại quay sang giải thích, thậm chí khẳng định tình cảm chân thành của cái Gái với ông nội: “Thầy,
thầy đừng giận con trẻ… Chỉ tại nó nghĩ thầy không phải là ông nội nó, con dỗ dành thế nào nó cũng không
nghe (rưng rưng) khổ thân thầy”. Trước những lời an ủi ấy, Hồn Trương Ba cảm thấy ấm lòng: “Đến lúc
này, cả nhà chỉ một mình con vẫn thương thầy như xưa”. Người con dâu khẳng định thêm: “Hơn xưa nữa…”
bởi chị cảm thông sâu sắc với hoàn cảnh của cha chồng lẫn mẹ chồng.
Tuy nhiên cũng không kìm nén được nỗi đau khổ, chị buột miệng nói ra sự thật phũ phàng: “Thầy bảo con:
Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn
thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhoà mờ dần đi, đến nỗi có lúc
chính con cũng không nhận ra thầy nữa... Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được
thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi? ”. Lời nói của
chị vừa bộc lộ nỗi niềm thương cảm, vừa phơi bày sự thật về thay đổi của cha chồng, vừa bộc bạch sự đau
đớn đến bất lực trước sự thật phũ phàng ấy!
Trước lời nói của chị con dâu, nỗi tuyệt vọng của Hồn Trương Ba được thể hiện qua sắc mặt lạnh ngắt như
tảng đá. Ông buồn rầu và thất vọng nói: “Giờ thì con cũng…”. Người con dâu vội chữa lại nói: “Thầy đừng
giận nếu con đã nói điều gì không phải”. “Không ta không giận. Cảm ơn con đã nói thật. Bây giờ thì đi đi,
cho ta được ngồi yên một lát”.
→ Trương Ba như được an ủi phần nào, bởi nhận ra cái Gái rất thương ông, ông nghĩ cô con dâu sẽ là điểm
tựa để sẻ chia tâm sự. Nhưng trước những lời nói vừa yêu thương, vừa thẳng thắn của cô con dâu, Trương
51
Ba lặng ngắt như đá tảng đau khổ đến cùng cực đầy sợ hãi. Có lẽ lúc ấy Trương Ba giống như người đứng
trước một cái vực thẳm sâu hoắm, khắc khoải cần một ai đó níu giữ nhưng kết quả vẫn là sự bế tắc đi vào vô
vọng.
 Như vậy, những người trong gia đình Trương Ba, người tủi thân (vợ), người thì tức tưởi xua đuổi (cháu
gái) ; người thì lại thấu hiểu sẻ chia (con dâu) nhưng họ vẫn nhận ra và đau khổ trước sự thay đổi của
Trương Ba. Tuy yêu quý, muốn níu giữ Trương Ba xưa tìm giải pháp để thoát khỏi hoàn cảnh nhưng trớ trêu
thay đều bất lực. Đó là bi kịch của Hồn Trương Ba càng bị đẩy lên tới điểm đỉnh. Những người thân thiết
nhất cũng không chấp nhận nỗi tình trạng hai mảnh hồn, người bất nhất của chồng, cha, ông mình. Không
còn gia đình nền tảng của một sự bấu víu hi vọng vào mặt đất không có ý nghĩa và dường như cũng chẳng
còn tồn tại. Trương Ba hiểu mình đã mất tất cả rơi vào trạng thái hoàn toàn cô độc.
Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt
vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế
rồi, cái thân xác không phải của ta ạ... Nhưng lẽ nào ta tại phải chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh
mất mình? Chẳng lẽ không còn cách nào khác! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào
khác? Có thật không còn: cách nào khác? Không cần đến đời sống do mày đem lại! Không cần! ”. Đây là lời
độc thoại có tính chất quyết định tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
* Đánh giá ý nghĩa triết lý nhân sinh từ cuộc đối thoại
- Được sống làm người là rất quý giá song được sống đúng là mình, sống trọn vẹn giá trị mà mình vốn có và
theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể
xác và tâm hồn.
- Việc không được sống là chính mình không chỉ gây đau khổ cho bản thân mà còn ảnh hưởng tới những
người thân xung quanh.
- Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh số phận, chống lại sự giả
tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
→ Tư tưởng có ý nghĩa thực tế rất cao bởi đây không chỉ là vấn đề của nhân vật Trương Ba mà còn là vấn
đề của con người hiện đại.
Nghệ thuật xây dựng cuộc đối thoại:
+ Tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc dẫn dắt xung đột kịch, giàu tính biểu tượng.
+ Lời thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài
và hành động bên trong.
+ Sắc thái đa dạng của lời thoại, ngôn ngữ kịch: vừa có màu sắc mỉa mai, dí dỏm, vừa mang tính chất triết lý
nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân vật, sát với đặc trưng thể loại.
Kết bài
Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân giúp ông hiểu tất những gì mình đã, đang gây ra và có lẽ nếu
tồn tại tiếp tục bi kịch ấy sẽ còn tiếp diễn và thiêu chiều hướng tiêu cực hơn nữa. Trương Ba sống làm gì khi
mà điều hồn còn sống là để mang lại hạnh phúc cho người thân hoàn toàn trái ngược lại, vô nghĩa lý. Từ đó
hồn Trương Ba suy nghĩ về việc lựa chọn cách lựa chọn cách sống, một cách phục sinh tâm hồn như đã mà
dần, tan biến dân ấy mở ra cho Trương Ba những thử thách mới, lựa chọn mới trong cuộc đối thoại với Đế
Thích.
Con người có thể bị xã hội chối từ nhưng không thể bị gia đình ruồng bỏ. Máu mủ ruột thịt chính là những
điều không bao giờ có thể xóa nhòa. Nhưng nếu đã chịu bi kịch bị ruồng bỏ từ gia đình, đó là bi kịch lớn
nhất của đời người. Bởi vậy, con người phải sống sao để cho dù mất tất cả, gia đình vẫn luôn dang rộng
vòng tay chấp nhận ta. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình đã cho thấy
điều đó.

Đề 3: Phân tích đoạn đối thoại sau giữa hồn Trương Ba và Đế Thích, từ đó rút ra triết lý nhân sinh
mà nhà viết kịch Lưu Quang Vũ gởi gắm.
Đế Thích: Ông Trương Ba! (Thấy vẻ nhợt nhạt của hồn Trương Ba). Ông có ốm đau gì không? Một tuần
nay tôi bị canh giữ chặt quá, không xuống đánh cờ với ông được, nhưng ông đốt hương gọi, đoán là ông có
chuyện khẩn, tôi liều mạng xuống ngay. Có việc gì thế?
Hồn Trương Ba: (Sau một lát) Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân Anh hàng thịt được nữa,
không thể được.
Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu?
Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đàng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi
đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng
52
phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị
gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông
nữa đâu.
Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, dằng này đến cái thân
tôi cũng sống nhờ Anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông
chẳng cần biết!
Đế Thích: (Không hiểu) Nhưng mà ông muốn gì?
Hồn Trương Ba: Ông từng nói: Nếu thân thể người chết còn nguyên vẹn, ông có thể làm cho hồn người đó
trở về. Thì đây, (Chỉ vào thân mình) thân thể Anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi, tôi trả lại cho anh ta.
Ông hãy làm cho hồn anh ta sống lại với thân xác này.
Đế Thích: Sao có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cái phần hồn tầm thường của Anh hàng thịt?
Hồn Trương Ba: Tầm thường nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hoà thuận được với thân anh ta, chúng sinh
ra để sống với nhau. Vả lại..còn chị vợ anh ta nữa. Chị ta thật đáng thương…
Đế Thích: Nhưng thế hồn ông muốn trú vào đâu?
Hồn Trương Ba: Ở đâu cũng được, chứ không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi sẽ... tôi sẽ.. nhảy xuống
sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác Anh hàng thịt cũng mất…
Đế Thích: Ông Trương Ba! (Thấy vẻ nhợt nhạt của hồn Trương Ba). Ông có ốm đau gì không? Một tuần
nay tôi bị canh giữ chặt quá, không xuống đánh cờ với ông được, nhưng ông đốt hương gọi, đoán là ông có
chuyện khẩn, tôi liều mạng xuống ngay. Có việc gì thế?
Hồn Trương Ba: (Sau một lát) Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân Anh hàng thịt được nữa,
không thể được.
Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu?
Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đàng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi
đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng
phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị
gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông
nữa đâu.
Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, dằng này đến cái thân
tôi cũng sống nhờ Anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông
chẳng cần biết!
Đế Thích: (Không hiểu) Nhưng mà ông muốn gì?
Hồn Trương Ba: Ông từng nói: Nếu thân thể người chết còn nguyên vẹn, ông có thể làm cho hồn người đó
trở về. Thì đây, (Chỉ vào thân mình) thân thể Anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi, tôi trả lại cho anh ta.
Ông hãy làm cho hồn anh ta sống lại với thân xác này.
Đế Thích: Sao có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cái phần hồn tầm thường của Anh hàng thịt?
Hồn Trương Ba: Tầm thường nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hoà thuận được với thân anh ta, chúng sinh
ra để sống với nhau. Vả lại… còn chị vợ anh ta nữa. Chị ta thật đáng thương…
Đế Thích: Nhưng thế hồn ông muốn trú vào đâu?
Hồn Trương Ba: Ở đâu cũng được, chứ không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi sẽ... tôi sẽ… nhảy xuống
sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác Anh hàng thịt cũng mất…
Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, được sáng
tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang
Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lý nhân văn về cuộc đời và con
người. Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc khi hồn được nhập
vào thân xác anh hàng thịt. Ở đây, tác giả lại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò của
Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” và bị người thân xa lánh. Từ đó, Hồn Trương Ba
đấu tranh để thực hiện khát vọng được sống là chính mình.
- Tóm tắt tác phẩm: (xem đề 1)
2. Nội dung chính
- Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Đế Thích: Sau ba tháng ngụ cư trong xác hàng
thịt, tâm hồn nhân hậu, trong sáng, ngay thẳng của Trương Ba năm xưa, nay phải sống vay mượn, lệ thuộc
nên bị đầu độc bởi sự tầm thường, thô tục của xác thịt. Chìm trong nghịch cảnh của bi kịch không được sống
là chính mình và bi kịch bị người thân chối bỏ, Hồn Trương Ba khao khát tách xa, rời khỏi thể xác thô lỗ:

53
“Ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!”. Cuối cùng, Trương Ba quyết định thắp nén nhang kêu oan hồn Đế Thích
chết đi để trả lại sự trong sáng, vẹn toàn cho tâm hồn.
* Phần đầu của màn đối thoại là cuộc tranh luận về quan niệm sống của Trương Ba và Đế Thích. Qua
cuộc tranh luận ấy, tác giả đề cao quan điểm sống – “phải sống là chính mình”.
- Mở đầu đoạn đối thoại, Trương Ba bày tỏ nguyện vọng với Đế Thích: “Tôi không thể tiếp tục mang thân
anh hàng thịt được nữa, không thể được!”. Lời thoại có tới hai lần phủ định “tôi không thể”; “không thể
được” cho thấy quyết tâm rời bỏ xác hàng thịt là ý chí sắt đá của Trương Ba khi thấm thía nghịch cảnh trớ
trêu của mình.
- Tiếp đó, Trương Ba nêu lên một nhu cầu chính đáng cũng như một quan điểm sống cao đẹp – sống phải là
chính mình: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Câu
nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba, sự bất nhất của bên trong và bên ngoài: “bên trong” là tâm hồn,
tình cảm, suy nghĩ và nhân cách cao đẹp của Trương Ba, tâm hồn là tinh hoa chi phối thể xác, đối lập bên
trong là “bên ngoài” – xác sống của anh hàng thịt Nhưng “bề ngoài” cần hiểu theo nghĩa rộng là hoàn cảnh
sống, bản năng, nhu cầu tự nhiên, khát vọng bản năng. thỏa hiệp với nhu cầu bản năng. Đây là nỗi dằn vặt,
đau khổ và trăn trở của Trương Ba, hai người không thể dung hòa vì không thể có một tâm hồn cao thượng
trong một thân xác tội lỗi. Từ đó, Trương Ba lên tiếng đòi hỏi những nhu cầu chính đáng của chính mình:
“Tôi muốn là tôi toàn vẹn”. Đây là khát vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng sống hòa thuận. “Toàn
vẹn” nghĩa là phải có sự hài hòa giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình thức, giữa thể xác và
tâm hồn. Không thể có sự sống là “hồn và xác”. Cuộc sống không thuận theo tự nhiên, không thuận theo tự
nhiên, sống không được là chính mình là một bi kịch nghiệt ngã.
- Trước những yêu cầu của Trương Ba, Đế Thích cho rằng Trương Ba nên chấp nhận cuộc sống ấy. Đế
Thích chỉ ra rằng không chỉ Trương Ba sống bất nhất từ trong ra ngoài, nhưng ai cũng như vậy, nên hãy biết
thỏa hiệp, học cách chấp nhận. Đế Thích dẫn chứng mình và Ngọc Hoàng không được sống là chính mình:
“Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính
người lắm khi cũng phải vào khuôn ép mình cho xứng đáng với danh hiệu Ngọc Hoàng”. Như vậy, theo Đế
Thích, “không ai được sống là chính mình”. Đế Thích cũng chỉ ra: “Thân thể thật của ông đã tan rữa trong
bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!”. Quan niệm sống của Đế Thích ở trên có nghĩa sống có nghĩa là
tồn tại, còn tồn tại như thế nào thì còn tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện mà con người buộc phải phục
tùng. Đây là một quan niệm sống sai lầm đáng bị lên án.
- Trước quan niệm của Đế Thích, Trương Ba bắt đầu đổi giọng tố cáo Đế Thích: “Sống nhờ đồ đạc, của cải
người khác đã là chuyện không nên, đằng này, đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt ”. Trương
Ba so sánh về đồ đạc, vật chất và bản thân. Việc mượn đồ đạc và của cải vật chất từ người khác là điều
không nên; sống nhờ, sống ký sinh trên cơ thể người khác là một điều đáng xấu hổ đáng lên án. Trương Ba
thẳng thắn: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Dòng
chỉ trích quan niệm sai lầm của Đế Thích bởi suy nghĩ đơn giản về cuộc sống. Với Đế Thích, sự sống là sự
tồn tại, không quan trọng nó tồn tại như thế nào. Đối với Trương Ba, sự sống không chỉ là sự tồn tại về mặt
sinh học, mà còn là sự tồn tại có ý nghĩa.
→ Những lời thoại của Trương Ba và Đế Thích ở phần này chủ yếu thiên về cuộc đấu tranh của Trương Ba
– đó là cuộc đấu tranh vượt lên nghịch cảnh để chiến thắng bản thân bảo vệ linh hồn cao đẹp. Cuộc đấu
tranh này toát lên nhân cách cao thượng và đức hi sinh của Trương Ba.
- Tiếp đó, Trương Ba bày tỏ nguyện vọng: “Thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại
cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta sống lại với thân xác này”. Nhưng Đế Thích đã từ chối vì Đế Thích
cho rằng linh hồn quý giá của Trương Ba không thể thay thế được linh hồn tầm thường của anh hàng thịt.
Trương Ba cho rằng: “Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận được với thân anh ta,
chúng sinh ra để sống với nhau”. Để khẳng định với lòng quyết tâm của mình, Trương Ba tỏ ra mạnh mẽ:
“Nếu ông không giúp… tôi sẽ… nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng
còn, xác anh hàng thịt cũng mất…”. Ý chí quật cường của Trương Ba xuất phát từ khát vọng “được sống là
chính mình”. Và để được toại nguyện, lúc này Trương Ba không còn con đường nào khác ngoài cái chết.
Bởi chỉ khi chết đi, anh mới thực sự là chính mình, mới khôi phục được vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn. Đối
với Trương Ba, thiên đường đẹp nhất, nơi linh hồn có thể trú ngụ sau khi chết, là sống lại trong lòng những
người yêu thương mình.
* Ý nghĩa triết lý nhân sinh từ cuộc đối thoại
- Sự tồn tại của con người bao gồm hai phần: phần Con và phần Người. Phần Con là phụ mang tính bản
năng. Phần Người thuộc về nhân cách, là sự cao quý đẹp đẽ của tâm hồn. Hai phần đã tạo nên con người thật
sự. Ở đây hình ảnh hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phần Ngườivà phần Con. Một bên tượng trưng cho những
gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên thể hiện sự thô tục, thô tục. Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh, không thể có
một tâm hồn cao thượng trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là
54
chính mình, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, bên trong và bên ngoài, nội dung và hình thức trong một thể
thống nhất hoàn chỉnh, không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
- Để sống thật với chính mình, mỗi chúng ta cần biết cách cân bằng giữa việc chăm sóc tâm hồn cũng như
trân trọng và quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu của cơ thể. Qua đó, Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê
phán hai hạng người: một người chỉ biết tu bổ, chạy theo ham muốn vật chất mà không chăm lo đời sống
tinh thần. Loại còn lại luôn coi thường giá trị vật chất, bỏ bê việc chăm sóc bản thân, chỉ mong giữ cho tâm
hồn đẹp (thực chất là lười biếng). Thông qua thể xác và tâm hồn, Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng sống là
chính mình mới là hạnh phúc đích thực của con người. Vì vậy, trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh
với sự thô tục và vượt qua nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của mình. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể là
chính mình – là chính mình hoàn toàn.
Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng cuộc đối thoại:
+ Tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc dẫn dắt xung đột kịch, giàu tính biểu tượng.
+ Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Lời thoại giàu tính cá thể và hành động kịch
logic.
+ Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh và tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện.
+ Có chiều sâu triết học khách quan.
+ Sáng tạo lại cốt truyện dân gian.
Kết bài
Vẻ đẹp tâm hồn là thước đo to lớn giúp cho họ thoát khỏi những thứ dung tục, những ham muốn đời thường
của con người. Được sống là quan trọng nhưng sống là chính mình còn quan trọng hơn, chính vì vậy, Lưu
Quang Vũ đã thể hiện và hản ánh được giá trị hiện thực của xã hội qua những tình huống truyện độc đáo,
qua những mâu thuẫn sâu sắc xuất hiện trong tác phẩm. Cuối cùng thì ông cũng muốn truyền tải thông điệp:
“Dù cuộc sống có khó khăn, trắc trở bạn hãy giữ vững khát vọng được sống là chính mình”. Bởi vậy trong
cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện
nhân cách của bản thân. Có như vậy chúng ta mới được là mình – được là chính mình toàn vẹn.

Đề 4: Phân tích đoạn đối thoại sau giữa hồn Trương Ba và Đế Thích, từ đó rút ra triết lý nhân sinh
mà nhà viết kịch Lưu Quang Vũ gởi gắm.
Hồn Trương Ba: (Nhìn ra ngoài) Từ phía nhà Lụa, mẹ cu Tị. Thằng cu Tỵ ốm nặng. Trời, hay là…
(Cái Gái chạy vào, nước mắt đầm đìa) Cái Gái (Gọi thất thanh) Mẹ, mẹ ơi… Cu Tị… cu Tị chết rồi! (Oà
khóc rồi chạy đi, chị con dâu chạy theo)
Đế Thích: (Nhìn ra ngoài) Cái nhà sau rặng cau kia phải không? Tôi vừa thấy hồn thằng bé bay vụt lên khỏi
mái nhà, tan mờ ra như một làn sương mỏng. Cu Tị là đứa trẻ như thế nào?
Hồn Trương Ba: Con trai độc nhất của chị Lụa. Nó là bạn thân của cái Gái nhà tôi. Thằng bé ngoan lắm,
khôn lắm. Tôi rất quý nó mà nó cũng rất thân với tôi. Dĩ nhiên, đấy là trước kia… Nhưng sao nó lại phải
chết?
Đế Thích: Kiểu này chắc lại do hai ông Nam Tào Bắc Đẩu tắc trách gạch tên bừa, hoặc cũng do bà Vương
Mẫu ép, bà ấy không ưa trẻ con. Lệnh của bà ấy thì chẳng ai cưỡng đựơc. (Bần thần nghĩ ngợi). A hay quá!
Tôi nghĩ ra rồi! ông Trương Ba! Tôi sẽ giúp ông lần nữa! Ngay bây giờ đây, ông sẽ trả cái thân thể này cho
Anh hàng thịt, tôi sẽ làm cho hồn ông nhập vào xác cu Tị. Như vậy Anh hàng thịt được sống, hồn ông vẫn có
chỗ trú mà cái thân thể bé nhỏ của cu Tị cũng không mất đi. Ông thấy được không?
Hồn Trương Ba: Nhập vào xác cu Tị? Tôi?
Đế Thích: Chứ sao? Ông với Anh hàng thịt là hai người xa lạ còn ông với thằng cu Tị lại đã từng quấn quýt
quý mến nhau, ông sống trong thân thể thằng bé chắc sẽ ổn…
Hồn Trương Ba: Ông cho tôi suy nghĩ một lát đã… Việc này bất ngờ quá! (Ngồi xuống, nghĩ ngợi). Nhập
vào cu Tị (Lẩm bẩm). Tôi một ông già gần sáu mươi, cu Tị còn chưa bắt đầu cuộc đời, còn đang tuổi ăn,
tuổi lớn chạy nảy vô tư... Có ổn không nhi? (Nhắm mắt lại) Thử hình dung xem nào... sẽ phảỉ giải thích cho
chị Lụa: Tôi không phải là con chị, chị ấy sẽ không nguôi thương nhớ con... Có khi tôi còn phải sang nhà
chị Lụa ở… Rồi còn hàng xóm, lý trưởng, trương tuần… Bao nhiêu sự rắc rối. bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ
ngợi cư xử thế nào khi chồng mình bố mình mang thân một đứa trẻ lên 10? Làm trẻ con không phải dễ! Mà
cái Gái nhà tôi nó sẽ nghĩ thế nào?
Đế Thích: Chắc nó sẽ thích. Nó thân với cu Tị mà.
Hồn Trương Ba: (Lắc đầu) Sợ chỉ càng oái oăm rắc rối hơn. Trẻ con phải ra trẻ con, người lớn phải ra
người lớn. Thằng cu Tị bỗng thành ông nội, đời nào con bé chịu. Tôi đã lường trước thấy bao sự không ổn,
ông Đế Thích ạ!
55
Đế Thích: Trong thân của đứa bé ông sẽ có cả một cuộc đời trước mặt.
Hồn Trương Ba: Để rồi chẳng bao lâu nữa, bà nhà tôi, bạn bè cùng lứa với tôi như bác Trưởng Hoạt lần
lượt sẽ nằm xuống, mình tôi vẫn phải sống suốt bao năm tháng dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu
sinh. Những gì chúng thích thì tôi ghét những gì tôi thích thì chúng chẳng ưa. Tôi sẽ như ông khách ngồi dai
ở nhà người ta, mọi khách khứa đã về cả rồi, mình vẫn dầm dề nán lại. Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng hoặc sẽ trở nên
thảm bại đáng ghét như kẻ tham lam, một kẻ lí ra phải chết từ lâu rồi mà vẫn cứ sống cứ trẻ khoẻ, cứ ngang
nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời. Vô lý lắm! Không! Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt của cu tỵ
(Nhìn ra ngoài). Tiếng chị Lụa gào khóc nghe đứt ruột! Mất đứa con chị ấy làm sao sống được? (Đột ngột)
Ông Đế Thích? Hồn cu Tị bây giờ ở đâu?
Đế Thích: Tôi đã nói với ông rồi, ra khỏi thân xác hồn chẳng còn là gì nữa!
Hồn Trương Ba: Ông hãy đưa hồn cu Tị về nhập lại vào xác nó, cho nó được sống lại!
Đế Thích: Không được! Việc cu Tị... chắc chắn đã có lệnh của bà Vương Mẫu...
Hồn Trương Ba: Ông hãy cứu sống nó! Ông phải cứu nó! Ông có biết đứa con đối với người mẹ là thế nào
không? Còn to hơn cả ý muốn của bà Tây Vương Mẫu nhà ông. Ông Đế Thích ạ, vì trẻ con ạ. Vì con trẻ!
Ông hãy gúp tôi lần cuối cùng. Tôi sẽ không bao giờ làm phiền ông nữa, không đòi ông điều gì nữa. (Lấy bó
hương ra). Đây! (Bẻ gãy cả bó)
Đế Thích: Ông Trương Ba (Đắn đo rất lâu rồi quyết định) Vì quý mến ông, tôi sẽ làm cu Tị sống lại dù có bị
phạt nặng… Nhưng còn ông, rốt cuộc ông muốn nhập thân thể ai?
Hồn Trương Ba: (Sau một hồi lâu) Tôi đã nghĩ kĩ, (Nói chậm và khẽ). Tôi không nhập vào hình thù của ai
hết. Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!
Đế Thích: Không thể được! Việc ông phải chết chỉ là một nhầm lẫn của quan thiên đình. Cái sai ấy đã được
sửa bằng cách làm cho hồn ông sống lại.
Hồn Trương Ba: Có những thứ sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có
cách là đừng bao giờ sai nữa hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác. Việc đúng bây giờ còn làm kịp là
làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn.
Thân bài:
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, được sáng
tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang
Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lý nhân văn về cuộc đời và con
người. Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc khi hồn được nhập
vào thân xác anh hàng thịt. Ở đây, tác giả lại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò của
Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” và bị người thân xa lánh. Từ đó, Hồn Trương Ba
đấu tranh để thực hiện khát vọng được sống là chính mình.
- Tóm tắt tác phẩm: (xem đề 1)
2. Nội dung chính
- Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Đế Thích: Sau ba tháng ngụ cư trong xác hàng
thịt, tâm hồn nhân hậu, trong sáng, ngay thẳng của Trương Ba năm xưa, nay phải sống vay mượn, lệ thuộc
nên bị đầu độc bởi sự tầm thường, thô tục của xác thịt. Chìm trong nghịch cảnh của bi kịch không được sống
là chính mình và bi kịch bị người thân chối bỏ, Hồn Trương Ba khao khát tách xa, rời khỏi thể xác thô lỗ:
“Ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!”. Cuối cùng, Trương Ba quyết định thắp nén nhang kêu oan hồn Đế Thích
chết đi để trả lại sự trong sáng, vẹn toàn cho tâm hồn. Cụ thể ngay sau khi Trương Ba tranh luận với Đế
Thích đấu tranh vượt lên nghịch cảnh để chiến thắng bản thân bảo vệ linh hồn cao đẹp, nhà biên kịch Lưu
Quang Vũ đặt Trương Ba vào một tình huống kịch độc đáo: Cái chết của đứa con trai duy nhất của chị Lụa
là cu Tị, khiến cuộc đối thoại có một bước ngoặt.
- Trước tình huống đột ngột ấy, Đế Thích nảy ra ý định và đề nghị Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị: “ A
hay quá! Tôi nghĩ ra rồi! ông Trương Ba! Tôi sẽ giúp ông lần nữa! Ngay bây giờ đây, ông sẽ trả cái thân
thể này cho Anh hàng thịt, tôi sẽ làm cho hồn ông nhập vào xác cu Tị. Như vậy Anh hàng thịt được sống,
hồn ông vẫn có chỗ trú mà cái thân thể bé nhỏ của cu Tị cũng không mất đi. Ông thấy được không? ”. Mặt
khác, Đế Thích cũng chỉ ra: “Ông với anh hàng thịt là hai người xa lạ còn ông với thằng cu Tị lại đã từng
quấn quýt quý mến nhau, ông sống trong thân thể thằng bé chắc sẽ ổn…”. Thoạt nghe lời đề nghị của Đế
Thích có vẻ có lý, có lợi nhiều mặt. Tuy nhiên suy nghĩ kỹ, câu nói này lại một lần nữa thể hiện lối suy nghĩ
hời hợt, thiếu chín chắn của Đế Thích. Thực chất, Đế Thích lại một lần nữa đồng hóa định nghĩa của “sống”
và “tồn tại”.
- Trước yêu cầu của Đế Thích, Trương Ba ngập ngừng: “Ông cho tôi suy nghĩ một lát đã”. Sự phân vân của
Trương Ba cho thấy: sống là đáng quý thật, được tồn tại mãi mãi là điều còn quý giá hơn. Sự phân vân này
cũng cho thấy Trương Ba rất ham sống, vẫn muốn được sống. Trương Ba lại tiếp tục trải qua cuộc đấu tranh
56
nội tâm dữ dội. Ông hình dung thấy trước mắt là cuộc sống tương lai của mình trong cơ thể của một thằng
bé lên mười: “Có khi tôi còn phải sang nhà chị Lụa ở… Bà vợ tôi, các con tôi sẽ nghĩ ngợi, xử sự thế nào,
khi chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé lên mười…”. Trương Ba thấy mọi sự rắc rối và vô lí: “Trẻ
con phải ra trẻ con, người lớn phải ra người lớn”. Nhất là khi ông nhìn thấy được sự cô đơn của bản thân
khi: “Vẫn phải sống suốt bao năm tháng dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh… Tôi sẽ như ông
khách ngồi ở nhà người ta… Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng”. Cách sống ấy Trương Ba cho là “thảm hại đáng ghét
như kẻ tham lam”.
- Từ suy nghĩ đó, Trương Ba từ chối đề nghị của Đế Thích. Điều khiến chúng ta trân trọng ở Trương Ba đó
chính là tâm hồn ông cao thượng: “Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị”. Và cũng chính cái
chết của cu Tị, sự thông cảm cho người mẹ mất con cùng với khát vọng được cứu sống thằng bé đã khiến
Trương Ba trở nên mạnh mẽ. Trương Ba lên tiếng khẩn khoản cầu cứu Đế Thích “Ông hãy cứu nó! Ông
phải cứu nó!… vì con trẻ… Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng”. Hành động lấy bó hương ra và bẻ gãy cho thấy
sự quyết tâm của Trương Ba trong việc muốn được là chính mình cùng lời khẩn khoản nhưng không kém
quyết liệt: “Ông hãy gúp tôi lần cuối cùng. Tôi sẽ không bao giờ làm phiền ông nữa, không đòi ông điều gì
nữa”.
- Đến đây, Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại và nhận lỗi thuộc về thiên đình: “ Không thể được!
Việc ông phải chết chỉ là một nhầm lẫn của quan thiên đình. Cái sai ấy đã được sửa bằng cách làm cho hồn
ông sống lại”. Nhưng Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Có những cái sai không thể
sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù
bằng một việc đúng khác”. Ông cũng khuyên nhủ Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng, đó chính là
làm cho cu Tị được sống lại. Những suy nghĩ tốt đẹp của Trương Ba và đức hi sinh cao thượng của ông cuối
cùng cũng thay đổi được tư duy của Đế Thích. Cu Tị được sống còn Trương Ba trở về với chính mình chứ
không còn là “cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt nữa”.
* Ý nghĩa triết lý nhân sinh từ cuộc đối thoại
- Sự tồn tại của con người bao gồm hai phần: phần Con và phần Người. Phần Con là phụ mang tính bản
năng. Phần Người thuộc về nhân cách, là sự cao quý đẹp đẽ của tâm hồn. Hai phần đã tạo nên con người thật
sự. Ở đây hình ảnh hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phần Ngườivà phần Con. Một bên tượng trưng cho những
gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên thể hiện sự thô tục, thô tục. Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh, không thể có
một tâm hồn cao thượng trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là
chính mình, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, bên trong và bên ngoài, nội dung và hình thức trong một thể
thống nhất hoàn chỉnh, không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
- Để sống thật với chính mình, mỗi chúng ta cần biết cách cân bằng giữa việc chăm sóc tâm hồn cũng như
trân trọng và quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu của cơ thể. Qua đó, Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê
phán hai hạng người: một người chỉ biết tu bổ, chạy theo ham muốn vật chất mà không chăm lo đời sống
tinh thần. Loại còn lại luôn coi thường giá trị vật chất, bỏ bê việc chăm sóc bản thân, chỉ mong giữ cho tâm
hồn đẹp (thực chất là lười biếng). Thông qua thể xác và tâm hồn, Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng sống là
chính mình mới là hạnh phúc đích thực của con người. Vì vậy, trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh
với sự thô tục và vượt qua nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của mình. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể là
chính mình – là chính mình hoàn toàn.
- Để sống thật với chính mình, mỗi chúng ta cần biết cách cân bằng giữa việc chăm sóc tâm hồn cũng như
trân trọng và quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu của cơ thể. Qua đó, Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê
phán hai hạng người: một người chỉ biết tu bổ, chạy theo ham muốn vật chất mà không chăm lo đời sống
tinh thần. Loại còn lại luôn coi thường giá trị vật chất, bỏ bê việc chăm sóc bản thân, chỉ mong giữ cho tâm
hồn đẹp (thực chất là lười biếng). Thông qua thể xác và tâm hồn, Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng sống là
chính mình mới là hạnh phúc đích thực của con người. Vì vậy, trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh
với sự thô tục và vượt qua nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của mình. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể là
chính mình – là chính mình hoàn toàn.
*Nghệ thuật:
Nghệ thuật xây dựng cuộc đối thoại:
+ Tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc dẫn dắt xung đột kịch, giàu tính biểu tượng.
+ Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Lời thoại giàu tính cá thể và hành động kịch
logic.
+ Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh và tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện.
+ Có chiều sâu triết học khách quan.
+ Sáng tạo lại cốt truyện dân gian.
Kết bài

57
Vẻ đẹp tâm hồn là thước đo to lớn giúp cho họ thoát khỏi những thứ dung tục, những ham muốn đời thường
của con người. Được sống là quan trọng nhưng sống là chính mình còn quan trọng hơn, chính vì vậy, Lưu
Quang Vũ đã thể hiện và hản ánh được giá trị hiện thực của xã hội qua những tình huống truyện độc đáo,
qua những mâu thuẫn sâu sắc xuất hiện trong tác phẩm. Cuối cùng thì ông cũng muốn truyền tải thông điệp:
“Dù cuộc sống có khó khăn, trắc trở bạn hãy giữ vững khát vọng được sống là chính mình” và đã sai thì sửa,
có những cái sai hậu quả không thể sửa thì phải làm một việc làm đúng khác bù vào. Bởi vậy trong cuộc
sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân
cách của bản thân. Có như vậy chúng ta mới được là mình – được là chính mình toàn vẹn.

Đề 5: Phân tích đoạn kết của vở kịch Hồn Trương Ba, Da hang thịt, từ đó rút ra triết lý nhân sinh mà
nhà viết kịch Lưu Quang Vũ gởi gắm.
(Vườn cây rung rinh ánh sáng. Ở một góc nhà đó hiện lên cảnh tượng cu Tị đang ôm chầm lấy mẹ. Chị Lụa
cuống quýt vuốt ve con.. Bà vợ Trương ba xuất hiện ở phía trước sân khấu)
Vợ Trương Ba: Ông ở đâu? Ông ở đâu?
(Giữa màu xanh vườn cây, Trương Ba chập chờn xuất hiện)
Trương Ba: Tôi đây bà ạ! Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu
cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà rẫy cỏ… Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn
ở đây trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi cây cái Gái nâng niu..
(Dưới một gốc cây hiện ra cu Tị và cái Gái)
Cái Gái: (Tay cầm một trái na) Cây na này ông nội tớ trồng đấy! Quả ta mà ngon lắm. A! ta ăn chung nhé!
(Bẻ quả na đưa cho cu Tị một nửa. Đôi trẻ ăn ngon lành. Cái Gái lấy những hạt na vùi xuống đất)
Cu Tị: Cậu làm gì thế?
Cái Gái: Cho nó mọc thành cây mới! ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…
Mở bài
Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt Nam những năm tám mươi
của thế kỷ XX. Ông được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại.
Tác phẩm của ông toát lên một ý vị triết lý và nhân sinh về đời người, kiếp người. Ông có nhiều tác phẩm
kịch gây chấn động dư luận, trong đó có vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Đây là một tác phẩm có nhiều
ý nghĩa và giáo dục sâu sắc, thức tỉnh rất nhiều con người đang sống cuộc đời mơ hồ, bị thao túng bởi những
thứ phù phiếm dung tục, không được sống đúng với bản ngã của mình. Trong đoạn kết của vở kịch, nhà soạn
kịch đã để lại cho độc giả nhiều những ý nghĩa, bài học nhân sinh sâu sắc.
Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàn cảnh sáng tác: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, được sáng
tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ
đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lý nhân văn về cuộc đời và con
người. Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc khi hồn được nhập
vào thân xác anh hàng thịt. Ở đây, tác giả lại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò của
Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” và bị người thân xa lánh. Từ đó, Hồn Trương Ba
đấu tranh để thực hiện khát vọng được sống là chính mình.
- Tóm tắt tác phẩm: (xem đề 1)
2. Nội dung chính
- Hoàn cảnh dẫn đến đoạn kết: Sau ba tháng ngụ cư trong xác hàng thịt, tâm hồn nhân hậu, trong sáng, ngay
thẳng của Trương Ba năm xưa, nay phải sống vay mượn, lệ thuộc nên bị đầu độc bởi sự tầm thường, thô tục
của xác thịt. Chìm trong nghịch cảnh của bi kịch không được sống là chính mình và bi kịch bị người thân
chối bỏ, Hồn Trương Ba khao khát tách xa, rời khỏi thể xác thô lỗ. Cuối cùng, Trương Ba quyết định thắp
nén nhang kêu oan hồn Đế Thích chết đi để trả lại sự trong sáng, vẹn toàn cho tâm hồn. Sau khi đấu tranh
vượt lên nghịch cảnh để chiến thắng bản thân bảo vệ linh hồn cao đẹp, cuối vở kịch ông kiên quyết lựa chọn
rời khỏi xác hàng thịt và biến mất hoàn toàn, dù Đế Thích cố níu kéo khi ngỏ lời muốn ông nhập vào xác của
cu Tị, thế nhưng Trương Ba đã từ chối, ông cầu xin cho thằng bé được sống lại còn bản thân mình thì sẽ vĩnh
viễn biến mất.
- Mô tả lại màn kết: Màn kết của vở kịch thấp thoáng linh hồn của Trương Ba trong không gian vườn tược,
cửa nhà, trong không gian tâm lí của những người thân thuộc sau khi Trương Ba chọn cái chết. Những dòng
dẫn dắt của Lưu Quang Vũ đưa người đọc vào bức tranh thiên nhiên đẹp như thơ ca, như cổ tích. Hình ảnh
khu vườn đầy cây xanh, “rung rinh ánh sáng” – khu vườn Trương Ba đã từng dốc sức chăm bón mỗi cành
cây, mỗi quả ngọt, khu vườn của yêu thương, của những kỉ niệm về Trương Ba tồn tại trong sâu thẳm lòng
58
người. Cảnh cu Tị ôm chầm lấy mẹ, người mẹ “cuống quýt vuốt ve con” trông thật ấm áp làm sao. Trương Ba
đã chết thật, một cuộc giã từ nhẹ nhàng nhưng chính Trương Ba đã cầu xin cho cu Tị – đứa trẻ vừa mới chết
vì ốm nặng – được sống lại, bởi mất đứa con người mẹ không tài nào sống được. Đứa con là tất cả đối với
người mẹ, những thứ khác chẳng đáng là gì. Sau khi Trương Ba rời khỏi xác hàng thịt, cuộc sống đã trở về
với nhịp điệu chậm rãi, chan hòa tình người, ấm nồng hạnh phúc.
- Văng vẳng bên tai lời gọi của vợ Trương Ba – người phụ nữ hiền hậu, đảm đang đã từng mất lòng tin về
Trương Ba, sau khi bi kịch được giải thoát, hình ảnh Trương Ba nhân hậu, hiền từ lại trở về trong lòng người
vợ yêu thương. Người vợ gọi chồng: “Ông ở đâu? Ông ở đâu?” giống như những lần Trương Ba đi làm
vườn, chiều chiều vợ gọi vào quây quần bên nồi cơm mới thổi. Cảnh tượng ấy thật đẹp đẽ, ấm áp xiết bao.
Trương Ba vẫn là “ông Trương Ba làm vườn” của những ngày xưa ấy, để lại thật nhiều kỉ niệm trong tim
người còn sống trên đời. Bóng Trương Ba chập chờn xuất hiện giữa màu xanh cây vườn. Hình ảnh Trương
Ba trước sau vẫn vậy, vẫn gắn chặt với khu vườn xanh non mơn mởn, với bao trái ngọt hoa thơm, với những
điều bình dị, mộc mà mà nặng nghĩa nặng tình. Lời đáp của Trương Ba thật chân tình, da diết, chan chứa tình
yêu thương vốn có trong con người nhân hậu này: “Tôi đây bà ạ”. Chưa bao giờ Trương Ba ngừng yêu
thương người vợ bao dung của mình, có chăng là vì sống trong xác hành thịt nên Trương Ba khác đi trong
mắt bao người chứ thực sự lòng Trương Ba vẫn trước sau như một, không hề đổi thay.
Trương Ba chết thật! Thể xác Trương Ba đã tan rã tự bao giờ trong lòng đất quê hương. Nhưng hồn Trương
Ba vẫn sống, hình bóng Trương Ba không vĩnh viễn mất đi mà hóa thân vào các sự vật thân thương, được mọi
người nâng niu, trân trọng. Trương Ba “vẫn ở liền” ngay bên người vợ của mình. Trên cái bậc cửa nhà có
bóng hình Trương Ba dõi mắt theo cái Gái, theo những người thân thuộc. Trương Ba trong ánh lửa bập bùng
gian bếp mỗi lúc vợ nấu cơm. Ánh lửa của yêu thương, chắt chiu, ánh lửa của sự sống vĩnh hằng không bao
giờ dập tắt, Trương Ba hóa thân vào chiếc cầu ao quê nhà, trong cái cơi đựng trầu tình nghĩa vợ bưng ra mỗi
khi có khách đến thăm. Miếng trầu là đầu câu chuyện, Trương Ba đã sống trong nghĩa tình cao quý, trong
những điều tốt đẹp của cuộc đời. “Không phải mượn thân ai cả”, Trương Ba đang tồn tại với linh hồn độc
lập, sống là chính mình, yêu thương và nhận lại thương yêu. Một cuộc ra đi thanh thản, Trương Ba vẫn tồn tại
vĩnh viễn bên cạnh những người thân thuộc của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật muôn đời.
- Trong câu chuyện của cái Gái với cu Tị có bóng dáng Trương Ba. Cái Gái kể về cây na “ Ông nội tớ trồng
đấy! Quả to mà ngon lắm! Ta ăn chung nhé!”. Cây na là biểu tượng của những điều tươi đẹp, xanh tốt mà
Trương Ba để lại trên cuộc đời. Quả na mà đôi bạn ăn chung tượng trưng cho sự sẻ chia, đồng cảm, đó là
những bài học vô cùng cao quý mà Trương Ba đã dạy đứa cháu yêu thương của mình để mai sau cái Gái lớn
lên sẽ trở thành người có ích. Trong kí ức của người cháu gái, ông nội vẫn hiền hậu, nghĩa tình và thân
thương như ngày nào. Cái Gái gieo hạt na “Cho nó mọc thành cây mới”, để nó “nối nhau mà lớn lên mãi mãi”
như lời dặn của người ông dung dị năm nào. Với đứa cháu, những kí ức về người ông vẫn vẹn nguyên, tươi
đẹp, vẫn sống mãi trong lòng. Dù ông nội đã chết hẳn về thể xác, nhưng trong lòng nó, ông nội đã hoàn
nguyên kỳ diệu về tâm hồn. Ông nội Trương Ba đang sống một sự sống khác sự sống bất diệt trong trái tim
trẻ thơ.
→ Nếu ở những đoạn đối thoại trước nhất là với xác và Đế Thích, lời lẽ của đôi bên rất căng thẳng, có chỗ
châm chích nhau thì trong màn kết lời thoại của Trương Ba dịu dàng tình cảm hơn, thoải mái hơn. Qua lời
thoại của Trương Ba độc giả sẽ thấy: mặc dù giờ đây hồn Trương Ba không có thân xác trú ngụ, chỉ là cái
bóng chập chờn mờ ảo, vô hình, lại là lúc sự hiện diện của Trương Ba nhiều nhất, thường trực nhất.
* Ý nghĩa triết lý nhân sinh từ đoạn kết
Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch, đồng thời Lưu Quang Vũ
còn truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp, của sự sống đích thực trên cõi đời này.
Miêu tả lại quá trình hồn Trương Ba đi từ bi kịch sống nhờ trong xác thân anh hàng thịt đến quyết định đau
đớn mà sáng suốt, Lưu Quang Vũ đã chứng tỏ cho người đọc thấy tài năng dựng tình huống, xử lý tình huống
kịch của ông. Đồng thời, người đọc thấy được vẻ đẹp nhân hậu, sáng suốt, lòng tự trọng và ý thức cao độ về ý
nghĩa đích thực của cuộc sống nơi Trương Ba. Nhân vật của Lưu Quang Vũ đã chọn cái chết để hình ảnh đẹp
của mình mãi tồn tại trong tâm tưởng mọi người, qua đây, Lưu Quang Vũ đưa ra một quan niệm nhân sinh
sâu sắc: Được sống là đáng quý, nhưng được sống là chính mình thì lại càng quý giá hơn. Đấu tranh chống lại
sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền sống đích thực cùng khát vọng hoàn thiện nhân cách là cuộc đấu tranh
chính nghĩa và cần thiết. Và cuối cùng, chết chưa phải là hết. Cái chết còn tùy thuộc vào chúng ta sống như
thế nào và để lại giá trị nào cho đời, cho thế hệ sau những thành quả ngọt ngào, những bài học quý giá.
Nghệ Thuật
- Cách giải quyết kết thúc của vở kịch thể hiện tài năng của Lưu Quang Vũ phù hợp với hoàn cảnh theo đúng
logic phát triển của tình huống kịch, của nhân vật kịch.
- Tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc dẫn dắt xung đột kịch cũng như xử lý tình huống.
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Lời thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic.
59
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh và tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện.
- Có chiều sâu triết học khách quan.
- Sáng tạo lại cốt truyện dân gian.
Kết bài
Đoạn kết kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã để lại âm vang ngọt ngào trong tâm hồn bao người. Rõ ràng
khát vọng được sống là chính mình, không vay mượn giả tạo, không cố tạo ra cái vỏ bọc cho mình để rồi chết
đi trong hình hài của một bản sao dị dạng. Trong cuộc sống, có đôi lần ta ước mình giống một ai đó mà ta
thần tượng, ta buồn bã, chán nản cho thực tại của ta rồi đổ lỗi cho số kiếp an bày. Nhưng ta quên rằng được
sống là mình mới thực sự đáng quý. Mỗi người là một sắc màu, một mảnh ghép của cuộc đời. Mỗi người đem
lại cho đời một ý nghĩa, hương sắc riêng biệt để khu vườn thêm muôn vẻ muôn màu. Đừng bao giờ để phai
nhạt sắc hương mình rồi khoác lên mình sắc hương người mà mình vừa vay mượn. Có con ốc mượn hồn nào
mà không chịu đớn đau?

60

You might also like