Professional Documents
Culture Documents
Buổi 14 - Việt Bắc (P2)
Buổi 14 - Việt Bắc (P2)
Buổi 14 - Việt Bắc (P2)
⇒ Nét đặc sắc trong câu 8 này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu của nghệ thuật
đối. Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để qua tất cả các câu 8 ở
đây, nghệ thuật đối làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên
những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc đối với từng kỉ niệm. Cả tiểu đối và trường
đối đều được sử dụng hiệu quả. Đó là lối đối giữa các vế câu với nhau như:
"Miếng cơm chấm muối /mối thù nặng vai" để làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí
giữa nhân dân và cách mạng. Khó khăn lại càng làm chồng chất mối thù đối với
thực dân phát xít. Đó cũng là sự tương phản giữa cuộc sống gian khổ và lòng
người qua những hình ảnh đối chọi nhau "Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son".
Đó là những vế đối làm nổi bật nỗi buồn của Việt Bắc đối với cuộc chia tay
"Trám bùi để rụng, măng mai để già". Nghệ thuật đối vốn rất quen thuộc trong
ca dao, tục ngữ, nhưng với Tố Hữu, nghệ thuật đối đã có những sáng tạo.Ở đây
không chỉ có sự tương phản mà còn có sự bổ sung của các vế đối. Có lối đối
giữa các vế trong một câu nhưng lại cũng có những tiểu đối, lối đối ngay trong
một vế câu như "mưa nguồn / suối lũ" rồi "những mây / cùng mù"; lại có những
biến thể lồng chéo tạo nên các vế đối như trong trường hợp "Tân Trào, Hồng
Thái, mái đình,cây đa". Đoạn thơ vì thế rất giàu nhạc điệu, một thứ nhạc điệu
được tạo nên từ tiết tấu của câu thơ.
1.4. Bốn câu cuối của đoạn thơ tiếp tục khẳng định nỗi nhớ, sự thủy chung
son sắt của người ra đi khi từ biệt quê hương cách mạng về xuôi.
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
- Ta với mình, mình với ta
- Nghệ thuật điệp: Một câu thơ 6 tiếng mà tác giả đã để lặp lại hai lần mỗi từ
mình, ta cho thấy sự xoắn xuýt, quấn quýt, gắn bó, không thể chia cắt.
- Liên từ “với”: Nếu chúng ta vô tình coi liên từ “với” như một từ có chức năng
liên kết thì có thể thay vào đó bằng liên từ “và” nhưng ý nghĩa lại thay đổi hoàn
toàn, đồng thời tạo sắc thái tình cảm hoàn toàn khác. Từ và chỉ đơn thuần là mối
quan hệ tương tác qua lại giữa ta – mình. Nhưng chỉ thay bằng liên từ “với” thì
hai chủ thể ta – mình lại có sự gắn kết lạ thường bền chặt, keo sơn.
- Cách ngắt nhịp: Câu thơ ngắt nhịp 3/3 tạo thành hai vế thơ đăng đối, rất chỉnh.
Phải chăng dụng ý nhà thơ muốn gửi gắm là những tình cảm đậm sâu của ta với
mình. Nếu như trong đoạn thơ trên, người ở lại đã nói lên tiếng lòng đầy vương
vấn, nhớ thương của mình khi người ra đi về xuôi thì bằng nhịp thơ cân chỉnh
trong câu lục này người đi đã nhẹ nhàng gửi gắm một thông điệp: Mình nhớ ta
như thế nào thì ta cũng nhớ mình như thế khi chia xa. Lòng mình như nào thì
lòng ta như thế. Cứ gửi trao tình cảm sẽ nhận lại yêu thương, đó là quy luật
riêng, lý lẽ riêng của trái tim con người, một điều giản dị mà chính Tố Hữu đã
nhắc đến trong một bài thơ khác của mình:
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau.
- Vận dụng sáng tạo ca dao: Trong ca dao từng nói:
Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai
Tố Hữu đã mượn tình cảm lứa đôi để diễn tả tình cảm cách mạng khăng khít
bền chặt.
2.2. Thấp thoáng hiện ra trong bức tranh rừng núi ở đoạn trên, đến đoạn thơ
sau (31 - 42) người Việt Bắc đã trực tiếp xuất hiện qua những hoài niệm xúc
động về cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến.
Cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Cuộc sống vật chất: Người đi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ tuy thiếu
thốn mọi đường.
Bữa ăn hàng ngày thật hiếm hoi mới có được bát cơm, chủ yếu là ăn khoai, ăn
sắn. Nhưng đâu phải lúc nào khoai sắn cũng đầy đủ, thế nên mới có cảnh:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bộ đội ta chỉ có củ sắn lùi nướng vội trong bếp để chia nhau cùng ăn cho qua
cơn đói. Giấc ngủ hàng đêm trong rừng sâu để chống chọi với những ngày đông
tháng giá nơi núi cao lạnh lẽo đó là tấm chăn làm từ vỏ cây sui đập dập, chẳng
đủ ấm đầu nhưng quân dân vẫn cùng nhường nhau tấm chăn hẹp ấy.
Cuộc sống tình cảm: Những hình ảnh mới đọc lên người đọc ngỡ tưởng là hình
ảnh tượng trưng nhưng đâu phải. Đó chính là hiện thực trần trụi, gian khó của
cuộc chiến đấu: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng".
Cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng": diễn tả được mối tình cảm "chia
ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa
sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"... mà người cán bộ cách mạng
đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.
→ Sự sẻ chia của tình đồng bào, đồng chí, tình quân dân đã góp thêm sức mạnh
cho nhân dân ta đánh thắng kẻ thù. Cao hơn cả là tinh thần đoàn kết dân tộc,
tình hữu ái giai cấp luôn thấp thoáng ẩn hiện trong những vần thơ.
Nhân dân VB hết lòng cho cuộc chiến
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Chỉ bằng hai câu thơ thôi mà cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp và tình
nghĩa chan hòa:
+ Thiên nhiên Việt Bắc: Có lẽ hình ảnh này được nhà thơ chụp lấy trong
một khoảnh khắc ngắn ngủi của cái nắng trưa hè lúc đúng ngọ, khi mặt
trời nắng gắt và chói chang nhất, với một không gian thoáng đãng mênh
mông trên nương rẫy cao. Cá Vàng chói của nắng hè với màu vàng óng
của những bắp ngô già đã bóc áo, phơi khô dưới nắng như vàng hơn, làm
cái nắng đã chói chang lại thêm rực vàng. Một không gian lớn lao, kì vĩ
và có phần lung linh.
+ Con người Việt Bắc: Trên nền không gian kì vĩ, khoáng đạt ấy là nền để
con người Việt Bắc xuất hiện. Không phải một anh hùng lao động hay
chiến đấu mà là hình ảnh giản dị,quen thuộc thậm chí là quá đỗi thân
thương: Người mẹ địu con lên rẫy. Nhưng chính khung cảnh ấy đã làm
cho người mẹ bình dị kia đẹp lung linh như một huyền thoại. Hình ảnh
thơ này không phải chỉ lần đầu xuất hiện trong thơ Tố Hữu mà nó còn
được nhắc tên và hát mãi trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng
mẹ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Hình ảnh chọn lọc: Người mẹ nắng cháy lưng vừa địu con vừa bẻ từng bắp ngô
gọi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ
chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng.
Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến
không thể phai nhòa trong ký ức của người về xuôi.
Nhớ cảnh sinh hoạt cơ quan và những âm thanh quen thuộc:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Đoạn thơ còn dựng lại những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm
thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến Việt Bắc.
- Nhớ lớp học i tờ: Một không khí, một tinh thần của một thời đi không trở lại.
Nếu Ai đó lật giở lại những trang sử của dân tộc sẽ thấy bất ngờ khi một dân tộc
có đến 90% dân số mù chữ nhanh chóng được xóa mù bởi phong trào Bình dân
học vụ rộng khắp, học mọi lúc, mọi nơi, người biết nhiều dạy người biết ít,
người biết ít dạy người chưa biết. Những lớp học râm ran tiếng i tờ không chỉ là
ý thức tự vươn lên của mỗi người dân Việt Bắc mà còn là tinh thần tự tôn, tự
cường dân tộc.
- Nhớ những giờ liên hoan: Sống, lao động, chiến đấu nhưng quân và dân Việt
Bắc không thể quên được những món ăn tinh thần, đó là nguồn động lực vô
cùng cần thiết để nhân dân ta có thể vượt qua mọi khó khăn thử thách và chiến
thắng mọi kẻ thù. Những buổi sinh hoạt, liên hoan văn nghệ tập thể như chất
keo gắn kết tình quân dân, đồng bào, đồng chí diễn ra quây quần bên đống lửa
trại dựng giữa cánh đồng. Người đọc như nhìn thấy những cái nắm tay thật chặt,
những điệu nhảy, điệu múa, những tiếng ca rộn rã theo nhịp chân đung đưa, tất
cả toát lên một không khí tưng bừng của đêm hội liên hoan văn nghệ để mai này
khi xa rồi, người về xuôi không khỏi xốn xang khi nhớ về kỉ niệm đó.
- Nhớ những ngày tháng cơ quan: Nghệ thuật tương phản đối lập: Gian nan đời
vẫn ca vang núi đèo mà nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ
cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ, khó khăn nhưng với tinh thần “tiếng
hát át tiếng bom” của một thời oai hùng đã làm cho những khó khăn đó bỗng
chốc vơi đi chỉ còn lại những thanh thản, bình yên trong lòng, chút bình yên của
người chủ động trong cuộc chiến đấu vẫn còn trường kỳ kia.
- Nhớ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống núi rừng Việt Bắc:
+ Âm thanh "tiếng mõ rừng chiều": Tiếng mõ quen thuộc mỗi buổi chiều
theo đàn trâu thong thả về nhà sao bình dị, thân thương đến thế.
+ Tiếng "chày đêm nện cối đều đều suối xa": là âm thanh đặc trưng của
Việt Bắc. Những chiếc cối giã gạo chạy bằng sức nước cứ đều đặn, miệt
mài chảy, giã, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng và gợi nhớ
một thời đã qua. Đó là những âm thanh bí ẩn, thiêng liêng và huyền diệu
nơi núi rừng Việt Bắc, đã thấm sâu vào trái tim nhà thơ, để giờ đây khi
chia xa đã thăng hoa thành những câu thơ ngân nga rung động lòng
người.
4. Nỗi nhớ hướng về những kỉ niệm của cuộc kháng chiến oanh liệt hào
hùng (53 - 90).
Sau những hoài niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc, đoạn thơ dẫn vào
khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những cảnh tượng rộng lớn, những hoạt
động sôi nổi, những kháng chiến hào hùng… Đoạn thơ đã chuyển từ nhịp ru dìu
dặt, ngọt ngào, tha thiết của bản tình ca ân nghĩa đậm chất trữ tình sang nhịp
điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ của khúc anh hùng ca hào tráng đậm chất sử thi
khi thể hiện nỗi nhớ về những kỉ niệm của cuộc kháng chiến oanh liệt hào hùng.
Thiên nhiên VB không chỉ được cảm nhận bởi vẻ đẹp của 4 mùa mà thiên nhiên
còn là một nhân tố đắc lực góp phần làm nên cuộc kháng chiến toàn thắng với
những yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Và VB hiện lên là một khu căn cứ địa
cách mạng hội tụ đầy đủ yếu tố trên để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi vẻ
vang:
4.1. Mở đầu bằng chữ “nhớ”, kỉ niệm về cuộc kháng chiến oanh liệt hào
hùng đã được nhà thơ tái hiện qua những bức tranh rộng lớn và kỳ vĩ của
những ngày Việt Bắc cùng rừng núi và đất trời đánh giặc:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt đầy
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
- Yếu tố địa lợi
Câu thơ mở đầu gợi lên một bối cảnh chiến tranh tao loạn "Nhớ khi giặc đến
giặc lùng". "Giặc đến" là thời điểm nguy kịch, "giặc lùng" là cảnh nguy biến,
hoảng loạn, tan tác, loạn lạc. Câu thơ làm ta liên tưởng tới cảnh chạy loạn trong
thơ Nguyễn Đình Chiểu:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất tổ đàn chim dáo dác bay
Hay cảnh tang thương trong thơ Hoàng Cầm:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên chân thực: Đó là núi rừng bao la, ngút ngàn với
những vách núi đá hùng dũng chìm khuất trong làn sương mù hư ảo chốn núi
rừng. Đó là những nét đặc trưng rất riêng biệt của thiên nhiên VB
Nghệ thuật nhân hóa: Trước cảnh đau thương ấy rừng núi đã vào cuộc chiến
đấu. Với thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, TH đã dựng nên một rừng núi kiêu hùng
cùng ta đánh giặc. Từ giọng điệu anh hùng ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của
ta và mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù”
Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa.Núi
rừng Việt Bắc tươi đẹp, hiền hòa trong bức tranh tứ bình nay bỗng trở thành
những chiến sĩ quân thực thụ trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.
Rừng cây, núi đá cũng cùng quân, dân VB chiến đấu, cùng đánh Tây. Và rừng
cũng như núi đều được giao cho một nhiệm vụ phù hợp với khả năng của mình:
+ Núi đá: Những dãy núi trập trùng không đứng yên, vô tri, vô giác
mà chúng biết liên kết với nhau, giang chặt cánh tay nối thành
những lũy sắt dày để bao vây quân thù. Hình ảnh hiện hữu, những
lũy sắt dày đầy thách thức hiên ngang với kẻ thù giăng giăng trước
mặt mà có lẽ không có kẻ thù nào lọt qua. Hình ảnh này làm cho
người đọc nhớ ngay đến lòng chảo Điện Biên, nơi quân giặc chỉ có
thể tiến vào theo đường lính nhảy dù, chỉ có đường vào mà không
có lối ra, chỉ tiến chứ không lùi nên khi bị đột kích chỉ còn một con
đường chết. Đó chính là yếu tố địa lợi không hề nhỏ giúp quân ta
chiến thắng kẻ thù
+ Rừng cây: Rừng cây đại ngàn VB không còn là những rừng phách
đổ vàng trong tiếng ve rộn rã, cũng không chỉ là những vàn mơ nở
trắng, càng không phải là khu rừng thu yên bình trong tiếng hát mà
giờ đây khi có kẻ thù đến xâm lược thì rừng cây ấy bỗng trỗi dậy
xôn xao, biết cùng nhân dân đánh giặc với hai nhiệm vụ đầy kiên
cường. Với bộ đội ta rừng như một ngôi nhà che chở, bảo vệ. Hình
ảnh thơ này khiến ta liên tưởng tới những cánh rừng xà nu bạt
ngàn, bất tận của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng, ưỡn tấm ngực
lớn ra che chở, bảo vệ cho dân làng Xô Man trong truyện ngắn
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, hay dải rừng già trên dãy
Trường Sơn đã là tấm lá chắn che giấu bộ đội trong chiến đấu, và
che mắt quân thù để miền Bắc có thể chi viện cho miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Thiên nhiên Việt Nam thật
diệu kì thay. Không chỉ có những ngọn núi, cánh rừng mà ngay cả
những dòng sông hiền hòa khi có giặc xâm lăng cũng biết cựa
mình kháng chiến:
Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
+ Sương mù: Miền núi so với miền xuôi thường thì sương mù nơi
đây sẽ dày hơn rất nhiều. Nếu chỉ căn cứ vào yếu tố thiên nhiên
này thì không thể coi đây là “địa lợi”được. Bởi cuộc chiến đấu mà
bị sương mù bao phủ là điều bất lợi. Nhưng nếu nhìn nhận kỹ thì ta
dễ dàng nhận ra hai mặt của vấn đề. Với quân ta, sống trên khu vực
này rất lâu, đã thông thạo địa hình địa vật, có thể băng rừng lội suối
và chiến đấu trong đêm rất dễ dàng. Nhưng với quân địch, đại đa
số là lính nhảy dù, không biết gì về địa hình, địa vật nên khi có
sương mù chắn tầm nhìn thì quả thực đó là trở ngại quá lớn.Nên
sương mù che quân ta mà chắn quân địch. Đó là yếu tố thuận lợi
mà thiên nhiên ban tặng cho nhân dân VB
→ Yếu tố địa lợi là một trong ba yếu tố cần thiết giúp quân ta đánh thắng kẻ thù
trong cuộc chiến không cân sức. Điều quan trọng hơn là quân dân VB đã biết
cách tận dụng khai thác và phát huy triệt để sự thuận lợi trong yếu tố tự nhiên
này làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng.
- Yếu tố nhân hòa
Yếu tố nhân hòa là điều không thể thiếu nếu cuộc kháng chiến muốn đi đến
thắng lợi. Với một dân tộc nhỏ bé như nước ta, quân tư trang lại không tối tân,
hiện đại thì sự đoàn kết, chung lòng, chung sức và ý chí quyết tâm đánh giặc
cao độ là vấn đề then chốt để chiến thắng. Và tinh thần đoàn kết, niềm tin vào
cách mạng chính là điều tác giả để cập đến ở đây. Khi “Đất trời ta cả chiến khu
một lòng”.
Lực lượng hùng hậu với tinh thần chiến đấu cao độ:
+ Bộ đội: Những năm tháng kháng chiến là những tháng ngày với
không khí sôi động, khẩn trương của khung cảnh những ngày “Cả
nước ra quân, toàn dân là lính”.Tố Hữu cũng khắc họa không khí
này trên những địa danh đã đi qua.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà…
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
+ Cụm từ chỉ thời gian “đêm đêm”: Thật đặc biệt vì tác giả không
chọn thời điểm ban ngày mà là ban đêm, với điệp từ đêm đêm, tức
là hết đêm này đến đêm khác vẫn luôn diễn ra khung cảnh khẩn
trương, sôi động như thế. Đó chính là một sự thật lịch sử, bởi trong
cuộc kháng chiến thần tốc ấy, để tiếp tế, chi viện cho chiến trường
cả về nhân lực và vật lực thì nhân dân phải hành quân cả trong
đêm. Đó là thời kì đầy khó khăn nhưng cũng không kém phần hào
hùng của dân tộc
+ Nghệ thuật sử dụng từ láy: Đêm đêm; Rầm rập; Điệp điệp; Trùng
trùng → Khiến đoạn thơ chan chứa niềm tự hào khi phản ánh khí
thế tiến công thần tốc, sôi động của quân dân trong kháng chiến,
trên khắp các nẻo đường chiến khu VB. Từ láy “rầm rập” gợi âm
thanh về sự tiến công vang vọng, hào hùng, mạnh mẽ đầy háo hức,
sôi động và nung nấu. Cội nguồn của âm thanh hào hùng ấy là sức
mạnh tấn công của quân và dân ta: Quân đi điệp điệp trùng trùng.
Từ láy điệp điệp trùng trùng giàu tính tạo hình và gợi cảm về một
đoàn quân vừa đông, vừa hùng mạnh, đầy ý chí chiến đấu quyết
bảo vệ quê hương đất nước.
+ Hình ảnh thơ lãng mạn: Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan → Có
thể nói Tố Hữu đã viết một câu thơ tuyệt hay về đoàn quân ra đi
chiến đấu, với ba hình ảnh đứng bên nhau:
+ Hình ảnh hiện thực là “mũ nan” bình thường, giản dị như
những người lính trong cuộc sống và cuộc chiến đấu hàng
ngày.
+ Hình ảnh “đầu súng” như một biểu tượng hào hùng cho cuộc
chiến đấu chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Súng đạn
thường gợi chiến tranh khốc liệt, đau thương,tang tóc, hi
sinh không ai muốn thế nhưng để bảo vệ tổ quốc, nhân dân
và chủ quyền dân tộc thì đoàn quân phải luôn nắm chắc tay
súng để diệt thù thể hiện bản lĩnh thép của dân tộc Việt
Nam: “Tuốt gươm không chịu sống quỳ”, đất nước của
“những người chưa bao giờ khuất” và con người luôn
trong thế chủ động “khi có giặc người con trai ra trận,
người con gái trở về nuôi cái cùng con”
+ Hình ảnh lãng mạn, thơ mộng vô cùng là “ánh sao”. Một
hình ảnh đẹp lung linh, lấp lánh trên vũ trụ, vì tinh tú của đất
trời lại đứng cạnh đầu súng và mũ nan vừa có tác dụng tôn
lên tư thế người chiến sĩ như đang bay lên vũ trụ thể hiện sự
lãng mạn, thơ mộng trong tâm hồn lại vừa thể hiện khát
vọng hòa bình, tự do. Chính vì vậy hình ảnh người lính trong
câu thơ này trở thành một biểu tượng đẹp hoàn mỹ.
Lực lượng dân công tiếp viện
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
+ Dân công: là lực lượng không thể thiếu trong cuộc kháng chiến,
đặc biệt với địa hình đồi núi như chiến khu VB thì lại càng cần
thiết. Họ là những anh chị thanh niên xung phong mở đường, hết
ngày lại đến đêm, trên những chặng đường thấm đầy mồ hôi nước
mắt, thậm chí xác người lấp trên cả những dải đường chiến trận.
Thế nên mới có những hình ảnh thơ với “Người lính chèn lưng cứu
pháo, lấy thân mình lấp lỗ châu mai”. Dân công còn là lưc lượng
tiếp viện sức người, sức của cho chiến trường.
+ Bút pháp tả thực và lãng mạn:
+ Hình ảnh đoàn dân công bước đi trong đêm với những ngọn
đuốc tre rực sáng trên tay và muôn tàn lửa nhỏ tung bay trải
khắp chặng đường hiện lên trong câu thơ vừa thật lại vừa
lung linh, hư ảo. Câu thơ mang đậm tính sử thi ca ngợi tập
thể nhân dân hào hùng, xung phong đi phục vụ kháng chiến.
Một không khí lịch sử của dân tộc với những ngày “cả nước
ra quân, toàn dân là lính”.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
+ Nghệ thuật nói quá: Tố Hữu đã cường điệu, phóng đại trên
những hình ảnh thực là dân công bước chân trên những dải
đường đầy chông gai, đá sỏi để ra tiền tuyến.Nhưng để làm
toát lên được tinh thần, khí thế của nhân dân tác giả như thấy
bước chân ấy hùng hổ, dũng mãnh mỗi bước đi có thể làm
nát đá dưới chân người. Hào hùng đâu kém hình ảnh thơ
trong bài Lên Tây Bắc:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
Thiên nhiên khắc nghiệt nhưng sẽ phải khuất phục trước tinh
thần chiến đấu đang lên cao ngùn ngụt của quân ta. Bước
chân hào hùng ấy khiến ta cũng nhớ đến bước chân thần tốc
của Tây Sơn Nguyễn Huệ, đầy dứt khoát và mạnh mẽ
+ Hình ảnh lãng mạn: Trong hiện thực hào hùng, khốc liệt ấy
hình ảnh “muôn tàn lửa bay” không chỉ là hình ảnh thực mà
đó còn là nguồn sức mạnh cổ vũ, động viên tinh thần, giúp
họ có thêm sức mạnh và động lực trong cuộc chiến đấu
chống quân thù. Ánh lửa đuốc cháy sáng trong đêm chính là
ánh sáng của chân lý cách mạng, của niềm tin vào chính
nghĩa trong cuộc chiến không cân sức giữa ta và địch.
+ Nghệ thuật tương phản, đối lập: Hai câu thơ với bút pháp chủ đạo là
nghệ thuật tương phản, đối lập đã cho ta cái nhìn toàn diện về cuộc kháng chiến
của dân tộc.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
+ Hình ảnh thơ vừa mang nghĩa tả thực và nghĩa biểu trưng:
Hiện thực mà tác giả khắc họa là cuộc chiến đấu của nhân
dân, bộ đội rất gian khổ, bí mật thường phải chiến đấu trong
đêm tối nên cần đốt đuốc, soi đèn. Nhưng đồng thời nó cũng
mang ý nghĩa biểu tượng thông qua nghệ thuật tương phản,
đối lập.
+ Thời kỳ nô lệ tăm tối: Cụm từ thời gian “nghìn đêm” như
quay lại cả một thời kì dài đất nước ta chìm trong ách nô lệ,
tăm tối, hết nghìn năm Bắc thuộc lại Pháp thuộc. Thế nên
nhà thơ mới miêu tả bằng hình ảnh “thăm thẳm sương dày”,
để thấy cái hun hút, chưa biết điểm kết của cuộc chiến, đồng
thời là muôn vàn những cản trở,thử thách, khó khăn như
màn sương mù dày đặc đang bao phủ trong đêm đen.
+ Tương lai tươi sáng: Nghìn đêm qua đi để ta có “ngày mai”,
một ngày mới của chặng đường trong tương lai. Ngày mai ấy
sẽ có ánh đèn pha bật sáng cho đến khi hừng đông ló rạng,
soi đường, dẫn bước và chỉ lối nhân dân ta. Ánh sáng đó chỉ
có thể là ánh sáng của tự do, xua tan cái tăm tối, khổ đau của
đêm trường nô lệ.
→ Nghệ thuật tương phản đã thể hiện khát vọng và niềm tin cháy
bỏng của nhân dân ta vào chiến thắng của cuộc kháng chiến.
- Yếu tố thiên thời
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi
nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt
Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng
chiến, là niềm tin là hy vọng của cả dân tộc.
Hình ảnh Trung ương Chính phủ
+ Hiện lên thật tươi sáng: Khi quyết định rời thủ đô HN, thực hiện kế hoạch
vườn không nhà trống thì đồng thời cơ quan đầu não của TƯ đảng và
chính phủ kháng chiến cũng di chuyển lên chiến khu VB nên mới có
khung cảnh:
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần trong câu thơ sáu tiếng
như nốt luyến láy đầy vấn vương. “Ai” là người đi, đồng thời cũng
là nhân dân VB, nên câu hỏi ấy như nỗi niềm băn khoăn, tha thiết
của cả quân và dân khi nhớ về những tháng ngày nơi thủ đô gió
ngàn
+ Hình ảnh ngọn cờ đỏ sao vàng: Khi thành lập đội VN tuyên truyền
GPQ cũng là lúc lá cờ đỏ sao vàng được lấy làm quốc kì của dân
tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên cửa hang lộng
gió, phải chăng đó là hang Pác Bó, nơi lãnh tụ HCM kính yêu của
chúng ta sống và làm việc. Hình ảnh này không chỉ mang ýn ghĩa
tả thực mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho tinh thần, ý chí
quyết tâm cao độ trong cuộc kháng chiến của quân và dân ta và
niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
+ Ánh nắng mặt trời rực rỡ: Khung cảnh VB nơi chiến khu hiện lên
rực sáng bởi sự xuất hiện ánh nắng chói chang của mặt trời. Hãy
nhớ lại những tháng năm dân tộc ta phải đi qua “nghìn đêm thăm
thẳm sương dày” mới hiểu hết giá trị của ánh nắng mặt trời khi
chiếu rọi đến nơi đây. Phải chăng điều nhà thơ TH muốn nói thật
giản dị:nơi nào có Đảng, có chính phủ nơi đó có ánh sáng mặt trời,
có sự sống, có độc lập tự do. Đó là chân lý mà chàng thanh niên trẻ
tuổi Nguyễn Kim Thành đã nhận ra từ tuổi đôi mươi.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
→ Tất cả khung cảnh nơi chiến khu hiện lên thật rực rỡ, làm tấm
phông nền tươi sáng cho: “Trung ương, Chính phủ luận bàn việc
công”. Có lẽ không có hình ảnh nào tuyệt mỹ hơn ánh sáng lí
tưởng cách mạng đang tỏa khắp chiến khu, ngọn gió của tự do
đang phần phật thổi trên lá cờ tổ quốc. Tất cả soi đường chỉ lối cho
những quyết định mỗi khi hạ lệnh tổng tiến công được sáng suốt để
mang lại hiệu quả cao nhất. Thời cơ cách mạng không bao giờ lộ
ra, mà đòi hỏi sự nhận định và phân tích tình hình nhạy bén và sắc
sảo, chính xác của chính phủ kháng chiến. Đó là yếu tố quan trọng
thứ ba quyết định thắng lợi của cách mạng.
Đường lối chỉ đạo chung
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
+ Tiền tuyến: Trận chiến đấu nào cũng có hai bộ phận hậu phương và tiền
tuyến. Và hai bộ phận này phải phối hợp với nhau thật nhịp nhàng. TƯ
đảng đã điều động tiền tuyến và phát động chiến dịch thu, đông trong một
sự chỉ đạo thống nhất quyết tâm: Ðiều quân chiến dịch thu đông.
+ Hậu phương: Trong khi tiền tuyến nổ súng thì cũng là lúc hậu phương
phải tập trung cao độ cho sản xuất để hoàn thành vai trò tiếp viện cho
chiến trường. “Nông thôn phát động, giao thông mở đường/Giữ đê,
phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu”. Nông
thôn phát động bao phong trào để thi đua sản xuất: ba tốt, ba đảm đang,
chị hai năm tấn…và sự chỉ đạo còn cụ thể đến cả những việc: Giữ đê,
phòng hạn, thu lương để kịp thời chi viện cho tiền tuyến.
+ Một nhân tố kết nối hậu phương, tiền tuyến chính là bộ phận dân công,
vận tải:giao thông mở đường, để đảm bảo sự thông suốt. Vậy là không
một khâu nào chính phủ bỏ qua không bao quản, đôn đốc. Vũ khí, lương
thực, sức người, sức của liên tục được đáp ứng cho chiến khu: Gửi dao
miền ngược, thêm trường các khu.
→ Sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng đã làm cho guồng máy cách mạng của quân
ta hoạt nhịp nhàng giữa tất cả các bộ phận để phát huy cao nhất tiềm lực vốn có.
Kết quả cuộc kháng chiến
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Kết quả tất yếu của trận chiến khi có sự hội tụ đủ cả ba nhân tố: thiên thời, địa
lợi,nhân hòa là thắng lợi rực rỡ. Và cứ thế tin vui thắng trận dồn dập ùa về. Các
địa danh được nhắc đến qua phép liệt kê liên tiếp như những thắng lợi. Mà có lẽ
điều này cũng được chính chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài thơ Báo tiệp của
mình.
Trăng vào cửa sổ đòi thơ,
’Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về
Niềm vui nối tiếp những niềm vui, và đặc biệt những địa danh ấy khi nhắc đến
là sự hoài niệm về những kí ức nơi chiến khu của người ra đi.
“Văn chương không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ
không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là
nơi đi tới của văn học.”
Bên cạnh đó, thi hào cho rằng cuộc sống đầy màu sắc nên nghệ thuật cũng
phong phú, đồng nghĩa với việc người nghệ sĩ cần phải sáng tạo liên tục. Quan
điểm này khá giống với tư tưởng Nam Cao, một nhà văn hiện thực tiêu biểu ở
thế kỷ XX.
“Văn chương không cần những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu
đưa cho.” – Nam Cao
Với Tố Hữu, thơ ca không chỉ là công cụ để truyền tải cảm xúc, ý tưởng mà còn
là tri âm, tri kỷ quý giá. Vì lẽ đó, từng trang thơ, từng con chữ của ông bình dị,
nhẹ nhàng mà thấm đượm tình cảm sâu sắc.
Sinh thời, Tố Hữu mong mỏi được là nhà thơ của nhân dân, “tự muốn mình là
tiếng nói của dân tộc mình” (P. Emmanuel). Ý thức sâu sắc cội nguồn sức mạnh
của dân tộc là nhân dân, sức sống của thơ nằm trong sự gắn bó với dân tộc, với
nhân dân, Tố Hữu đã sống “Đắm mình trong dân tộc mình”, gắn bó máu thịt với
nhân dân mình qua từng chặng đường lịch sử cam go và trọng đại. Nhờ biết
sống một cách tâm huyết và trách nhiệm; biết “nối cuộc đời với những đau khổ,
vui sướng, căm thù, mong ước của nhân dân mình” (Tố Hữu), biết tận lòng
“lắng nghe cuộc sống gọi từng giờ”, thơ Tố Hữu đã thực sự là “tập hành khúc
nồng nàn, đằm thắm” hòa nhịp với “cuộc sống vĩ đại, cuộc sống lao động và
đấu tranh đau khổ của muôn triệu con người làm nên lịch sử” (Tố Hữu) dưới sự
lãnh đạo của Đảng quang vinh. Và bởi thế mỗi sự kiện trọng đại trong lịch sử
của dân tộc đều để lại dấu ấn sâu đậm, đều được khúc xạ qua hồn thơ trữ tình
đằm thắm của Tố Hữu và hiện lên đầy xúc cảm trong những thi phẩm vừa có
tầm khái quát vừa ấm nóng hơi thở đời sống.
Tố Hữu đã thực sự là nhà thơ lớn của nhân dân, là “tiếng nói của dân tộc mình”.
Không ai có thể nói một cách thấm thía, xúc động, đầy yêu thương và tự hào về
dân tộc, về nhân dân mình trong thăng trầm lịch sử dựng nước, giữ nước và
dựng xây đất nước được như Tố Hữu. “Những vần thơ tươi xanh”, “những vần
thơ lửa cháy” của Tố Hữu “đã tự nhiên là sự diễn đạt sự giác ngộ của anh (Tố
Hữu) về số phận của dân tộc mình” (P. Emmanuel); là sự hội tụ, kết tinh tuyệt
diệu bản sắc Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam, tâm hồn Việt Nam và văn hóa Việt
Nam; là tài sản tinh thần quý giá của dân tộc Việt Nam.