Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 18

VỀ BI KỊCH CỔ ĐIỂN HY LẠP

(Lời tựa tác phẩm Bi kịch Hy Lạp - Hoàng Hữu Đản dịch theo bản tiếng Pháp Eschyle, théâtre
complet, traduction, notices et notes par Émile Chambry, Garnier – Flammarion, Paris 1964”;
và Les grands tragiques grecs của De Rochefort, collection des grands classiques français et
étrangers, Paris V.)

_________
I – ĐẤT NƯỚC NHỮNG NGƯỜI YÊU NGHỆ THUẬT

Phía Đông - Nam châu Âu, nhô ra Địa Trung Hải là một bán đảo gồ ghề, bao bọc xung quanh có
hàng ngàn đảo nhỏ xanh biếc. Đó là xứ sở một nền thần thoại đẹp đến lạ kỳ, in dấu trên mỗi
ngọn núi, dòng sông, mỗi khu rừng, eo biển, mỗi thành phố đông vui cho đến mỗi hòn đảo cô
đơn giữa mênh mông sóng vỗ đêm ngày.

Đất nước ấy là của những con người có một trí tuệ thông minh, linh hoạt, những tài năng đa dạng
và tinh xảo, một khiếu thẩm mỹ tuyệt vời, đã sáng tạo một nền văn minh chói lọi nhất xưa kia, cơ
sở đầu tiên vững vàng của nền văn minh thế giới. Đó là cái nôi của nền văn học - nghệ thuật cổ
đại mà những thành tựu lớn lao vượt qua những tàn phá của thời gian và những kẻ thù man rợ để
mà tồn tại, đến ngày nay vẫn không khỏi làm cho chúng ta phải lạ lùng bỡ ngỡ. Có thật chính họ,
những con người sống trước chúng ta trên hai nghìn năm trăm năm ấy, đã làm ra những điều kỳ
vĩ này chăng? Một ngôi điện Parthénon với những hàng trụ cẩm thạch trắng chạy suốt bốn xung
quanh với hai trăm năm mươi hai bức phù điêu tuyệt diệu; một bức tượng tròn bằng ngà và vàng
của nữ thần Athéna mười hai mét cao; cây hải đăng Alexandrie, thư viện Alexandrie với 700.000
cuốn sách… những thiên anh hùng ca bất hủ Iliade và Odyssée, những vở kịch Antigone, Médée,
Oédipe… những bộ óc bách khoa như Aristote, tất cả những thành tựu đó đều như những tấm
huân chương trên ngực biểu dương cái khả năng sáng tạo vô tận của con người.

Nhà triết học, nhà khoa học, người nghệ sĩ và nhà thơ trong Chàng trai Hy Lạp ngày xưa chính là
cái tuổi hoa niên của nhân loại. Phơi phới tình yêu đời và nghị lực, say hiểu biết, tin ở mình, một
buổi sáng mùa xuân hoa lá xanh tươi, chan hoà ánh nắng, chàng trai ôm chiếc huyền cầm đi tìm
lên thế giới bao la kỳ diệu của Chín Nàng thơ. Từ chỗ ở thần tiên, các Nàng thơ ngày ngày để
mắt xuống cõi trần tìm một bóng dáng thân yêu để truyền lại cho đời những tài hoa bất tuyệt.
Giữa lúc chờ mong tha thiết ấy, chàng trai Hy Lạp bỗng nhẹ nhàng tới gõ cửa tiên cung, ra mắt
các nàng. Rung động trước vẻ đẹp cân đối hài hoà cao thượng của một chàng trai trẻ, các nàng
thơ âu yếm san sẻ cho chàng trai tất cả những tinh hoa tài nghệ của mình. Thấy như vậy vẫn
chưa đủ bộc lộ hết mối tình gắn bó, các Nàng dời luôn chỗ ở của mình xuống ngay xứ sở của
chàng trai, trên các ngọn núi Pinde, Hélicon, Parnasse thắm đẹp bốn mùa. Rồi các nàng thay
phiên nhau rót chất thần đơn thơm ngát, ngọt ngào, thanh khiết của mình vào trong trái tim óc và
mỗi đường gân thớ thịt của chàng trai.

Bởi vậy mà cái đặc điểm nổi bật của nền văn học Hy Lạp ngày xưa là nó chứa đựng một chất thơ
đậm đà man mác. Chất thơ thấm đượm mỗi chiến tích anh hùng qua lời ca của người nghệ sĩ hát
rong. Chất thơ say đắm ngọt ngào trong tiếng nói yêu đương của một Sapho nữ sĩ. Chất thơ toả
ra từ một câu trả lời nặng ý nghĩa trên miệng vua Xercès (Ba tư) mà nhà sử học đã “thính tai”
nghe được. Chất thơ đọng lại sâu nhất trong những thiên bi kịch, trong lời Électra khóc em,
Médée khóc con, đội đồng ca ca ngợi con người… ngày nay, đi qua những di tích nhà hát cũ,
người ta nhưng vẫn còn nghe vọng lại những lời thơ đã từng làm say đắm mọi người trong các
ngày hội lễ thần Dionysos, ở mọi thành bang.

II-NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU HY LẠP

Nghệ thuật sân khấu Hy Lạp ra đời khoảng thể kỷ VI trước công nguyên. Nguồn gốc nó là ở
những bài hát dithyrambe chúc tụng Tửu thần Dionysos (tức thần Bacchus trong thần thoại La
Mã). Đây là thời kỳ mà việc thờ cúng tửu thần được lan truyền từ châu Á sang châu Âu. Trong
các ngày hội Dionysies đó, các bài dithyrambe được các đội đồng ca hát lên, gắn liền với những
nghi thức diễn trò Satyre, tức là diễn lại những cảnh sinh hoạt của vị thần rượu đi đâu cũng có
những nàng Ménades (Bacchantes) và những Satyres đầu người mình dê đi theo, nhảy múa. La
hét như điên như dại. Vật lễ tế Dionysos thường là một con dê. Chữ tragédie (bi kịch) là một từ
mới cấu tạo thành bằng hai chữ tragos (con dê) và ode (tụng ca) ghép lại. Đội đồng ca do một
nhạc trưởng (coryphée) điều khiển. Trong quá trình chuyển biến, dần dần một người (với
Thespis), rồi hai người (với Eschyle) rồi ba người (với Thespis), rồi ba người với (Sophocle)
trong đội tách ra, đối đáp với nhạc trưởng hoặc với nhau và trở thành diễn viên và cái nghi thức
hát mừng Dionysos cũng từ đó mà biến đổi tính chất. Lễ mừng thần vẫn còn, nhưng từ nó một
hình thức nghệ thuật mới, có hát, có múa và có đối thoại đã xuất hiện, có cuộc sống riêng và phát
triển: đó là bi kịch.

Dân tộc Hy Lạp là một dân tộc rất tôn trọng thần linh và truyền thống cũ, yêu cuộc sống vui vẻ
hồn nhiên, say mê những sinh hoạt ngoài trời. Mỗi năm, vào mùa Xuân và mùa Thu, có những
ngày hội Tửu Thần gọi là Dionysies, trong ngày hội đó có những đám rước, những trò chơi và
riêng hội Dionysie mùa Xuân có tổ chức thi biểu diễn sân khấu. Mỗi nhà thơ dự thi phải trình
diễn một bộ ba bi kịch (trilogie) kèm theo một vở kịch châm biếm gọi là satire. Ban giám khảo
được chọn bằng hình thức bắt thăm và bỏ phiếu. Họ làm việc khách quan, có dựa vào dư luận
khán giả. Tất cả các nhà thơ dự thi và diễn viên đều được thưởng tiền. Nhà thơ nào trúng giải
nhất thì được vị đứng đầu thành bang đội lên đầu cho một vành hoa chiến thắng kết bằng lá
nguyệt quế trường xuân. Hằng năm, tên tuổi các đạo diễn, tác giả, diễn viên chính, người lãnh
đạo các độ đồng ca và cả ban giám khảo đều được khắc vào bia để lưu lại đời sau. Nhân dân và
nhà nước Athènes rất coi trọng và dành cho họ một địa vị vinh quang xứng đáng. nhà nước bỏ
tiền ra xây dựng những nhà hát lộ thiên có nhiều bậc ngồi hình vòng cung, có thể chứa được
hàng vài ba vạn khán giả. Có nhà hát như nhà hát Épidaure chứa được gần bốn vạn rưỡi người.
Mỗi năm hai kỳ, nhà nước chi cho dân nghèo tiền vé, đàn ông, đàn bà, con trẻ, để mọi người
được đi xem đủ cả ba ngày biểu diễn. Trong những ngày đó, những việc công cộng, hội họp…
đều nghỉ. Nhà triết học Platon đã gọi một cách hài hước mà đúng, rằng “Nhà nước Athènes là
một nhà nước sân khấu trị”.

Vì là một nền sân khấu hình thành từ những bài hát dithyrambe và những nghi lễ thờ phụng Tửu
Thần cho nên bi kịch Hy lạp có mang theo những đặc điểm rõ rệt phản ánh nguồn gốc của nó.

1 - Nó không chia thành hồi, lớp như kịch hiện đại mà diễn một mạch từ đầu đến cuối. Sau mỗi
bước tiến triển của hành động kịch tương đương môt hồi thì đội đồng ca lại hát một bài tương đối
dài để gói ghém lại (gọi là stasimon) và chuyển tiếp bước sau. Phần lớn các vở kịch đều cấu tạo
theo cùng một khuôn khổ năm bước (chúng ta không lạ khi thấy bi kịch cổ điển Pháp chẳng hạn
nói chung gồm năm hồi, theo khuôn mẫu Hy lạp của nó.

2 - Các kịch bản đều bằng thơ. Phần đồng ca là thơ hát, phần đối thoại là thơ ngâm nói. Đồng ca
trong bi kịch giữ một vai trò quan trọng. Nó là dấu vết nguồn gốc dithyrambe. Có khi nó là lời
phát ngôn của tác giả, có khi là lời bàn, lời phê phán, bình luận của công chúng nhân dân, của lẽ
phải, của lương tri, nó mang tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Trong mỗi vở kịch cụ thể, đội đồng
ca là đại diện của một tầng lớp nào đó trong nhân dân, phục trang của nó phải theo đó mà thay
đổi, ví dụ: trong hai vở kịch liên hoàn Oédipe làm vua và Antigone, đó là đội đồng ca các cụ già
thành Thèbes. Trong đó Prométhée, đó là đội đồng ca các nữ thủy thần đại dương. Trong Électra,
là đội đồng ca của những cô gái thành Mycènnes. Trong hài kịch Những kỵ binh, thì chính đội kỵ
binh thật của thành phố đóng vai Đội đồng ca. Trong hài kịch Bầy chim, thì đội đồng ca mang áo
có cánh và có lắp một cái mỏ chim dài.

3- Các nhân vật trên sân khấu đều mang mặt nạ và đi hài cao cổ (cothurne). Nhất là những nhân
vật hài kịch mà là đối tượng châm biếm của nhà thơ thì mặt nạ thường được vẽ giống như
nguyên mẫu mà nó ám chỉ.

4 – Sân khấu có nhiều dụng cụ biểu diễn y như thật. Chẳng hạn Aristophane thường dùng chiếc
xe lăn gọi là excyclème để đưa nhân vật tàn tật ra, vào. Còn cảnh thì ghép sẵn cả trên sân khấu
bởi vì diễn liền một mạch không có chuyện đóng màn nửa chừng. Ví dụ: trong hài kịch Những
đám mây, sân khấu chia ra làm đôi, một nửa là nhà của Ba Tròn, một nửa là nhà của Socrate.
5- Đề tài những tác phẩm bi kịch còn lại hầu hết đều rút ra từ thần thoại và truyền thuyết, nhất là
những truyền thuyết quen thuộc như truyền thuyết Agamemnon, truyền thuyết thành Thebé,
truyền thuyết về Hêracles... truyền thuyết thành Troies… một ít vở lấy đề tài lịch sử như
vở Quân Ba tư của Eschyle.

6- Kết cấu từ chỗ còn hết sức đơn giản mang tính thuần túy tự sự và trữ tình, như trong Những
thiếu nữ cầu xin, chỉ qua có vài ba mươi năm phát triển mà đã đạt đến đỉnh cao về sự chặt chẽ
lôgic như trong Édipe làm vua của Sophocle, Médée của Euripide.

Người Hi Lạp xưa có những khả năng kỳ diệu để vươn tới đỉnh cao của văn học nghệ thuật.
Không qua một mẫu mực có sẵn nào, họ đã tìm tòi, sáng tạo, hình thành và khẳng định đủ các
loại hình văn học chính và đúng với trình tự lịch sử logic của nó: anh hùng ca, thơ trữ tình,
truyện ký (lịch sử), kịch, hùng biện về cả hai mặt lý luận cũng như thực tiễn, với những tác phẩm
bất hủ mà không một giai đoạn nào so sánh được. Đó là những bài học vô giá về các phương
diện hiểu biết cuộc sống và con người đấu tranh cho lẽ phải và đạo lý, nghệ thuật và văn chương.

III –NHỮNG NGÔI SAO SÁNG MÃI

Thế kỷ thứ V trước Công nguyên, có một năm rất đáng ghi nhớ đối với người Hy Lạp: đó là năm
480, năm mà quân đội Athènes dưới sự chỉ huy tài tình và cương quyết của người anh hùng dân
tộc Thémistocle, đại thắng quân đế quốc Ba Tư trong trận thuỷ chiến Salamine: Không đầy ba
trăm thuyền chiến nhẹ của Athénes tiêu diệt trên một nghìn hai trăm thuyền chiến hạng nặng của
địch... năm ấy ghi lại ba sự kiện liên quan tới ba nhà thơ bi kịch lớn nhất của Hy Lạp:

- Eschyle, bốn mươi lăm tuổi, có mặt trong hàng ngũ đoàn quân chiến thắng trở về.

- Sophocle, mười sáu tuổi điều khiển Đội đồng ca Thành bang múa và hát khúc khải hoàn trong
ngày hội toàn Athénes mừng chiến thắng.

- Cậu bé Euripide khóc tiếng khóc chào đời, ngay tại đảo Salamine.

Ba nhà thơ gặp nhau trong một ngày hội mừng chiến thắng chưa từng có của Tổ quốc, sẽ còn gặp
nhau trong những ngày thi thố tài năng để rồi vĩnh viễn bên cạnh Nữ thần Bi kịch Melpomène kề
vai sát cánh bên nhau, tên tuổi bên nhau, hình ảnh bên nhau, tác phẩm bên nhau, trong vầng hào
quang chói lọi nhân loại dành cho họ trên lịch sử thi đàn sân khấu.

ESCHYLE (525- 456 tr. CN)

Không có tư liệu lịch sử nào nói rõ về cuộc đời của Eschyle. Chỉ biết nhà thơ sinh năm 525, có
tham gia trận đánh thắng quân Ba Tư năm -490 (trận Marathon), năm -480 (trận Salamine), và
năm 479 (trận Platée). Ông đã sáng tạo 70 vở kịch và 20 vở Satire, nhiều lần dự thi và trên 10 lần
được giải nhất. Tiếc thay, ngày nay chỉ còn lại 7 tác phẩm:

I- NHỮNG THIẾU NỮ CẦU XIN có thể nói là một trong những tác phẩm đầu tiên của Eschyle.
Vở kịch nặng về tính chất tự sự và trữ tình, hầu như chưa có gì thật sự là hành động kịch. Nó kể
lại câu chuyện năm mươi cô gái của Danaos - cháu năm đời của Êpaphos (Epaphos là con trai
của Zeus với nàng Io (xem Prométhée bị xiềng, câu 1110 – 1123)- chạy sang đất Argos (Hi Lạp)
xin với vua xứ này được trú ngụ tại đây để tránh cuộc hôn nhân phi đạo lý với năm mươi người
anh em của họ.

2- QUÂN BA TƯ (472 trước công nguyên), đề tài lịch sử, là một vở kịch khác đặc biệt của
Eschyle, ông ca ngợi mưu trí và tinh thần chiến đấu dũng cảm và chiến thắng của người Hi lạp
không trực tiếp bằng những nhân vật chính diện Hi lạp mà thông qua miệng lưỡi một người lính
Ba Tư thất trận kể lại cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai thành Atossa và nỗi kinh hoàng tuyệt
vọng của triều đình Ba Tư trước cái tin sét đánh.

3- BẢY TƯỚNG ĐÁNH THẦN THÈBES (467 trước công nguyên) đề tài lấy ở truyền thuyết gia
đình Lapdacos, kể lại cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai thành Argos và Thèbes – bảy cổng”,
gây ra do mâu thuẫn giữa hai người con trai của Édipe: khi vua thành Thèbes là Édipe phát hiện
ra chính mình đã giết cha và lấy mẹ thì ông tự móc mắt và trục xuất mình ra khỏi thành, trao
quyền lại cho hai con trai là Polynice và Étéocle. Hai anh em đã ước định với nhau rằng mỗi
người sẽ thay phiên nhau nắm quyền cai trị nước một năm nhưng Étéocle, sau khi đã làm vua,
say mùi quyền bính không chịu trả ngôi báu lại cho anh lại còn mưu mô cùng với cậu là Créon
trục xuất Polynice đi. Polynice giận giữ chạy sang Argos, lấy con gái vua là Adraste rồi thuyết
phục được Adraste cất quân sang vây hãm thành Thèbes: Ở sáu cổng thành, chống với sáu tướng
Argos do Polynice chỉ huy, Etéocle bố trí sáu tướng Thèbes do mình lãnh đạo và dành cổng thứ
bảy cho chính mình đánh nhau với anh. Kết quả là Argos thua nhưng cả hai anh em Polynice và
Étéocle đều tử trận.

4- PROMÉTHÉE BỊ XIỀNG (không rõ năm biểu diễn, dự đoán có thể năm 469 trước công
nguyên), đề tài thần thoại kể lại cuộc đấu tranh bất khuất của vị thần khổng lồ Prométhée vì đánh
cắp lửa của mặt trời mang về cho nhân loại và dạy cho con người biết khoa học kỹ thuật, văn
minh nên bị Zeus trừng trị xiềng xích chân tay và đóng đinh xuyên ngực vào đỉnh núi Caucase.

Bộ ba ORESTIE, đề tài lấy ở truyền thuyết Agamemnon, gồm ba vở nối tiếp nhau theo thứ tự
lịch sử:

5- AGAMEMNON: Agamemnon, vua thành Argos, là tổng chỉ huy quân đội Hy Lạp trong cuộc
chiến tranh thành Troies. Sau khi chiến thắng trở về, ông đã bị vợ là Clytemnestre tư thông với
Egisthe (là em con chú của Agamemnon) giết chết và tiếm ngôi. Người con gái của Agamemnon
là Electra cứu được em trai là Oreste giao cho người sư phó (người săn sóc dạy dỗ) đưa trốn sang
nước Phocée để sau này trở về trả thù cho cha.

6-NHỮNG THIẾU NỮ VIẾNG MỘ (Les Choéphores) -Hai mươi năm sau, Oreste trở theo ý định
của Thần linh, cùng với chị lọt vào được trong cung điện, giết hai tên gian phu dâm phụ, báo thù
được cho cha.

7- NHỮNG NỮ THẦN ÂN ĐỨC (Les Euménides)- Nhưng mặc dù việc báo thù cha là chính
đáng, Oreste vẫn bị các nữ thần báo oán Erinny theo đuổi ngày đêm. Oreste chạy đi đâu cũng
không thoát nổi họ. Nữ thần Athéna phải đứng ra dàn xếp. Nàng lập một toà án để xét xử Oreste.
Apollon là người bào chữa. Toà án xét xử khá gay go. Apollon biện luận hết tài năng, nhưng khi
bỏ phiếu kín thì số phiếu chống và thuận ngang nhau. Với tư cách là chủ tịch, Athéna đứng về
phía thuận. Thế là Oreste được trắng án. Các nữ thần báo oán Erinny được giao thêm trách
nhiệm mới, họ trở thành những nữ thần ân đức, chuyên ban hạnh phúc cho nhân dân Athènes.

Bộ ba Orestie phản ánh hiện thực nào?

Theo lời thần dạy trước đây, để có gió thuận cho quân đội Hy Lạp viễn chinh sang thành Troie,
Agamemnon đã phải hy sinh con gái mình là Iphigénie tại Aulis. Khi thắng trận trở về, ông bị vợ
là Clytemnestre giết. Để thanh minh cho hành động giết chồng đó, bà ta viện lý do là báo thù cho
con gái bà, Iphigénie. Trừng trị tội giết chồng này, Oreste đã giết cả Egisthe và Clytemnestre để
báo thù cho cha và được thần linh khuyến khích, giúp đỡ và cuối cùng vảo vệ cho Oreste được
trắng án, có nghĩa là việc giết mẹ báo thù cha đó là chính đáng, đúng luật lệ thần linh. Thắng lợi
của Oreste phản ánh một bước tiến hoá quan trọng trong xã hội: chế dộ mẫu hệ đang phải
nhường bước cho chế độ phụ hệ, và trong tình hình chính trị của Hy Lạp thì quyền lực hội đồng
Aréogage của tầng lớp quý tộc đang cầm quyền bị lung lay, phân hoá trước cuộc đấu tranh của
những lực lượng cộng hoà dân chủ. Đây là lúc các nữ thần ân đức đang được đưa vào thời
lhượng tại Athènes.

Sau khi biểu diễn bộ ba Orestie, năm -458, Eschyle rời Athènes sang Géla, một thành phố của
Sicile, và hai năm sau ông mất tại đó, thọ sáu mươi chín tuổi.

Tuy chỉ còn lại bảy tác phẩm, nhưng chừng ấy cũng đủ để xác định vai trò lớn lao của Eschyle
trong lịch sử phát triển của nền bi kịch cổ đại. Từ Những thiếu nữ cầu xin cho đến bộ ba Orestie,
tác phẩm cuối cùng của ông, Eschyle đã đề cập những vấn đề xã hội tiêu biểu liên quan đến
những chặng đường phát triển nhất định của lịch sử. Sự đấu tranh cho chế độ hôn nhân cá nhân –
một vợ một chồng – thay cho chế độ tạp hôn, tinh thần đấu tranh mưu trí và dũng cảm chống
xâm lược bảo vệ đất nước, sự lên án những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, sự nghiệp đấu
tranh kiên cường chống bất công và bạo lực vì nền văn minh tiến bộ và hạnh phúc của loài
người, sự khẳng định tội ác phải trừng phạt… đó là những vấn đề lớn có tầm nhân loại chứ
không phải những tình huống cá nhân.

Eschyle là người mở đường đưa vào kịch những tư tưởng cao đẹp, những ước vọng trong sáng
về một xã hội có quy củ vững vàng xây dựng trên cơ sở có một nhà nước vững mạnh. Ông xứng
đáng là người đại diện cho thời kỳ đầu của một chế độ cộng hòa phơi phới trẻ trung đang hình
thành và được khẳng định.

Ngoài những tác phẩm ưu tú của mình, Eschyle đã góp phần nhiều cho sự phát triển và hoàn
thiện dần hình thức nghệ thuật sân khấu. Thespis đã có công tách từng đội đồng ca ra một diễn
viên, làm cho hình thức kịch được tách ra khỏi hình thức nghi thức tôn giáo để thành một loại
hình nghệ thuật có cuộc sống riêng. Eschyle đưa thêm một diễn viên thứ hai, rồi Sophocle một
diễn viên thứ ba là thật sự mở ra cho kịch một chân trời mới thênh thang. Ông còn chú trọng
nhiều đến các mặt phục trang nhân vật, trang trí sân khấu, thêm những màn múa nhảy... khiến
cho hình thức của sân khấu ngày càng phong phú, đa dạng, ngày càng hấp dẫn và có đủ điều kiện
để đạt tới đỉnh cao rạng rỡ của nó với Sophocle.

SOPHOCLE (496-406 tr. CN)

Nếu Eschyle là nhà thơ tiêu biểu cho buổi bình minh của chế độ cộng hòa thì SOPHOCLE tiêu
biểu cho thời kỳ cực thịnh của nó, thời kỳ Pêriclès.

Là người được các Nữ thi thần ban nhiều ân huệ lại được chịu một nền văn hóa vững chắc,
Sophocle đã phát triển tài năng rất sớm. Năm 480 cậu thiếu niên mới 16 tuổi Sophocle đã chỉ huy
cả một đội đồng ca quy mô toàn thành múa hát mừng tổ quốc Athènes chiến thắng. Hai năm sau,
chàng thanh niên Sophocle đã xuất hiện trên sân khấu Athènes để tranh giải trong các hội thi. Từ
đó suốt bảy mươi năm không ngừng, ông cống hiến tài năng lỗi lạc và cả nhiệt huyết của mình
cho sự nghiệp sân khấu.

Với tư cách là một công dân tích cực của Chế độ Cộng hòa, Sophocle đã tham gia chính quyền,
được bầu làm stratégos, một chức vụ tương đương thành viên hội đồng Nhà nước. Ông đã làm
tròn trách nhiệm của mình, cũng có đôi thành tích. Nhưng bên cạnh nhà thơ bi kịch thì nhà hoạt
động chính trị trở thành mờ nhạt.

Theo tài liệu để lại, ông đã sáng tác và trình diễn 20 vở kịch, 20 lần đoạt giải nhất trong các hội
thi, nhiều giải nhì và giải ba thì không bao giờ cả.

Hiện nay ông chỉ còn bảy vở: Ajax giận dữ, Những phụ nữ Trachinie, Philoctète, Édipe ở
Colone, Antigone và Electra.
1 – AJAX GIẬN DỮ: đề tài lấy trong truyền thuyết chiến tranh thành Troie. Sau khi Achille bị
Paris, em của Hector bắn chết bởi một mũi tên trúng ngay gót chân, thì xảy ra cuộc tranh chấp
giữa Ajax và Ulysse cả hai tướng tài này ai cũng muốn chiếm một vũ khí thần thánh của Achille
về mình... cuối cùng Ulysse được. Ajax giận dữ hóa điên, lao vào giữa một đàn cừu mà tan sát vì
tưởng đó là quân Hy Lạp trong đó có Ulysse và hai anh em Ménélas và Agamemnon.

Tỉnh ra, Ajax biết mình sai lầm, hối hận và đau xót, chàng đã tự tử. Hai anh em Agamemnon
căm thù không cho mai táng. Nhưng Ulysse cao thượng và nghĩ tình đồng đội đã từng chiến đấu
vào sinh ra tử bên nhau, đã chống lại lệnh cấm đó và cùng với Teucer em của Ajax chôn cất cho
chàng.

2- NHỮNG PHỤ NỮ THÀNH TRACHINIE, đề tài lấy trong truyền thuyết Heraclès. Đây là câu
chuyện nàng Djanyre, con gái vua Éneé xứ Calidon.. Heraclès, sau mười hai chiến tích lẫy lừng
đã được trả lại tự do. Chàng đã dũng cảm chiến đấu với thần chết Thanatos, buộc thần chết phải
để cho Alkestis vợ vua Admète được sống lại, đánh chiếm thành Troie, giúp các thần linh diệt
bọn Khổng lồ, rồi đến xứ Calidon lấy con gái vua xứ đó là Djanyre làm vợ, đưa về Tyrinthe
.Giữa đường, gặp con sông Evénos nước chảy cuồn cuộn, chàng thuê con nhân mã (đầu người
mình ngựa) Nessos cõng Djanyre sang sông còn chàng sẽ lội qua theo. Con nhân mã mê sắc đẹp
của nàng, âm mưu bắt cóc nàng đi liền bị Heraclès giương cung bắn chết. Nhưng để trả thù
Nessos cởi chiếc áo đẫm máu của mình trao cho Djanyre và dặn rằng: sau này nếu Heraclès phụ
tình, hãy đưa chiếc áo này cho chàng mặc là lập tức chàng trở lại với tình xưa... Cách đó ít lâu,
nghe tin chồng toan yêu một người con gái khác, Djanyre bèn gửi chiếc áo đẫm máu của con
nhân mã cho chàng. Không ngờ máu độc con long xà giết chết Nessos đã thấm vào chiếc áo vẫn
còn tác dụng như trước. Heraclès mặc chiếc áo ấy vào cũng đã bị… chết luôn không cách nào
cứu chữa. Djanyre đã giết chồng khi tưởng làm cho chồng trở lại tình yêu xưa. Và Heraclès đã
chết vì chính mũi tên của mình tẩm độc. Bị hối hận giày vò, Djanyre đã tự sát.

3 – ANTIGONE, đề tài lấy trong truyền thuyết gia đình Lapdacos của thành Thebes, cũng như tác
phẩm Bảy tướng của Eschyle. Đây là một vở kịch giàu chất chiến đấu và nhân đạo... Nó lên án
quyết liệt chính sách cai trị tham tàn độc đoán muốn củng cố quyền uy bằng giết chóc. Nó
thể hiện nguyện vọng của nhân dân muốn có một chính quyền thật sự dân chủ, xây dựng trên cơ
sở tôn trọng quyền dân chủ và quyền người. hoà hợp pháp lý và nhân đạo.

4- ÉDIPE LÀM VUA, diễn tả những nỗi đau thương vô bờ bến của một con người mà tiền định là
sẽ giết cha lấy mẹ. Édipe đã tìm mọi cách để giẫy ra khỏi tiền định, nhưng không thể nào giẫy ra
được. Sau khi phát hiện ra tội lỗi hoàn toàn vô ý thức của mình, Édipe đã tự giải quyết lấy số
phận của mình một cách cực kỳ dũng cảm mà hợp với đạo lý; để cứu lấy nhân dân thành Thebes
mà ông đang làm vua qua khỏi bệnh dịch nguy hiểm, theo đòi hỏi của thần linh, ông đã tự móc
mắt và trục xuất mình ra khỏi Thành bang mà ông xiết bao yêu quý.

5 –ÉLÉCTRA- đề tài lấy ở truyền thuyết Agamemnon; nội dung tương tự như vở thứ hai trong bộ
ba Orestie:

Sau 20 năm trốn ra nước ngoaì để tránh bàn tay tội ác của mẹ, Oreste trở về Mycènes, cải trang
thành một người khách Phocée, liên lạc được với chị là Électra, rồi hai chị em lập mưu vào được
trong cung điện, giết Clytemnestre và Égisthe, hoàn thành được nhiệm vụ trả thù cho cha.

6- PHILOCTÈTE: đề tài lấy ở truyền thuyết chiến tranh thành Troie. Trước khi chết, Héraclès
trao cho Philoctète cây cung thần diệu cuả mình. Trên đường viễn trinh sang Troie; Philoctète bị
tai nạn, què chân không đi theo đoàn quân được, bị bỏ lại ở đảo Lemnos. Chiến tranh kéo dài lâu
quá rồi, quân Hy Lạp không làm sao hạ nổi thành. Thần cho biết phải có chiếc cung thần kỳ của
Héraclès hiện đang do Philoctète giữ. Ulysse và Néoptolème (tức Pyrrhus con trai của Achille)
bàn nhau sang Lemnos, lừa Philoctète lấy được chiếc cung đó. Nhưng Néoptolème day dứt
lương tâm, không đành để Philoctète tay không, đau yếu ở lại một mình trên đảo Lemnos hoang
vắng, bèn nói hết sự thật với chàng và trả lại chiếc cung. Philoctète nổi giận định bắn chết Ulysse
thì Héraclès xuất hiện, động viên Philoctète lên đường cùng với Ulysse và Néoptolème sang
tham gia cuộc chiến ở Troie. Thần Esculape (thần thầy thuốc) sẽ đảm bảo chữa cho chàng lành
vết thương.

7- Vở kịch cuối cùng của Sophocle là ÉDIPE Ở COLONE. Ông viết vở này vào hoàn cảnh con
cái ông đối xử với cha không phải đạo.

Édipe sau khi tự móc mắt mình và trục xuất mình ra khỏi thành Thebes, được con gái là
Antigone dắt đi sang đất Colone- tức Athènes – lúc này do Thésée, ông vua anh hùng giỏi nhất
Thành bang trị vì. Thésée rất vui lòng, niềm nở đón tiếp con người khốn khổ đó. Vì có lời sấm
báo trước rằng ngôi mộ của Édipe ở đâu thì xứ đó được thần thánh ban cho đầy ân phúc, tên
Créon, đang lăm le chiếm ngôi vua, tới gặp Édipe toan dùng bạo lực mời ông về để “bảo vệ cho
thành Thebes”, bị Thésée chặn lại. Polynice, con trai Édipe, đã chạy sang Argos mưu toan mang
quân đánh lại em mình là Étéocle để tranh giành lại ngôi vua cũng có ý định đón cha về để bảo
vệ cho mình chiến thắng. Cả hai đều bị ông từ chối. Ông quyết định sẽ chết và chôn tại đất
Colone, xứ sở của vua Thésée anh hùng cao thượng và hiếu khách.

Đây là một tác phẩm chứa đựng niềm tự hào đẹp đẽ về đất nước Athènes và một lơì chúc cuối
cùng của nhà thơ cho thành phố quê hương xiết bao yêu thương của mình mãi mãi sẽ được
hưởng nhiều ân huệ và sự thương yêu chăm sóc của thần linh.
Người ta kể lại rằng khi tòa án mời ông đến giải quyết mối bất hòa giữa các con ông với ông,
ông đã đưa kịch bản này thay vào lời trình bày sự việc. Sau khi xem song ai lấy đều xúc động
đứng lên công kênh ông và mối bất hòa gia đình cũng tự nhiên được giải quyết.

Hai năm sau Sophocle mất, thọ chín mươi tuổi.

Bi kịch Hy Lạp thực sự ra đời với Eschyle, đã thực sự trưởng thành, hoàn thiện và đạt tới đỉnh
cao nhất của nó với Sophocle, không những trong tổ chức kết cấu, cốt truyện, mâu thuẫn, hành
động kịch, trong sự bố trí Đội đồng ca, trong lời thơ đối thoại mà cả trong tư tưởng, chủ đề, trong
nội dung và phương pháp phản ánh ở từng tác phẩm một: Sophocle bỏ hình thức bộ ba để thực
hiện sự hoàn chỉnh nghệ thuật trong mỗi một tác phẩm, chặt chẽ hơn nữa, trong mỗi lớp, mỗi
hồi. Édipe làm Vua và Aritigone là những ví dụ điển hình.

Hai nhà thơ hơn kém nhau không đầy 30 tuổi.

Vấn đề ở đây không phải chỉ ở kinh nghiệm và thời gian, mà chủ yếu ở quan niệm, tâm hồn và
phong cách. Eschyle nhìn xã hội và con người ít nhiều qua lăng kính thần thoại, cái nhìn khái
quát và giàu màu sắc lãng mạn. Một Prométhée bị Zeus xiềng vào núi đá, một Oreste giết mẹ trả
thù cho cha rồi thoát được sự theo đuổi của các nữ thần báo oán Erinny nhờ có bàn tay và trí tuệ
của nữ thần Athéna can thiệp... Con người dưới ngòi bút của Eschyle, hình như thoát được tính
chất một thứ đồ chơi trong bàn tay của định mệnh vô hình, khắc nghiệt. Nhưng dưới ngòi bút của
Sophocle, con người đã biết tách mình ra đối lập với định mệnh, giữ tự do và chủ động.

Trong mọi hành vi và dù cho có bị định mệnh ràng buộc đến mức độ khắc nghiệt nào đi nữa thì
con người vẫn đủ sáng suốt và nghị lực để tự giải quyết lấy số phận của mình theo cái hướng mà
mình cho là đúng đắn nhất, hợp lẽ đời nhất. Ngay cả trong cái chết, con người của Sophocle
cũng không buông xuôi. Djanyre tự tử. Antigone, Hémon, Eurydice tự tử, Jocaste tự tử, Édipe tự
móc mắt mình và tự trục xuất. Nhiều cái chết lắm. Bi kịch không đâu bằng. Nhưng mỗi cái chết
đều có sự chủ động của nhân vật. Antigone trước khi bị Créon tuyên án đã biết mình sẽ chết và
mong chờ cái chết để vĩnh viễn được sum họp với những người nàng mến nàng thương... Hêmon
tự tử để chứng minh cho cha rõ chính sách cai trị bạo tàn, độc đoán và bảo thủ của ông ta mang
đến những hậu quả tai hại như thế nào cho Thành bang và cho chính bản thân ông. Jocaste tự tử
không phải là đầu hàng số mệnh mà là trực tiếp chống lại số mệnh và bị lương tâm cắn dứt khi
đã giết con để tránh hậu họa cho mình... Và Édipe, Édipe suốt cả cuộc đời ông đã đấu tranh
không ngừng để làm cho câu sấm của Apollon trở thành vô nghiệm tức là để phủ nhận định
mệnh. Đến khi thấy câu sấm của thần ứng nghiệm, Édipe vẫn không nhắm mắt đưa chân, không
muốn mượn sợi dây kết thúc cuộc đời đau đớn. Vì ông còn có một cái đầu biết suy nghĩ sáng
suốt, và một trái tim dào dạt tình cảm con người. Ông không chết, vì chết về âm phủ gặp lại mẹ
cha sẽ biết ăn làm sao nói làm sao? Ông cũng không thể sống bình thường để luôn luôn nhìn
thấy các con, kết quả cuộc hôn nhân tội lỗi. Để tự phạt mình về hai cái tội mà hoàn toàn không
phải là do ông làm ra mà do định mệnh buộc vào cho ông đó, ông đã tự móc mắt mình và tự trục
xuất ra khỏi Thành bang quê hương mà ông đã từng yêu mến, cứu vớt... Cho đến phút cuối cùng,
hành động cuối cùng, ý nghĩ cuối cùng Édipe vẫn chủ động tự mình giải quyết số phận của mình,
tự mình chịu trách nhiệm về mọi hành vi thái độ của mình đúng với cái điều mà lý trí và lương
tâm đã chọn.

Nhân vật của Sophocle là như thế, bao giờ cũng tỉnh táo sáng suốt và giàu nghị lực, mà tình cảm
vẫn sâu sắc dạt dào. Aristote nhận định đúng rằng Sophocle miêu tả con người không phải như
nó đang tồn tại mà như nó phải vươn lên. Bi kịch Sophocle vì vậy mang ý nghĩa đạo lý sâu sắc,
là những bài học tốt cho việc xây dựng tính cách con người.

EURIPIDE (480-406 tr. CN)

Euripide xuất thân trong một gia đình quý tộc, học rộng tài cao, có giao thiệp với những nhà triết
học danh tiếng đương thời như Socrate, Anaxagoras (vừa là bạn vừa la thầy của Euripide va
Périclès), hoặc Protagoras nhà ngụy biện nổi danh: ông có chịu ảnh hưởng của họ ít nhiều nhưng
không theo trường phái ai cả.

Tác phẩm đầu tiên của Euripide được biểu diễn những năm 455 trước công nguyên, một năm sau
khi Eschyle mất. Từ đó cho đến lúc qua đời, ông đã sáng tác 92 vở, nhưng trong cuộc thi phần
lớn là thất bại, chỉ trúng giải nhất được 4 hoặc 5 năm. Bi kịch của ông có mặt không giống với bi
kịch của Eschyle và Sophocle; có lẽ vì thế mà công chúng chưa quen thưởng thức, chưa đánh giá
cao chăng?

Nửa không vui vì gặp nhiều thất bại trong nghệ thuật, nửa buồn vì cuộc sống riêng tư chắc có
những éo le, ông đã rời Athènes sang xứ Magnesie, tới ở cung vua Macédoine là Archélaos vào
năm 480 trước công nguyên và hai năm sau thì qua đời tại kinh thành Pella.

Cứ cái tên mà người ta khoác cho ông – “kẻ ghét đàn bà” – ta cũng có thể đoán được Euripide
chắc chắn nhiều lần đau khổ trong tình yêu, tới một lúc nào đó, đối với phụ nữ ông đâm ra mất
lòng tin tưởng. Câu nói chua chát ông đặt vào miệng Mêdée có thể là một bằng chứng về sự việc
này: “thiên nhiên đã tạo ra đàn bà chúng ta làm điều thiện thì hoàn toàn bất lực mà làm điều ác
thì chúng ta là những người thợ lành nghề”. Nửa do bản tính con người, nửa do hoàn cảnh tác
động, tính tình ông luôn sầu bi cau có, thích sự yên tĩnh cô đơn. Điều rất đáng chú ý là trọn cuộc
đời ông không hề tham gia và nhận một chức vụ nào dù nhỏ trong bộ máy Nhà nước, không có
chân trong Hội đồng năm trăm như Socrate, không làm tướng cầm quân như Sophocle đã từng
làm. Thái độ sống của một nhà thơ uyên thâm, thức giả, phản ánh một tình trạng xã hội vừa rất
phồn vinh đây đang suy sụp dần về lòng tin do cuộc chiến tranh Péloponèse hao tiền tốn của kéo
dài suốt ngót ba mươi năm để rồi kết thúc bằng sự thật của Athènes.

Đọc tác phẩm “Những người Acharne” của Aristophane (425 trước công nguyên), ta có thể thấy
được nỗi khổ của người dân lao động bao gồm cả nô lệ, nông dân, thợ thủ công, sự phản ứng của
nhiều tầng lớp nhân dân đối với chính sách hiếu chiến của nhóm thiểu số cầm quyền.

Sau khi ông mất, phần vì những câu chuyện thù oán, ganh tị đã tiêu tan, phần vì nhận thức của
công chúng đã chuyển biến theo chiều tiến bộ, người ta bắt đầu hiểu quan điểm triết lý về nghệ
thuật của nhà thơ, người ta trở lại tôn sùng nhà thơ, hơn cả Eschyle và Sophocle. Euripide trở
thành “lãnh tụ của một trường phái”. Người ta học tập bắt chước Euripide cả đến những phần
nhược điểm của ông.

Euripide chỉ kém Sophocle có mười lăm tuổi. Vậy mà ông đại diện cho một xu hướng tư tưởng
đã có nhiều khác biệt với tư tưởng của Sophocle. Tuy không là đồ đệ một phái triết học nào, ông
cũng như nhiều người đương thời đã có một thái độ hoài nghi, chế diễu đối với thứ tôn giáo qúa
mộc mạc của cha ông. ông không ưa những thần thoại hoang đường và tập quán buộc các nhà
thơ phải sử dụng làm đề tài sáng tác. Thần linh trước con mắt ông chỉ là những câu chuyện
phiếm, bịa đặt, những cái tên suông không mang một nội dung gì. Tuy nhiên, cái mà ông chống
lại là những mê tín dị đoan thô kệch của quần chúng, chứ không phản đối lòng tin ở Thượng đế
cao siêu. Trái lại ông là một nhà tư tưởng lớn suy nghĩ sâu xa về những vấn đề quan trọng của
nhân sinh và đã viết một số vở kịch luận đề trong đó tiếng nói cảu ông trực tiếp vang lên quá rõ.

Số vở còn lại của một mình Euripide nhiều hơn tổng số còn lại của cả Sophocle và Eschyle.
Những vở đó có thể sắp xếp lại theo tính chất và chủ đề của nó như sau:

1- Hai tác phẩm có giá trị lớn và rất xúc động, ALKESTIS (Alceste) và MÉDÉE rất rung rợn,
không thuộc nhóm chủ đề riêng nào.

2- Năm tác phẩm lấy đề tài ở cuộc chiến tranh thành Troies và Những ngày về: NHỮNG NGƯỜI
ĐÀN BÀ THÀNH TROIE; HÉCUBE. Kết cấu không được chặt chẽ nhưng có những lớp xúc
động và hay. ANDROMAQUE, rời rạc. HÉLÈNE, bi hài kịch hoang đường. CYCLOPE, kịch
châm biếm satire.

3- Năm tác phẩm lấy đề tài ở truyền thuyết Agamemnon: ÉLECTRA; ORESTE, không hay
lắm; IPHIGÉNIE Ở AULIS, kiệt tác cùng với MÉDÉE; IPHIGÉNIE Ở TAURIDE cũng không
kém tác phẩm trước bao nhiêu.
4- Ba tác phẩm về truyền thuyết thành Thèbes: NHỮNG NÀNG BACCHANTES, bi kịch tôn giáo,
một trong những vở hay; NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ PHÊNICIE, không đều và lúng
túng; HÉRACLÈS GIẬN DỮ, một trong những vở kém nhất.

Bốn tác phẩm lấy đề tài ở truyền thuyết Attique: NHỮNG NGƯỜI CON GÁI CỦA
HÊRACLÈS; NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ CẦU XIN. Hai vở này mang tính chất hùng biện lạnh
lùng kém hấp dẫn. HIPPOLYTE, một trong những kiệt tác của Euripide; ION, không hay, nhiều
chất hoang đường, nhưng duyên dáng.

Xét về hình thức cũng như nội dung, bi kịch Euripide đã có những điểm khác biệt với bi kịch
Eschyle và Sophocle, khác biệt chứ không phải là tiến bộ, bởi vì cả về hình thức cũng như nội
dung Sophocle đã đưa mức độ hoàn chỉnh rồi. Euripide dường như không coi trọng lắm phần mở
đầu và phần kết thúc trong tác phẩm của ông. Ông hay mở màn bằng lời độc thoại của một nhân
vật giới thiệu tình huống và sự việc và kết thúc một cách dễ dãi bằng cái thủ thuật người ta gọi
là: “deus ex machina” (tiếng la tinh, có nghĩa là “thần linh. xuất hiện từ một cái máy”), đột ngột
và thiếu chuẩn bị, không do quá trình phát triển của xung đột mà dẫn tới hoàn toàn ngẫu nhiên.
Ví dụ trong một vở Iphigénie ở Aulis (là một vở rất hay), khi Iphigénie sắp sửa bị hi sinh thì nữ
thần Artémis biến nàng đi đâu mất, chỉ để lại dưới bàn thờ một con dê cái mới chọc tiết đầy máu
me. Trong Iphigénie ở Tauride, khi hai chị em Iphigénie và Oreste đánh cắp được bức tượng
Artémis đang chạy trốn, vua Thoas đang đuổi theo, thì nữ thần Athéna xuất hiện, ra lệnh cho
Thoas thôi đừng đuổi theo nữa.

Vai trò Đội đồng ca trong bi kịch Euripide đại thể vẫn như ở bi kịch Sophocle, không trực tiếp
liên quan đến hành động kịch, nhưng vẫn là một chứng nhân tích cực theo dõi, bình luận sự việc
một cách nhiệt tình chứ không hề bằng quan. Euripide cũng thường sử dụng như Eschyle, những
đoạn độc thoại trữ tình hát giống như đoạn độc thoại của Prométhée sau khi Quyền Lực, Bạo
Lực và Héphaistos đã xiềng chàng vào mỏm đá núi rồi bỏ đi. Đoạn Médée khóc con thật là tuyệt
diệu.

Thực ra, Euripide không cách tân gì phần hình thức cả nhưng về nội dung, ông đã có sự chuyển
hướng đáng chú ý. Như Aristote đã nói, Euripide miêu tả con người như nó đang tồn tại. Trong
khi kịch Eschyle bay bổng rất cao, kịch Sophocle hạ cánh xuống với con người, vẫn phản ánh về
con người những mặt cao thượng của nó, thì kịch Euripide phản ánh những bản chất thông
thường nhất của nó, những dục vọng cá nhân: ông là bậc thầy về phân tích tâm lý con người.

Nhân vật Euripide không có nghị lực như nhân vật Sophocle, nghị lực chống lại dục vọng cá
nhân để vươn lên hoàn thành những trách nhiệm cao cả, mà chỉ có dục vọng đi theo đến cùng
những dục vọng phức tạp của bản năng; yêu thương, giận ghét, căm thù, ghen tuông, đau khổ...
và nhất là tình yêu. Chính vì vậy mà những vai đàn bà trong bi kịch của đàn ông chiếm vị trí
trung tâm. Chỉ đọc qua nhan đề 17 vở còn lại thì đã có 12 vở mang tên nhân vật đàn bà, chỉ có
năm vở mang tên nhân vật đàn ông. Nhân vật nữ của Euripide có tính cách đa đạng và phong
phú, đủ thứ sắc thái tình cảm: yêu đắm đuối như Phèdre trong Hippolyte, tự nguyện chết thay
cho chồng như Alkestis, ghen tuông dữ dội đi đến tội ác như Médée thương tiếc cuộc đời mà vẫn
chấp nhận bình thản hi sinh mình vì đồng bào như Iphigénie, Polyxène, Macarie, nặng tình mẫu
tử như Hécube, Andromaque. Nhân vật đàn ông có một số nhu nhược thiếu bản lĩnh hoặc ích kỷ
đê hèn như Jason trong vở Médée. Một số như Thésée trong Những người đàn bà cầu xin, Iolaios
trong Những con gái của Hêraclès, anh nông dân trong vơ Éléctra chiếm được tình cảm người
xem vì có tinh thần dân chủ rộng rãi, trung thực và biết trọng danh dự, yêu lao động và đánh giá
đúng mức con người. Nhất là Hippolyte, người ta yêu mến chàng vì có tính cách vô tư, cao
thượng và hiếu thảo. Còn các thần linh thì mang rặt những tính xấu, bị khán giả và cả nhân vật
rủa nguyền.

Người ta có thể có ý nghĩ rằng Euripide không như Sophocle khắc họa những mặt tốt trong con
người nhằm tuyên truyền bảo vệ cái đạo lý làm người tốt đẹp, mà bộc lộ những dục vọng thấp
kém của con người. với những hậu quả gớm ghê của nó để biết mà ngăn chặn như một lời răn đe
bằng thực tế phản diện: hãy cảnh giác! Nguồn gốc mọi tương lai ở chính những dục vọng chính
bản thân mình. Bức tranh dục vọng hầu như toàn diện đó của nhân vật thuộc tầng lớp vua chúa,
ngoài ý nghiã răn đe đối với mọi người, còn là sự bóc trần bản chất bản chất xấu xa của các tầng
lớp quý tộc thống trị, một bản cáo trạng đối với xã hội dựa trên quyền lực, đầy rẫy những vô lý
và bất công. Nó còn là một sự đòi hỏi quyền bình đẳng không những vấn đề hôn nhân – gia đình
mà cả những lĩnh vực hoạt động khác cho người phụ nữ. Những câu Médée noí với Đội đồng ca,
với Créon, với Jason không cho phép nghi ngờ gì nữa về tư tưởng phản kháng và đấu tranh
mãnh liệt đầy ý nghĩa nhân văn mới mẻ và tiến bộ của Euripide.

Con người do những kiến thức uyên thâm, am hiểu lòng đồng loại và giàu kinh nghiệm sống, đã
có những câu định nghĩa bất tử: “tình yêu đó là sự ngọt ngào lớn nhất, niềm đau khổ lớn nhất”
ấy, trọn đời không nhận một chức trách gì trong xã hội, có tới hội nghị nhân dân chăng nữa cũng
chỉ vì tò mò hay đến để quan sát và không quý yêu gì bọn mỵ dân lắm mồm. Con người ưa cô
độc, khó tính, cáu gắt có lẽ vì nếu nhiều thất bại trên con đường sự nghiệp văn chương nhiều thất
vọng cay đắng trong cuộc sống riêng tư và tình cảm ấy đẫ để lại cho đời sau một loạt những tác
phẩm rất hiện thực, gần gũi với mọi người, với những lời lên án gay gắt, những câu trữ tình “có
hương vị mật ong” va “âm thanh tiếng hát Sirène” như nhà phê bình Alexamdre xứ Étéolie ở thế
kỷ thứ III đã nói, những đoạn phân tích tâm lý sâu sắc lạ kỳ, đặc biệt rất nhiều những hình tượng
phụ nữ sáng chói yêu thương, ngây thơ trong trắng. Đó là những sáng tạo của một tâm hồn mơ
mộng mà bất chấp những gió mưa trên chặng đường đời, vẫn giữ được sự trong trẻo của mình
để khắc họa nên những nhân vật đàn bà chung thủy, hi sinh, đáng mến, đáng yêu mà cuộc đời đã
khước từ ông trong thực tế.
Chỉ với 17 kịch bản còn lại, Euripide đã đề cập tới bao nhiêu vấn đề và vấn đề nào nhà thơ cũng
phát biểu rõ ràng bằng hình tượng và có khi bằng cả lời nói trực tiếp, không che giấu những quan
điểm minh bạch của mình.

Euripide trước tiên là một nhà thơ đấu tranh kiên trì cho một nền dân chủ rộng rãi và tiến
bộ. Trong vở Những người đàn bà cầu xin, Thésée, kẻ cầm quyền ở Athènes, đã nói với xứ giả
của tên vua độc tài Créon thành Thèbes:

“Đô thị này (Athènes) không thuộc quyền riêng một người nào. Anh sẽ không tìm thấy ai là vua ở
đây. Athènes tự do. Dân chúng ở đây là kẻ trị vì. Lầm lượt hàng năm các công dân được
bầu làm đại biểu quản trị nhà nước. Người già không được quyền ưu tiên nào; giàu nghèo ở đây
đều bình đẳng...”

Viên sứ giả ca ngợi chế độ độc tài của Thèbes thì Thésée bác bỏ một cách hùng hồn:

“Đối với một dân tộc không có gì nguy khốn hơn là một tiếm vương. Dưới chế độ ấy, không có
pháp luật nào chung cho tất ca. Chỉ có một người duy nhất cầm quyền và pháp luật trong tay
hắn. do đó mất hết bình quyền. Trái lại, khi có một bộ luật pháp trong nước thì giàu nghèo đều
bình quyền cả. Người yếu bị người khỏe ngược đãi có thể phản ứng lại và người thấp, nếu đủ lý,
thắng được người cao... Ngoài ra, trong các nước mà chính quyền nằm trong tay quần chúng
nhân dân thi dân chúng mong muốn tuổi thanh niên phải hết sức nồng nhiệt. Bọn tiem vương trái
lại rất ghét điều đó; những công dân tốt, những người biết suy nghĩ, có tư tưởng, thì hắn tìm
cách ám hại ngay vì hắn sợ cho ngai vàng của hắn. Như vậy Tổ quốc còn sức lực ở đâu?...

Euripide luôn luôn có thái độ phê phán gay gắt đối với những phong cách đồi bại của các thần:
Zeus, vị chúa tể thiên cung, trá hình chui vào giường hiếp vợ Amphitrion, Apollon cưỡng dâm cô
gái Créuse, khi nàng thụ thai thì bỏ nàng không ngó đến.. Thần thánh mà thế thì con người còn
đến đâu! Cho nên Créuse than:

“Ôi ! tội ác của thần thánh! Bây giờ ta còn biết tới cửa nào mà kêu ca đòi công lý khi ta chết vì
sự bất công của bọn quyền thế trên đời?...”

Thái độ phản kháng những hành vi đồi bại của thần linh xét cho cùng là là một khía cạnh tất
nhiên của tư tưởng dân chủ, cũng như dân chủ tất nhiên dẫn tới lòng yêu chuộng hòa bình và sự
thừa nhận vai trò quan trọng của người lao động trong cuôc sống. Trong vở Éléctra, Euripide đã
để cho Éléctra lấy một người nông dan và quý trọng anh ta một cách chân thành: nàng nói:

“Tôi kính phục một người bạn như anh chẳng kém gì kính phục thần thánh. Không bao giờ anh
chê cười nỗi đau khổ của tôi. Đối với người trần tục, thật là một đặc ân khi gặp được người biết
chăm sóc đến mình trong những ngày khó khăn mà mình đang sống, như tôi được gặp anh. Vì
vậy mặc dù anh không yêu cầu, tôi vẫn cố gắng gánh đỡ cho anh một phần công việc, cùng chịu
khó nhọc với anh. Công việc nội trợ phải là phần của đàn bà. Người lao động đi làm về bao giờ
cũng muốn thấy mọi cái trong gia đình đều ngăn nắp.”

Anh nông dân đáp lại rất thật lòng:

- “Cái đó tùy ý.. Một kẻ lười biếng dù mở miệng là cầu khẩn thần này, thánh no, không lao động
thì cũng đừng hòng nuôi nổi cái miệng mình.”

Oreste, em của Éléctra, cảm thấy lòng chân chính của anh, đã phát biểu một lời đầy triết lý:

- “Muốn đo sự cao quý của một người trần, chỉ cần xem xét việc làm và hạnh kiểm của họ là
đủ... Tôi mong được tiếp đón trong nhà một người nghèo mà có tâm hồn hơn trong nhà một kẻ
giàu sang.”

Và cái nét tâm hồn căn bản đọng lại dưới lòng nhà thơ vẫn là một tấm lòng yêu nước thầm
lặng, kín đáo và một ý thức làm tròn bổn phận người dân đối với đất nước của mình. Trong
vở Những ngươi đàn bà thành Troie, Euripide cho nàng Cassandre nói lên những lời thật xứng
đáng người em gái của dũng sĩ Hector:

“Trái với bọn xâm lăng Hy Lạp, người dân Troie đã thu được một xinh quang vô vàn quý báu:
họ chết vì Tổ quốc! Nếu ngọn giáo đâm họ chết, thì những bàn tay thân thương khiêng thi thể họ
về nhà, chôn cất trên mảnh đất cha ông sau khi được khâm liệm chu đáo... Tránh được chiến
tranh là bổn phận của mọi người khôn ngoan. Nhưng nếu phải đi đến chỗ chết, thì chết không
phải vì một lý do tốt đẹp là một cái chết nhục nhã; trái lại vì đồng bào mình mà chết một cách
vinh quang thì không ai có thể chối từ vinh dự ấy:”

Viết tới đoạn này ta bỗng nhớ lời của nàng Chimène trong Le Cid của Corneille, nói với vua
Don Fernand:

“Chết vì non sông đâu phải phận kém hèn

Mà là chết đẹp, ngàn đời bất tử”

(Le Cid, hồi IV, lớp 5).

Trong vở Iphigénie ở Tauride, 0reste cũng tuyên bố rất đúng: “Người thanh niên không thể viện
một khó khăn trở ngại nào để trốn tránh bổn phận mình đối với Tổ quốc!”.

Không phải chỉ nói ngoài miệng mà nhiều nhân vật, những nàng trinh nữ vừa chớm xuân đời,
chưa được hưởng hạnh phúc hôn nhân, đã tự nguyện bước lên dàn thiêu hi sinh cả tuổi trẻ và tính
mạng mình để đưa đến cho Tổ quốc cho đồng bào những quyền lợi cao quý mà mọi người chờ
đợi, những Iphigénie, Polyxène, Macarie... là những tấm gương yêu nước chói lọi từ ngàn xưa
cho đến cả hôm nay.

Cái hấp dẫn của nhà thơ Euripide, đại diện cuối cùng của nền bi kịch Hy–Lạp, là những tư tưởng
yêu nước nhân đạo, dân chủ, tiến bộ mà suốt một cuộc đời đã không ngừng nhắc đi nhắc lại cho
mọi người, mọi tấm lòng qua một mỗi ác phẩm. Cái hấp dẫn đó dường như lại thêm phần quyền
rủ khi ta được biết thiên tài ông được chín mùi trong đầu và cuộc đời ông là cuôc đời một con
người đã trải nhiều bất hạnh xót xa. Lời thơ của nhạc trưởng kết thúc vở kịch kiệt tác của ông
phải chăng đã kín đáo gợi lên nghĩa đó.

“Thần Vương ngự đỉnh Ô lem

Là người phân phát phận thường rủi may.

Bao sự việc trái lời nguyện ước

Được các thần thực hiện bỗng dưng;

Điều ta trông đợi, chẳng mòng,

Mà điều không đợi, rạch đường tới ngay...”

Có phải nhà thơ bi quan hay là thực tế!

Ba nhà thơ, với ba mươi tác phẩm còn lại, mà đủ xác định vị trí hàng đầu của nền sân khấu cổ Hi
Lạp trong lịch sử sân khấu thế giới xưa nay.

Nhân loại đã tiến từ chiếc xe lăn Excyclème đến những con tàu vũ trụ. Con người đã khám phá
biết bao điều bí mật của thiên nhiên; nhưng những vấn đề cuộc sống mà Eschyle, Sophocle,
Euripide đặt ra cách đây hai mươi tư thế kỷ đâu phải đã được giải đáp hoàn toàn? Bởi vì có
những vấn đề nằm trong quy luật, có thể giải đáp được với những điều kiện phát triển nhất dịnh
của xã hội và con người; có những vấn đề bất ngờ, đột xuất, ngẫu nhiên chưa một trí tuệ nào tìm
ra được quy luật cả.

Cho nên bao lâu loài người còn có áp bức, bất công bao lâu trái tim con người còn chứa đựng
những tình cảm yêu thương, giận ghét, và trí tuệ con người biết phân biệt chính nghĩa với gian tà,
nghĩa là bao lâu con người còn có khát vọng vươn lên cái tự do thật sự, cái đẹp thật sự, cái tiến
bộ thật sự thì bấy lâu những hình tượng Prométhée, Antigone, Iphigénie, Alkestis, Hippolyte,
Édipe, Médée.. vãn còn làm xao xuyến hàng triệu con tim. Những người đầu tiên đặt nền móng,
khẳng định và hoàn chỉnh nền nghệ thuật sân khấu bi kịch cả về hình thức và nội dung,cũng là
những người đầu tiên đã đặt ra những vấn đề cơ bản về cuộc sống mà sân khấu phải giải quyết
mọi lúc, mọi nơi và cũng chính họ mjững người đầu tiên đã vạch ra những phương hướng giải
quyết phù hợp nhất với quy luật cuộc sống, với cái đạo làm người.

Kết luận

Trong quá trình phát triển, dù sân khấu bi kịch có cải biến nội dung và hình thức, dù có áp dụng
phương pháp Aristote, Shakespeare, Schiller, Stanilapski hay Berthol Brech... thì nói tới bi kịch,
người ta vẫn nhớ tới trước tiên những bài ca Dithyrambe, những sân khấu lộ thiên với hàng vạn
người ngồi xem trên những bậc đá hình vòng cung bên sườn đồi thành cổ Acropole, ở Athènes,
Hy Lạp, tới những ngày hội thi biểu diễn mà người chiến thắng được đích thân vị Thủ lĩnh Quốc
gia đội cho vòng hoa chiến thắng lên đầu và khắc tên vào bia đá ngàn năm -, những tên tuổi
sáng ngời của ESCHYLE, SOPHOCLE và EURIPIDE.

Và người ta nghĩ rằng mỗi nhà hát kịch hiện nay ở bất cứ nơi đâu cũng nên đưa bi kích Hy Lạp
vào kịch mục của mình; như vậy nhà hát mới thật sự phát huy chức năng và tác dụng toàn diện
của nó là một trung tâm vừa giải trí vừa trau giồi kiến thức và rèn luyện nhân cách cho con
người, trong đó uống nước nhớ nguồn là một khía cạnh rất cơ bản.

You might also like