Bài Thu Ho CH - Lê H NG Liên K122 - T 1

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 41

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QP&AN ĐỐI TƯỢNG 2 (KHÓA 122)

BÀI THU HOẠCH

CHỦ ĐỀ: ĐẢNG BỘ TẬP ĐOÀN HÓA CHẤT VIỆT NAM


VỚI CUỘC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG CHIẾN LƯỢC
“DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” VÀ NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI
QUÁ TRÌNH “TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA”

Họ và tên: Lê Hồng Liên


Sinh ngày: 09/6/1975
Chức vụ: Phó Trưởng ban Tuyên giáo Đảng ủy
Đơn vị công tác: Tập đoàn Hóa chất Việt Nam

HÀ NỘI, THÁNG 11 NĂM 2023

1
MỞ ĐẦU

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ những nguy cơ đối với Đảng ta
là: nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch nhằm chống phá
nước ta, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức, sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đặc biệt trong
thời điểm hiện nay, khi Đảng ta đang tiến hành các bước triển khai thực hiện
xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII thì các thế lực thù địch ráo riết kết hợp
thủ đoạn "diễn biến hòa bình", chống phá cách mạng Việt Nam, đẩy mạnh
nhiều hoạt động thâm độc, nhằm thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" gây
chia rẽ, mất đoàn kết từ bên trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta; khi thời cơ
đến chúng sử dụng tổng hợp các biện pháp cả vũ trang và phi vũ trang, kết
hợp nội công ngoại kích, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới xóa
bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Để đấu tranh phòng, chống chiến lực "diễn biến hòa bình" và ngăn
chặn, đẩy lùi quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" phá tan âm mưu của
các thế lực thù địch, bảo vệ và phát triển Đảng, đất nước, cần thực hiện đồng
bộ nhiều giải pháp trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt trong đó công tác lãnh
đạo, chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy Đảng đóng vai trò quan trọng.

Trong khóa học này, được nghiên cứu nhiều chuyên đề có nội dung
quan trọng về bảo vệ an ninh quốc gia, đặc biệt như theo đánh giá của Nghị
quyết Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng về tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Như vậy, tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống được Đảng ta chỉ ra là một trong
những nguy cơ quan trọng kẻ thù lợi dụng để thực hiện chiến lược "diễn biến
hòa bình", phá hoại những thành quả mà đất nước ta đã đạt được. Từ thực tiễn
công tác của bản thân, tôi chọn đề tài “Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt
Nam với cuộc đấu tranh phòng chống chiến lược "diễn biến hòa bình" và
ngăn chặn, đẩy lùi quá trình"tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” để viết bài thu
hoạch cuối khóa học.

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG.....................................................3
1. Cơ sở lý luận............................................................................................3
1.1 Khái niệm “Diễn biến hòa bình”...........................................................3
1.2 Khái niệm về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.....................................4
1.3 Mối quan hệ giữa “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa".................................................................................................7
2. Thực trạng "diễn biến hòa bình" và ngăn chặn, đẩy lùi "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa"...............................................................................7
2.1 Thực trạng của "diễn biến hoà bình"...................................................7
2.2 Thực trạng chống "diễn biến hòa bình", ngăn chặn, đẩy lùi "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa"hiện nay...............................................................11
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP PHÒNG,
CHỐNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH; ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN, ĐẨY
LÙI "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA"......................................13
1. Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo phòng, chống chiến lược “Diễn biến
hòa bình” và các phương thức, giải pháp...............................................13
1.1 Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng..............................................13
1.2 Phương thức đấu tranh phòng, chống “Diễn biến hòa bình” trên các
lĩnh vực chủ yếu.........................................................................................16
2. Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và giải pháp trong đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".............................21
2.1. Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng.............................................21
2.2 Giải pháp đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa "tự diễn biến", "tự
chuyển hoá"...............................................................................................22
III. ĐẢNG BỘ TẬP ĐOÀN HÓA CHẤT VIỆT NAM VỚI CUỘC ĐẤU
TRANH CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”...........................................24
1. Khái quát về Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt Nam........................24
2. Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt Nam với cuộc đấu tranh chống
“Diễn biến hòa bình”; ngăn chặn, đẩy lùi quá trình “tự diễn biến” “tự
chuyển hóa”...............................................................................................28
IV. LIÊN HỆ BẢN THÂN............................................................................34
KẾT LUẬN....................................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................38

2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG
1. Cơ sở lý luận
1.1 Khái niệm “Diễn biến hòa bình”
Thuật ngữ “diễn biến hòa bình” xuất hiện lần đầu trong đời sống chính
trị thế giới vào năm 1949. Ngoại trưởng Mỹ lúc đó là Dean Akison, trong một
bức thư gửi Tổng thống Truman đã sử dụng khái niệm “diễn biến hòa bình”
để chỉ sự chuyển hóa các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) thành tư bản chủ
nghĩa. “Diễn biến hòa bình” do các nhà hoạch định chiến lược phương Tây
soạn thảo từ cuối những năm 40 của thế kỷ 20, sau đó tiếp tục được bổ sung
và hoàn chỉnh thành chiến lược vào cuối thập niên 80 của thế kỷ 20.

Diễn biến hòa bình là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị
của các nước tiến bộ, trước hết là các nước XHCN từ bên trong, chủ yếu bằng
các biện pháp phi quân sự do CNĐQ và các thế lực phản động, đứng đầu là
Mỹ tiến hành”.

Các đặc trưng cơ bản của chiến lược “diễn biến hòa bình” là: (1) Sử
dụng các biện pháp phi vũ trang để chống phá các nước XHCN và phong trào
độc lập dân tộc; (2) Thông qua các “công cụ mềm” như kinh tế, ngoại giao,
văn hóa, chính trị... để làm sụp đổ các nước XHCN; (3) Tác động từ bên
ngoài vào tạo “tự diễn biến” ở bên trong để tự chuyển hóa chế độ chính trị ở
các nước XHCN; (4) Ru ngủ tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân
bằng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; (5) Chiến lược diễn biến hòa bình mang tính
toàn cầu, không giới hạn thời gian và không gian.

Ngày nay, chiến lược “diễn biến hòa bình” có những biến thái mới: (1)
Chủ thể của “diễn biến hòa bình” không chỉ là các thế lực thù địch, các nước
đế quốc chủ nghĩa mà còn cả các nước theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bành
trướng và bá quyền; (2) Động cơ chính trị của “diễn biến hòa bình” đã chuyển
từ đấu tranh ý thức hệ là chính sang đấu tranh vì lợi ích dân tộc cục bộ là
chính; (3) Phương thức hoạt động của “diễn biến hòa bình” tập trung vào gây
sức ép về kinh tế - tài chính và tấn công mạng thông tin; chuyển trọng tâm từ
bên ngoài tác động vào trong các nước sang thúc đẩy các hoạt động chống đối
ngay bên trong nội địa, trong nội bộ và tại chỗ là chính. “Diễn biến hòa bình”
đã phát triển đến đỉnh cao, đến mức có thể coi là một “công nghệ”, đó là
“công nghệ lật đổ”; (4) Triệt để sử dụng các trang mạng xã hội trên internet
và vai trò của các tổ chức phi chính phủ để gieo mầm, thúc đẩy “xã hội dân
3
sự”, khởi động sự phản kháng của các phần tử chống đối ở trong nước biểu
tình phản đối để lật đổ chế độ; (5) Mục tiêu chủ yếu của “diễn biến hòa bình”
là làm thay đổi tính chất quốc gia, dân tộc của chế độ chính trị của các nước
theo hướng có lợi cho chủ nghĩa đế quốc và cường quyền về lợi ích địa -
chính trị và địa - kinh tế thay vì mục tiêu chính trị cực đoan.
1.2 Khái niệm về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” xuất hiện lần đầu trong Văn kiện Đại
hội XI của Đảng (năm 2011), Đảng ta nhận định: “những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”.“Tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” là sự suy thoái từ bên trong; là quá trình tự biến đổi
về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống theo chiều hướng tiêu cực, làm mất
dần các chuẩn mực của đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn đến xa rời
nguyên tắc, quan điểm Mácxít; suy giảm niềm tin vào Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước. “Tự diễn biến, tự chuyển hóa” của cá nhân nếu không ngăn
chặn kịp thời sẽ rất nguy hiểm dẫn đến tổ chức bị suy thoái và tự tan rã. Khi
mức độ diễn ra ở tầm vĩ mô dẫn đến sự chuyển hóa làm chệch hướng
XHCN. “Tự diễn biến” xảy ra ở 2 phạm vi: đối với tổ chức và đối với cá
nhân. “Tự chuyển hóa” là hậu quả tất yếu của quá trình “tự diễn biến” nếu
không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Đó là thời điểm đã diễn ra sự
chuyển hóa, thay đổi về bản chất.

Những biểu hiện của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa":

- Có quan điểm phản bác, phủ định “sạch trơn” học thuyết Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện;

- Thể hiện thái độ bất mãn, dao động, cực đoan khi nói về thực trạng
của đất nước, về vai trò lãnh đạo của Đảng, tương lai của dân tộc. Ủng hộ một
cách máy móc, thiếu cơ sở khoa học về một chế độ “đa đảng đối lập, đa nguyên
chính trị”;

- Ca ngợi, tán dương hình mẫu chủ nghĩa tư bản, tự do tư sản, đồng thời
xuyên tạc, bịa đặt, áp đặt ý chí chủ quan khi đánh giá về Đảng, Nhà nước và
chế độ xã hội chúng ta đang xây dựng;

4
- Thể hiện thái độ “ba phải”, gió chiều nào theo chiều đó, không có
chính kiến, thờ ơ, im lặng trước những vấn đề ở cơ quan, đơn vị và của đất
nước;

- Chạy chức, chạy quyền, tham ô tham nhũng, đề cao tư lợi, đề cao lợi
ích nhóm, làm giàu một cách bất chính, có lối sống thực dụng;

- Kéo bè, kéo phái, cục bộ địa phương, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ;

- Có lối sống buông thả, sa đọa, phong cách làm việc cửa quyền, hách
dịch, tự mãn, nói nhiều làm ít, thiếu sự gắn bó với tập thể, cộng đồng;

- Trong đấu tranh phê và tự phê thể hiện sự cực đoan, thái quá hoặc lợi
dụng các diễn đàn để bày tỏ thái độ “đấu tranh” một cách bất mãn, chống đối
và trục lợi cho bản thân….

Nguyên nhân của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa":

Những nguyên nhân từ nội tâm một số cán bộ, đảng viên: Trước hết, là
do thiếu thông tin, kém lý luận, nhận thức sai hoặc chưa đầy đủ về con đường,
mục tiêu cách mạng XHCN ở nước ta, không hoặc chưa hiểu biết sâu sắc về
quy luật phát triển của xã hội. Thứ hai, một số cán bộ, đảng viên hoang mang,
dao động trước những khó khăn, thử thách; mơ tưởng hão huyền vào chủ
nghĩa tư bản, đa nguyên đa đảng; thiếu niềm tin vào sự thắng lợi chắc chắn
của cách mạng XHCN và sự lãnh đạo của Đảng, vai trò Nhà nước. Thứ ba,
bệnh suy thoái về đạo đức, lối sống có tốc độ lây lan nhanh, đến một mức độ,
phạm vi nào đó sẽ nảy sinh tâm lý bất mãn, giảm sút niềm tin, thoái chí chiến
đấu, thiếu lương tâm, trách nhiệm trước Đảng, trước dân, dễ dẫn đến “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”.

Những nguyên nhân xuất phát từ cơ chế: Cơ chế dân chủ còn nhiều bất
cập, các hình thức dân chủ chưa được thực hiện đầy đủ, còn mang nặng tính
khẩu hiệu. Cơ chế quản lý chưa thích ứng với cơ chế thị trường, còn nhiều sơ
hở, bất cập, dễ thất thoát. Việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật hiệu
quả chưa cao, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo, nhiều cấp chỉ đạo,
trách nhiệm chưa cụ thể, thiếu sự giám sát của nhân dân. Công tác kiểm tra,
thanh tra nhiều nơi còn phụ thuộc, chạy theo vụ việc. Các loại cơ chế quan
trọng khác để thực hiện công bằng; kiểm soát quyền lực; phản biện xã hội;
dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra; quy trình xây dựng ban hành đường

5
lối, chính sách, pháp luật... vẫn chưa hoàn thiện, thiếu khoa học, còn nhiều bất
cập.

Những nguyên nhân xuất phát từ lý luận, thông tin: hệ thống lý luận
chậm hoàn thiện, chỉ tính riêng việc xác định mục tiêu đổi mới phải mất 05
nhiệm kỳ (25 năm) bổ sung liên tục mới đủ “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”; chúng ta cũng chưa có một hệ thống lý luận hoàn
chỉnh dành riêng cho sự nghiệp đổi mới, trước hết là lý luận về kinh tế thị
trường định hướng XHCN, về tập trung dân chủ... thông tin chưa kịp thời, đầy
đủ tạo những khoảng trống để các thế lực thù địch xuyên tạc, nói xấu. Mặt
khác, công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đào tạo lý luận, tuyên truyền còn
nhiều hạn chế, nhất là ở địa phương, cơ sở; số lượng và chất lượng đội ngũ
cán bộ tuyên giáo chưa tương xứng với yêu cầu của thực tiễn; sức chiến đấu
của một số cán bộ, đảng viên trên mặt trận tư tưởng tỏ ra non kém, coi nhẹ,
lúng túng, phản ứng yếu ớt trước những luận điệu sai trái.

Những nguyên nhân xuất phát từ công tác cán bộ: đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ còn nhiều bất cập hạn chế, tình trạng bổ nhiệm trước, đào tạo sau để
hợp thức hóa bằng cấp vẫn còn; đào tạo không sát với công tác, không phù
hợp với độ tuổi; nội dung, chương trình còn rườm rà, phức tạp; tiêu cực trong
đào tạo thi cử còn nhiều. Bộ máy cồng kềnh, kém hiệu quả, biên chế thừa, cố
giảm nơi này lại tăng nơi khác tạo gánh nặng cho ngân sách; tình trạng chạy
chỗ, chọn việc còn phổ biến; bố trí cán bộ không hợp lý, mất cân đối, gây bức
xúc, lãng phí nhân lực. Cơ chế bổ nhiệm nhiều nơi chưa dân chủ, công bằng;
chưa có cơ chế hữu hiệu để trọng dụng người tài đức, gây bất mãn, “chảy
máu” chất xám. Chế độ tiền lương chưa hợp lý, một bộ phận lớn cán bộ lương
thấp, không thể bảo đảm cuộc sống, nhất là tại những đô thị lớn có chi phí vật
giá cao dễ dẫn đến tham nhũng. Việc xử lý cán bộ sai phạm chưa nghiêm, có
trường hợp chưa được sự đồng tình của tập thể, của nhân dân. Công tác
phòng, chống tham nhũng còn hạn chế, mới chỉ kết quả bước đầu; chưa giải
quyết tận gốc rễ của tham nhũng, nguyên nhân, điều kiện nảy sinh tham
nhũng vẫn còn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình
chưa có cơ chế khoa học để thực hiện nên không tránh khỏi hình thức. Tồn tại
sự chênh lệch về độ “màu mỡ”, thuận lợi, khó khăn giữa các loại chức vụ,
công việc sinh ra chạy chức, chạy chỗ, chạy việc rất tệ hại.

6
1.3 Mối quan hệ giữa “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa"
“Diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”có mối quan
hệ khăng khít, không thể tách rời và tác động lẫn nhau. Đó là mối quan hệ
giữa khách quan và chủ quan, giữa nhân tố bên ngoài và bên trong. “Diễn
biến hòa bình” thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đến lượt nó “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” thúc đẩy “diễn biến hòa bình”, trong đó “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa" là nhân tố bên trong quan trọng nhất.

Sau khi thua Việt Nam bằng súng đạn, Mỹ đã thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng đã xác định “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một trong
bốn nguy cơ. Từ Đại hội VIII đến nay, nghị quyết các đại hội và nhiều nghị
quyết Trung ương đã nhấn mạnh phải kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu và hoạt động đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó đề cao ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đấu tranh, ngăn chặn,
đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn
chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm
xuyên tạc, sau trái, thù địch”.

Như vậy, “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau, đó là mối quan hệ giữa nhân tố
khách quan và nhân tố chủ quan, trong đó nhân tố chủ quan là quan trọng
nhất. Phải tăng cường đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ, đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh chống “diễn biến hòa
bình”. Làm tốt cuộc đấu tranh này, chúng ta sẽ bảo vệ được Đảng, được chế
độ, đưa đất nước vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

2. Thực trạng "diễn biến hòa bình" và ngăn chặn, đẩy lùi "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa"
2.1 Thực trạng của "diễn biến hoà bình"
Âm mưu xuyên suốt của các thế lực thù địch đối với Việt Nam là thực
hiện diễn biến hòa bình nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, làm sụp đổ chế độ XHCN, đưa Việt Nam đi theo quỹ đạo của TBCN,

7
chịu sự chi phối của Mỹ và phương Tây. Nếu như trước đây, chúng thường sử
dụng biện pháp cứng rắn để chống phá Việt Nam thì thời gian gần đây thay
đổi biện pháp chiến lược, chuyển từ “cứng rắn” sang “mềm dẻo”, vừa lôi kéo
vừa gây sức ép để “chuyển hóa” chế độ chính trị ở Việt Nam. Thủ đoạn của
Mỹ và các thế lực thù địch tiến hành diễn biến hòa bình, “chuyển hóa” Việt
Nam hiện nay tập trung vào các hoạt động chủ yếu sau:

Trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị: Chống phá nền tảng tư tưởng của
Đảng, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; thúc đẩy tự diễn
biến, tự chuyển hóa, tiến tới làm sụp đổ chế độ XHCN ở Việt Nam. Chống
phá về tư tưởng chính trị là khâu đột phá trong chiến lược diễn biến hòa bình
của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta. Mỹ xác định: Để chuyển
hóa chế độ chính trị ở Việt Nam thì vấn đề trước tiên là “phải triệt tiêu các giá
trị làm nên chế độ Cộng sản; xây dựng một ý thức hệ tương xứng có khả năng
triệt tiêu CNCS và làm nền tảng cho việc xây dựng giai cấp mới ở Việt
Nam...”.

Hiện nay, chúng tập trung đẩy mạnh chống phá: Tuyên truyền phá hoại
nền tảng tư tưởng của Đảng: Xuất bản, phát tán nhiều tài liệu, phim ảnh...
nhằm xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lê nin, “bôi đen” đời tư, đạo đức, sự nghiệp
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chống phá quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Mục đích của chúng là tìm cách lôi kéo, kích động các
giới trong xã hội viết bài đả kích, phản bác, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quyết sách và đường lối lãnh đạo của
Đảng... kích động dư luận đòi sửa đổi Hiến pháp, Điều lệ Đảng theo hướng
“đa nguyên chính trị, đa đảng đối lâp”. Tiếp tục lợi dụng những vấn đề “nhạy
cảm” liên quan đến lãnh thổ, lãnh hải, tham nhũng... để tung tin xuyên tạc, hạ
thấp uy tín các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chia rẽ đoàn kết, thống nhất trong
Đảng. Hiện nay chúng đang tập trung chống phá công tác nhân sự Đại hội XII
của Đảng... Đồng thời, đẩy mạnh xâm nhập, móc nối, tác động thúc đẩy “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trên, bên trong Đảng, quốc hội và Chính
phủ. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng tiếp cận và tác động vào những
người được gọi là “nhóm các tác nhân thay đổi” (những người có vị trí, chức
vụ trong Đảng, chính quyền, cơ quan tham mưu...) và “nhóm quyết định
chính sách” (lãnh đạo tối cao) nhằm “dân chủ hóa chính quyền”. Thúc đẩy
tình trạng tham nhũng và lợi dụng việc chống tham nhũng gây chia rẽ, mâu
thuẫn trong nội bộ Đảng và chia rẽ Đảng với quần chúng. Xuyên tạc, chống

8
phá các Hội nghị Trung ương, công tác nhân sự của Đảng. Đối với Quốc hội,
kêu gọi “dân chủ hóa” hoạt động của Quốc hội, thông qua đó hạ thấp vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Đối với Chính phủ, chúng sử dụng các
hướng tiếp cận khác nhau, các nhóm chuyên gia khác nhau để tìm cách tác
động lên Chính phủ cũng như các cơ quan hoạch định chính sách trong Chính
phủ...

Trên lĩnh vực kinh tế: Lợi dụng quan hệ kinh tế để xâm nhập, gây sức
ép, từng bước chuyển hoá Việt Nam theo quĩ đạo phương Tây. Các thế lực
thù địch trong chính quyền phương Tây luôn tìm cách gây khó khăn, cản trở
hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Họ sử dụng các thiết chế tài chính,
tiền tệ quốc tế, luật về thương mại để ép ta điều chỉnh pháp luật, cải cách
chính trị. Thông qua viện trợ, giúp đỡ của các tổ chức “phi chính phủ” (NGO)
để xâm nhập, móc nối, hỗ trợ các phần tử phản động, cơ hội bên trong nội địa
ở các địa bàn nhạy cảm; kích động sự bất mãn, nuôi dưỡng tư tưởng sùng bái
và đi theo phương Tây trong nhân dân, chức sắc tôn giáo, học sinh, sinh viên,
cán bộ địa phương... Sử dụng lợi ích kinh tế để chia rẽ, chuyển hoá cán bộ
Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang... Thực hiện chủ trương "tư nhân hóa
tài sản", mở rộng kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế thị trường tự do, thu hẹp và
làm suy yếu thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, tiến tới thiết lập
một nền kinh tế tư bản ở Việt Nam.

Trên lĩnh vực ngoại giao: Núp dưới danh nghĩa "ngoại giao thân thiện"
để hướng Việt Nam theo quỹ đạo của phương Tây, tạo cơ hội để chuyển hóa
và đưa Việt Nam dần hòa nhập vào cộng đồng các nước dân chủ phương Tây.
Tăng cường tiếp xúc của chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ và tư nhân,
với các hình thức như hội thảo, thăm viếng, thăm quan, du lịch để gieo rắc
tâm lý mơ hồ, mất cảnh giác, ngộ nhận về bản chất của chủ nghĩa đế quốc.
Lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo: Chúng luôn lợi dụng chính
sách cởi mở, đổi mới của ta, núp dưới danh nghĩa: “dân chủ”, “nhân quyền”,
“tôn giáo”, “dân tộc” để chống phá Việt Nam. Các thế lực thù địch lợi dụng
chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng, Nhà nước ta, những sơ hở, thiếu sót
trong công tác quản lý và trình độ dân trí còn thấp của giáo dân, đồng bào các
dân tộc thiểu số để kích động, lôi kéo tập hợp quần chúng, nhen nhóm tập hợp
lực lượng chống chủ nghĩa xã hội trong các tôn giáo, dân tộc thiểu số, xây
dựng các Đảng phái, tổ chức lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang phản
động để chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa. Âm mưu của địch là chia rẽ giữa

9
tôn giáo này với tôn giáo khác, giữa tôn giáo với không tôn giáo, đặc biệt giữa
đồng bào tôn giáo với Đảng, Nhà nước. Với chính sách “Ngoại giao nhân
quyền”, lợi dụng các diễn đàn quốc tế để tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo
Đảng, Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo, dân tộc để
cô lập ta trên trường quốc tế; kêu gọi, gây sức ép với các nước, các tổ chức
phi Chính phủ ủng hộ, hỗ trợ các hoạt động chống phá, li khai bên trong lãnh
thổ Việt Nam. Dưới chiêu bài về “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân
tộc”, chính quyền Mỹ ra các văn bản vu cáo và can thiệp vào nội bộ Việt
Nam; vi phạm độc lập chủ quyền của đất nước ta, tạo cơ sở cho các thế lực
thù địch can thiệp, hỗ trợ về các mặt cho lực lượng phản động người Việt ở
trong và ngoài nước hoạt động chống phá Việt Nam.

Trên lĩnh vực quốc phòng, quân sự, an ninh: Âm mưu của địch là nhằm
mục tiêu "phi chính trị hóa" quân đội và công an, vô hiệu hóa lực lượng vũ
trang trong cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Chúng tập trung chống phá hệ tư tưởng của Đảng trong lực lượng vũ
trang; tuyên truyền, kích động gây mơ hồ, chia rẽ mối quan hệ bản chất giữa
Đảng với quân đội, quân đội với công an, quân đội với các ngành khác; làm
cho lực lượng vũ trang giảm lòng tin với Đảng, xa rời nguyên tắc Đảng lãnh
đạo lực lượng vũ trang và làm cho lực lượng vũ trang biến chất bản chất cách
mạng; tăng cường phá hoại nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Mặt khác, chúng lợi dụng quan hệ ngoại giao để xâm nhập, điều tra bí mật
quốc phòng, bí mật an ninh, bí mật quân sự của ta. Tăng cường hoạt động tình
báo, gián điệp, tăng cường tiếp xúc, xâm nhập, cài cắm vào nội bộ lực lượng
vũ trang, làm tha hóa đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong quân đội và công an. Kết
hợp “Diễn biến hòa bình” với bạo loạn lật đổ; răn đe quân sự và sẵn sàng
dùng sức mạnh quân sự, hoặc tiến hành chiến tranh khi có điều kiện, thời cơ.

Trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch dùng thủ đoạn nhanh
chóng chiếm lĩnh thị trường, khống chế kinh tế, dùng kinh tế ép ta về chính
trị; lợi dụng vấn đề chống tham nhũng từ đó để kích động, tập hợp lực lượng
nhằm gây biến động chính trị, để tiến công sự lãnh đạo của Đảng ta. Đặc biệt
là, các thế lực thù địch cả trong và ngoài nước đang ra sức lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo, nhân quyền, cũng như lợi dụng những khuyết điểm, yếu kém của
ta để phá hoại, làm mất ổn định chính trị, phá hoại an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. Đồng thời chúng luôn có sự liên kết giữa bọn phản động tôn giáo,
bọn phản động lợi dụng dân tộc ít người, bọn ngụy quân, ngụy quyền cũ không

10
chịu cải tạo, cũng như những hoạt động của bọn cơ hội chính trị cấu kết với các
thế lực phản động bên ngoài đẩy mạnh hoạt động chống phá nhằm gây bất ổn
về chính trị, kích động bạo loạn lật đổ, tạo cớ cho sự can thiệp từ bên ngoài vào
công việc nội bộ ta. Lợi dụng chiêu bài "đấu tranh chống tham nhũng", các thế
lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta. Chúng kích
động, gây rối, làm mất ổn định chính trị, xã hội, tiến tới gây bạo loạn lật đổ.
Lợi dụng các lực lượng phản động trong các dân tộc ít người, kích động nhân
dân đấu tranh đòi li khai, tự trị trên từng khu vực, đặc biệt như các vùng Tây
Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ của nước ta. Các thế lực thù địch lợi dụng
triệt để tính nhạy cảm của vấn đề dân tộc để kích động, chia rẽ, can thiệp vào
công việc nội bộ của nước ta, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta.

Từ năm 1999 đến nay, các thế lực thù địch quyết tâm tập hợp lực
lượng, kết hợp vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc, tìm cách móc nối, xây
dựng liên tôn giáo chống Đảng, chống Nhà nước, tìm mọi cách ra mắt tổ chức
chống đối trong nước nhằm "công khai hóa", "hợp pháp hóa", "quốc tế hóa"
các tổ chức do các thế lực thù địch lập ra như: "Giáo hội độc lập"; "Tôn giáo
li khai"; "Tin lành Đề Ga". Mặt khác, các thế lực thù địch tìm cách khai thác
sơ hở, yếu kém của ta để kích động quần chúng lạc hậu vi phạm pháp luật,
làm rối loạn trật tự xã hội, gây bạo loạn như kiểu ở Tây Nguyên tháng 2-2001
và 4-2004, Mường Nhé 5-2011, Đắc Lắc tháng 6-2023, nhằm tạo cớ để nước
ngoài can thiệp...

2.2 Thực trạng chống "diễn biến hòa bình", ngăn chặn, đẩy lùi "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa"hiện nay

Hiện nay, thế giới đã và đang trong quá trình toàn cầu hóa, đang được
làm “phẳng” trên nhiều lĩnh vực; nội dung toàn cầu hóa thể hiện trên các mặt:
về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ và an
ninh - quốc phòng... trong đó, nhân tố tác động mạnh mẽ đến quá trình “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cuộc cách mạng kỹ thuật số, internet; quá trình
này tạo điểu kiện thuận lợi cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tiếp cận trực
tiếp hơn, nhiều hơn những thông tin cả tích cực và tiêu cực của chế độ xã hội,
trong đó có xã hội tư bản. Từ đây người ta nảy sinh ra sự so sánh về sự lựa
chọn con đường phát triển của dân tộc, dẫn đến hoài nghi về sự quá độ bỏ qua
giai đoạn phát triển TBCN để đi lên CNXH trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân. Những hoài nghi, dao động đó không được định hướng kịp

11
thời, cùng với sự xuyên tạc của các thế lực thù địch thông qua chiến lược
“diễn biến hòa bình” sẽ thúc đẩy “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên có lập trường không vững vàng, tự nguyện rời bỏ lý
tưởng của Đảng, công khai chỉ trích CNXH, ca ngợi CNTB.

Tác động của các cuộc chiến tranh ở Nam Tư, Iraq, Apghanistan...; các
cuộc cách mạng màu ở Gruzia, Kyzgyzstan và các cuộc bạo loạn, bất ổn
chính trị kéo dài ở Bắc Phi - Trung Đông, Thái Lan, Campuchia... gần đây là
Ukraine với sự can dự và hậu thuẫn toàn diện (kinh tế, chính trị, ngoại giao,
truyền thông và quân sự...) của Mỹ và phương Tây dẫn đến sự lật đổ, thay đồi
chế độ ở các nước này theo quỹ đạo và phục vụ lợi ích của Mỹ và phương
Tây cũng như tác động, phản ứng lan tòa của bất ổn, khủng hoảng được tạo ra
từ các hoạt động lợi dụng tự do, dân chủ, bảo vệ nhân quyển... Trong nội bộ,
một bộ phận cán bộ, đảng viên có sự đánh giá ủng hộ, cổ súy “cách mạng
màu”, thay đổi chế độ chính trị ở nước ta theo hướng đa nguyên, đa đảng đối
lập, tự do ngôn luận, báo chí vô điểu kiện ở Việt Nam, nhất là các nhân sĩ, trí
thức, văn nghệ sĩ...

Trong nước, sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; tham
nhũng, lãng phí; “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ có chiểu hướng
tăng. Các thế lực thù địch, phản động đang gia tăng kích động, móc nối, hội
họp “chuyển lửa về quê hương”, vừa ngấm ngầm, vừa công khai.

Trong nội bộ, đã xuất hiện một số nhân vật phất cờ chống Đảng ta.
Công khai bộc lộ ý đồ thành lập “Đảng xã hội dân chủ” kích động, kêu gọi
đảng viên từ bỏ Đảng Cộng sản để gia nhập Đảng xã hội dân chủ; muốn Đảng
Cộng sản tỏ rõ tài năng với Đảng xã hội dân chủ.

Ý thức chấp hành pháp luật của người dân ở một số nơi đang có diễn
biến rất phức tạp như: chống người thi hành công vụ, dùng vũ khí “nóng”,
công nhân các khu chế xuất, khu công nghiệp ở một số địa phương bị kẻ xấu
lợi dụng, kích động gây ra hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến lợi ích
hợp pháp của công dân, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vốn đẩu tư
nước ngoài. Người dân không nhiệt tình với việc tố giác tội phạm, mà tự xử,
không cần nhờ đến cơ quan pháp luật.

Kinh tế của đất nước gặp nhiều khó khăn; khoảng cách giàu, nghèo ngày
càng tăng; lòng tin của một bộ phận nhân dân với Đảng, Nhà nước giảm sút.

12
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
PHÒNG, CHỐNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH; ĐẤU TRANH NGĂN
CHẶN, ĐẨY LÙI "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA"

1. Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo phòng, chống chiến lược “Diễn biến
hòa bình” và các phương thức, giải pháp

1.1 Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng

a) Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là bài học lớn, là
mục tiêu xuyên suốt của cách xa rời mục tiêu đó. Xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau. Trong khi
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, Đảng ta, nhân dân ta phải luôn
chăm lo xây dựng củng cố quốc phòng, an ninh đất nước. Phải kiên quyết đấu
tranh chống các âm mưu phá hoại của địch, chống chủ nghĩa cơ hội xét lại,
sự thoái hóa biến chất về chính trị, dao động về tư tưởng, xa rời mục tiêu xã
hội chủ nghĩa, đề phòng nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Khắc phục
tư tưởng chủ quan, mơ hồ, mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm, thụ động, né
tránh đấu tranh chống lại các thủ đoạn của các thế lực thù địch và các quan
điểm sai trái.

b) Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực

Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của ta ngày nay, là sức mạnh tổng hợp của
khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của
Đảng; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, được tạo ra trên
cơ sở kết hợp giữa các hoạt động: chính trị, kinh tế, quân sự, an ninh, đối
ngoại... “Diễn biến hoà bình” của địch là sự chống phá toàn diện bằng tổng
hợp các biện pháp. Vì vậy, chống “Diễn biến hoà bình” cũng phải chống trên
các mặt, bằng tổng thể các biện pháp, nhưng lấy phi quân sự là chủ yếu; với
sức mạnh tổng hợp được tạo ra từ nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân. Trong đó, lực lượng tiến hành là toàn dân và cả hệ thống chính trị.

13
Chống “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ là nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu,
lâu dài của sự nghiệp quốc phòng - an ninh đất nước; là cuộc đấu tranh giai
cấp, dân tộc nổi lên trong thời kỳ mới của nhân dân ta. Vì vậy, nó phải được
đặt dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng. Mặt khác, với phương
thức “mềm-ngầm-sâu” để thúc đẩy “tự diễn biến” từ bên trong, chính nhân
dân và hệ thống chính trị của ta cùng với lực lượng vũ trang lại là đối tượng
tiến công của “Diễn biến hoà bình”. Bởi vậy, toàn Đảng, toàn dân và các cấp,
các ngành cần cảnh giác, nắm vững âm mưu, thủ đoạn chống phá của địch,
chủ động đối phó hiệu quả trong phạm vi và lĩnh vực của mình; đồng thời chủ
động phối hợp để ngăn ngừa và làm thất bại “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn
lật đổ của địch trong mọi tình huống.

c) Giữ vững ổn định từ bên trong, chủ động phòng ngừa

Đây là phương châm cơ bản, chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ cuộc đấu
tranh. “Diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch dựa vào bên trong và chống
phá ta từ bên trong là chính, kết hợp với chống phá từ bên ngoài, vì vậy ta
phải lo củng cố, giữ vững từ bên trong, để chủ động phòng ngừa và đối phó
có hiệu quả từ bên ngoài. Vấn đề mấu chốt là thực hiện "trong ấm" thì "ngoài
êm", đó là kế sách giữ nước của cha ông ta, tạo nên sức đề kháng để miễn
dịch. Có giữ vững ổn định bên trong, mới có cơ sở và chủ động ngăn ngừa có
hiệu quả sự xâm nhập phá hoại từ bên ngoài vào. Xây dựng vững chắc bên
trong là chủ yếu, quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh. Giữ vững bên trong
trước hết là giữ vững sự ổn định chính trị của đất nước, giữ vững sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, giữ vững mục tiêu con đường xã hội chủ
nghĩa.

d) Kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống

Đây là phương châm cơ bản chỉ đạo của cuộc đấu tranh; đồng thời thể
hiện tính tích cực, chủ động, kiên quyết tiến công, không thụ động. Quan hệ
giữa xây và chống là mối quan hệ biện chứng, trong đó lấy xây là mục đích,
là chủ yếu. Có xây dựng vững chắc thì mới chủ động tiến công địch, mới có
khả năng ngăn chặn, đập tan âm mưu thủ đoạn xâm nhập, phá hoại của địch.
Mặt khác, chống tốt là điều kiện để bảo đảm cho xây dựng được vững chắc.
Trong xây dựng phải toàn diện cả chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đặc biệt xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh từ Trung
ương đến cơ sở, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc đánh bại âm mưu,

14
thủ đoạn của địch hòng tạo dựng lực lượng đối lập để chuyển hóa nội bộ ta.
Đi đôi với công tác xây dựng, chúng ta phải hết sức coi trọng công tác bảo vệ
chính trị nội bộ, trước hết là bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, bảo vệ an toàn các tổ chức đảng, chính quyền, bảo vệ bí mật
Nhà nước và lợi ích quốc gia, phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh chống các
hoạt động nội gián, chống các tác động chuyển hóa của các thế lực thù địch
vào trong nội bộ Đảng, Nhà nước ta. Nguồn lực, sức mạnh của cuộc đấu tranh
là: Nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân, vì vậy phải xây dựng củng cố, giữ
vững “thế trận lòng dân”, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng
vững mạnh. Vì vậy, Đảng phải chăm lo đến việc mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, đặc biệt là chế độ dân chủ
ở cơ sở. Mở rộng và có cơ chế từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp
một cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu quả. Đồng thời, Đảng và Nhà
nước phải chăm lo phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, chú trọng xóa đói giảm nghèo, khắc phục triệt để hiện tượng dân
đói, dân dốt, dân kiện.

Chống “Diễn biến hòa bình” của địch phải kết hợp chặt chẽ với chống
các nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
nạn tham nhũng và tệ quan liêu. Điều cần nhấn mạnh là tình trạng tham
nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, đang cản trở đến thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân
dân với Đảng. Nếu không xây dựng, giữ vững được bên trong, thì không chủ
động ngăn ngừa được sự phá hoại từ bên ngoài; sự yếu kém bên trong nội bộ
ta là mảnh đất tốt để địch thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Phải cảnh
giác ngăn ngừa đấu tranh khắc phục những nhân tố sơ hở, mất cảnh giác, tiêu
cực, mất ổn định trong nội bộ.

e) Chống “Diễn biến hòa bình” kết hợp với chống bạo loạn lật đổ và
sẵn sàng đối phó thắng lợi các tình huống khác có thể xảy ra

Tại Hội nghị Trung ương 8 (khoá IX), Đảng ta đã dự báo có 3 tình
huống chiến lược trong bảo vệ Tổ quốc những năm sắp tới. Các tình huống
đó có mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau, tình huống này có thể là tiền
đề cho sự xuất hiện của tình huống kia. Trong đó hai tình huống: Biến động
chính trị trong nước, đe dọa sự mất còn của chế độ; bạo loạn ly khai ở một

15
vùng hoặc một số vùng, gây nguy cơ chia cắt đất nước là do hoạt động
“Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch tạo ra. Vì vậy, làm thất bại
“Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch cũng chính là trực tiếp ngăn
ngừa, đẩy lùi hai tình huống chiến lược trên. Mặt khác, ngăn chặn được hai
tình huống trên sẽ góp phần quan trọng triệt tiêu điều kiện, thời cơ để nước
ngoài lợi dụng can thiệp, chống ta bằng cả chính trị - ngoại giao - kinh tế;
không cho kẻ thù kiếm cớ can thiệp quân sự, gây xung đột vũ trang và chiến
tranh xâm lược nước ta (tình huống chiến lược 3).

“Diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ và các tình huống chiến
lược như: Gây biến động về chính trị trong nước, bạo loạn ở một vùng, một số
vùng thực hiện chia cắt đất nước, xung đột vũ trang và tiến hành chiến tranh
xâm lược là những tình huống chiến lược chống phá cách mạng Việt Nam của
các thế lực thù địch. Vì vậy, trong khi tập trung vào nhiệm vụ chống “Diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, chúng ta không được xem nhẹ các nhiệm vụ,
các tình huống khác. Chống “Diễn biến hòa bình” kết hợp chặt chẽ các tình
huống chiến lược đã được xác định có mối quan hệ chặt chẽ, đan xen lẫn
nhau. Vì vậy, kết hợp nhiệm vụ chống “Diễn biến hòa bình”, với bạo loạn lật
đổ là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, lâu dài và phải kết hợp với các tình huống
khác là tất yếu khách quan. Sự kết hợp giữa nhiệm vụ chống “Diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ với nhiệm vụ sẵn sàng ứng phó với các tình huống khác
có thể xảy ra là sự kết hợp toàn diện cả thế trận và lực lượng trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội; là sự kết hợp biện pháp phi quân sự với biện
pháp quân sự, lấy biện pháp phi quân sự là chính; kết hợp phòng ngừa với tích
cực chủ động tiến công địch về chính trị, tư tưởng và tiến công địch về quân
sự khi cần thiết.
1.2 Phương thức đấu tranh phòng, chống “Diễn biến hòa bình” trên các lĩnh
vực chủ yếu
a) Phòng chống “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng,
văn hóa

Trên lĩnh vực chính trị: Chăm lo xây dựng và củng cố hệ thống chính
trị; trước hết là xây dựng Đảng, Nhà nước thực sự trong sạch vững mạnh,
ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng ở thời kỳ mới. Trong đó, xây dựng Đảng
được xác định là khâu then chốt, vì Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính
trị, là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Đảng
còn là mục tiêu kẻ thù tập trung chống phá. Đảng vững mạnh sẽ ngăn chặn

16
được nguy cơ chệch hướng, “tự diễn biến” từ bên trong, là điều kiện tiên
quyết để làm thất bại chiến lược “Diễn biến hoà bình” của địch. Tăng cường
củng cố các tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của
các chi bộ Đảng, làm cho các chi bộ thực sự là pháo đài vững chắc chống địch
móc nối, xâm nhập, cài cắm, nội gián để tác động chuyển hóa nội bộ Đảng ta.
Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt, hoạt động của Đảng.
Đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, củng cố tăng cường đoàn kết thống
nhất trong Đảng, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng; tích cực đấu
tranh khắc phục mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, cục bộ, mất đoàn kết trong Đảng.
Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hóa biến chất về chính trị, đạo
đức, không để địch lợi dụng kích động, phân hóa, làm suy yếu Đảng.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; làm cho Nhà nước ta đúng là công cụ để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện cải cách hành chính theo hướng:
Công khai - minh bạch - vì dân; bên cạnh đó cần xây dựng đội ngũ công chức
giỏi về nghiệp vụ, đồng thời là người công bộc trung thành tận tụy của nhân
dân; triệt để chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; thực hiện thắng lợi các
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng đề ra, củng cố
niềm tin của nhân dân với chế độ. Trước mắt, tập trung lãnh đạo, tổ chức thực
hiện có hiệu quả việc chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí không để các thế
lực thù địch lợi dụng vấn đề này tập hợp lực lượng chống phá Đảng và Nhà
nước ta.

Một vấn đề có ý nghĩa cực kì quan trọng là phải xây dựng cơ sở


chính trị vững chắc, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân;
phải coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân”. Chăm lo xây dựng cơ sở chính
trị vững mạnh, nhất là địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, miền núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách xã hội, chống tệ
nạn tham nhũng, cửa quyền, sách nhiễu, vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân,
thường xuyên giáo dục, vận động nhân dân, nâng cao cảnh giác cách mạng,
tích cực tham gia củng cố quốc phòng - an ninh, phòng chống “Diễn biến
hòa bình”, bạo loạn lật đổ của địch. Kiên quyết đấu tranh với những luận điệu
vu cáo, bôi nhọ Đảng, phủ nhận những thắng lợi lịch sử và những thành tựu
đạt được trong thời kỳ đổi mới của cách mạng Việt Nam. Làm thất bại mọi

17
âm mưu và hoạt động thành lập các tổ chức chính trị đối lập, tiến tới đa
nguyên, đa đảng của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước.

Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, cần tăng cường công tác lý luận, tư
tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng; bảo vệ,
củng cố vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong Đảng và chế độ ta. Chú trọng giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự
hào và tinh thần tự cường dân tộc, truyền thống dựng nước và giữ nước. Kiên
quyết đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả khuynh hướng tư tưởng tư sản, tư
tưởng xã hội dân chủ, các luận điệu tuyên truyền vu cáo chủ nghĩa xã hội, bôi
nhọ, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ
nhận đường lối quan điểm của Đảng, phủ nhận lịch sử, và các quan điểm đòi
"đa nguyên", "đa đảng", "dân chủ nhân quyền" theo kiểu phương Tây, các
luận điệu chống phá cách mạng nước ta dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền,
dân tộc, tôn giáo. Biện pháp là tăng cường tổng kết thực tiễn, đổi mới công
tác tư tưởng sát từng đối tượng đi đôi với tăng cường lãnh đạo, quản lý thông
tin, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ... Kịp thời ngăn chặn quan điểm lệch
lạc, thương mại hóa... trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa - văn nghệ, báo chí,
xuất bản. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; quản lý và kiểm soát chặt
chẽ công tác tuyên truyền, xuất bản và có định hướng thống nhất trong chỉ
đạo nghiên cứu lý luận; nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng - văn hóa trong
tình hình mới.

b) Phòng chống “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế

Quán triệt, thực hiện và bảo vệ vững chắc đường lối đổi mới kinh tế của
Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc. Luôn luôn đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước âm mưu đen tối của các
thế lực thù địch lợi dụng quan hệ kinh tế, thương mại, thông qua kinh tế để
chuyển hóa ta về chính trị. Thực hiện phương châm chủ động hợp tác, đấu
tranh kiên quyết, mềm dẻo trong quan hệ kinh tế. Đồng thời hạn chế các mặt
tiêu cực do nền kinh tế thị trường tạo ra trên một số mặt của đời sống xã hội.
Phấn đấu thực hiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; thực
hành tiết kiệm, chống tham nhũng, tham ô, lãng phí. Kết hợp giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, giải quyết tình

18
trạng thất nghiệp và thiếu việc làm, hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị
trường, đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm kinh tế, chống tham nhũng,
lãng phí, tham ô. Phải nâng cao ý thức, năng lực cho cán bộ, Đảng viên và
nhân dân trong xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao năng lực cạnh
tranh và hoàn thiện pháp luật về kinh tế.

c) Phòng chống “Diễn biến hòa bình” trên vấn đề dân chủ, nhân
quyền, dân tộc và tôn giáo

Đảng và Nhà nước cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách dân
tộc, tôn giáo đúng đắn rộng mở, làm cơ sở củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân. Tôn trọng quyền lợi và sự bình đẳng giữa các dân tộc, quyền tự do tín
ngưỡng của nhân dân theo đúng pháp luật và truyền thống văn hoá Việt
Nam. Quan tâm phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp phát triển kinh tế với quốc
phòng - an ninh ở những vùng rừng núi, biên giới; cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần của đồng bào các dân tộc ít người, đồng bào các tôn giáo. Thực hiện
“bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau” giữa các dân tộc, tôn giáo
trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước. Xây dựng cơ sở vững mạnh, đặc
biệt là hệ thống chính trị; chăm lo đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đảng
viên trung thành và có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo; ngăn
ngừa, đấu tranh với mọi âm mưu và hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo để tuyên truyền kích động quần chúng ly khai, chống Đảng và chính
quyền, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân. Phát huy vai trò của mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các già làng, nhân sỹ, chức sắc tôn giáo
trong công tác vận động quần chúng. Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trên cơ sở thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế- xã hội và làm tốt công
tác vận động quần chúng, thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; thực
hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.

d) Phòng chống “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực quốc phòng, quân
sự, an ninh

Trước tiên cần phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với quốc phòng - an ninh. Tăng cường củng cố nền quốc phòng, giữ vững an
ninh quốc gia và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên
của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó quân đội nhân dân và công an
nhân dân là lực lượng nòng cốt. Tiếp tục xây dựng, củng cố, hoàn thiện thế

19
trận quốc phòng toàn dân, kết hợp với thế trận an ninh nhân dân ở từng địa
phương và trên cả nước vững mạnh toàn diện, chắc trọng điểm. Tăng cường
công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra
những điểm nóng về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là các vùng
dân tộc, miền núi và các trung tâm kinh tế, chính trị của đất nước. Tiếp tục
xây dựng, phát triển các khu vực kinh tế kết hợp với quốc phòng ở vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới. Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân:
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; có bản lĩnh chính trị vững
vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; có trình độ
học vấn và chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao; quý trọng và hết lòng phục
vụ nhân dân; có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh; có trình độ sẵn sàng
chiến đấu và sức chiến đấu ngày càng cao; thường xuyên cảnh giác, kịp thời
đập tan mọi âm mưu và hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc và an ninh quốc gia. Kiên quyết đấu tranh chống mọi luận
điệu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm “phi chính trị”, “vô hiệu hóa”
lực lượng vũ trang, trước hết là quân đội và công an. Cần xác định các tình
huống cụ thể và có phương án xử trí phù hợp với các tình huống đó.

e) Phòng chống “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực ngoại giao

Đổi mới tư duy đối ngoại để theo kịp sự phát triển mau lẹ của tình hình
thế giới. Có dự báo đúng: tình hình thế giới, khu vực, chiều hướng vận động
của các mối quan hệ quốc tế và âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hoà
bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù đối với Việt Nam. Cảnh giác, nhận rõ âm
mưu thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực
ngoại giao, để có biện pháp ngăn chặn phòng ngừa. Xác định đúng đắn đối
tượng, đối tác trên các lĩnh vực; khai thác sự đồng thuận trong các quan hệ lợi
ích đan xen, phụ thuộc lẫn nhau trên thế giới, trong khu vực và với Việt Nam,
để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ động tiến công
trên hoạt động đối ngoại, vạch trần và làm thất bại các luận điệu xuyên tạc, vu
cáo, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam dưới mọi hình thức. Vận
động Việt kiều tham gia phát hiện, đấu tranh với những âm mưu và hành
động chống phá của bọn phản động lưu vong người Việt. Phối hợp chặt chẽ
giữa đối ngoại với an ninh - quốc phòng trong phòng và chống “Diễn biến hoà
bình”, bạo loạn lật đổ. Không cho địch lợi dụng lãnh thổ các nước láng giềng
để xâm nhập, hỗ trợ, chỉ đạo chống phá Việt Nam.

20
2. Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và giải pháp trong đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
2.1. Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng
Trải qua nhiều kỳ Đại hội, Đảng ta đều cảnh báo về sự suy thoái về tư
tưởng chính trị. Thuật ngữ “suy thoái về tư tưởng chính trị” lần đầu tiên được
Đảng ta chính thức sử dụng trong văn kiện Hội nghị Trung ương 6 (lần 2)
khoá VIII (2-1999). Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI:“Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã chỉ rõ ba vấn đề cấp bách, trong đó vấn
đề cấp bách thứ nhất là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Suy
thoái về tư tưởng chính trị thực chất là sự biến đổi theo chiều hướng xấu dần
về phẩm chất chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên, dẫn tới sự xa rời
những nguyên tắc, quan điểm chính trị.

Đại hội XI (năm 2011), lần đầu tiên Đảng ta nhận định: “Trong nội bộ,
những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
nhận định các thế lực thù địch thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục nhận định: “những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức và sự quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”.

Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã chỉ rõ: Cái mới của lần này là Trung ương thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ
thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong đó nguy hiểm nhất là sự phai
nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường đi lên xã hội chủ nghĩa,
mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của
Đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai
không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc;
không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức
trách nhiệm vụ được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức sinh
hoạt đảng; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, ham
quyền lợi; bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó
khăn, bức xúc của dân,... Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất
ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế

21
lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc.
2.2 Giải pháp đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa "tự diễn biến", "tự
chuyển hoá"
Để đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá" trong nội bộ hiện nay, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chính sau
đây:

Một là, đổi mới và tăng cường việc nâng cao nhận thức tư tưởng cho
các cấp uỷ, tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà nước, cán bộ, đảng viên, công
chức và nhân dân. Trước hết là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức
nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp phải có
nhận thức đúng, đầy đủ để tạo sự đột phá trong nêu cao tính gương mẫu thực
hiện, tạo chuyển biến mạnh mẽ nhận thức và hành động từ trên xuống, từ
dưới lên, từ trong Đảng đến toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tiếp tục
đẩy mạnh có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị;
phát huy vai trò chủ động, tự giác của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng
đầu trong chấp hành và thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng, Nhà nước, trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, nói đi đôi
với làm, mẫu mực trong chấp hành quy định về những điều đảng viên, cán bộ,
công chức không được làm, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy tắc ứng
xử, đạo đức nghề nghiệp.

Hai là, hoàn thiện các quy định, cơ chế, chính sách về công tác tổ chức,
cán bộ để bảo đảm đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả sự suy thoái của cấp uỷ,
tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đối với
tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, thường suy thoái về tư tưởng chính trị xuất
hiện trước (qua việc không chấp hành nghiêm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt
đảng, sinh hoạt tổ chức nhà nước, nhất là không chấp hành nghiêm quy chế
làm việc, chế độ công tác...), sau đó sẽ chuyển sang suy thoái về đạo đức, lối
sống của các thành viên trong tổ chức. Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị là sự biến đổi về phẩm chất chính trị theo chiều hướng xấu, dẫn đến xa rời
những nguyên tắc của Đảng, quan điểm, lập trường chính trị dao động, thiếu
niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút ý chí chiến đấu, mơ hồ, hoài
nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng, bị các thế lực thù địch lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc. Vì vậy, phải nắm

22
vững cả suy thoái về tư tưởng chính trị và suy thoái về đạo đức, lối sống của
tổ chức, cá nhân để có giải pháp đồng bộ về tổ chức, cán bộ để đấu tranh,
ngăn chặn có hiệu quả.

Ba là, thực hiện nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả chế độ tự phê bình
và phê bình trong cấp uỷ, tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà nước, trong cán
bộ, đảng viên, công chức. Từng cấp uỷ, tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà
nước, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ yêu
cầu cấp bách của nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình hiện
nay, thấy rõ trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân để nêu cao ý
thức tự phê bình và phê bình nghiêm túc, thực sự cầu thị, tạo chuyển biến về
chất trong việc đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị đồng thời với đẩy lùi
sự suy thoái về đạo đức, lối sống. Trước hết, sự gương mẫu của Trung ương,
của cấp trên là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Cán bộ, đảng viên,
công chức, trước hết là cán bộ, lãnh đạo, quản lý, cấp càng cao càng phải
gương mẫu và nghiêm túc tự giác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình để làm
làm gương cho cấp dưới noi theo. Sau khi tiến hành kiểm điểm, tự phê bình
và phê bình nghiêm túc trong toàn Đảng, những khuyết điểm, vi phạm của
từng cán bộ, đảng viên về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống phải được sửa
chữa, khắc phục ngay bằng những biện pháp tích cực, hữu hiệu để đẩy lùi tình
trạng này, kiên quyết không để "tự diễn biến" xảy ra kéo dài, nghiêm trọng,
chuyển sang "tự chuyển hoá".

Bốn là, coi trọng và thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra, giám sát, kiểm
soát cấp uỷ, tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà nước, cán bộ, đảng viên, công
chức trong việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống và xử lý kiên quyết, kịp
thời, nghiêm minh những trường hợp vi phạm theo kỷ luật đảng, kỷ luật hành
chính và bằng pháp luật. Tổ chức thực hiện nghiêm túc, có kết quả Quy chế
về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; Quy chế chất vấn trong Đảng;
Quy định về những điều cán bộ, đảng viên, công chức không được làm, Quy
định về công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức của cán bộ, đảng viên theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị;
Quy chế giám sát trong Đảng; quy định về quy tắc ứng xử của cán bộ, công
chức. Kịp thời biểu dương, khen thưởng nhân điển hình những tập thể, cá
nhân tiêu biểu, xử lý kiên quyết, nghiêm minh, dứt điểm, công khai các vi
phạm, bất kể tổ chức nào, hoặc người đó là ai.

23
III. ĐẢNG BỘ TẬP ĐOÀN HÓA CHẤT VIỆT NAM VỚI CUỘC
ĐẤU TRANH CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”

1. Khái quát về Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt Nam

Đảng bộ Tập đoàn Hoá chất Việt Nam tiền thân là Đảng bộ Tổng Công
ty Hoá chất Việt Nam thành lập ngày 08 tháng 10 năm 2007 theo Quyết định
số 301-QĐ/ĐUK của Ban Thường vụ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung
ương, là Đảng bộ cấp trên cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương.

Ngày 23 tháng 12 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số
2180/QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Hoá chất Việt Nam;
theo đó ngày 30 tháng 12 năm 2009, Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung
ương đã có quyết định số 612-QĐ/ĐUK về việc đổi tên Đảng bộ Tổng công
ty Hoá chất Việt Nam thành Đảng bộ Tập đoàn Hoá chất Việt Nam.

Hiện nay, Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là Đảng bộ cấp trên cơ
sở, có 4.316 đảng viên, sinh hoạt tại 363 chi bộ trực thuộc, 3 Đảng bộ bộ
phận, 23 đảng bộ cơ sở, 06 chi bộ cơ sở và 10 chi bộ trực thuộc thẳng Đảng
ủy Tập đoàn.

Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 26 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 08
đồng chí và Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy gồm 07 đồng chí. Bí thư Đảng uỷ là
đồng chí Nguyễn Phú Cường, Phó Bí thư Đảng uỷ là đồng chí Phùng Quang
Hiệp và Đồng chí Nguyễn Văn Quý là Phó Bí thư thường trực Đảng ủy.

Chức năng, nhiệm vụ của Đảng uỷ Tập đoàn:

Chức năng: Lãnh đạo nhiệm vụ chính trị, công tác tổ chức, cán bộ, các
đoàn thể quần chúng và phối hợp xây dựng đảng trong toàn Tập đoàn Hoá
chất Việt Nam nhằm tổ chức, giáo dục và động viên cán bộ, đảng viên và
người lao động hoàn thành nhiệm vụ được giao, xây dựng đảng bộ trong sạch,
vững mạnh gắn với xây dựng chính quyền, các đoàn thể quần chúng và đội
ngũ công nhân viên vững mạnh, giữ vững vai trò, vị trí them chốt của doanh
nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhiệm vụ: Lãnh đạo việc chấp hành chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; việc đề ra và thực hiện
có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của Tập đoàn; công tác tổ chức, cán bộ; công
24
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ chuyên môn; công tác tổ
chức xây dựng đảng bộ; công tác kiểm tra, giám sát; các đoàn thể chính trị -
xã hội trong Tập đoàn.

Đảng bộ Tập đoàn đã trải qua 3 nhiệm kỳ

Nhiệm kỳ 2010-2015

+ Cơ cấu tổ chức: Số tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ Tập đoàn gồm
16 chi, đảng bộ (04 đảng bộ cơ sở, 6 chi bộ cơ sở và 6 chi bộ trực thuộc),
tổng số đảng viên trong đảng bộ 605 (466 nam, 139 nữ). Ban Chấp hành
Đảng bộ Tập đoàn có 21 đồng chí, Ủy ban Kiểm tra có 7 đồng chí. Các loại
hình tổ chức đảng trong đảng bộ bao gồm chi bộ các ban tham mưu giúp
việc trong cơ quan Tập đoàn, chi bộ các ban quản lý dự án, chi bộ công ty
cổ phần, đảng bộ công ty cổ phần, đảng bộ công ty TNHH một thành viên.

+ Một số kết quả đạt được trong nhiệm kỳ: Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ
Tập đoàn đã lãnh đạo, chỉ đạo các chi, đảng bộ trực thuộc hoàn thành tốt
các nhiệm vụ chính trị; sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng. Đã đưa nhà
máy Đạm Ninh Bình; Nhà máy DAP số 2 – Vinachem vào sử dụng góp
phần đảm bảo nguồn cung, bình ổ thị trường phân bón urea và DAP cho thị
trường trong nước và xuất khẩu.

Nhiệm kỳ 2015-2020

+ Cơ cấu tổ chức: Đã tiếp nhận 08 chi, đảng bộ phía Nam và 03 chi,


đảng bộ phía Bắc về trực thuộc Đảng bộ Tập đoàn. Điều này làm cho quy mô
về tổ chức cũng như số lượng Đảng viên tăng lên đáng kể giúp cho việc lãnh
đạo, chỉ đạo được tập trung, xuyên suốt.

+ Một số kết quả đạt được: Đứng trước những khó khăn, thách thức giai
đoạn 2015-2020, Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Đảng ủy đã ban
hành, triển khai các Nghị quyết, chỉ thị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Trong 5 năm qua, kết quả thực hiện nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh của Tập đoàn như sau:Giá trị sản xuất công nghiệp: Tính
theo giá so sánh năm 2010 đạt 232.350 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân
2,5%/năm; Tính theo giá thực tế đạt 214.919 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân
0,2%/năm; Doanh thu: đạt 227.592 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân 0,1%/năm;
Nộp ngân sách: ước đạt 9.288 tỷ đồng.

25
Tập đoàn đã bảo đảm đủ việc làm thường xuyên và ổn định cho gần
23.000 lao động với điều kiện làm việc ngày càng được cải thiện, thu nhập
bình quân đạt 8,5 triệu đồng/người/tháng.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2016 - 2020 đạt 3.055 triệu
USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 1.615 triệu USD, tăng bình quân
8,3%/năm; kim ngạch nhập khẩu đạt 1.440 triệu USD, tăng bình quân
3,9%/năm.

Trong nhiệm kỳ 2015-2020, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức, Đảng bộ Tập đoàn và các cấp ủy trực thuộc đã đoàn kết, đồng
lòng, nỗ lực phấn đấu thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng
Đảng:

Các chỉ tiêu về công tác xây dựng Đảng hoàn thành và vượt mức so với
Nghị quyết Đại hội đề ra. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng tiếp
tục được tăng cường, đổi mới, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng
thuận trong doanh nghiệp. Bản lĩnh chính trị của tổ chức Đảng và mỗi cán bộ,
đảng viên được nâng lên. Kết hợp thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW với các quy
định của Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
đảng. Công tác tổ chức cán bộ ngày càng đi vào nền nếp. Việc hợp nhất các
ban tham mưu của Đảng theo Quy định 69-QĐ/TW được thực hiện với quyết
tâm chính trị cao, đã sắp xếp lại tổ chức bộ máy, giảm đầu mối. Công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được coi trọng, thực hiện toàn diện, đồng bộ,
có hiệu lực, hiệu quả hơn. Công tác dân vận tiếp tục có chuyển biến tích cực,
thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở tại Tập đoàn; Công tác chỉ đạo các tổ
chức chính trị - xã hội tiếp tục được quan tâm.

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước vẫn còn nhiều khó
khăn, bằng sự nỗ lực, cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên và các đơn
vị thành viên, Tập đoàn đã đạt được những kết quả tích cực trong việc triển
khai nhiệm vụ công tác trong giai đoạn 2016-2020, 5/7 nhóm ngành có lợi
nhuận tăng; 04 đơn vị thuộc Đề án 1468 sản xuất dần ổn định, riêng đối với
Công ty cổ phần DAP – Vinachem đã được Ban Chỉ đạo Chính phủ xem xét
đưa ra khỏi danh sách các doanh nghiệp, dự án thuộc Đề án 1468;Sản phẩm
sản xuất và tiêu thụ hầu hết có tăng trưởng; góp phần bảo đảm các cân đối lớn
về hàng hóa cho nhu cầu của nền kinh tế; Nghiêm túc thực hiện cơ cấu lại, đổi

26
mới, và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp. Từng bước củng cố và phát triển hệ
thống quản trị tiên tiến, đáp ứng các yêu cầu theo thông lệ quốc tế, minh bạch
trong hoạt động. Bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động; Tích cực
thực hiện các hoạt động an sinh xã hội, tham gia khắc phục hậu quả thiên tai.

Nhiệm kỳ 2020-2025

Đảng ủy, Hội đồng thành viên, Ban Tổng giám đốc Tập đoàn đã nghiêm
túc triển khai thực hiện các Chủ trương, Chính sách, Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng và Chính phủ; bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Khối Doanh
nghiệp Trung ương, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, các
Bộ/ngành triển khai đồng bộ các giải pháp, lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy trực
thuộc và các đơn vị thành viên thuộc Tập đoàn. Tập đoàn đã triển khai đồng
bộ các giải pháp triển khai Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ.Toàn Tập
đoàn đã đạt được những kết quả tích cực trong việc triển khai nhiệm vụ công
tác năm 2021. Các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh đều vượt kế hoạch năm 2021
và tăng mạnh so với thực hiện năm 2020, cụ thể giá trị sản xuất theo giá thực
tế tăng 30%, doanh thu tăng 24%, lợi nhuận đạt 1.726 tỷ đồng, tăng hiệu quả
3.852 tỷ đồng (năm 2020 lỗ 2.126 tỷ đồng).

Ngày 01 tháng 3 năm 2023, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương
đã ban hành Quyết định số 1157-QĐ/ĐUK về việc thành lập Đảng bộ toàn
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam. Ngay sau khi được thành lập, Đảng ủy Tập
đoàn đã Xây dựng Kế hoạch tiếp nhận tổ chức Đảng, đảng viên về Đảng bộ
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam; phối hợp, chỉ đạo 16 tổ chức đảng được chuyển
giao về trực thuộc Đảng bộ Tập đoàn: lập danh sách đảng viên hiện có của
Đảng bộ/Chi bộ; cập nhập, bổ sung đầy đủ các loại sổ nghiệp vụ đảng viên
theo quy định tại Hướng dẫn số 12-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung
ương. Trên cơ sở thống nhất với cấp ủy địa phương, chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để tổ chức hội nghị chuyển giao, tiếp nhận tổ chức đảng về trực
thuộc Đảng ủy Tập đoàn. Đến ngày 14 tháng 4 năm 2023, đã hoàn thành việc
chuyển giao, tiếp nhận về Đảng bộ Tập đoàn là 16 tổ chức đảng với 2.700
đảng viên. Hiện nay, Đảng bộ Tập đoàn là có 03 tổ chức Đảng hoạt động theo
mô hình Đảng bộ cấp trên cơ sở với 1.920 đảng viên; Đảng bộ cơ sở: 05 tổ
chức với 574 đảng viên; Chi bộ cơ sở, Chi bộ trực thuộc: 08 tổ chức với 206
đảng viên.

27
Đến nay, Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt Nam là Đảng bộ cấp trên cơ
sở xuyên suốt toàn Tập đoàn, có tổng số 39 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc, có
4.316 đảng viên, sinh hoạt tại 363 chi bộ, trực thuộc 23 đảng bộ cơ sở, 06 chi
bộ cơ sở và 10 chi bộ trực thuộc thẳng đảng ủy Tập đoàn.

2. Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt Nam với cuộc đấu tranh chống
“Diễn biến hòa bình”; ngăn chặn, đẩy lùi quá trình “tự diễn biến” “tự
chuyển hóa”

Xác định công cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” và nhất là
cuộc chiến chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là công tác hết sức phức tạp
và đặc biệt coi trọng. Do đó, Đảng ủy Tập đoàn đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp
ủy trực thuộc chú trọng, tập trung vào các mặt công tác về tư tưởng chính trị,
công tác cán bộ, công tác kiểm tra giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Đối với
Công tác cán bộ, Đảng ủy Tập đoàn, Hội đồng thành viên Tập đoàn chỉ đạo
các cấp ủy trực thuộc và Người đại diện phần vốn của Tập đoàn chỉ đạo các
công ty, đơn vị kịp thời quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện các chỉ thị,
nghị quyết, quyết định, kết luận, chỉ đạo của Trung ương, Ủy ban Quản lý vốn
nhà nước tại doanh nghiệp (Ủy ban), Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung
ương và Đảng ủy Tập đoàn liên quan đến công tác cán bộ; và chỉ đạo rà soát
sửa đổi, cập nhật các nội dung mới theo quy định của Trung ương và ban
hành các văn bản quy định, quy chế về công tác cán bộ tại Tập đoàn.

Đảng ủy Tập đoàn đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy trực thuộc triển khai
thực hiện công tác rà soát, bổ sung quy hoạch cấp ủy đơn vị các nhiệm kỳ
2020-2025, và xây dựng, rà soát, bổ sung quy hoạch cấp ủy đơn vị nhiệm kỳ
2025-2030 theo đúng các quy định, hướng dẫn của Bộ chính trị, Ban Tổ chức
Trung ương và Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương.

Lãnh đạo, chỉ đạo các Ban chuyên môn giúp việc cho Đảng ủy Tập
đoàn tiến hành rà soát, xây dựng các quy định mới về công tác quy hoạch cho
phù hợp với quy định của Trung ương và Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung
ương. Chỉ đạo thực hiện công tác quy hoạch, điều động, luân chuyển, bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ lãnh đạo, quản lý Tập đoàn và các đơn vị thành
viên trong Tập đoàn theo đúng các quy định, đảm bảo nguyên tắc Đảng thống
nhất lãnh đạo và quản lý công tác cán bộ, lựa chọn những cán bộ có đủ phẩm
chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

28
Thực hiện việc rà soát, bổ sung quy hoạch Ban Chấp hành, Ban
Thường vụ và chức danh Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy Tập đoàn các nhiệm kỳ
2015- 2020; 2020-2025 và quy hoạch cấp ủy Đảng bộ Tập đoàn nhiệm kỳ
2025-2030. Phê duyệt rà soát, bổ sung quy hoạch và quy hoạch các cấp ủy
trực thuộc nhiệm kỳ 2015- 2020; 2020-2025 và nhiệm kỳ 2025-2030 theo
hướng dẫn của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương. Chỉ đạo thực hiện
việc bổ sung quy hoạch và quy hoạch các - chức danh lãnh đạo, quản lý Tập
đoàn giai đoạn 2021-2026 và giai đoạn 2026-2031. Kịp thời chỉ đạo, cho ý
kiến để các cấp ủy trực thuộc kiện toàn, bổ sung c’ấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp
ủy khi thiếu khuyết.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị của được Đảng bộ Tập
đoàn đặc biệt chú trọng, tạo điều kiện thuận lợi để các đồng chí cán bộ có đủ
tiêu chuẩn tham gia học các lớp cao cấp, trung cấp lý luận chính trị hàng năm.
Triển khai thực hiện các Chỉ thị như: Chỉ thị số 02-CT/ĐUK, ngày 14 tháng 9
năm 2021 của Ban Thường vụ Đảng ủy Khối về nâng cao chất lượng công tác
đào tạo, bồi dưỡng chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ
Khối; Quy định số 164-QĐ/TW, ngày 01/02/2013 của Bộ Chính trị về chế độ
bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp đến
toàn bộ các chi bộ, đảng bộ trực thuộc. Trong nửa đầu nhiệm kỳ 2020-2025,
Đảng ủy Tập đoàn đã tổ chức 02 lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ công tác
xây dựng đảng cho 451 đồng chí cán bộ cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp
trong Đảng bộ; cử cán bộ tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ
công tác xây dựng Đảng do Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương tổ chức
đầy đủ đảm bảo đúng thành phần và số lượng theo thông báo triệu tập.

Trong các nhiệm kỳ qua, Đảng ủy Tập đoàn đã cử nhiều quần chúng
tham gia các lớp đối tượng đảng, các đảng viên dự bị tham gia lớp đảng viên
mới, các cán bộ được cử đi học cao cấp, nhiều cán bộ tham gia lớp trung cấp
lý luận chính trị; sơ cấp lý luận chính trị và cán bộ được bồi dưỡng nghiệp
vụ, chuyên môn và công tác Đảng.

Thực hiện chế độ sinh hoạt, quản lý và phát triển đảng, Đảng ủy Tập
đoàn đã quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/ĐUK ngày 27
tháng 9 năm 2013 của Ban Chấp hành Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung
ương, khóa II về tiếp tục nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, Ban Thường
vụ Đảng ủy Tập đoàn đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng trong
Đảng bộ thường xuyên quan tâm đến hình thức, nội dung, chất lượng sinh
29
hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ; thực hiện tốt công tác quản lý đảng viên
về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, các nguyên tắc tổ chức và
chế độ sinh hoạt đảng, mối quan hệ với quần chúng và giữ mối liên hệ với cấp
ủy nơi cư trú.

Hàng năm thực hiện nghiêm túc việc đánh giá, phân loại chất lượng tổ
chức đảng, đảng viên gắn với kiểm điểm tự phê bình và phê bình và kết quả
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” theo các
quy định, hướng dẫn của Trung ương và của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
Trung ương, đảm bảo chặt chẽ, đánh giá đúng chất lượng.

Số tổ chức cơ sở đảng trực thuộc hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên hàng
năm đều đạt trên 80% trở lên. Trong 3 năm gần nhất, năm 2020 đạt 93,55%,
năm 2021 đạt 90,32%, năm 2022 đạt 90,32% đạt theo chỉ tiêu Nghị quyết đã
đề ra (bình quân số tổ chức cơ sở trực thuộc hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên
đạt trên 80%/năm).

Số đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng năm đều đạt trên
90%/năm; trong 3 năm: năm 2020 đạt 97,28%; năm 2021 đạt 96,78%; năm
2022 đạt 95,52%; bình quân đạt 96,52%/năm; đạt chỉ tiêu Nghị quyết đã đề ra
(đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt trên 90%).

Công tác phát triển đảng viên mới được coi trọng cả về số lượng và
chất lượng. Trong nửa đầu nhiệm kỳ, làm thủ tục kết nạp đảng cho 263 quần
chúng ưu tú, đạt 105,2% chỉ tiêu của cả nhiệm kỳ (kết nạp 50 đảng viên/năm);
số đảng viên mới kết nạp đều được bồi dưỡng lý luận chính trị và chuyển
đảng chính thức đúng kỳ hạn.

Công tác khen thưởng tổ chức đảng và đảng viên, xét tặng huy hiệu
Đảng theo quy định: Trong nửa nhiệm kỳ đầu, Đảng ủy Tập đoàn đã xét tặng,
trình Đảng ủy cấp trên xét tặng: Huy hiệu 30, 40 năm tuổi Đảng cho các đồng
chí đạt tiêu chuẩn; Tặng Giấy khen Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 05 năm
liền cho nhiều đồng chí đảng viên và nhiều tổ chức đảng trực thuộc.

Công tác phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn được thể
hiện rõ qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng và phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực

30
* Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng ủy Tập đoàn đã thường xuyên quan tâm
chỉ đạo thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát của Đảng góp phần nâng cao
chất lượng tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Hàng năm, Ban Thường vụ Đảng ủy, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Tập
đoàn và cấp uỷ, ủy ban kiểm tra các cấp ủy trực thuộc đã chủ động xây dựng
và triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát
theo Điều lệ Đảng. Nội dung kiểm tra, giám sát chủ yếu tập trung vào việc
thực hiện Điều lệ Đảng, các quy định, các chỉ thị, nghị quyết, quy định của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
gắn với công tác xây dựng Đảng.

Chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát, kịp thời phát hiện và xử lý những trường hợp tổ chức đảng và đảng viên
vi phạm Điều lệ đảng, quy chế làm việc của cấp ủy các cấp; giải quyết kịp
thời các đơn thư tố cáo có liên quan đến tổ chức đảng và đảng viên.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với những đơn vị gặp nhiều
khó khăn trong sản xuất kinh doanh để kịp thời phát hiện, xử lý những cán bộ,
đảng viên có vi phạm, khuyết điểm, đồng thời đề xuất thay thế những cán bộ
yếu kém không hoàn thành nhiệm vụ.

Chỉ tính trong nửa đầu nhiệm kỳ 2020- 2025, cấp ủy, ủy ban kiểm tra
cấp ủy các cấp trong Đảng bộ đã kiểm tra, giám sát 216 tổ chức đảng và 808
đảng viên, trong đó: Ban Thường vụ Đảng ủy và Ủy ban - Kiểm tra Đảng ủy
Tập đoàn đã kiểm tra, giám sát 12 lượt tổ chức Đảng và 09 đồng chí Bí thư
cấp uỷ cơ sở. Cấp uỷ và Ủy ban Kiểm tra các tổ chức đảng trực thuộc đã kiểm
tra, giám sát 204 lượt Đảng ủy bộ phận, chi bộ trực thuộc và 799 lượt đảng
viên. Các cuộc kiểm tra, giám sát về cơ bản đạt hiệu quả tốt và đúng quy định
của Đảng. Xem xét, thi hành kỷ luật: Đảng bộ Tập đoàn có 01 tổ chức đảng bị
vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật, cấp thi hành kỷ luật là Đảng ủy cơ sở
đã thi hành kỷ luật đối với Chi bộ trực thuộc Đảng bộ do vi phạm về nguyên
tắc tổ chức, sinh hoạt đảng năm 2020 và năm 2021 bị kỷ luật với hình thức
“Cảnh cáo”; kỷ luật 24 đảng viên với hình thức “Khiển trách”, trong đó Ban
Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn thi hành kỷ luật 01 đảng viên thuộc diện Đảng
ủy Tập đoàn quản lý; chi bộ trực thuộc kỷ luật 21 đảng viên vi phạm chính
sách kế hoạch hóa gia đình.
31
Thông qua kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng đã giúp cấp uỷ
các cấp nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững
mạnh, ngăn ngừa các vi phạm, khuyết điểm và tiêu cực xảy ra, góp phần hạn
chế quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

* Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực luôn được Đảng ủy và
Ban lãnh đạo Tập đoàn quan tâm chú trọng, chỉ đạo các công ty, đơn vị thành
viên nghiêm túc quán triệt và triển khai thực hiện, định kỳ báo cáo kết quả về
Tập đoàn để tổng hợp, theo dõi nắm bắt tình hình và báo cáo cấp trên theo
quy định. Đảng ủy Tập đoàn đã ban hành Chỉ thị về công tác phòng, chống
tham nhũng tiêu cực để triển khai tới các chi bộ, đảng bộ trực thuộc thực hiện;
hàng năm xây dựng Chương trình công tác phòng, chống tham nhũng tiêu cực
của Ban Chấp hành Đảng bộ Tập đoàn.

Việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực được phối hợp với việc tổ chức thực hiện các luật khác như
luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Hàng năm, Tập đoàn yêu cầu
từng đơn vị rà soát, xây dựng kế hoạch tiết giảm chi phí trong sản xuất kinh
doanh, báo cáo Tập đoàn để theo dõi chỉ đạo thực hiện.

Ban Thường vụ Đảng uỷ Tập đoàn đã có văn bản chỉ đạo các chi, đảng
bộ trực thuộc để tổ chức phổ biến, quán triệt theo quy định.Việc giải quyết
đơn thư khiếu kiện tố cáo có liên quan đến tham nhũng, lãng phí được Đảng
ủy và ban lãnh đạo Tập đoàn chỉ đạo xác minh, giải quyết kịp thời theo đúng
quy định của pháp luật. Hàng năm, Đảng ủy và ban lãnh đạo Tập đoàn chỉ
đạo thực hiện nghiêm túc công tác kê khai tài sản, thu nhập và kiểm soát việc
kê khai tài sản thu nhập từ cấp Tập đoàn đến các đơn vị.

Thông qua công tác kiểm tra, giám sát; công tác phòng chống tham
nhũng tiêu cực đã hạn chế được mức thấp nhất về quá trình “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong mỗi đảng viên, nhất là đối với các lãnh đạo, người đứng
đầu các tổ chức, các đơn vị.

Đảng ủy Tập đoàn còn lãnh đạo các cấp ủy thường xuyên đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo của đảng tại doanh nghiệp, đơn vị

32
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng; nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ là một trong những nhiệm vụ, giải pháp trong
nhóm nhiệm vụ, giải pháp về củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng, một trong bốn nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
đã đề ra trong Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn đã kịp thời cụ thể hoá
chủ trương của cấp trên phù hợp với thực tiễn và nhiệm vụ chính trị của chi,
đảng bộ trực thuộc, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh. Nắm bắt tình
hình, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thường xuyên kiểm tra, giám sát
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng.

Công tác đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên hàng năm
được thực hiện có nền nếp và chất lượng. Nội dung, tiêu chí xếp loại chất
lượng tổ chức đảng, đảng viên đã được lượng hóa cụ thể phù hợp với tình hình
đặc điểm của các tổ chức đảng trong Đảng bộ Tập đoàn. Công tác chỉ đạo đánh
giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được các cấp ủy trực
thuộc quan tâm, sâu sát từ xây dựng kế hoạch triển khai, cụ thể hóa các nội
dung, phương pháp đánh giá, phân loại chất lượng đối với từng loại hình tổ
chức đảng và đảng viên; quy trình và phương pháp đánh giá, phân loại chất
lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên cũng như việc thẩm định kết quả đánh
giá, phân loại được thực hiện chặt chẽ và nghiêm túc hơn.

Thực hiện nghiêm chế độ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy; bảo đảm
nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đoàn kết
nội bộ; nâng cao chất lượng sinh hoạt theo hướng thiết thực, trọng tâm, trọng
điểm; kịp thời thông tin, phổ biến, quán triệt chủ trương, nghị quyết, lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp uỷ cấp trên, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tình hình thời sự
trong nước và ngoài nước.

Thực hiện nghiêm quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng, quy chế mối
quan hệ công tác giữa Đảng ủy với hội đồng thành viên; quy chế mối quan hệ
công tác giữa Đảng ủy Tập đoàn với cấp ủy địa phương nơi có đơn vị của Tập
đoàn trú đóng.
Từ những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, kẻ địch thúc đẩy "tự
diễn biến, tự chuyển hóa" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở hiện nay. Để xây
dựng Đảng bộ Tập đoàn trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, chức năng
nhiệm vụ lãnh đạo chỉ đạo các cấp ủy hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Đảng ủy Tập đoàn nhận thức cần phải xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong

33
sạch vững mạnh toàn diện, đổi mới sáng tạo, tiếp tục xây dựng Tập đoàn là
một trong những Tập đoàn kinh tế mũi nhọn của đất nước; tăng cường giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong các nhiệm vụ then chốt
của Ðảng ủy Tập đoàn . Trong đó, coi trọng công tác giáo dục tư tưởng, chính
trị thông qua việc tổ chức quán triệt, học tập và tổ chức thực hiện nghiêm túc
Chỉ thị, Nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, của Đảng
ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương. Đảng ủy Tập đoàn xác định lấy kết quả
việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ
thị 05 - CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) là
thước đo đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên hàng năm. Phát huy
hơn nữa vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ,
đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, chủ trì, đứng đầu các cơ quan, đơn vị thật sự
vững mạnh.

IV. LIÊN HỆ BẢN THÂN


Cuộc chiến “Chống diễn biến hòa bình” và nhất là ngăn chặn, đẩy lùi các
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên là một công
việc rất cần đấu tranh mọi lúc, mọi nơi, và chưa có điểm kết thúc; đòi hỏi
người cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tư tưởng đạo
đức cách mạng trong sáng. Trên cơ sở kiến thức được trang bị, bản thân tôi tự
nhận thấy mình cần tiếp tục tự học và rèn luyện nhằm nâng cao nhận thức để
thực hiện tốt hơn nhiệm vụ phòng chống “Tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”:

Là một người đảng viên, giữ cương vị tham mưu cho Đảng ủy Tập đoàn
trong công tác tuyên giáo, công tác dân vận, hơn ai hết, tôi rất hiểu sự khốc
liệt trong cuộc đấu tranh phòng chống “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong
nội bộ Đảng và trong mỗi đảng viên. Với nhiệm vụ được giao, tôi không
ngừng tìm hiểu các nghị quyết, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, tìm hiểu thực tiễn của đất nước để việc tham mưu đúng, trúng vấn đề;
để tuyên truyền phổ biến và xây dựng các văn bản có chất lượng; có quan
điểm, thái độ, lập trường và lý luận sắc bén để phản bác lại các quan điểm sai
trái của các thế lực phản động, chống phá Đảng, chống phá nhà nước; giúp
cán bộ, đảng viên và người lao động hiểu và nắm rõ hơn về các Chỉ thị, Nghị
34
quyết, các Chương trình hành động của Trung ương, của Đảng ủy cấp trên và
Đảng ủy Tập đoàn để thực hiện cho đúng, đạt hiệu quả.

Đặc biệt, được tham gia học tập và bồi dưỡng nâng cao kiến thức Quốc
phòng an ninh rất có ý nghĩa đối với bản thân tôi trong việc nâng cao nhận
thức về công tác quốc phòng an ninh và ý thức cao hơn trong việc thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn. Qua đợt học tập về Quốc phòng an ninh tôi đã nhận
thức sâu sắc và yên tâm hơn đối với đường lối lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về
an ninh quốc phòng, bảo vệ đất nước trong tình hình hiện nay đối với các vấn
đề về quốc phòng, bảo vệ biển đảo, an ninh chính trị của đất nước; về chiến
lược diễn biến hòa bình phức tạp hiện nay. Đối với công việc được giao, tôi
nhận thức cần phải góp phần mạnh mẽ tham gia làm tốt công tác định hướng
tư tưởng, góp phần đấu tranh phòng, chống chiến lược "diễn biến hòa bình",
đồng thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" xây
dựng Đảng trong sạch nhằm đánh bại âm mưu thực hiện diễn biến hòa bình
của các thế lực thù địch. Không để kẻ thù lợi dụng những mâu thuẫn trong nội
bộ của Đảng, tình trạng tự diễn biến, tự chuyển hóa trong Đảng để chia rẽ,
kích động gây bạo loạn lật đổ chế độ ở nước ta.

35
KẾT LUẬN

Các thế lực thù địch, chống phá chủ nghĩa xã hội đã sử dụng chiến lược
"diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ
Đảng Cộng sản, thực hiện thành công ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông
Âu. Hiện nay, chúng đang tập trung xóa bỏ các nước XHCN còn lại, trong đó
có Việt Nam là một trọng điểm. Mục tiêu của diễn biến hòa bình của các thế
lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ
XHCN ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Mục tiêu đó của các thế lực thù địch
là nhất quán, không thay đổi nhưng các thủ đoạn, biện pháp thay đổi cho phù
hợp với tình hình thế giới và đặc điểm từng nước. Toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta phải nâng cao ý thức cảnh giác, nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn
nguy hiểm của diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của địch. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, với đường lối chủ trương, biện pháp đúng đắn chúng ta có đủ ý chí,
niềm tin, sức mạnh để đánh bại chiến lược diễn biến hòa bình để giữ vững
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng và chế độ XHCN Việt
Nam.

Cuộc đấu tranh phòng chống diễn biến hòa bình là cuộc đấu tranh diễn
ra trên mặt trận mới với những hình thức mới rất gay go, quyết liệt, phức tạp.
Đây là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, thường xuyên, cơ bản và lâu dài của toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình"
gắn với việc thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, làm cho đất nước ổn
định, phát triển, thế và lực của ta ngày càng mạnh hơn. Đồng thời chúng ta
phải ra sức ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, làm thất bại âm mưu thâm độc
của các thế lực thù địch nhằm thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" gây
chia rẽ, mất đoàn kết từ bên trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta. Để làm được
việc đó, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, đặc biệt coi trọng công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng nhằm phát hiện, ngăn ngừa,
xử lý đối với các tổ chức đảng và đảng viên có biểu hiện, vi phạm, làm trong
sạch đội ngũ đảng viên. Từ đó tạo môi trường hòa bình, độc lập để đất nước ta
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội./.

36
--------------------------------------

Qua thời gian tham gia bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh tại Học
viện Chính trị, tôi được sống trong môi trường quân đội, được rèn luyện trong
môi trường kỷ luật, kỷ cương, tôi càng thấy thấm và chia sẻ hơn đối với những
vất vả mà người lính bộ đội Cụ Hồ đã phải rèn luyện hàng ngày để bất cứ khi
nào Tổ quốc cần, các chiến sỹ sẽ sẵn sang bảo vệ từng tấc đất biên cương của
tổ quốc. Tôi cũng xin chân trọng cảm ơn các đồng chí giảng viên, cán bộ quản
lý, nhân viên của Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng đã tạo mọi điều kiện
giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ.

37
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- C.Mác, Ph.Ănghen toàn tập, Hà Nội, năm 1994

2- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1996
3- Văn kiện Đại hội Đảng khóa XI, khóa XII, khóa XIII.

4- Các tài liệu về "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"

5- Một số văn bản của Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành liên quan công
tác quốc phòng, an ninh.

6- Học viện Chính trị: Tập bài giảng Giáo dục quốc phòng và an ninh
(dùng cho đào tạo trình độ thạc sĩ), Hà Nội, 2016

7. Nguyễn Bá Dương: Phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”
trên lĩnh vực chính trị và vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay,
Nxb.Cơ quan Nhân dân, Hà Nội, 2010.

8- Giáo trình bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng và an ninh (Tập 1 và
Tập 2), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2021

9- Báo cáo tổng kết Đại hội Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt Nam
nhiệm kỳ 2010- 2015; nhiệm kỳ 2015- 2020; Báo cáo sơ kết giữa nhiệm kỳ
Đại hội Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, nhiệm kỳ 2020-2025.

10- Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt Nam,
nhiệm kỳ 2015-2020 và nhiệm kỳ 2020 - 2025

11- Nghị quyết hằng năm của Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt Nam

12- Lịch sử Đảng bộ Tập đoàn Hóa chất Việt Nam

38
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………

39
40

You might also like