Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

SÔNG ĐÀ HUNG BẠO

Mở bài: Nhà thơ vĩ đại Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác
phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca,
tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút.” Mỗi tác phẩm đều có số
phận riêng của nó, có tác phẩm vừa cất tiếng chào đời đã vội vã ra đi, có tác phẩm
gây tiếng vang một thời rồi cũng bị độc giả quên lãng nhưng cũng có những tác
phẩm có sức sống lâu bền, bất tử với thời gian. Phải chẳng, qua “tiếng lòng của
người cầm bút”, nhà Nguyễn Tuân đã gửi gắm nỗi lòng của mình vào tác phẩm
“Người lái đò sông Đà”, ghi vào nền văn học Việt Nam một tác phẩm xứng tầm
với danh xưng “vĩnh cửu”. Đặc biệt nhất là qua đoạn trích…, đoạn trích được xem
là tuyệt bút của tác phẩm, qua đó nhà văn…(nhận định đề)

Tổng: Pautopxki từng nói “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui
của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”. Hơn ai hết, Nguyễn Tuân chính là nhà
văn như thế. Ông là người theo chủ nghĩa duy mĩ với quan niệm cuộc đời là một
cuộc hành trình đi tìm cái đẹp và “Suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Mỗi tác
phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với tình cảm,
sự gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước. Nguyễn Tuân được người đọc đặc
biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo mà phong cách ấy
được gắn với chữ “ngông” và sự tài hoa, uyên bác. Nếu như trước cách mạng, văn
học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những con
người "một thời vang bóng" như Huấn Cao thì sau cách mạng, ông khiến người
đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc
nhưng gần gũi, bình dị của thiên nhiên và đời sống con người. “Người lái đò Sông
Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Tuân sau cách mạng. Người lái
đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyễn
Tuân trên một tầm cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường,
Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt đẹp
mà ông gọi đó là “chất vàng mười” của tâm hồn. Là một con người yêu thiên nhiên
tha thiết, ông nói về cảnh sắc Sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc
đáo về núi và sông, về cây cỏ trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng.
1. Lời đề từ

Bước vào tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân người đọc dễ
dàng bị lôi cuốn bởi hai lời đề từ vô cùng hấp dẫn giúp độc giả hình dung rõ ràng
hơn cảm hứng sáng tác và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Lời đề từ đầu
tiên “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông!”. Nguyễn Tuân chắc hẳn phải mê
đắm lắm những thi hứng trên sông nước của Broniewski vì ông đã mượn tiếp ý thơ
của nhà thơ người Ba Lan khi miêu tả dòng sông. Nguyễn Tuân mượn chính ý thơ
để cất tiếng hát say mê, lời hoan ca, phấn khích khi đứng trước vẻ đẹp của Đà
giang. Lời đề từ thứ hai “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”. Có
thể hiểu, mọi dòng sông đều chảy về phía Đông, duy chỉ có sông Đà chảy theo
hướng Bắc. Chính hướng chảy độc đáo kia của sông Đà đã khơi gợi hứng thú của
cái tôi ngông nghênh với đời như Nguyễn Tuân. Một nhà văn suốt đời đi tìm cái
đẹp, cái thật, ham mê xê dịch để thay đổi thực đơn cho tâm hồn mình như Nguyễn
Tuân đã mê mẩn ngay với sự khác biệt đó của sông Đà. Vì thế sông Đà dưới ngòi
bút Nguyễn Tuân không phải là thiên nhiên vô tri vô giác, mà hiện lên như một
sinh thể phức tạp, đa dạng có cuộc sống riêng, có đặc điểm riêng không thể trộn
lẫn với hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau: hung bạo và trữ tình.

2. Đá bờ sông

Mở đầu đoạn trích tác giả đã nhận xét “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có
thác đá.” Bằng một câu văn ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã báo trước cho độc giả
chuẩn bị thưởng ngoạn một cảnh sắc dòng sông ở một góc nhìn khác, một yếu tố
khác không kém phần sống động. Đó là “những cảnh đá bờ sông, dựng vách
thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt
lòng Sông Đà như một cái yết hầu.” Mở ra trước mắt người đọc là một công trình
kiến tạo của tự nhiên, sự sắp đặt của đá hai bên bờ sông. Không phải như sông
Hồng, sông Đáy, chảy qua miền quê yên ả với đôi bờ là phù sa màu mỡ mà Sông
Đà ở khúc thượng nguồn Tây Bắc mang đặc trưng của địa hình hiểm trở, khắp nơi
đều trở thành địa hạt của đá. Cảnh đá bờ sông được tác giả miêu tả “dựng vách
thành” đã gợi được những vách đá hùng vĩ, cao, dựng thẳng đứng và phần nào thể
hiện được sự vững chãi thâm nghiêm và sức mạnh bí ẩn của những vách núi. Để cụ
thể hóa cho tính chất dựng thẳng đứng của đá bên bờ sông, tác giả đã sử dụng chi
tiết “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc chính ngọ mới có mặt trời”. Những vách đá dựng
thẳng đứng đang ngăn cản ánh sáng mặt trời theo phương xiên khiến ánh sáng mặt
trời ở đây chỉ có vào lúc giữa trưa mới có thể lotj xuống dòng sông. Chi tiết này đã
cho thấy đá ở hai bên bờ Sông Đà chắc chắn rất cao và thẳng đứng. Tác giả tiếp tục
miêu tả đá bờ sông bằng một hình ảnh so sánh đầy sức sáng tạo “có vách đá chẹt
lòng Sông Đà như một cái yết hầu”. Tác giả đã lấy một bộ phận nhỏ hẹp ở cổ họng
con người để diễn tả một cách hình ảnh sự nhỏ hẹp của dòng sông chảy ở những
chỗ đã chẹt. Lưu tốc của dòng sông nơi đây phải rất lớn và quãng sông này phải rất
nguy hiểm. Để cụ thể hóa cho sự nhỏ hẹp của dòng sông tác giả còn sử dụng hai
chi tiết giàu hình ảnh “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách”,
“con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia”. Hai chi tiết này
càng tô đậm thêm về độ nhỏ hẹp của dòng sông khi bị đá hai bên bờ chẹt lại.
Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới
thông qua cảm giác. Bằng cảm giác của mình, nhà văn đã truyền cho người đọc
những hình dung về cái tối tăm lạnh lẽo của con sông qua chi tiết “ngồi trong
khoang đò quãng ấy…vừa tắt phụt đèn điện”. Điều bất ngờ ở chỗ nhà văn đã so
sánh cảm giác của con người giữa thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ với một khoảnh
khắc của đời sống hiện đại chốn thị thành. Câu văn miêu tả đầy táo bạo mà không
làm mất đi sự tinh tế nó làm cho Sông Đà đẹp nhưng đẹp ở vẻ hùng vĩ hoang dại
và nguy hiểm. Khác với sông Hương ở thượng nguồn vừa hung bạo cuộn xoáy như
cơn lốc, vừa là bản trường ca của rừng già, lại có vẻ đẹp của cô gái Digan phóng
khoáng man dại, Sông Đà ở thượng nguồn lại đẹp trong vẻ đẹp tráng lệ. Chính sự
khác biệt ấy đã thấy được khi viết văn Nguyễn Tuân luôn hướng tới những vẻ đẹp
kỳ vĩ, không thích những cái lỡ cỡ, lưng chừng điều này cho ta thấy rõ hơn phong
cách cũng như cá tính của ông.

3. Mặt ghềnh Hát Loóng

Với một nhà văn tài hoa uyên bác như Nguyễn Tuân thì bấy nhiêu thôi chưa
đủ để ta cảm nhận hết về sự hung bạo của Sông Đà. Bởi vậy ông tiếp tục đưa ta
vào hành trình khám phá vẻ đẹp hung bạo với cái dữ dằn của nước, đá, sóng ở mặt
ghềnh Hát Loóng. “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Điệp từ
“xô” được điệp lại ba lần kết hợp với phép điệp liên hoàn “nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió” đã nhấn mạnh trạng thái không tĩnh lặng, gợi những chuyển động
mạnh của nước. Hình ảnh những con sóng dữ dội cuồn cuộn chồng lên nhau vút
lên cao độ thấp xuống ghê rộn trên mặt ghềnh. Nhà văn đã sử dụng các câu ngắn
nhịp nhanh, dồn dập, các từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau đã tái hiện sức
mạnh thiên nhiên dữ dội của nước, sóng, gió và đá Sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử
dụng thủ pháp nhân hóa “con Sông Đà như kẻ chuyên đi đòi nợ xuýt bất cứ người
lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng ấy”. Con Sông Đà hung hăng đe dọa
người lái đò trên sông, nó hiện lên như một kẻ bất chấp có thể lấy đi tính mạng của
những ai vô tình đi qua đây. Từ “tóm” cho ta hình dung được con Sông Đà quãng
ấy như đang chờ chực, rình để có thể tóm lấy được bất kỳ ai đi qua nó. Con sông
càng trở nên hung hãn hơn dữ dằn hơn khi được miêu tả qua từ láy “gùn ghè”. Nó
như là những kẻ đi săn đang nhe răng sắc nhọn chờ thời cơ để có thể vồ lấy con
mồi. Sông Đà hiện ra như một sinh thể có tính cách: hung bạo, dữ dội sẵn sàng đe
dọa con người. Câu văn cuối cùng tác giả đã hạ một câu khẳng định “quãng này
mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Cụm từ “lật ngửa
bụng thuyền” đã cho thấy được sức mạnh hủy diệt của cơn sóng quãng, này đòi hỏi
được sự điêu luyện và khéo léo của người lái đò.

=> Chỉ với hai đoạn văn ngắn Nguyễn Tuân đã huy động tối đa những liên tưởng
phong phú, độc đáo, các biện pháp tu từ để xây dựng thành công hình tượng con
Sông Đà hung bạo với vách đá hai bên bờ và những quãng sông đầy ghềnh thác.
Sông Đà hiện lên như một con thủy quái nham hiểm với sức mạnh khủng khiếp
đầy hủy diệt. Sông Đà hung bạo chính là biểu tượng cho sức mạnh và vẻ đẹp hùng
vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và nó cũng là phong nền để làm nổi bật lên vẻ đẹp của
ông lái đò. Qua đó ta còn thấy được tài năng của Nguyễn Tuân. Ông luôn hướng
tới những cái phi thường dữ dội của dốc cao, đèo thẳng. Đằng sau hình tượng con
Sông Đà lắm thác nhiều ghềnh là một nhà văn ham cảm giác lạ và không ngần ngại
làm mới mình.

4. Cái hút nước

Nhà nghiên cứu phê bình Tạ Tỵ đã nhận xét “Nguyễn Tuân viết mà giống
như nhà điêu khắc cần cù chạm trổ vào mặt đá quý những hình nét trác tuyệt.” Quả
đúng như vậy, đọc từng dòng miêu tả sông Đà hung bạo ở quãng Tà Mường Vát
dưới Sơn La, độc giả đều dễ dàng hình dung bởi thứ ngôn từ giàu tính tạo hình ấy.
Sau khi đã đi qua quãng đá bờ sông "dựng vách thành chẹt lòng sông Đà như một
cái yết hầu", quãng mặt ghềnh Hát Loóng "cuồn cuộn luồng gió, gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt", thì đến khúc sông quãng Tà Mường Vát, những cái
hút nước như "cái bẫy" nối nhau giăng mắc trên Sông Đà sẵn sàng nhấn chìm mọi
thuyền bè đi ngang qua đó. Trước hết, hút nước sông Đà được miêu tả qua hình
ảnh so sánh: "Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông
thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.” Từ "bỗng" gợi tả một sự đột ngột, bất
ngờ, nó làm cho người ta không khỏi hoang mang. Dòng nước đang xuôi êm đềm
bỗng dưng không thấy một vật nào nổi trên mặt mà dòng nước tới đó cứ xoáy tít
thành những vòng tròn hút tới tận đáy. Tả độ rộng và sâu của hút nước, Nguyễn
Tuân so sánh như cái "giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu". Qua sự
so sánh này, ta thấy cái hút nước lớn, khổng lồ, nhìn vào trong chỉ thấy đen ngòm,
sâu hoắm, tối tăm, giống như miệng con thủy quái đang há hốc để chực nuốt chửng
bất cứ vật gì qua quãng này. Và đó không phải là những cái hút nước trên bề mặt
sông mà nó sâu xuống tận đáy sông. Ấn tượng hút nước sông Đà khúc thượng
nguồn còn nằm ở những âm thanh sống động: "Nước ở đây thở và kêu như cửa
cống cái bị sặc". Nhà văn đã đặc tả âm thanh của hút nước bằng thủ pháp nhân hoá
và so sánh đã nói lên cái cường lực ghê gớm của những cái hút nước. Đó là những
âm thanh chỉ nghe thôi đã thấy ghê rợn. Dòng nước thở hồng hộc, thanh âm thống
thiết, thét gào giữa núi rừng Tây Bắc điệp trùng. Dòng sông Đà vì thế mà trở nên
hào hùng, uy lực hơn rất nhiều. Nó hiện ra như cái vòi một con quái vật khổng lồ
tàn ác đang giân dữ đến ghê người, chờ trực hút tất cả những thuyền bè sơ ý
nghênh ngang qua đó. Đến đây, ta dường như nghe trong cái âm vang của Đà
giang dưới ngòi bút của tác giả một chút hội ngộ với nhà thơ Quang Dũng trong
tác phẩm Tây Tiến, khi viết về sự hùng vĩ và hung bạo của dòng Sông Đà qua tiếng
thác nước gầm réo trong câu thơ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét”.
Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận định: "NT là nhà văn của những cảm giác
mạnh". Thật vậy, để hình dung trọn vẹn về hút nước Sông Đà, nhà văn đã đưa
người đọc đến tận cùng cảm giác. Trước hết là cảnh thuyền qua quãng sông ấy
"Thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga
cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực." Giữa chốn
núi rừng hoang sơ, nhà văn đã thổi vào không khí của phố thị khi so sánh chiếc
thuyền với ô tô. Tác giả ví con thuyền phải qua vùng nước xoáy thật nhanh giống
như ô tô sang số, nhấn ga cho nhanh để "vút qua một quãng đường mượn cạp ra
ngoài bờ vực". Từ đó khẳng định những cái hút nước này chính là mối đe dọa mà
bất cứ ai cũng phải khiếp sợ. Muốn đi ngang qua đây phải thật điêu luyện, thật
bình tĩnh nhưng cũng phải thật nhanh chóng mới có thể "thoát chết". Nhưng trong
khi người điều khiển ô tô còn có thể đạp phanh, nhấn ga thì con thuyền qua quãng
này chỉ có thể dựa vào tài nghệ của ông lái đò mà thôi. Để minh chứng cho sức tàn
phá, hủy diệt ghê gớm của sông Đà, Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh: “Những
bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là bị cái hút lôi tuột xuống”. Phép nhân hóa
“những bè gỗ rừng nghênh ngang vô ý” gợi hình ảnh những bè gỗ vô tri. Động từ
mạnh “lôi tuột xuống” cho ta hình dung ra một hành động diễn ra với tốc độ
nhanh, mạnh, bất ngờ, cảm giác những bè gỗ kia quá đỗi nhỏ bé trước những cái
hút nước sông Đà. Hút nước còn gây nguy hiểm cho thuyền bè: "Có những thuyền
đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị
dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan tác ở khuỷnh sông
dưới". Câu văn không chỉ cho thấy ở Nguyễn Tuân một trí tưởng tượng độc đáo
hay sự sáng tạo mà đó còn là vốn sống vô cùng phong phú. Đó là những hình ảnh
chỉ có trong tưởng tượng nhưng lại đưa đến một ấn tượng thật sâu đậm về sức
mạnh khủng khiếp của hút nước sông Đà. Trước những cái hút nước ấy, sự sống và
cái chết của con người bỗng trở nên mong manh, đi qua đó luôn có nguy cơ bị
cướp đi sinh mạng. Cách miêu tả ấy gợi ra cho người đọc con sông Đà như một
loài thủy quái hung hăng còn con thuyền như một vật hiến tế hiền lành đến tội
nghiệp đem tấm thân nhỏ bé để cống nạp cho tử thần.
Dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, nhà văn còn mang đến một giả tưởng li kì mà
để có được nó, Nguyễn Tuân chắc phải có vốn kiến thức về kĩ thuật điện ảnh: "Một
anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng
cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả
máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà." Từ dưới đáy sâu của hút ước, anh phóng
viên lia ngược ống kính lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của "một
thành giếng xây toàn bằng nước" cho đến màu sắc của dòng sông "nước xanh ve"
như một khối thủy tinh khổng lồ, đặc biệt, khối thủy tinh ấy đổ ụp xuống cả người,
cả máy quay và cả người đọc đang theo dõi. Chỉ bằng một vài câu văn, Nguyễn
Tuân đã dẫn dắt người đọc vào trò chơi cảm giác mạnh, kéo họ xuống tận đáy hút
nước xoát tít, sâu hoắm cùng anh bạn quay phim táo tợn, dũng cảm ngồi vào cái
thuyền thúng mà thả mình vào xoáy nước, để cho xoát nước hút xuống tận đáy
sông Đà. Những thước phim đó khi chiếu lên, người xem có cảm giác hãi hùng,
phải "lấy gân ngồi giữ chặt ghế", thậm chí cảm giác sợ hãi chân thực của con
người khi đứng trong lòng một khối "pha lê xanh như sắp vỡ tan" và bất cứ lúc nào
cũng có thể đổ ụp vào người.
=> Như vậy , có thể thấy, khi gặp hiện tượng thiên nhiên kì thú, những cảnh tượng
dữ dội, phi thường, ngòi bút Nguyễn Tuân cũng muốn ganh đua với tạo hóa, dốc
hết kho chữ nghĩa phong phú của mình ra làm sống dậy tính cách độc đáo, phi
thường của đối tượng. Những cái hút nước Sông Đà quả là rùng rợn, hiểm nguy,
buộc người đọc phải huy động tất cả các giác quan để cảm nhận đến cùng vẻ đẹp
hùng vĩ của nó. Sông Đà hiện lên như một loài thủy quái đáng sợ, hung bạo khiến
các giác quan của người đọc cũng đẩy lên cao trào. Để có được tất cả những áng
văn có thể xem như "thước phim" ấy, Nguyễn Tuân đã dụng công miêu tả bằng trải
nghiệm khác nhau trong vị thế của người quay phim và cả vị thế của người xem
phim để dùng ngòi bút mà thách thức mọi sự hùng vĩ của đất trời cũng như làm
choáng ngợp những con mắt thưởng ngoạn của độc giả.
=> Chỉ với một đoạn trích, Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân hùng hậu, huy
động kiến thức của nhiều ngành như văn chương, điện ảnh, thể thao. Chỉ riêng
trong đoạn văn đã có nhiều liên tưởng, so sánh, nhân hóa kì thú, bất ngờ, cách quan
sát tỉ mỉ, tinh tường, cách dùng động từ kết hợp điểm nhìn nhiều chiều từ trên
xuống, quay từ dưới lòng sông nhìn ngược lên, gần xa. Từ ngữ phong phú, sống
động, tái hiện chân thực không chỉ là cảnh vật mà còn là những cảm giác khác
nhau, nói như Phan Huy Đông thì đó là "sự tự do của một tài năng, một đấng hóa
công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ". Tất cả những điều ấy đã giúp cho người
đọc cảm nhận một cách chân thực nhất sự dữ dội của hút nước của dòng sông miền
Tây Bắc.
5. Trùng vi thạch trận
Nếu sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chỉ dừng lại ở “cảnh vách đá bờ sông”,
“mặt ghềnh Hát Loóng”, hay “cái hút nước” dữ dội của dòng sông thì sẽ không có
được những câu ví “đắt” như “mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”
của con người được. Bởi trùng vi thạch trân trên sông mới là nơi hấp dẫn nhất, lôi
cuốn nhất của sông Đà. Nơi mà đá mai phục hết trong lòng sông “mặt hòn nào
trông cũng ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Mỗi hòn đều có một nhiệm vụ
riêng, chứng “đứng, nằm, ngồi tùy thích” miễn sao hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Sông Đà rất kiên định với mục tiêu của mình, nó thận trọng đặt ba trùng vây
thạch trận trên sông với cách bố trí lực lượng vô cùng nham hiểm, làm sao để bắt
sống mỗi con thuyền qua đây. Ở trùng vây thứ nhất: nó xếp đá chia thành ba tuyến,
gồm năm cửa trận, bốn cửa tử và một cửa sinh lập lờ ở phía tả ngạn (bên trái) dòng
sông. Tuyến một, "đá chia làm ba hàng" như đòi ăn chết con thuyền, một khi
thuyền đã vào thạch trận là không có đường lui. Tuyến hai, có thêm hàng tiền vệ
canh cửa để dụ cái thuyền vào sâu bên trong, rồi "nước sóng luồng mới đánh khuýt
quật vu hồi" (đánh ngược trở lại). Tuyến ba, là cả một "pháo đài đá" với nhiệm vụ
"phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác". Trùng vây thứ hai:
dòng sông tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh lúc này nằm
lệch ở phía bờ hữu ngạn. "Dòng thác hùm beo đang hồng hộc lao mạnh trên sông
đá" như muốn nhấn chìm con thuyền, bọn tướng đá đứng khiêu khích ngay giữa
cửa vào, dựng đứng thành cửa ải "nhằm níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử". Sang
trùng vây thứ ba, tưởng dễ dàng hơn khi ít cửa hơn, nhưng sự nguy hiểm lại tăng
lên gấp bội bởi "bên trái bên phải đều là cửa chết", cửa sinh nằm ở giữa nhưng lại
bị bọn đá hậu vệ bao quanh tạo thành 3 cửa "cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong
cùng" đá xếp thành cổng, cánh mở cánh khép. Tính cách hung bạo của sông Đà
cho thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, từ đó làm nổi bật hình ảnh con người
lao động và tình yêu bao la mà Nguyễn Tuân dành cho sông Đà. Ở đó không chỉ là
cái tài ở văn chương, cái tâm của người nghệ sĩ mà còn là sự tinh tế của một bậc
thầy ngôn ngữ.
Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều góc độ khác nhau để có một cái
nhìn toàn diện nhất. Từ trên tàu bay nhìn xuống sông Đà như "cái dây thừng
ngoằn ngoèo" uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng sông lại
giống như một người thiếu nữ kiều diễm "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo".
Điệp ngữ "tuôn dài, tuôn dài" như mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của dòng
sông. Phép so sánh "như một áng tóc trữ tình" tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của Đà giang,
nó như một kiệt tác của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ
"ẩn hiện" càng làm tăng lên sự bí hiểm của dòng sông, ta như đi lạc giữa chốn
bồng lai vừa thực, vừa mộng. Mái tóc trữ tình ấy, còn được cài thêm hoa ban, hoa
gạo đẹp mơ màng trong khói nương mùa xuân. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn
tha thiết gọi dòng sông là "cố nhân" xa thì nhớ gặp lại thi mừng vui khôn xiết. Sự
nhân cách hóa đó làm cho sông Đà đã trữ tình lại càng trở nên gợi cảm hơn! Đúng
như trong "Thư trách người tình nhân không quen biết" của Tản Đà viết:
“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
=>

1. Nhận xét những phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân
 Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dòng
sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bật sông Đà
như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ của
thiên nhiên, đất nước. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là
con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá tính như con
người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ. Sông Đà hiện lên như một công trình kiến
trúc tuyệt vời mà tạo hóa dành riêng cho mảnh đất Tây Bắc. Nó còn như một
sinh thể có hồn, gần gũi, gắn bó với đất và người nơi đây. Qua hình tượng
Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên
đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của
tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài
hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là trong tác phẩm có vai trò
là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong
chế độ mới.

2. Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân


 “Cái tôi” tài hoa, tinh tế thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn
trước vẻđẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
 “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều
sâu; ởsự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách
đa dạng, phong phú; ởsự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn
của các ngành quân sự, điện ảnh, thểthao,… được huy động một cách hết
sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấntượng những cảm giác
về đối tượng.
 “Cái tôi” tài hoa, tinh tế và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê
hươngđất nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính. Đồng thời
cũng cho thấy quanniệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự đọc
đáo của chính người cầm bút.

3. Nhận xét về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân


 Hình ảnh sông Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi con sông
đã được tái hiện trong văn học, là bởi vì cảm quan sáng tác của Nguyễn
Tuân chỉ hứng thú vớinhững vẻ đẹp vượt lên mức bình thường, gây ấn tượng
mãnh liệt.
 Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông
khôngchấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện,
những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn
hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với nhữngsự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là
một sinh thể như vậy). Ông có xu hướng muốn tôđậm cái cá tính, phi thường
của dòng sông Đà để gây cảm giác mãnh liệt, dữ dội. Tác giảbộc lộ sự tinh
vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong
phúvừa tinh tế. Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều
lĩnh vực khácnhau để khắc họa hình tượng sông Đà. Nét độc đáo kết hợp với
sự tài hoa và uyên báctrong ngòi bút Nguyễn Tuân khiến cho hình tượng
sông Đà trở nên đặc sắc và đáng nhớ.
 Phong cách nghệ thuật đã thể hiện rõ Nguyễn Tuân là nhà văn có ý thức
tựkhẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng
yêu quê hươngđất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ
hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn
phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.

Kết bài: Qua những giá trị vĩnh hằng của tác phẩm “Người lái đò sông Đà”
ta có thể khẳng định nhà văn Nguyễn Tuân là một ngòi bút xuất sắc trong dòng
chảy văn học VN. Từ đó, chúng ta càng thêm trân trọng và biết ơn tài năng của
những văn nghệ sĩ. Bởi họ chính là những người thổi hồn và ươm mầm để có
những tác phẩm sống mãi với thời gian.

You might also like