Buổi 14 - Việt Bắc (P2)

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 59

VIỆT BẮC

[THPTQG BUỔI 14]


Người dạy: Hồng Nhung
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
Tố Hữu - Người viết biên niên sử bằng thơ
*Đôi nét chung
Tố Hữu đến với thơ và cách mạng cùng một lúc. Các chặng đường thơ của Tố
Hữu luôn song hành, gắn bó và phản ánh chân thực những chặng đường đấu
tranh cách mạng gian khổ, vinh quang của dân tộc đồng thời thể hiện sự vận
động trong tư tưởng và nghệ thuật của chính nhà thơ.
Tố Hữu đã thấm nhuần quan điểm “văn dĩ tải đạo”, tức thơ ca phải phục vụ các
nhiệm vụ chính trị của cách mạng, chứ không phải chỉ bày tỏ cái tôi cá nhân
một cách riêng tư, không gắn với vận mệnh đất nước. Ông quan niệm: “Muốn
có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng
phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn,
cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người
nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân”.
Dù đến khoảng thời gian “gần đất xa trời”, Tố Hữu vẫn giữ quan niệm:
“Thuyền có vượt sóng không nghiêng ngả
Nghĩa lớn xuôi dòng lộng ước mơ
Mới nửa đường thôi, còn bước tiếp
Trăm năm duyên kiếp Đảng và Thơ”
*Sự nghiệp văn học
- Nhà thơ “cách mệnh có tài” - “nhà thơ của tương lai”:
+ Những bài thơ đầu tiên của ông ngay khi xuất hiện trên thi đàn đã đem
đến một tiếng nói mới, một không khí mới cho đời sống tư tưởng và văn
học của xã hội đương thời, hấp dẫn và tạo được ảnh hưởng rộng lớn. Cả
một lớp người đang hoang mang sau những trận khủng bố trắng, đang
chìm đắm “giữa bao nhiêu ngọn cờ sai lạc” khi ấy đã tìm thấy ở thơ Tố
Hữu một niềm tin, một “lẽ sống” đúng đắn. Những “bạn trẻ” đang “Băn
khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, đang “Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng
nước/ Chọn một dòng hay để nước trôi?”, đã tìm thấy ở thơ Tố Hữu một
“hướng đời”, một lý tưởng sống, một sự lựa chọn duy nhất đúng đắn: “Đã
vay dòng máu thơm thiên cổ/ Phải trả ta cho mạch giống nòi...”. Cả một
thế hệ nhà thơ đang còn “loay hoay”, “tìm đường”, “chọn đường” tìm
thấy từ thơ Tố Hữu một con đường cho nhà thơ và một phẩm chất thẩm
mĩ mới cho thơ.
- Tố Hữu đã “khắc họa lịch sử” bằng thơ ca:
+ Thơ Tố Hữu là một pho sử thi rộng lớn về đất nước Việt Nam trong hai
cuộc kháng chiến vĩ đại và công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh.
+ Mọi sự kiện của đất nước đều trở thành sự kiện của tâm hồn ông, kết
đọng trong những trang thơ, vừa lay động vừa khái quát. Đó là một kỳ
tích mà không một thi sĩ nào cùng thời có thể đạt được, không một thi sĩ
nào có khả năng bao quát cục diện đất nước với cái nhìn toàn cảnh rộng
lớn và sâu sắc bằng Tố Hữu.
+ Với Tố Hữu, sông núi đã hóa thành văn, biết bao tên đất, tên người đã trở
thành bất tử. Thơ Tố Hữu là biên niên sử tâm hồn của một nhà thơ lớn.
Trong thơ ông, Tổ quốc và nhân dân hòa làm một.
*Phong cách nghệ thuật
Với một sự nghiệp thơ phong phú, đồ sộ, Tố Hữu đã định hình cho mình một
phong cách riêng: "Sống là hành động, thơ cũng hành động. Với Tố Hữu thơ là
hình thức tươi đẹp của hoạt động cách mạng, của sự sống" (Đặng Thai Mai) –>
Đó là bí quyết thành công của thơ Tố Hữu và đó cùng là cội nguồn sâu xa tạo
nên phong cách đặc sắc trong thơ Tố Hữu.
➢ Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị, đó là nguyên nhân của khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn rất đậm nét trong thơ ông.
○ Thơ mang khuynh hướng sử thi, chủ yếu đề cập đến những vấn đề
có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân. Cái "Tôi" trữ tình trong
thơ Tố Hữu từ buổi đầu là cái "tôi" chiến sĩ, rồi đến cái "tôi" công
dân, về sau là cái "tôi" nhân dân, dân tộc, cách mạng.
○ Cảm hứng của Tố Hữu là cảm hứng lịch sử dân tộc chứ không phải
là cảm hứng thế sự, đời tư. Nổi bật lên trong thơ Tố Hữu là vấn đề
vận mệnh dân tộc, cộng đồng chứ không phải vấn đề số phận cá
nhân. Nói đúng hơn số phận cá nhân hòa vào số phận dân tộc, cộng
đồng.
○ Thơ Tố Hữu dạt dào cảm hứng lãng mạn, hướng về lý tưởng cộng
sản và tương lai xã hội chủ nghĩa.
+ Thơ Tố Hữu còn có giọng điệu rất dễ nhận ra đó là giọng
điệu tâm tình, là tiếng nói của tình thương mến.
+ Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng, chứ không phải thơ tình yêu.
Nhưng thơ anh là thơ của một tình nhân, anh nói các vấn đề
bằng trái tim của một người say đắm. Cái sức mạnh lớn nhất
của Tố Hữu là quả tim anh (Chế Lan Viên). Giọng tâm tình,
tiếng nói yêu thương có liên quan đến chất Huế của hồn thơ
Tố Hữu, nhưng chủ yếu là do quan hệ giữa nhà thơ và bạn
đọc, do quan niệm của Tố Hữu về thơ "Thơ là tiếng nói
đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí".
➢ Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc, thể hiện ở thế giới bình tượng, phong
cảnh quê hương, đất nước thân thuộc, ở hình ảnh con người rất đỗi Việt
Nam. Tính dân tộc còn thể hiện trong thể thơ mà Tố Hữu thường lựa
chọn: Lục bát.
○ Về nội dung, hiện thực của đời sống cách mạng, những tình cảm
chính trị, đạo lí cách mạng qua cảm nhận của Tố Hữu đã hòa nhập,
gắn bó với truyền thống tinh thần, tình cảm, đạo lí của dân tộc và
làm phong phú hơn truyền thống ấy.
○ Về nghệ thuật, thơ Tố Hữu nghiêng về tính truyền thống hơn là
khuynh hướng hiện đại, đổi mới. Tố Hữu đặc biệt thành công trong
các thể thơ dân tộc. Thơ ông thường xuất hiện những ngôn từ giản
dị, những thi liệu truyền thống.
2. Tác phẩm
“Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở
trong tôi” (Tố Hữu)
- Việt Bắc được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng, về cuộc
kháng chiến và con người kháng chiến.
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của cách mạng Việt Nam từ đầu những
năm 40 tới khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây, người
dân Việt Bắc đã từng che chở, đùm bọc và đã sát cánh bên bộ đội, cán bộ
kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
+ Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, các cơ quan Trung ương của
Đảng và Chính phủ từ biệt căn cứ địa cách mạng Việt Bắc trở về Hà Nội.
Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hòa bình,
từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng
đồng cam cộng khổ, với những người đã từng “chia ngọt sẻ bùi”. Người
ra đi không khỏi bâng khuâng thương nhớ; người ở lại cũng không khỏi
bịn rịn, trống trải, bùi ngùi…Nhân sự kiện lịch sử trọng đại ấy của dân
tộc, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc.
+ Bài thơ gồm có hai phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm của cách mạng
và kháng chiến ở Việt Bắc; phần sau gợi ra viễn cảnh tươi sáng của đất
nước và ca ngợi công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc.
- Kết cấu bài thơ:
+ Diễn biến tâm trạng của tác giả được phân thân vào hai tuyến nhân vật trữ
tình: Người đi - Kẻ ở. Một bên cất lên lời hỏi thì một bên đáp lại khiến
người đọc nhớ đến lối đối đáp giao duyên trong ca dao - dân ca. Hỏi và
đáp đều mở ra bao nhiêu kỷ niệm về cách mạng và kháng chiến gian khổ
mà anh hùng, bằng cả nỗi nhớ thương.Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn
bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ,
của những người tham gia kháng chiến.
+ Cách xưng hô “ta” – “mình” gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn
trong ca dao, dân ca, khiến cho cuộc chia tay giữa hai tập thể người như
một cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn, vấn vương, thương nhớ như đôi
lứa yêu nhau. Lời hỏi đáp như lời thủ thỉ ân tình cứ ngọt ngào thấm sâu
vào lòng kẻ ở người đi.
II. Tìm hiểu văn bản
1. Nỗi niềm người đi, kẻ ở trong một cuộc chia tay lưu luyến nhớ thương
(24 câu đầu).
1.1. Bốn câu thơ đầu - niềm trăn trở nhớ thương của người ở lại với người ra
đi.
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Cấu tứ thơ đối đáp giao duyên. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ
thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ", từ cảm xúc mãnh liệt của trái tim mà
thức nhận những chân lý sống, chân lý cách mạng. Với ý tưởng trữ tình hoá sự
kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết "Việt Bắc", Tố Hữu
đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo - khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay
giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm về những ngày kháng
chiến gian khổ mà vẻ vang, rồi từ những kỉ niệm kia mà dựng lại quá trình
trưởng thành của cuộc kháng chiến, dựng lên hình ảnh của nhân dân, của những
người chiến sĩ, hình ảnh của Bác, của Đảng.
Lối đối đáp mình - ta. Mình và ta là những đại từ nhân xưng quen thuộc trong
ca dao xưa, là cách xưng hô bình dị, thương mến vô cùng của tình yêu đôi lứa:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Hay:
Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng
Rồi:
Mình về ta dặn câu này
Thương ta thì chớ đứng ngồi với ai
→ Mượn một hình thức ngôn từ quen thuộc của văn hóa dân gian để gửi gắm
những nội dung tình cảm lớn lao của thời đại mới; những câu ca ngọt ngào của
tình yêu đã trở thành câu hỏi xao xuyến của nghĩa tình cách mạng; thể hiện nỗi
nhớ nhung của người ở lại với người về xuôi.
Ân tình người ở lại nhắn người ra đi trong 2 câu đầu: Trong cuộc tiễn đưa
đầy lưu luyến, bịn rịn của Việt Bắc đối với người về xuôi,khúc hát chia tay đã
được bắt đầu cất lên từ chính lòng người ở lại. Tố Hữu như muốn nói lòng
người Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng biết nhường nào.
- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
- Điệp từ “mình”: Ngay từ câu thơ mở đầu, trong 6 tiếng đã có tới 2 tiếng
"mình" thân thương. Sự trở đi trở lại tiếng gọi đối với "mình" như để nói lòng
người Việt Bắc không nguôi nhớ người về xuôi, nhưng lại cũng như xoáy sâu
vào ký ức của người về xuôi những kỉ niệm chan chứa nghĩa tình.
- Cụm từ “mình về”: Như khẳng định một sự thật phũ phàng. Mình đã về thật,
và giờ đây chỉ còn lại mình ta. Sự chia ly bao giờ chẳng phũ phàng:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say..
.(Tống biệt hành – Thâm Tâm)
- Cách xếp đặt hai từ “mình” và “ta” trong câu thơ:
+ Từ “mình” đặt ở đầu thơ nhưng từ “ta” lại xếp mãi cuối câu như mở rộng
không gian biệt ly xa cách mình và ta trong phút chia xa.
+ Giữa khoảng cách vời vợi của ta và mình vang vọng một câu hỏi tu từ
xoáy sâu vào lòng cả kẻ ở lẫn người đi “có nhớ”. Người đọc liên tưởng
đến câu hát ngọt ngào của bài “Ở hai đầu nỗi nhớ”: “Ở hai đầu nỗi nhớ,
yêu và thương sâu hơn. Ở hai đầu nỗi nhớ, nghĩa tình đằm thắm hơn”.
- Cụm từ chỉ thời gian 15 năm:
+ 15 năm không phải là một khoảng thời gian dài nhưng với một đời người
là điều đáng nói. Đặc biệt với những người xa lạ, sống gắn bó cùng nhau
15 năm là một điều cần khắc cốt ghi tâm bởi những vòm ký ức đầy ắp ân
tình. Bởi theo quan niệm sống của người phương Đông nói chung và lối
sống duy tình của người Việt nói riêng mà các cụ ta vẫn răn dạy “một
ngày nên nghĩa, chuyến đò nên quen” thì 15 năm quá đủ để gắn bó sâu
nặng.
+ “Mười lăm năm ấy” gợi đến “cái thuở ban đầu” trong lời thơ của Lưu
Trọng Lư:
“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm hồ dễ đã ai quên”
Người về làm sao có thể quên được mối tình đầu giữa cách mạng và Việt
Bắc. Cùng với sự khơi gợi những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, những tình cảm
"nghìn năm hồ dễ đã ai quên". 15 năm là khoảng thời gian chủ tịch Hồ Chí
Minh thân yêu của chúng ta trở về tổ quốc sau 30 năm bôn ba, mà nhà thơ Tố
Hữu còn ghi lại trong một hình ảnh thơ đẹp đẽ và trong trẻo đến vô cùng:
“Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Khi về nước Người đã bắt tay vào xây dựng khu căn cứ địa cách mạng tại
chiến khu Việt Bắc để làm thủ đô kháng chiến của dân tộc. Cán bộ cách mạng
và nhân dân Việt Bắc cứ thế đã cùng sống, cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu, gắn
bó khăng khít và làm nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc “vang dội năm châu,
chấn động địa cầu” năm 1954 đáng nhớ. Và rồi là một cuộc chia tay lịch sử.
Ân tình người ở lại nhắn gửi người ra đi (2 câu sau)
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi,vẫn là một cách
xưng hô đầy tình tứ "mình" với "ta", nhưng ở 2 dòng thơ tiếp theo lại là câu hỏi
bao trùm cả không gian của cuộc chia tay, không gian của những kỉ niệm qua
suốt 15 năm ấy, không gian của cả đất nước, bao trùm cả miền ngược lẫn miền
xuôi, không gian của cây với núi, của sông với nguồn. Một câu hỏi làm bâng
khuâng cả đất trời trong buổi chia ly. Dường như ở đâu trong cái thời điểm ấy
sự hoà hợp giữa niềm vui và nỗi nhớ, vì sự chia tay giữa "mình" với "ta" là một
sự kiện lớn lao trong đời sống của đất nước.
- Hình ảnh thơ:
+ Mượn hình ảnh trong ca dao, đọc thơ dễ dàng liên tưởng đến những câu
ca dao như:
"Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Hay:
“Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu"
→ Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị mà vẫn thấm cái hồn của
ca dao, dân ca. Điều đó đã làm mềm hóa câu thơ, làm ngọt ngào thêm cho tình ý
+ Hình ảnh “cây, núi”, “sông, nguồn”: Người đọc như được trở về
không gian nơi núi rừng Việt Bắc. Nhưng cái tài của Tố Hữu là chỉ bằng những
hình ảnh thơ tưởng như vô cùng giản dị mà đã vẽ được cả không gian hiện tại
và tương lai, cả miền xuôi lẫn miền ngược và của cả kẻ ở lẫn người đi. Một
không gian mênh mang, bao trùm và trải dài miên man theo ân tình cách mạng.
Đồng thời cũng nhắn nhủ người đi: có về miền xuôi rồi thì nhìn sông hãy nhớ
suối nguồn, nhìn cây thì nhớ núi rừng chiến khu. → Nhìn cây, nhìn sông là
những hình ảnh nhắc tới một thực tế chắc chắn trong tương lai khi người kháng
chiến đã về xuôi, đã sống với quê hương, với đồng bằng, vì thế cũng có thể coi
là ước lệ cho việc trở về của người kháng chiến với chốn đô hội phồn hoa; còn
nhớ núi, nhớ nguồn là để tâm hồn trở về với quá khứ, với Việt Bắc, điều này có
xảy ra hay không còn tùy thuộc vào sự thủy chung của người ra đi. Câu thơ thể
hiện mối tương quan giữa thực tế và mong đợi khiến những vế câu như tiềm ẩn
một chữ có trăn trở: nhìn cây có nhớ núi, nhìn sông có nhớ nguồn, về xuôi rồi
có còn nhớ Việt Bắc…?
⇒ 4 câu thơ như một bài ca dao, chất trữ tình gắn liền với những băn khoăn,trăn
trở của người ở lại, của Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn
được cách nói để khơi nguồn cho cảm xúc, mạch thơ trong những câu mở đầu
này cứ thế tuôn chảy suốt bài thơ.
1.2. Bốn câu tiếp - lời của người ra đi.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Đại từ phiếm chỉ “ai”.
- Sự vay mượn trong ca dao: Trong ca dao đại từ phiếm chỉ “ai” được sử dụng
với mật độ dày đặc và mang một màu sắc của tình yêu nhưng sâu lắng thiết tha
mà không tiện nói ra:
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai
Hay:
Buồn trông chênh chếch sao Mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ
Buồn trông con nhện chăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?
→ Khi Tố Hữu sử dụng phiếm từ “ai” tạo nốt nhấn trong dòng thơ, để khắc sâu
hình ảnh của người đi trong lòng người ở lại. Người dân Việt Bắc hãy nhớ về
người ra đi như nhớ một người tình trong mộng không thể chung lối, chung
đường. Chính vì thế nỗi nhớ ấy bâng khuâng, da diết biết bao.
- Nằm trong mạch cảm xúc như của tiếng hát giữa đôi lứa yêu nhau, Tố Hữu
buông một câu thơ rất tình tứ: "Tiếng ai tha thiết bên cồn". Chỉ một chữ "ai"
thôi đủ làm say đắm lòng người. Chữ "ai" đâu phải để hỏi vì muốn biết ai; chữ
"ai" đâu cũng còn là đại từ phiếm chỉ để chỉ chung, chỉ một đối tượng không
xác định bởi ở đây cả "ta" lẫn "mình" đang lên tiếng hát cho cuộc chia tay đầy
lưu luyến này. Chữ "ai" chỉ là một cách nói để làm tăng thêm tình cảm yêu
thương, để câu nói trở nên tình tứ mà thôi.
Từ láy “tha thiết”. Lời người đi đáp lại nỗi băn khoăn của người ở, từ láy
“thiết tha” của câu thơ trên hô ứng với từ láy “tha thiết” trong câu thơ này. Như
một lời khẳng định keo sơn: tình cảm của người ở lại dành cho người ra đi thiết
tha bao nhiêu thì người ra đi cũng trào dâng niềm tha thiết bấy nhiêu. Cho nên
tình cảm đã sâu sắc lại thêm mặn nồng.
Từ láy “bâng khuâng” - “bồn chồn”.
+ “Bâng khuâng”: chính là nỗi niềm thương nhớ đối với cảnh, đối với
người, đối với cuộc sống đã trở thành kỷ niệm của những ngày kháng
chiến, những kỉ niệm còn vương vấn, còn dâng đầy trong tâm trí người về
xuôi. Bước chân về xuôi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương với Việt
Bắc với nỗi buồn chia xa, với những nuối tiếc không thể giữ lại.
+ “Bồn chồn”: là một từ đã tâm trạng hóa bước đi của người về xuôi, những
bước đi không nỡ rời mảnh đất yêu thương qua 15 năm ấy. Mỗi bước đi
mỗi bước nhớ nhung, mỗi bước đi mỗi bước không yên bởi nỗi niềm
thương nhớ.
→ Người về xuôi trong nỗi niềm xúc động như mở rộng tâm hồn, mở
rộng nỗi lòng của mình để đón nhận cái thiết tha của những tình cảm thuỷ
chung kia, để rồi bày tỏ tình cảm của mình. Đó là trạng thái "bâng khuâng
trong dạ, bồn chồn bước đi". Những chữ "bâng khuâng", "bồn chồn" diễn
tả rất chính xác trạng thái tình cảm của người về xuôi.
Nghệ thuật đối: Cái vô hình của cảm xúc “bâng khuâng trong dạ” được hiện
hình rõ nét qua bước chân đi đầy những “bồn chồn”. Nội tâm thể hiện qua hành
động, tâm tư bộc lộ qua sự nuối tiếc trong những bước đi như một sự đồng nhất
để thể hiện chính xác và đầy đủ những trăn trở của người đi - kẻ ở trong buổi
chia tay nơi núi rừng Việt Bắc.
→ Việc sử dụng nghệ thuật đối cùng từ láy trong những dòng thơ đã cho thấy
sự lưu luyến, bịn rịn chứa chan cảm xúc. Những tình cảm ấy như ngàn sợi tơ
vương vấn khiến người đi như không cất nổi bước chân. Tình cảm chân thành
đã đủ sức nặng kéo chậm lại giây phút chia ly.
Hình ảnh áo chàm
- Nghệ thuật hoán dụ: Người dân Việt Bắc thường mặc áo chàm, một loại vải do
người dân tự dệt, tự nhuộm. Nên màu áo này chính là biểu tượng riêng, đặc
trưng cho người dân Việt Bắc.
- Hình ảnh của cả nhân dân Việt Bắc: Với câu thơ thứ 3 ở khổ thơ này, Tố Hữu
đã bất ngờ làm hiện ra ý nghĩa lịch sử của cuộc chia tay. Bởi với những dòng
thơ mở đầu trước đó, tiếng hát đối đáp như chỉ của "mình" với "ta", của đôi lứa
yêu nhau, đột nhiên cuộc chia tay ấy trở thành cuộc chia tay lớn của cả Việt Bắc
đối với người kháng chiến từ một hình ảnh hoán dụ: "Áo chàm đưa buổi phân
ly", khiến cả Việt Bắc như "ngẩn ngơ" trong cuộc chia tay lịch sử ấy.
- Sự ẩn ý trong màu áo chàm: màu chàm là một màu rất bền chắc, không
nhạt,không phai. Thế nên ca dao mới có câu thơ:
Bàn tay đã trót nhúng chàm
Không xanh cũng nhuộm cho cam sự đời
Nên khi viết hình ảnh màu áo chàm phải chăng người đi khẳng định lại một lần
nữa tình cảm của người đi dành cho Việt Bắc như màu chàm bền chắc, son sắc
mãi mãi không phai mờ. Cái "ngẩn ngơ" của Việt Bắc hiện ra ở những chữ "đưa
buổi phân li" đầy day dứt, nhớ thương không nỡ xa rời.
1.3. Những nỗi niềm băn khoăn trăn trở của người ở lại tiếp tục thể hiện
trong 6 câu hỏi của đoạn thơ tiếp theo.
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Nếu hai câu hỏi ở phần đầu mới chỉ gợi ra hình ảnh khái quát của quá khứ mười
lăm năm ấy với những gắn bó thiết tha, của chiến khu Việt Bắc với núi với
nguồn thân thuộc thì những câu hỏi trong đoạn thơ trong đoạn thơ sau đã hướng
tới những kỉ niệm thật cụ thể, xúc động. Đoạn thơ gồm sáu câu hỏi của người ở
lại với người ra đi, những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng khi
giờ phút chia tay đang đến gần. Sự đắp đổi nhịp nhàng trong điệp ngữ ở các câu
sáu mình đi có nhớ… mình về có nhớ…, sự đăng đối trong hai vế của các câu
tám với nhịp 4/4, đó là những yếu tố tạo nên nhạc điệu ngân nga, dìu dặt ngọt
ngào cho đoạn thơ. Nhịp điệu trữ tình ấy đã góp phần thể hiện tinh tế nỗi vấn
vương xao xuyến giăng mắc trong lòng kẻ ở lẫn người đi để từ đó, quá khứ đầy
ắp kỷ niệm ào ạt trở về.
*Điểm nổi bật của những câu thơ 6 tiếng:
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mình về, có nhớ chiến khu
Mình về, rừng núi nhớ ai
Mình đi, có nhớ những nhà
Mình về, còn nhớ núi non
Cách sử dụng từ “Mình”: Mỗi câu 6 lại hướng tới "mình", những chữ "mình"
tiếp nối nhau như một điệp khúc của tình cảm. Với từ “mình” giữa người ở và
người đi dường như không còn khoảng cách, không phải là hai chủ thể, hai đấy
mà như một, mình là ta và ta cũng như mình. Nếu vậy ta mới thấy hết cái nhớ
thương, lưu luyện đến vô cùng của những con người đang đứng trong cuộc chia
tay này. Có khác nào:
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi hóa dại khờ
Khi cuộc chia tay diễn ra cũng là lúc nỗi lòng người ở lại trào dâng sự trống
vắng, hẫng hụt, nên tiếng lòng cứ bật lên gọi mãi, gọi hoài, gọi rồi nhưng vẫn
chưa thỏa nên cứ đòi thương, đòi nhớ, đòi yêu qua điệp từ “mình” đầy thiết tha,
sâu lắng.
Sử dụng hai từ “về” và “đi”:
Ở trong văn cảnh câu thơ thì về cũng là đi, đi cũng là về. Điều này đã làm nên
sự thay đổi kì diệu trong ý nghĩa của ngôn từ và trong cuộc chia tay. Nếu người
ra đi mà thực, thì sự trống trải, hẫng hụt trong lòng người ở lại sẽ mênh mông
nhường nào? Nhưng nếu hiểu đi cũng là về thì sự trở lại, đoàn tụ, sum họp sẽ
ấm áp biết bao? Đó là sự an ủi cho cả người ở và người đi trong cuộc chia ly
này.
Đi mà là về cũng như một sự ẩn ý đầy sâu xa. 15 năm trước ai đã là người dân
Việt Nam hẳn còn nhớ cuộc chia tay vĩ đại của người dân Hà Thành với thủ đô
yêu dấu,thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống để đối phó với Thực dân
Pháp mà nhà thơ Chính Hữu đã ghi lại trong bài thơ Ngày về:
Nhớ đêm ra đi đất trời như bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Ngày ra đi đau đớn biết bao thì nay ngày trở về lại hát vang khúc ca khải hoàn.
Ta đã chiến thắng, trở về tiếp quản thủ đô, lấy lại những gì ta đã tạm quên suốt
15 năm kháng chiến. Niềm hân hoan ấy hạnh phúc và viên mãn đến nhường
nào. Cách sử dụng ngôn từ thật tài tình Tố Hữu đã làm giảm chất sầu bi trong
cuộc chia tay, đồng thời còn mở ra trong lòng những con người cách mạng,
kháng chiến một niềm tin, niềm vui mới.
Sử dụng câu hỏi tu từ “có nhớ”:
Chữ "mình", chữ "đi" bao giờ cũng kèm với chữ "nhớ", mới thấy người ở lại lưu
luyến kẻ về xuôi biết bao. Xuất hiện dưới hình thức một câu hỏi tu từ như một
lời khẳng định cảm xúc nhớ thương, da diết, cháy bỏng và nỗi niềm nhạy cảm
về sự trống vắng, buồn hiu quạnh, hoang sơ nơi núi rừng khi cán bộ cách mạng
và bộ đội đã về xuôi nên người ở lại cứ đòi thương, đòi nhớ, đòi yêu và tự cho
mình quyền nhắc nhở người ra đi phải luôn nhớ về những kỉ niệm đẹp dù đầy
gian khổ đau thương nhưng cũng không kém phần hào hùng, đằm thắm mà ta và
mình đã cùng nhau xây đắp suốt 15 năm.
Sử dụng những cụm từ gợi nhắc kỷ niệm:
Người ở lại nhắc đến “những ngày” của 15 năm kháng chiến ta và mình đã gắn
bó, đồng cam cộng khổ cùng xây dựng chiến khu VB, cùng nhau làm nên cuộc
cách mạng thắng lợi;
Hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là một nét vẽ hiện thực
trong bức tranh về thiên nhiên Việt Bắc. Những khó khăn, khắc nghiệt của
mảnh đất núi rừng nơi đây: Mây phủ quanh năm và sương mù giăng mắc. Dù
khó khăn đấy nhưng cũng làm nên sự mênh manh hư ảo trong dòng hoài niệm
về VB mỗi khi người ra đi nhớ lại khung cảnh nơi đây.
Hình ảnh “chiến khu”: Nơi Bác Hồ thân yêu của chúng ta đã chọn để xây dựng
căn cứ địa cách mạng bao gồm 6 tỉnh độc lập: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái
Nguyên,Tuyên Quang, Hà giang, Lạng Sơn. Nơi ấy trong 15 năm cách mạng
chính là thủ đô thứ hai, căn cứ đầu não chứa toàn bộ cơ quan trung ương của
Đảng, chính quyền cách mạng, nơi gắn kết nhân dân và cán bộ cách mạng, nơi
tình quân dân thể hiện thắm thiết nhất.
Hình ảnh “rừng núi”: Không gian Việt Bắc với những cánh rừng già đại ngàn
hiện lên trong kí ức của người về xuôi. Những cánh rừng làm nên lịch sử vẻ
vang của dân tộc bởi “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” nên thử hỏi làm sao
người ra đi không nhớ không thương.
Hình ảnh những ngôi nhà thân thương, đơn sơ nhưng thắm đượm ân tình đã
nuôi dưỡng che giấu cán bộ, bộ đội.
Không gian “núi non” trập trùng nơi chiến khu Việt Bắc cũng là một hình ảnh
khắc ghi trong tiềm thức của người ra đi.
Câu thơ 6 đặc biệt nhất đoạn thơ
Sự thay đổi trong ý nghĩa từ “mình”:
"Mình đi mình có nhớ mình"
Một câu thơ sáu tiếng mà tác giả sử dụng đến 3 từ mình, điều mà chúng ta chưa
hề gặp trong ca dao. Nhưng điều đáng nói hơn là từ “mình” ở đây lại biến ảo vô
cùng về ý và tình. Nếu như người đọc băn khoăn liệu cả 3 từ mình này có chung
một ý nghĩa hay không? Đi tìm đáp số cho câu trả lời trên chúng ta sẽ cùng giả
thiết những nội hàm khái niệm của nó.
Từ mình đầu tiên và thứ hai lại một lần nữa vang lên để khẳng định sự thật là
người đi đã đi rồi, đã chia tay nhân dân Việt Bắc về xuôi.
Đến từ mình thứ ba thì ý nghĩa đã có sự thay đổi. Chúng ta có thể hiểu mình ở
đây là người ở lại nhưng đồng thời cũng là người ra đi: Người ở lại nhắn nhủ
nhẹ nhàng: mình có đi, có về xuôi liệu còn nhớ nhân dân Việt Bắc đã gắn bó ân
tình bao ngày tháng, cũng là lời nhắc khéo mình có về thủ đô, chốn phồn hoa đô
hội thì cũng đừng quên những ngày tháng gian khổ nơi chiến khu mà mình đã
gồng mình, quân và dân cùng gánh vác nhiệm vụ của cuộc kháng chiến, kỉ niệm
đó của mình luôn hiển hiện hình bóng ta, nhớ đến mình là cùng nhớ về ta trong
năm tháng đó. Mà như chính nhà thơ đã nói rõ ý tình trong một cặp lục bát ở
phần thứ hai của bài thơ:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng
→ Nếu hiểu theo hai ý trên thì từ mình đã có sự biến ảo về ý nghĩa: Mình cũng
là ta, ta cũng như mình, mình và ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai.
Và người đọc thấy được sự gắn bó keo sơn, thủy chung son sắt, trước sau như
một của ta với mình, dẫu có xa mặt mà không cách lòng.
Nghệ thuật điệp
Từ mình được điệp lại ba lần trong một câu thơ 6 tiếng cho thấy nỗi nhớ của
nhân dân Việt Bắc, những người ở lại với người ra đi như trào dâng như những
lớp sóng lòng, khôn nguôi. Biết mình đi nhưng vẫn nhắc, vẫn nhớ, vẫn bật lên
những tiếng gọi lưu luyến, bịn rịn, nhớ thương. → Một lần nữa khẳng định tình
cảm keo sơn giữa hai thập thể người, quấn quýt không rời.

Điểm nổi bật của những câu thơ 8 tiếng:


Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Nếu những câu thơ 6 tiếng có cấu trúc lặp lại tương tự nhau như lời nhắn nhủ
của người ở lại với người ra đi, hỏi đấy nhưng đâu cần câu trả lời. Thì những
câu thơ 8 tiếng đủ sức nặng để trải lòng, để người ở lại nhắc về những kỉ niệm
mà ta với mình đã gắn bó suốt 15 năm. Đó cũng là bức tranh tái hiện chân thực
cuộc sống, chiến đấu của quân dân VB trong cuộc kháng chiến chống Pháp của
dân tộc.
Những câu thơ 8 tiếng có kết cấu nhịp rất giống nhau: 4/4 đều đặn tạo âm
hưởng hài hòa, réo rắt, du dương như tiếng lòng bâng khuâng tha thiết của
người ở lại với người ra đi.
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Thiên nhiên VB hiện lên với những nét đặc trưng rất riêng.
- Nét dữ dội, hùng vĩ: Nhà thơ khắc họa thiên nhiên bằng hình ảnh “mưa
nguồn”, gợi những trận mưa rừng xối xả, dữ dội, mạnh mẽ tạo nên những “suối
lũ” để tăng thêm uy linh cho thiên nhiên VB: vừa hùng vĩ, vừa dữ dội. Đó cũng
là tác giả gián tiếp khắc họa những khó khăn gian khổ của quân và dân Việt Bắc
phải đương đầu và trải qua trong cuộc chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất thiêng
liêng của tổ quốc.
- Nét thơ mộng, trữ tình: Thiên nhiên VB không chỉ hùng vĩ mà còn toát lên vẻ
đẹp đầy thơ mộng và trữ tình. Với hai nét vẽ mây và sương mù mà không gian
VB thêm hư ảo. Hãy hình dung trước mắt chúng ta là bạt ngàn một không gian
núi rừng bao la, hùng vĩ mây núi cây rừng cứ thấp thoáng ẩn hiện, sương mây
thì trắng, cây lá thì xanh. Người đọc như mãn nhãn với hình ảnh thi trung hữu
họa này của tác giả. Đẹp Như chốn bồng lai.
"Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai"
- Cuộc sống vật chất: Cuộc sống chiến đấu của quân dân Việt Bắc được tái hiện
chân thực qua hình ảnh thơ “miếng cơm chấm muối” đã đủ để thấy cái khó
khăn gian khổ, đói nghèo của nhân dân Việt Bắc nói riêng và nhân dân cả nước
nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Còn nhớ một câu thơ đau đớn
của những kiếp nghèo trong kháng chiến:
Xưa con khóc đòi cơm chấm muối
Mẹ tìm đâu ra muối con ăn
Đó cũng là một khó khăn, trở ngại cho quân và dân Việt Bắc. Một miếng cơm
chấm muối nhưng vẫn sẻ chia cùng nhau, đồng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi
để tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc. Đó chính là sức mạnh giúp quân ta có
được quyết tâm: Khó Khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
- Cuộc sống tình thần: Gánh nặng lớn nhất quân và dân Việt Bắc mang trên vai
đó chính là mối căm thù giặc sâu sắc mối thù nặng vai. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển
đổi cảm giác đã cho người đọc phần nào cảm nhận được nỗi căm thù ấy. Vốn
chỉ có thể cảm nhận bằng cảm giác nhưng qua cách diễn đạt của Tố Hữu người
đọc như đang cùng quân dân VB chung vai vào gánh một mối thù giang sơn là
nỗi căm hờn quân giặc đã xéo gót giày xâm lược, chà đạp lên quyền sống,
quyền tự do, dân chủ của nhân dân, dân tộc ta. Bao nhiêu con người là bấy
nhiêu mối thù, bao ngày giặc tàn phá quê hương là bấy nhiêu ngày đau thương
tang tóc. Nên mối thù ấy ngày một lớn lên, nó hiện hữu và đang đè nặng trên
vai, đòi hỏi quân dân cùng đồng lòng, chung sức đập tan mối căm hờn đó.
- Nghệ thuật đối lập, tương phản: Hai vế thơ tương xứng 4/4, với nghệ thuật đối
rất chỉnh. Nếu cuộc sống vật chất của cuộc chiến đấu thiếu thốn, gian khổ bao
nhiêu thì nỗi căm hờn với quân thù trong lòng đầy ắp bấy nhiêu. Khó khăn, gian
khổ không làm nguôi ngoai quyết tâm đánh giặc của quân và dân ta, ngược lại
nó còn thôi thúc quân dân VB một lòng, một dạ chung tay chung sức đánh đuổi
kẻ thù. Sự thiếu thốn về vật chất lại làm tăng thêm sức mạnh tinh thần. Bạn đọc
hôm nay có lẽ đã tìm ra một chân lý thật giản đơn về sức mạnh của nhân dân ta
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc, điều làm nên
chiến thắng lẫy lừng của nhân dân ta mà ngay cả các nước đế quốc, thực dân
đến tận ngày hôm nay vẫn không thể hiểu vì sao đất nước Việt Nam nhỏ bé,
nhân dân Việt Nam đói nghèo mà lại có thể đánh bại những đế quốc hùng
cường nhất thế giới. Thật đáng trân trọng và tự hào biết bao truyền thống của
dân tộc ta.
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
- Thiên nhiên Việt Bắc: Đọc câu thơ, người đọc đơn thuần tưởng Tố Hữu miêu
tả nét thiên nhiên đặc trưng của núi rừng VB, nhưng tìm vào sâu trong ý tình
câu thơ ta như cảm thấy nỗi ngậm ngùi, nhớ thương. Trên những cánh rừng đại
ngàn Việt Bắc thường mọc hai loại cây: trám và măng mai. Những cây trám
thân gỗ đại thụ, làm tăng thêm vẻ uy nghi cho núi rừng Việt Bắc. Còn những
vàn măng mai bạt ngàn với màu xanh của loài cây họ tre trúc này như tăng thêm
sức sống cho cây rừng nơi đây. Đây còn là hai thực phẩm chính mà núi rừng đã
ban tặng cho quân dân Việt Bắc. Vị trám muối mặn mòi nồng ấm ân tình mà
người dân Việt Bắc dành cho bộ đội. Cây măng mai, ngọt bùi mà người dân đã
mất bao công sức tìm, đào và chế biến trở thành những món ăn thiết yếu cho
cuộc sống chiến đấu nơi đây. Mà như chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi lại trong
“Tức cảnh Pác Bó”:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
→ Miêu tả thiên nhiên nhưng Tố Hữu cũng gián tiếp phản ánh cuộc sống
chiến đấu của quân và dân Việt Bắc: thiếu thốn, gian khổ mọi đường. Đồng thời
cũng cho thấy tình cảm, sự chăm sóc quan tâm của nhân dân Việt Bắc với cán
bộ, bộ đội. Họ chăm lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho bộ đội. Với cuộc sống thiếu
thốn đủ đường nhưng người dân Việt Bắc đã tìm mọi cách khắc phục để đảm
bảo điều kiện, sức khỏe cho bộ đội ta chiến đấu, chiến thắng kẻ thù.
- Tình cảm của người Việt Bắc: Nhà thơ miêu tả một sự thật của thiên nhiên là
khi cán bộ, bộ đội cùng ở với nhân dân thì người đông như kiến, bao nhiêu
trám, măng của núi rừng cũng là chưa đủ nuôi quân bởi trong bài Trường Sơn
Đông Trường Sơn Tây, Phạm Tiến Duật có viết “hết rau rừng em có lấy măng
không”. Thì giờ đây khi bộ đội về xuôi, những trái trám bùi không có người ăn,
những búp măng non, ngọt không có người lấy nên mới có khung cảnh trám
rụng, măng già. Miêu tả cái dư thừa của vật chất trong thiên nhiên mà nói được
cái thiếu thốn vô cùng trong tình cảm của người ở lại khi người ra đi đã về xuôi.
Cái ngút ngàn của rừng trám, và măng vốn vô tình nhưng trong câu thơ của Tố
Hữu lại bỗng trở nên có hồn. Một nỗi nhớ vô tận, vô cùng của người dân VB
với người ra đi sau cách nói đầy ẩn ý. Người đi dù đã đi thật nhưng nhân dân
VB mỗi khi lên rừng nhìn thấy trám rụng, ra nương thấy măng mai già thì nỗi
nhớ lại trào dâng. Khi nào trám hết, măng tàn thì người Việt Bắc mới nguôi nỗi
nhớ thương. Một cách diễn đạt sâu nặng nghĩa tình.
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
- Cuộc sống vật chất: Thể hiện chân thực qua hình ảnh những ngôi nhà “hắt hiu
lau xám”. Những ngôi nhà nghèo khó, giản đơn của nhân dân VB dựng vội
trong cuộc kháng chiến để lấy chỗ ở, chỗ nuôi giấu cán bộ, bộ đội. Ngôi nhà
tranh, vách nứa và lợp bằng cỏ lau đã phản ánh phần nào cuộc sống đầy rẫy
những khó khăn, thiếu thốn của quân và dân ta.
- Cuộc sống tinh thần: Điều ghi lại dấu ấn trong cả lòng người ở và người đi
chính là tấm “lòng son” thắm thiết. Tấm lòng ấy là tình đồng bào, đồng chí, tình
quân dân như cá với nước, mặn nồng như tình yêu lứa đôi của ta với mình.
Nhưng chưa đủ,tình cảm ấy mãi mãi không phai nhòa, thủy chung, trước sau
như một của những con người từng vào sinh ra tử cùng nhau, những con người
sẵn sàng ngã xuống cho tổ quốc thân yêu, sự gắn bó máu thịt vô điều kiện.
- Nghệ thuật đối lập, tương phản: Hai vế câu thơ đối nhau rất chỉnh tạo ra một
thế cân bằng cho người đọc, cũng như chính nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Cuộc sống vật chất tuy thiếu thốn mọi bề nhưng đổi lại là tình cảm dạt dào. Đó
là sợi tơ vô hình gắn kết quân và dân trong cuộc kháng chiến.
- Từ láy “hắt hiu”: Sự hiu quạnh, trống vắng của nhân dân VB để nói hết được
có lẽ không còn ngôn từ nào đạt hơn khi tác giả chọn từ láy hắt hiu. Nếu ngày
trước quân dân cùng nhau gắn bó, sống và chiến đấu thì chiến khu Việt Bắc
đông vui, nhộn nhịp với không khí khẩn trương, thần tốc. Nhưng nay khi bộ đội
về xuôi thì còn đâu khung cảnh “xóm dưới làng trên, cơm nắm, cơm đùm ríu rít
theo nhau”, nên sự trống trải vô cùng mà người ra đi để cho người ở lại là sự hiu
hắt đến vắng lặng trong những ngôi nhà tranh mà thủa nào sớm tối có nhau.
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Tác giả đã tái hiện thời gian của cuộc kháng chiến mà quân và dân Việt Bắc đã
trải qua: “Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”. Quãng thời gian suốt từ
mùa xuân năm 1941 khi Bác Hồ thân yêu về nước, dựng căn cứ địa cách mạng
trên chiến khu VB,cho đến tận chiến thắng lịch sử của trận Điện Biên Phủ hào
hùng. Trong khoảng thời gian dài suốt 15 năm ấy nhà thơ Tố Hữu không nói
toàn bộ lịch sử mà chọn những mốc son quan trọng.
- Thời kì kháng Nhật là một bước ngoặt đầy khó khăn trong lịch sử đấu tranh
của dân tộc ta. Khi thực dân Pháp còn chưa ra khỏi bờ cõi nước ta, nhưng trước
sự lớn mạnh của chủ nghĩa phát xít trên thế giới, Pháp đã hèn hạ mở cửa nước
ta, quỳ gối rước Nhật vào, trong vòng 5 năm từ 1940-1945 chúng đã bán nước
ta hai lần cho Nhật, để nhân dân ta chịu cảnh một cổ ba tròng: Trên một thửa
ruộng bọn phong kiến, địa chủ bắt nộp tô, bọn thực dân bắt đóng thuế, phát xít
thì bắt nhổ lúa trồng đay. Đẩy nhân dân ta rơi vào nạn đói khiến hơn 2 triệu
đồng bào ta chết đói. Đó là thời kỳ đầy đau thương của dân tộc. Nhưng nhân
dân cũng đã vượt qua, đập tan chủ nghĩa phát xít, đuổi cổ bọn thực dân lấy lại
nền độc lập của dân tộc.
- Việt Minh: Việt Nam độc lập đồng minh, còn gọi là Việt Nam độc lập đồng
minh hội, gọi tắt là Việt Minh, là liên minh chính trị do Đảng Cộng sản Đông
Dương thành lập vào ngày 19 tháng 5 năm 1941 với mục đích công khai là
"Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn
thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt
Nam hoàn toàn độc lập". Và kết quả là nhân dân và cách mạng đã giành được
thắng lợi. Thuở còn Việt Minh là một thuở hào hùng, vàng son của dân tộc một
đi không trở lại nhưng cả quân và dân Việt Bắc mãi khắc ghi trong tim như một
khúc tráng ca về độc lập, tự do.
→ Câu thơ tái hiện lại giai đoạn lịch sử khó khăn nhất của dân tộc, nhưng nhân
dân ta đã kiên cường vượt qua bằng chính sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.
Giờ đây nhìn lại không chỉ là kỉ niệm mà còn là niềm tự hào của dân tộc.
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Lịch sử tái hiện: Câu thơ 8 cuối cùng như thước phim tài liệu quay chậm về
cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Bao chiến thắng lẫy lừng làm vang
tên bao địa danh, bao di tích lịch sử mà muôn đời vẫn còn là niềm tự hào vô bờ
bến của nhân dân ta: "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa".
- Nghệ thuật đảo ngữ: Nếu bạn đọc chú ý thì sẽ thấy câu thơ này tác giả đã tách
những cụm từ đã tương đối cố định, đó là "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân
Trào" ra như một sự sáng tạo độc đáo của riêng mình. Viết như Tố Hữu trong
câu thơ này người đọc như đang ngấm dần một phong vị của ca dao, dân ca nơi
đồng bằng Bắc Bộ. Với không gian vốn đã quen thuộc từ ngàn đời: Cây đa, bến
nước, sân đình.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa
Hay:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Phải chăng chính nỗi nhớ thương, quyến luyến đã nâng bước chân, đưa tâm hồn
của người ở lại theo bước chân người ra đi về xuôi cho thỏa nỗi nhớ mong.

⇒ Nét đặc sắc trong câu 8 này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu của nghệ thuật
đối. Tố Hữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để qua tất cả các câu 8 ở
đây, nghệ thuật đối làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên
những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc đối với từng kỉ niệm. Cả tiểu đối và trường
đối đều được sử dụng hiệu quả. Đó là lối đối giữa các vế câu với nhau như:
"Miếng cơm chấm muối /mối thù nặng vai" để làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí
giữa nhân dân và cách mạng. Khó khăn lại càng làm chồng chất mối thù đối với
thực dân phát xít. Đó cũng là sự tương phản giữa cuộc sống gian khổ và lòng
người qua những hình ảnh đối chọi nhau "Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son".
Đó là những vế đối làm nổi bật nỗi buồn của Việt Bắc đối với cuộc chia tay
"Trám bùi để rụng, măng mai để già". Nghệ thuật đối vốn rất quen thuộc trong
ca dao, tục ngữ, nhưng với Tố Hữu, nghệ thuật đối đã có những sáng tạo.Ở đây
không chỉ có sự tương phản mà còn có sự bổ sung của các vế đối. Có lối đối
giữa các vế trong một câu nhưng lại cũng có những tiểu đối, lối đối ngay trong
một vế câu như "mưa nguồn / suối lũ" rồi "những mây / cùng mù"; lại có những
biến thể lồng chéo tạo nên các vế đối như trong trường hợp "Tân Trào, Hồng
Thái, mái đình,cây đa". Đoạn thơ vì thế rất giàu nhạc điệu, một thứ nhạc điệu
được tạo nên từ tiết tấu của câu thơ.
1.4. Bốn câu cuối của đoạn thơ tiếp tục khẳng định nỗi nhớ, sự thủy chung
son sắt của người ra đi khi từ biệt quê hương cách mạng về xuôi.
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
- Ta với mình, mình với ta
- Nghệ thuật điệp: Một câu thơ 6 tiếng mà tác giả đã để lặp lại hai lần mỗi từ
mình, ta cho thấy sự xoắn xuýt, quấn quýt, gắn bó, không thể chia cắt.
- Liên từ “với”: Nếu chúng ta vô tình coi liên từ “với” như một từ có chức năng
liên kết thì có thể thay vào đó bằng liên từ “và” nhưng ý nghĩa lại thay đổi hoàn
toàn, đồng thời tạo sắc thái tình cảm hoàn toàn khác. Từ và chỉ đơn thuần là mối
quan hệ tương tác qua lại giữa ta – mình. Nhưng chỉ thay bằng liên từ “với” thì
hai chủ thể ta – mình lại có sự gắn kết lạ thường bền chặt, keo sơn.
- Cách ngắt nhịp: Câu thơ ngắt nhịp 3/3 tạo thành hai vế thơ đăng đối, rất chỉnh.
Phải chăng dụng ý nhà thơ muốn gửi gắm là những tình cảm đậm sâu của ta với
mình. Nếu như trong đoạn thơ trên, người ở lại đã nói lên tiếng lòng đầy vương
vấn, nhớ thương của mình khi người ra đi về xuôi thì bằng nhịp thơ cân chỉnh
trong câu lục này người đi đã nhẹ nhàng gửi gắm một thông điệp: Mình nhớ ta
như thế nào thì ta cũng nhớ mình như thế khi chia xa. Lòng mình như nào thì
lòng ta như thế. Cứ gửi trao tình cảm sẽ nhận lại yêu thương, đó là quy luật
riêng, lý lẽ riêng của trái tim con người, một điều giản dị mà chính Tố Hữu đã
nhắc đến trong một bài thơ khác của mình:
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau.
- Vận dụng sáng tạo ca dao: Trong ca dao từng nói:
Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai
Tố Hữu đã mượn tình cảm lứa đôi để diễn tả tình cảm cách mạng khăng khít
bền chặt.

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh


- Nhịp thơ: Cách ngắt nhịp 2/2/2/2 đều đặn, không có biến tấu như một lời
khẳng định chắc nịch về tình cảm sắc son không đổi thay, thủy chung, trước sau
như một.
- Từ láy “đinh ninh”: Bản thân từ láy này dùng để chỉ một tình cảm đã qua,một
lời hứa đã nói luôn khắc ghi trong tim, có thể nói là « khắc cốt ghi tâm » lúc nào
cũng mang nặng trong lòng, không phai nhạt, không nguôi ngoai. Đó cũng
chính là tình cảm của người ra đi muốn nói với người ở lại : Dù có xa nhau đi
chăng nữa nhưng những kỉ niệm ta với mình đã có suốt 15 năm qua thì không
có bao giờ quên. Kỉ niệm ấy không chỉ thường trực trong lòng mà còn nóng
bỏng, thôi thúc ta sống tốt hơn, trân trọng hơn những gì ta với mình đã cùng vun
đắp, dựng xây ngày hôm qua, những điều ta với mình đã đánh đổi bằng mồ hôi,
nước mắt và bằng cả máu xương, mạng sống của mình.
Mình đi mình lại nhớ mình
(Giống câu “Mình đi mình có nhớ mình”. Chỉ khác đây là câu trả lời, khẳng
định một lần nữa tình cảm: mình lại nhớ, mình sao thì ta cũng vậy)
- Chữ "lại": thanh trắc ở âm vực trầm nhất cho thấy câu trả lời vừa là lời khẳng
định, vừa là một nguyện thề thiêng liêng với người ở lại, với nhân dân Việt Bắc
và với chính mình.
- Gắn với câu hỏi "Mình đi mình có nhớ mình" : Đó là sự vận dụng sáng tạo cấu
trúc hỏi đáp của ca dao như :
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Không chỉ có một vế đơn độc - vế hỏi vừa như nêu băn khoăn, vừa khẳng định
lòng thuỷ chung của bên đợi mà còn có vế đáp để nói rõ sự chung thuỷ sắt son
của người ra đi.
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…
- Cách đo đếm đậm màu sắc dân gian: Đó là cách so sánh đòn bẩy mà trong ca
dao đã xuất hiện rất nhiều để thể hiện sự tương đồng, thậm chí là cao hơn.
Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu…
- Cách so sánh: Suối nguồn có bao giờ ngừng chảy, tuy nhỏ, chỉ róc rách nhưng
là vô cùng, vô tận. Thế nên mới có câu ca:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Hình ảnh “nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu” đã diễn tả được nghĩa
tình cách mạng là vô tận, như suối nguồn không bao giờ vơi cạn. Một lần nữa
khẳng định lòng thủy chung son sắt với cách mạng, với quê hương kháng chiến
của người cán bộ về xuôi.
- Dấu chấm lửng: Cuối câu thơ kết thúc bằng dấu chấm lửng như khẳng định lại
tình cảm bất tận, như suối nguồn VB mãi tuôn chảy ngàn đời.=> Bốn câu thơ là
câu trả lời của người ra đi, giải tỏa mọi nỗi băn khoăn trong lòng người ở lại.
Nhớ bao nhiêu, thì thương bấy nhiêu, tình càng dày thì nghĩa càng sâu, không gì
có thể làm thay đổi, nhạt phai tình cảm ấy. Chính lời giải đáp đó đã mở ra bao
kỷ niệm trong cảm xúc của người ra đi. Và cứ thế hình ảnh về thiên nhiên, con
người và cuộc kháng chiến ùa về, tuôn chảy trong tâm trí của người ra đi, tràn ra
trong 18 dòng thơ lục bát tiếp theo.
2. Nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi với thiên nhiên, con người Việt Bắc, với
cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến (từ câu 25 đến câu 42).
2.1. Trong sáu câu thơ đầu (25 - 30), nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ sâu đậm
của người ra đi với những vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc.
6 câu thơ đầu: Nhớ khung cảnh Việt Bắc thanh bình:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Hình ảnh so sánh như nhớ người yêu: Câu thơ sáu tiếng lặp lại hai từ nhớ
cho thấy nỗi nhớ cảnh và người Việt Bắc đang trào dâng trong lòng người ra đi,
không thể không bật lên thành lời. Và để diễn tả nỗi nhớ ấy Tố Hữu đã chọn
biện pháp nghệ thuật so sánh để người ở lại có thể hiểu được nỗi lòng của mình.
Nỗi nhớ nào cũng cồn cào, da diết, cháy bỏng. Nhưng nếu ai đó đã từng trải
nghiệm thì nỗi nhớ thường trực, đau đáu nhất, đốt cháy tâm can con người nhất
thì đó là nỗi nhớ trong tình yêu.Trong ca dao đã từng nói về nỗi nhớ:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Hay nỗi nhớ người yêu của Xuân Quỳnh:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Và nhà thơ đã không ngần ngại mà so sánh nỗi nhớ về VB của người ra đi như
nỗi nhớ người yêu, thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. Cách so sánh này
mới lạ sáng tạo, chỉ với "như nhớ người yêu" mà người đọc có thể thấy hết được
tình cảm của người ra đi đối với cảnh và người Việt Bắc.
Hình ảnh thơ gợi cảm đầy thi vị
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương:
Trăng lên đầu núi: Có lẽ không có hình ảnh nào thi vị hơn khi tác giả gắn nỗi
nhớ người yêu với hình ảnh ánh trăng lấp ló, chênh chếch, nghiêng nghiêng nơi
đầu núi. Ánh trăng là một biểu tượng quen thuộc với tình yêu của ca dao:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
Và trong truyện Kiều Nguyễn Du cũng tả:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Nhưng hơn thế nữa vầng trăng còn là một biểu tượng cho hòa bình, sự dịu êm.
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả chọn hình ảnh này như một khát khao, hay
chớp lấy một khoảnh khắc yên bình hiếm hoi của chiến khu trong cuộc kháng
chiến oanh liệt. Càng hiếm hoi thì càng phải nâng niu, trân trọng và đấu tranh
giành được nó.Hình ảnh thơ bỗng ngọt ngào và sâu sắc ý tình.
Nắng chiều lưng nương: Một khung cảnh lao động bình dị của buổi chiều nơi
chiến khu. Sau những giây phút khẩn trương phục vụ cho cuộc kháng chiến thì
thời gian ngắn ngủi buổi chiều muộn, quân và dân cùng lên nương lao động sản
xuất để phục vụ cho cuộc kháng chiến. Thời gian ấy cũng là lúc thảnh thơi, là
lúc ta và mình bên nhau để thấu hiểu và gắn bó. ⇒ Hình ảnh thơ trọn vẹn không
gian và thời gian một ngày, đẹp như một bức tranh được phối đều những gam
màu nóng lạnh, sáng tối vừa tạo nên vẻ đẹp dịu nhẹ lại vừa ấm áp.

Nhớ từng bản khói cùng sương.


Hình ảnh những bản làng chìm trong màn sương giăng và thấp thoáng trong
khói lam chiều sao mà thân thương đối với mỗi con người đất Việt. Đó là biểu
tượng hoài cổ trong thơ xưa khơi dậy niềm nhớ quê hương:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Phải chăng Việt Bắc là quê hương thứ hai để rồi khi về xuôi cán bộ, bộ đội sẽ
nhớ mãi không quên.
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về:
Hình ảnh bếp lửa hồng: Những bếp lửa hồng được đặt giữa những gian nhà của
đồng bào dân tộc như chính linh hồn của con người nơi đây.
Hình ảnh người thương: Bếp lửa ấy vương vấn bóng dáng đi về của người
thương. Độc giả tự băn khoăn người thương được nhắc đến ở đây là ai? Có thể
là một người em gái dân tộc nào đó đã để thương để nhớ cho những anh chàng
lính chiến, nên nỗi nhớ gửi về là nỗi nhớ cho đôi lứa yêu nhau. Nhưng cũng có
thể là bóng dáng thân thuộc của bất cứ người dân VB nào đã gắn bó cùng bộ đội
suốt 15 năm, giờ đây chia xa ắt hẳn phải để thương để nhớ trong lòng người ra
đi.
Kết hợp hai hình ảnh: Sự gắn kết hình ảnh người thương và bếp lửa hồng cho
thấy tình cảm nồng ấm của người ra đi với nhân dân Việt Bắc.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre


Những rừng vầu, tre, nứa là đặc trưng nơi núi rừng Việt Bắc, rừng che bộ đội,
rừng vây quân thù. Ăn, ở, sinh hoạt, chiến đấu đều trong rừng nên có thể nói sự
gắn kết không hề nhỏ, chính vì thế khi đi xa mới thấy nhớ thương.

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy


Những con suối nào đã từng băng qua khi đánh giặc, những con suối ầm ào thác
lũ chặn quân thù, những con suối hiền hòa cho bộ đội tắm mát, những mạch
nguồn trong vắt để lấy nước uống…tất cả cùng lúc hiện về, ùa đầy trong nỗi
nhớ của người ra đi về Việt Bắc thân thương mà oai hùng.
Những con suối nào đã từng băng qua khi đánh giặc, những con suối ầm ào thác
lũ chặn quân thù, những con suối hiền hòa cho bộ đội tắm mát, những mạch
nguồn trong vắt để lấy nước uống…tất cả cùng lúc hiện về, ùa đầy trong nỗi
nhớ của người ra đi về Việt Bắc thân thương mà oai hùng.
→ Những con suối nào đã từng băng qua khi đánh giặc, những con suối ầm ào
thác lũ chặn quân thù, những con suối hiền hòa cho bộ đội tắm mát, những
mạch nguồn trong vắt để lấy nước uống…tất cả cùng lúc hiện về, ùa đầy trong
nỗi nhớ của người ra đi về Việt Bắc thân thương mà oai hùng.
Chiều kích của nỗi nhớ: Nỗi nhớ trải dài theo thời gian: sớm, chiều, đêm,ngày;
trải rộng khắp không gian: bản làng, núi rừng, sông suối cho thấy một nỗi nhớ
thường trực, da diết, rộng lớn, mênh mang.

2.2. Thấp thoáng hiện ra trong bức tranh rừng núi ở đoạn trên, đến đoạn thơ
sau (31 - 42) người Việt Bắc đã trực tiếp xuất hiện qua những hoài niệm xúc
động về cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến.
Cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Cuộc sống vật chất: Người đi nhớ về những ngày khó khăn gian khổ tuy thiếu
thốn mọi đường.
Bữa ăn hàng ngày thật hiếm hoi mới có được bát cơm, chủ yếu là ăn khoai, ăn
sắn. Nhưng đâu phải lúc nào khoai sắn cũng đầy đủ, thế nên mới có cảnh:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bộ đội ta chỉ có củ sắn lùi nướng vội trong bếp để chia nhau cùng ăn cho qua
cơn đói. Giấc ngủ hàng đêm trong rừng sâu để chống chọi với những ngày đông
tháng giá nơi núi cao lạnh lẽo đó là tấm chăn làm từ vỏ cây sui đập dập, chẳng
đủ ấm đầu nhưng quân dân vẫn cùng nhường nhau tấm chăn hẹp ấy.
Cuộc sống tình cảm: Những hình ảnh mới đọc lên người đọc ngỡ tưởng là hình
ảnh tượng trưng nhưng đâu phải. Đó chính là hiện thực trần trụi, gian khó của
cuộc chiến đấu: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng".
Cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng": diễn tả được mối tình cảm "chia
ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa
sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"... mà người cán bộ cách mạng
đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.
→ Sự sẻ chia của tình đồng bào, đồng chí, tình quân dân đã góp thêm sức mạnh
cho nhân dân ta đánh thắng kẻ thù. Cao hơn cả là tinh thần đoàn kết dân tộc,
tình hữu ái giai cấp luôn thấp thoáng ẩn hiện trong những vần thơ.
Nhân dân VB hết lòng cho cuộc chiến
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Chỉ bằng hai câu thơ thôi mà cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp và tình
nghĩa chan hòa:
+ Thiên nhiên Việt Bắc: Có lẽ hình ảnh này được nhà thơ chụp lấy trong
một khoảnh khắc ngắn ngủi của cái nắng trưa hè lúc đúng ngọ, khi mặt
trời nắng gắt và chói chang nhất, với một không gian thoáng đãng mênh
mông trên nương rẫy cao. Cá Vàng chói của nắng hè với màu vàng óng
của những bắp ngô già đã bóc áo, phơi khô dưới nắng như vàng hơn, làm
cái nắng đã chói chang lại thêm rực vàng. Một không gian lớn lao, kì vĩ
và có phần lung linh.
+ Con người Việt Bắc: Trên nền không gian kì vĩ, khoáng đạt ấy là nền để
con người Việt Bắc xuất hiện. Không phải một anh hùng lao động hay
chiến đấu mà là hình ảnh giản dị,quen thuộc thậm chí là quá đỗi thân
thương: Người mẹ địu con lên rẫy. Nhưng chính khung cảnh ấy đã làm
cho người mẹ bình dị kia đẹp lung linh như một huyền thoại. Hình ảnh
thơ này không phải chỉ lần đầu xuất hiện trong thơ Tố Hữu mà nó còn
được nhắc tên và hát mãi trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng
mẹ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Hình ảnh chọn lọc: Người mẹ nắng cháy lưng vừa địu con vừa bẻ từng bắp ngô
gọi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ
chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ, cán bộ cách mạng.
Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến
không thể phai nhòa trong ký ức của người về xuôi.
Nhớ cảnh sinh hoạt cơ quan và những âm thanh quen thuộc:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Đoạn thơ còn dựng lại những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm
thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến Việt Bắc.
- Nhớ lớp học i tờ: Một không khí, một tinh thần của một thời đi không trở lại.
Nếu Ai đó lật giở lại những trang sử của dân tộc sẽ thấy bất ngờ khi một dân tộc
có đến 90% dân số mù chữ nhanh chóng được xóa mù bởi phong trào Bình dân
học vụ rộng khắp, học mọi lúc, mọi nơi, người biết nhiều dạy người biết ít,
người biết ít dạy người chưa biết. Những lớp học râm ran tiếng i tờ không chỉ là
ý thức tự vươn lên của mỗi người dân Việt Bắc mà còn là tinh thần tự tôn, tự
cường dân tộc.
- Nhớ những giờ liên hoan: Sống, lao động, chiến đấu nhưng quân và dân Việt
Bắc không thể quên được những món ăn tinh thần, đó là nguồn động lực vô
cùng cần thiết để nhân dân ta có thể vượt qua mọi khó khăn thử thách và chiến
thắng mọi kẻ thù. Những buổi sinh hoạt, liên hoan văn nghệ tập thể như chất
keo gắn kết tình quân dân, đồng bào, đồng chí diễn ra quây quần bên đống lửa
trại dựng giữa cánh đồng. Người đọc như nhìn thấy những cái nắm tay thật chặt,
những điệu nhảy, điệu múa, những tiếng ca rộn rã theo nhịp chân đung đưa, tất
cả toát lên một không khí tưng bừng của đêm hội liên hoan văn nghệ để mai này
khi xa rồi, người về xuôi không khỏi xốn xang khi nhớ về kỉ niệm đó.
- Nhớ những ngày tháng cơ quan: Nghệ thuật tương phản đối lập: Gian nan đời
vẫn ca vang núi đèo mà nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ
cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ, khó khăn nhưng với tinh thần “tiếng
hát át tiếng bom” của một thời oai hùng đã làm cho những khó khăn đó bỗng
chốc vơi đi chỉ còn lại những thanh thản, bình yên trong lòng, chút bình yên của
người chủ động trong cuộc chiến đấu vẫn còn trường kỳ kia.
- Nhớ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống núi rừng Việt Bắc:
+ Âm thanh "tiếng mõ rừng chiều": Tiếng mõ quen thuộc mỗi buổi chiều
theo đàn trâu thong thả về nhà sao bình dị, thân thương đến thế.
+ Tiếng "chày đêm nện cối đều đều suối xa": là âm thanh đặc trưng của
Việt Bắc. Những chiếc cối giã gạo chạy bằng sức nước cứ đều đặn, miệt
mài chảy, giã, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng và gợi nhớ
một thời đã qua. Đó là những âm thanh bí ẩn, thiêng liêng và huyền diệu
nơi núi rừng Việt Bắc, đã thấm sâu vào trái tim nhà thơ, để giờ đây khi
chia xa đã thăng hoa thành những câu thơ ngân nga rung động lòng
người.

3. Phân tích đoạn thơ tứ bình (43 - 52).


Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Hai câu thơ đầu:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Kết cấu hô ứng của cặp lục bát: Câu sáu dùng để hỏi, nhưng hỏi đấy mà đâu có
câu trả lời, câu tám đã nói lên nỗi lòng như một câu trả lời đầy thỏa mãn. Lối hô
ứng vay mượn của ca dao được Tố Hữu khai thác triệt để. Nói lòng ta cũng là
nói hộ lòng mình, bởi từ trên người đọc đã biết: Ta với mình tuy hai mà một,
mình với ta tuy một mà hai.
Hình ảnh đối xứng: Tố Hữu lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng: hoa -
người.Hoa là vẻ đẹp tinh túy nhất của thiên nhiên, kết tinh từ hương đất sắc trời,
tương xứng với con người là hoa của đất. Bởi vậy đoạn thơ được cấu tạo: câu
lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Nói đến hoa hiển hiện hình
người, nói đến người lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người
hòa quyện với nhau tỏa sáng bức tranh thơ. Nên bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ
bình đặc sắc.
Trước hết đó là nỗi nhớ mùa đông Việt Bắc
- Hình ảnh thiên nhiên:
Hình ảnh thơ: Như được chắt lọc qua con mắt tinh tế của thi nhân: rừng xanh và
hoa chuối đỏ.
+ Rừng xanh: Hình ảnh thơ truyền thẳng đến người đọc cảm nhận về một
màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già. Cái màu xanh ngăn ngắt đầy
sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Cái màu xanh chứa chất bao sức
mạnh bí ẩn "Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng". Màu xanh núi rừng
Việt Bắc:
Núi giăng thành lũy thép dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
+ Hoa chuối đỏ: Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tươi, thắp
sáng cả cánh rừng đại ngàn. Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát
bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới
ánh nắng mặt trời. Cái màu"đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối nổi
lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc
trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang
sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến
màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm
của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như
đang phun trào ở giữa màu xanh của núi rừng.
Nghệ thuật hội họa trong thơ:
+ Pha màu: Cặp lục bát này chính là một bức tranh tứ bình về mùa đông.
Mà không có sức mạnh nào tạo nên sức sống cho bức họa bằng màu sắc.
Tố Hữu đã thể hiện tài năng của mình bằng sự tinh tế của một họa sĩ tài
ba khi phối màu cho bức tranh của mình. Gam màu xanh mát lạnh chỉ
làm tăng thêm cái băng giá của mùa đông, nên để gieo vào một hơi ấm
tác giả đã chọn một gam màu nóng sáng, đó là màu đỏ tươi của hoa chuối
rừng. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên
một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ
điển vừa hiện đại.
+ Hiệu ứng:
+ Sự pha màu đó làm cho bức tranh thêm hài hòa về màu sắc.
+ Không chỉ vậy mà nó còn gián tiếp miêu tả được khí hậu khắc
nghiệt của núi rừng nơi đây. Bởi chỉ có ai từng sống ở rừng lâu
năm mới hiểu được tường tận nét thiên nhiên độc đáo này: Trời
phải lạnh thì hoa chuối rừng mới nở và càng lạnh thì hoa chuối
càng có sắc đỏ tươi.
+ Không chỉ vậy mà nó còn gián tiếp miêu tả được khí hậu khắc
nghiệt của núi rừng nơi đây. Bởi chỉ có ai từng sống ở rừng lâu
năm mới hiểu được tường tận nét thiên nhiên độc đáo này: Trời
phải lạnh thì hoa chuối rừng mới nở và càng lạnh thì hoa chuối
càng có sắc đỏ tươi.
+ Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả
cánh rừng đại ngàn xua tan cái lạnh giá của mùa đông, làm ấm cả
không gian, ấm cả lòng người.
→ Nên mùa đông thuở gặp gỡ ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong ký
ức.

- Hình ảnh con người:


"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng".
Trên cái phông nền hùng vĩ và thơ mộng ấy, hình ảnh con người xuất hiện thật
vững chãi, tự tin.
Vị thế, tư thế: Con người đứng trên đỉnh “đèo cao” có tác dụng làm tôn lên tư
thế,tầm vóc hào hùng đứng trên thiên nhiên hòa vào vũ trụ mênh mông bao la,
làm chủ cuộc sống. Đây là một quan niệm nghệ thuật khá độc đáo thường thấy
trong thơ Tố Hữu là khi viết về con người, dù là quân hay dân đều ở thế chủ
động và đi lên phía trước.Nếu là bộ đội thì ở vị trí cao nhất định:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
Nếu là dân công thì:
Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát
Và người dân lao động ở đây là vị thế trên đỉnh đèo cao. Đó là vẻ đẹp của con
người làm chủ núi rừng, đứng trên đỉnh trời cùng tỏa sáng với thiên nhiên. Con
người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do: "Núi rừng đây là
của chúng ta/ Trời Xanh đây là của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ đầy
kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh
mênh mang.
Công việc: Con người xuất hiện trong câu thơ là người lao động bình dị : đi
phát nương, làm rẫy, đi lên rừng hái củi, tìm măng...góp công sức nhỏ bé của
mình cho cuộc chiến đấu.
Khoảnh khắc xuất hiện: Nhà thơ Tố Hữu đã rất tinh tế khi nắm bắt được khoảnh
khắc giao thoa kì diệu giữa thiên nhiên và con người. Những thép dao để trần
được mài sáng loáng gài nơi thắt lưng được ánh nắng hiếm hoi của mùa đông
chiếu vào tạo nên sự phản quang kỳ lạ, tỏa ra thứ ánh nắng lung linh, lấp lánh,
chói lóa không gian thể hiện qua từ có thần « ánh ». Ở đây câu thơ vừa mang
ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con
người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy đã trở thành linh hồn của
bức tranh mùa đông Việt Bắc.
→ Câu thơ thể hiện thái độ bao yêu thương, trân trọng, ca ngợi nhân dân lao
động của nhà thơ Tố Hữu. Cứ nơi nào có con người lao động thì nơi đó tỏa ánh
hào quang lấp lánh. Cái lạnh giá của mùa đông cũng phút chốc được xua tan chỉ
còn lại cảm giác ấm áp, vui tươi của lao động.

Nỗi nhớ mùa xuân Việt Bắc


Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
- Hình ảnh thiên nhiên
Cụm từ chỉ thời gian “ngày xuân”: Nhà thơ không viết là mùa xuân mà là ngày
xuân đầy tinh tế. Đó là thái độ ngỡ ngàng, trầm trồ trước vẻ đẹp lộng lẫy của đất
trời vạn vật khi vào xuân cứ diễn ra, thay đổi qua từng giây, từng phút, từng
ngày để tác giả phải chớp lấy, chọn lấy một hình ảnh có thần nhất vẽ nên bức
tranh mùa xuân nơi núi rừng VB.
Hình ảnh đặc trưng của mùa xuân “mơ nở trắng rừng”:
+ Sự chuyển gam màu, kéo theo chuyển dịch thời gian : Cùng với sự
chuyển mùa, mùa đông sang mùa xuân, là sự chuyển màu trong
bức tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu
trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng
bừng lên sắc trắng của rừng mơ lúc sang xuân. Ngày xuân mơ nở
trắng rừng trắng cả không gian "trắng rừng", trắng cả thời gian
"ngày xuân". Không phải là một bông hoa mơ, một cây mơ mà
nhất loạt cả rừng mơ bung nở hoa trắng để mênh mông khắp núi
rừng Việt Bắc ngập tràn một sắc trắng tinh khôi, tinh khiết như cái
man mác, dịu nhẹ, ngọt ngào của mùa xuân đầu tiên trên núi rừng
VB, đồng thời là hình ảnh đáng nhớ, đầy vấn vương lưu luyến khi
phải chia xa đất và người nơi đây.
+ Ý nghĩa sắc màu: Màu trắng của hoa mơ khởi đầu cho một năm
mới cũng như ao ước và khát vọng đổi thay của nhân dân nơi đây.
Cuộc sống nô lệ sẽ thay bằng cuộc sống tràn ngập của hòa bình, tự
do. Ước muốn giản dị nhưng mãnh liệt như sắc trắng của hoa mơ,
nhẹ nhàng nhưng không thể nhạt phai.
+ Liên hệ: Hình ảnh này khá quen thuộc trong thơ Tố Hữu, hình ảnh
rừng mơ sắc trắng cũng đi vào trường ca Theo chân Bác gợi tả mùa
xuân rất đặc trưng của Việt Bắc:
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Cái sắc trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn
người ở, thẫn thờ kẻ đi.
+ Động từ “nở”: Là một động từ mạnh, diễn tả sức sống đang xôn
xao, rạo rực,mãnh liệt của những cây mơ rừng VB hay cũng chính
là sức sống bất diệt của nhân dân nơi đây mỗi độ xuân về.
- Hình ảnh con người: Người đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ
nơi xuân rừng Việt Bắc, và lại càng không thể không nhớ đến con người
Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ điệu nhịp nhàng của công việc lao
động thầm lặng mà cần mẫn tài hoa: Nhớ người đan nón chuốt từng sợi
giang.
Mùa xuân đáng nhớ:
+ Bình thường: Trong dân gian từ ngàn xưa cho đến nay luôn cho
rằng mùa xuân là mùa của các lễ hội thế nên mới có câu ca “tháng
giêng là tháng ăn chơi”. Điều này lại càng đúng hơn trên những
vùng núi rừng chiến khu, nơi của các lễ hội như: Ném Còn, hát
lượn, hát si, lễ hội lồng tồng (xuống đồng).
+ Sự bất thường: Trong những năm tháng mùa xuân khi đất nước có
chiến tranh,quê hương còn bóng giặc thì dù mùa xuân nhưng nhân
dân Việt Bắc đã quên đi niềm vui riêng để miệt mài với, say mê
với công việc, với cuộc kháng chiến: đan nón. Chính sự bất thường
này đã làm nên mùa xuân đáng nhớ nơi chiến khu.
Phẩm chất con người lao động: Hai chữ "chuốt từng" gợi lên dáng vẻ cẩn trọng
tài hoa, dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi
nhớ, sợi thương kết nên vành nón. Câu thơ như ca ngợi sự khéo léo và tài hoa
của con người nơi đây, cũng như con người Việt Nam:
Tay người như có phép tiên
Tranh tre nứa lá cũng dệt nghìn bài thơ
Tình cảm của con người: Hành động lao động vô cùng giản dị, bình thường ấy
nhưng ẩn sâu bên trong là những tình cảm thiêng liêng của người dân VB giành
cho cán bộ và bộ đội. Một chiếc mũ nan, một vành nón lá nhưng chứa đựng
trong đó bao ân tình thắm thiết, mặn nồng. Và bao chiến sĩ đã đội những chiếc
mũ ấy để vượt qua mưa bom, bão đạn của cuộc chiến đấu, hơn thế nữa chiếc mũ
ấy đã trở thành người bạn trên đoạn đường hành quân trùng điệp:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
→ Hai câu thơ lưu lại cả khí xuân, sắc xuân, tình xuân.

Nỗi nhớ mùa hè Việt Bắc


Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
- Hình ảnh thiên nhiên:
Nét đặc sắc trong bức tranh mùa hè: Nếu như trong bức tranh của hai mùa đông
và xuân người đọc chỉ được mãn nhãn với những đường nét và màu sắc thì đến
bức tranh mùa hè tác giả đã đánh thức giác quan mới trong cảm nhận của người
đọc. Thính giác choàng tỉnh bởi âm thanh rộn rã, tưng bừng của tiếng ve.
Âm thanh: Tiếng ve là âm thanh đặc trưng của mùa hè nơi núi rừng đại ngàn.
Tiếng ve cũng là dấu hiệu báo mùa hè đến. Nếu ai đã từng sống trên miền núi
rừng sơn cước thì chắc hẳn không quên âm thanh rộn rã này. Chỉ cần một chú
ve đầu đàn tấu lên khúc nhạc là có một dàn hòa tấu độc hành của mùa hạ, không
ngừng, không ngớt.
Màu sắc: Động từ "đổ" là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa
phách đầu hè. Chữ đổ được dùng thật chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến
chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt mưa hoa rừng phách
khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện chính xác khoảnh khắc hè sang. Màu
của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè
và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng ả thêm. Đây là một bức
tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và
rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng
của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời
gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân
chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang
màu vàng rực rỡ.
Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác rất thú
vị: Tiếng ve kêu - ấn tượng của thính giác đã đem lại ấn tượng thị giác thật
mạnh. Sự chuyển mùa được biểu hiện qua sự chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây:
Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ hoa còn náu
kín trong kẽ lá, khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề
đồng loạt trổ bông, đồng loạt tung phấn, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Tác
giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu
tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng huyền ảo.
- Hình ảnh con người:
Nhân vật trung tâm của bức tranh: Trên nền cảnh ấy, hình ảnh cô em gái hiện
lên xiết bao thơ mộng, lãng mạn: "Cô em gái hái măng một mình" nghe ngọt
ngào thân thương trìu mến. Nhớ về em, là nhớ cả một không gian đầy hương
sắc. Người em gái trong công việc lao động hàng ngày giản dị: hái măng. Vẻ
đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn được tô đậm ở hai chữ "một mình" nghe cứ xao
xuyến lạ, như bộc lộ thầm kín niềm mến thương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về
một mùa hoa đầy ngọt ngào và vương vấn.
Công việc “hái măng”: Một việc tưởng như giản đơn nhưng lại tình nghĩa vô
cùng bởi cô đang góp công sức nhỏ bé của mình cho cuộc cách mạng. Bàn tay
thoăn thoắt hái măng kia chính là tình yêu dành cho bộ đội. Lấy măng để nuôi
quân vì đây là nguồn thực phẩm chính của quân dân ta.
Nghệ thuật sử dụng thanh điệu và điệp phụ âm đầu: Hai thanh trắc liên tiếp
“gái-hái” và ba phụ âm “m”: măng, một, mình liên tiếp xuất hiện khiến người
đọc rơi vào một trạng thái đồng cảm cao độ cùng với tác giả và nhân vật trữ tình
ở đây. Người đọc như tận mắt nhìn thấy cô em gái bé nhỏ đang đưa bàn tay
nhanh thoăn thoắt hái những búp măng non, và bàn chân bước nhanh nhẹn hết
vàn rừng này đến vàn rừng khác. Không chỉ có vậy mà khi bàn chân đưa, bàn
tay hái thì cô còn cất lên tiếng hát rộn ràng theo nhịp lao động. Hái măng một
mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người
sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha
thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái.
Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.

Nỗi nhớ mùa thu Việt Bắc


"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát
giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng rọi qua kẽ lá
dệt lên mặt đất một thảm hoa trăng lung linh huyền ảo.
- Hình ảnh thiên nhiên
Trăng thu:
+ Để miêu tả về mùa thu có lẽ mấy ai không chọn ánh trăng thu. Bởi
lẽ trong bốn mùa thì trăng mùa thu trong nhất, sáng và êm dịu nhất.
Chính hình ảnh thơ này đã tạo cho bức trang thu một màu sắc cổ
điển.
+ Ánh trăng còn là một biểu tượng của hòa bình chiếu rọi khắp núi
rừng bao la,khiến ta cảm nhận như ánh sáng của hòa bình mát dịu
đang tràn ngập khắp chiến khu. Không gian bao la tràn ngập ánh
trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên
từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa
thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên
tiếng hát.
Rừng thu: Tố Hữu cũng không chọn cách diễn đạt mùa thu mà là rừng thu, với
dụng ý nghệ thuật đã lộ rõ khi miêu tả ánh trăng thu trong khu rừng đại ngàn,
rừng già VB để tạo nên bức tranh mùa thu hoàn mỹ.
Động từ “rọi”: Là một động từ mạnh, có thần thể hiện rất rõ ánh trăng thu trong
vắt, sáng như gương, chiếu xuống núi rừng, gặp những tán lá cây cổ thụ và giao
hòa:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Ánh trăng xuyên qua những tán lá tạo nên bóng rợp và những đốm sáng cứ lung
linh như gấm the, tạo nên tấm phông nền lộng lẫy như gấm thêu, như bức tranh
sơn mài huyền ảo.
- Hình ảnh con người
Đại từ phiếm chỉ "ai": đã gộp chung người hát đối đáp với mình làm một, tạo
một hòa âm tâm hồn đầy bâng khuâng lưu luyến giữa kẻ ở, người đi, giữa con
người và thiên nhiên.
Tiếng hát: Dưới ánh trăng thu hòa bình, quân và dân cùng nắm tay ca hát mừng
chiến thắng, mừng hòa bình về trên chiến khu. Đồng thời tiếng hát còn là khúc
ca đầy ân tình, ân nghĩa, thủy chung cách mạng. Tiếng hát ân tình càng làm cho
cảnh thêm ấm áp tình người. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là
tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc
của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
⇒ Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có
vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm
thanh, màu sắc... Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của
rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa
phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật bình dị,
thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.

4. Nỗi nhớ hướng về những kỉ niệm của cuộc kháng chiến oanh liệt hào
hùng (53 - 90).
Sau những hoài niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc, đoạn thơ dẫn vào
khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những cảnh tượng rộng lớn, những hoạt
động sôi nổi, những kháng chiến hào hùng… Đoạn thơ đã chuyển từ nhịp ru dìu
dặt, ngọt ngào, tha thiết của bản tình ca ân nghĩa đậm chất trữ tình sang nhịp
điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ của khúc anh hùng ca hào tráng đậm chất sử thi
khi thể hiện nỗi nhớ về những kỉ niệm của cuộc kháng chiến oanh liệt hào hùng.
Thiên nhiên VB không chỉ được cảm nhận bởi vẻ đẹp của 4 mùa mà thiên nhiên
còn là một nhân tố đắc lực góp phần làm nên cuộc kháng chiến toàn thắng với
những yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Và VB hiện lên là một khu căn cứ địa
cách mạng hội tụ đầy đủ yếu tố trên để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi vẻ
vang:
4.1. Mở đầu bằng chữ “nhớ”, kỉ niệm về cuộc kháng chiến oanh liệt hào
hùng đã được nhà thơ tái hiện qua những bức tranh rộng lớn và kỳ vĩ của
những ngày Việt Bắc cùng rừng núi và đất trời đánh giặc:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt đầy
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
- Yếu tố địa lợi
Câu thơ mở đầu gợi lên một bối cảnh chiến tranh tao loạn "Nhớ khi giặc đến
giặc lùng". "Giặc đến" là thời điểm nguy kịch, "giặc lùng" là cảnh nguy biến,
hoảng loạn, tan tác, loạn lạc. Câu thơ làm ta liên tưởng tới cảnh chạy loạn trong
thơ Nguyễn Đình Chiểu:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất tổ đàn chim dáo dác bay
Hay cảnh tang thương trong thơ Hoàng Cầm:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên chân thực: Đó là núi rừng bao la, ngút ngàn với
những vách núi đá hùng dũng chìm khuất trong làn sương mù hư ảo chốn núi
rừng. Đó là những nét đặc trưng rất riêng biệt của thiên nhiên VB
Nghệ thuật nhân hóa: Trước cảnh đau thương ấy rừng núi đã vào cuộc chiến
đấu. Với thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, TH đã dựng nên một rừng núi kiêu hùng
cùng ta đánh giặc. Từ giọng điệu anh hùng ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của
ta và mình được tái hiện trong hòai niệm của người về:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù”
Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa.Núi
rừng Việt Bắc tươi đẹp, hiền hòa trong bức tranh tứ bình nay bỗng trở thành
những chiến sĩ quân thực thụ trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.
Rừng cây, núi đá cũng cùng quân, dân VB chiến đấu, cùng đánh Tây. Và rừng
cũng như núi đều được giao cho một nhiệm vụ phù hợp với khả năng của mình:
+ Núi đá: Những dãy núi trập trùng không đứng yên, vô tri, vô giác
mà chúng biết liên kết với nhau, giang chặt cánh tay nối thành
những lũy sắt dày để bao vây quân thù. Hình ảnh hiện hữu, những
lũy sắt dày đầy thách thức hiên ngang với kẻ thù giăng giăng trước
mặt mà có lẽ không có kẻ thù nào lọt qua. Hình ảnh này làm cho
người đọc nhớ ngay đến lòng chảo Điện Biên, nơi quân giặc chỉ có
thể tiến vào theo đường lính nhảy dù, chỉ có đường vào mà không
có lối ra, chỉ tiến chứ không lùi nên khi bị đột kích chỉ còn một con
đường chết. Đó chính là yếu tố địa lợi không hề nhỏ giúp quân ta
chiến thắng kẻ thù
+ Rừng cây: Rừng cây đại ngàn VB không còn là những rừng phách
đổ vàng trong tiếng ve rộn rã, cũng không chỉ là những vàn mơ nở
trắng, càng không phải là khu rừng thu yên bình trong tiếng hát mà
giờ đây khi có kẻ thù đến xâm lược thì rừng cây ấy bỗng trỗi dậy
xôn xao, biết cùng nhân dân đánh giặc với hai nhiệm vụ đầy kiên
cường. Với bộ đội ta rừng như một ngôi nhà che chở, bảo vệ. Hình
ảnh thơ này khiến ta liên tưởng tới những cánh rừng xà nu bạt
ngàn, bất tận của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng, ưỡn tấm ngực
lớn ra che chở, bảo vệ cho dân làng Xô Man trong truyện ngắn
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, hay dải rừng già trên dãy
Trường Sơn đã là tấm lá chắn che giấu bộ đội trong chiến đấu, và
che mắt quân thù để miền Bắc có thể chi viện cho miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Thiên nhiên Việt Nam thật
diệu kì thay. Không chỉ có những ngọn núi, cánh rừng mà ngay cả
những dòng sông hiền hòa khi có giặc xâm lăng cũng biết cựa
mình kháng chiến:
Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
+ Sương mù: Miền núi so với miền xuôi thường thì sương mù nơi
đây sẽ dày hơn rất nhiều. Nếu chỉ căn cứ vào yếu tố thiên nhiên
này thì không thể coi đây là “địa lợi”được. Bởi cuộc chiến đấu mà
bị sương mù bao phủ là điều bất lợi. Nhưng nếu nhìn nhận kỹ thì ta
dễ dàng nhận ra hai mặt của vấn đề. Với quân ta, sống trên khu vực
này rất lâu, đã thông thạo địa hình địa vật, có thể băng rừng lội suối
và chiến đấu trong đêm rất dễ dàng. Nhưng với quân địch, đại đa
số là lính nhảy dù, không biết gì về địa hình, địa vật nên khi có
sương mù chắn tầm nhìn thì quả thực đó là trở ngại quá lớn.Nên
sương mù che quân ta mà chắn quân địch. Đó là yếu tố thuận lợi
mà thiên nhiên ban tặng cho nhân dân VB
→ Yếu tố địa lợi là một trong ba yếu tố cần thiết giúp quân ta đánh thắng kẻ thù
trong cuộc chiến không cân sức. Điều quan trọng hơn là quân dân VB đã biết
cách tận dụng khai thác và phát huy triệt để sự thuận lợi trong yếu tố tự nhiên
này làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng.
- Yếu tố nhân hòa
Yếu tố nhân hòa là điều không thể thiếu nếu cuộc kháng chiến muốn đi đến
thắng lợi. Với một dân tộc nhỏ bé như nước ta, quân tư trang lại không tối tân,
hiện đại thì sự đoàn kết, chung lòng, chung sức và ý chí quyết tâm đánh giặc
cao độ là vấn đề then chốt để chiến thắng. Và tinh thần đoàn kết, niềm tin vào
cách mạng chính là điều tác giả để cập đến ở đây. Khi “Đất trời ta cả chiến khu
một lòng”.
Lực lượng hùng hậu với tinh thần chiến đấu cao độ:
+ Bộ đội: Những năm tháng kháng chiến là những tháng ngày với
không khí sôi động, khẩn trương của khung cảnh những ngày “Cả
nước ra quân, toàn dân là lính”.Tố Hữu cũng khắc họa không khí
này trên những địa danh đã đi qua.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà…
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
+ Cụm từ chỉ thời gian “đêm đêm”: Thật đặc biệt vì tác giả không
chọn thời điểm ban ngày mà là ban đêm, với điệp từ đêm đêm, tức
là hết đêm này đến đêm khác vẫn luôn diễn ra khung cảnh khẩn
trương, sôi động như thế. Đó chính là một sự thật lịch sử, bởi trong
cuộc kháng chiến thần tốc ấy, để tiếp tế, chi viện cho chiến trường
cả về nhân lực và vật lực thì nhân dân phải hành quân cả trong
đêm. Đó là thời kì đầy khó khăn nhưng cũng không kém phần hào
hùng của dân tộc
+ Nghệ thuật sử dụng từ láy: Đêm đêm; Rầm rập; Điệp điệp; Trùng
trùng → Khiến đoạn thơ chan chứa niềm tự hào khi phản ánh khí
thế tiến công thần tốc, sôi động của quân dân trong kháng chiến,
trên khắp các nẻo đường chiến khu VB. Từ láy “rầm rập” gợi âm
thanh về sự tiến công vang vọng, hào hùng, mạnh mẽ đầy háo hức,
sôi động và nung nấu. Cội nguồn của âm thanh hào hùng ấy là sức
mạnh tấn công của quân và dân ta: Quân đi điệp điệp trùng trùng.
Từ láy điệp điệp trùng trùng giàu tính tạo hình và gợi cảm về một
đoàn quân vừa đông, vừa hùng mạnh, đầy ý chí chiến đấu quyết
bảo vệ quê hương đất nước.
+ Hình ảnh thơ lãng mạn: Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan → Có
thể nói Tố Hữu đã viết một câu thơ tuyệt hay về đoàn quân ra đi
chiến đấu, với ba hình ảnh đứng bên nhau:
+ Hình ảnh hiện thực là “mũ nan” bình thường, giản dị như
những người lính trong cuộc sống và cuộc chiến đấu hàng
ngày.
+ Hình ảnh “đầu súng” như một biểu tượng hào hùng cho cuộc
chiến đấu chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Súng đạn
thường gợi chiến tranh khốc liệt, đau thương,tang tóc, hi
sinh không ai muốn thế nhưng để bảo vệ tổ quốc, nhân dân
và chủ quyền dân tộc thì đoàn quân phải luôn nắm chắc tay
súng để diệt thù thể hiện bản lĩnh thép của dân tộc Việt
Nam: “Tuốt gươm không chịu sống quỳ”, đất nước của
“những người chưa bao giờ khuất” và con người luôn
trong thế chủ động “khi có giặc người con trai ra trận,
người con gái trở về nuôi cái cùng con”
+ Hình ảnh lãng mạn, thơ mộng vô cùng là “ánh sao”. Một
hình ảnh đẹp lung linh, lấp lánh trên vũ trụ, vì tinh tú của đất
trời lại đứng cạnh đầu súng và mũ nan vừa có tác dụng tôn
lên tư thế người chiến sĩ như đang bay lên vũ trụ thể hiện sự
lãng mạn, thơ mộng trong tâm hồn lại vừa thể hiện khát
vọng hòa bình, tự do. Chính vì vậy hình ảnh người lính trong
câu thơ này trở thành một biểu tượng đẹp hoàn mỹ.
Lực lượng dân công tiếp viện
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
+ Dân công: là lực lượng không thể thiếu trong cuộc kháng chiến,
đặc biệt với địa hình đồi núi như chiến khu VB thì lại càng cần
thiết. Họ là những anh chị thanh niên xung phong mở đường, hết
ngày lại đến đêm, trên những chặng đường thấm đầy mồ hôi nước
mắt, thậm chí xác người lấp trên cả những dải đường chiến trận.
Thế nên mới có những hình ảnh thơ với “Người lính chèn lưng cứu
pháo, lấy thân mình lấp lỗ châu mai”. Dân công còn là lưc lượng
tiếp viện sức người, sức của cho chiến trường.
+ Bút pháp tả thực và lãng mạn:
+ Hình ảnh đoàn dân công bước đi trong đêm với những ngọn
đuốc tre rực sáng trên tay và muôn tàn lửa nhỏ tung bay trải
khắp chặng đường hiện lên trong câu thơ vừa thật lại vừa
lung linh, hư ảo. Câu thơ mang đậm tính sử thi ca ngợi tập
thể nhân dân hào hùng, xung phong đi phục vụ kháng chiến.
Một không khí lịch sử của dân tộc với những ngày “cả nước
ra quân, toàn dân là lính”.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
+ Nghệ thuật nói quá: Tố Hữu đã cường điệu, phóng đại trên
những hình ảnh thực là dân công bước chân trên những dải
đường đầy chông gai, đá sỏi để ra tiền tuyến.Nhưng để làm
toát lên được tinh thần, khí thế của nhân dân tác giả như thấy
bước chân ấy hùng hổ, dũng mãnh mỗi bước đi có thể làm
nát đá dưới chân người. Hào hùng đâu kém hình ảnh thơ
trong bài Lên Tây Bắc:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
Thiên nhiên khắc nghiệt nhưng sẽ phải khuất phục trước tinh
thần chiến đấu đang lên cao ngùn ngụt của quân ta. Bước
chân hào hùng ấy khiến ta cũng nhớ đến bước chân thần tốc
của Tây Sơn Nguyễn Huệ, đầy dứt khoát và mạnh mẽ
+ Hình ảnh lãng mạn: Trong hiện thực hào hùng, khốc liệt ấy
hình ảnh “muôn tàn lửa bay” không chỉ là hình ảnh thực mà
đó còn là nguồn sức mạnh cổ vũ, động viên tinh thần, giúp
họ có thêm sức mạnh và động lực trong cuộc chiến đấu
chống quân thù. Ánh lửa đuốc cháy sáng trong đêm chính là
ánh sáng của chân lý cách mạng, của niềm tin vào chính
nghĩa trong cuộc chiến không cân sức giữa ta và địch.
+ Nghệ thuật tương phản, đối lập: Hai câu thơ với bút pháp chủ đạo là
nghệ thuật tương phản, đối lập đã cho ta cái nhìn toàn diện về cuộc kháng chiến
của dân tộc.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
+ Hình ảnh thơ vừa mang nghĩa tả thực và nghĩa biểu trưng:
Hiện thực mà tác giả khắc họa là cuộc chiến đấu của nhân
dân, bộ đội rất gian khổ, bí mật thường phải chiến đấu trong
đêm tối nên cần đốt đuốc, soi đèn. Nhưng đồng thời nó cũng
mang ý nghĩa biểu tượng thông qua nghệ thuật tương phản,
đối lập.
+ Thời kỳ nô lệ tăm tối: Cụm từ thời gian “nghìn đêm” như
quay lại cả một thời kì dài đất nước ta chìm trong ách nô lệ,
tăm tối, hết nghìn năm Bắc thuộc lại Pháp thuộc. Thế nên
nhà thơ mới miêu tả bằng hình ảnh “thăm thẳm sương dày”,
để thấy cái hun hút, chưa biết điểm kết của cuộc chiến, đồng
thời là muôn vàn những cản trở,thử thách, khó khăn như
màn sương mù dày đặc đang bao phủ trong đêm đen.
+ Tương lai tươi sáng: Nghìn đêm qua đi để ta có “ngày mai”,
một ngày mới của chặng đường trong tương lai. Ngày mai ấy
sẽ có ánh đèn pha bật sáng cho đến khi hừng đông ló rạng,
soi đường, dẫn bước và chỉ lối nhân dân ta. Ánh sáng đó chỉ
có thể là ánh sáng của tự do, xua tan cái tăm tối, khổ đau của
đêm trường nô lệ.
→ Nghệ thuật tương phản đã thể hiện khát vọng và niềm tin cháy
bỏng của nhân dân ta vào chiến thắng của cuộc kháng chiến.
- Yếu tố thiên thời
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi
nhớ của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt
Bắc trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng
chiến, là niềm tin là hy vọng của cả dân tộc.
Hình ảnh Trung ương Chính phủ
+ Hiện lên thật tươi sáng: Khi quyết định rời thủ đô HN, thực hiện kế hoạch
vườn không nhà trống thì đồng thời cơ quan đầu não của TƯ đảng và
chính phủ kháng chiến cũng di chuyển lên chiến khu VB nên mới có
khung cảnh:
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần trong câu thơ sáu tiếng
như nốt luyến láy đầy vấn vương. “Ai” là người đi, đồng thời cũng
là nhân dân VB, nên câu hỏi ấy như nỗi niềm băn khoăn, tha thiết
của cả quân và dân khi nhớ về những tháng ngày nơi thủ đô gió
ngàn
+ Hình ảnh ngọn cờ đỏ sao vàng: Khi thành lập đội VN tuyên truyền
GPQ cũng là lúc lá cờ đỏ sao vàng được lấy làm quốc kì của dân
tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên cửa hang lộng
gió, phải chăng đó là hang Pác Bó, nơi lãnh tụ HCM kính yêu của
chúng ta sống và làm việc. Hình ảnh này không chỉ mang ýn ghĩa
tả thực mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho tinh thần, ý chí
quyết tâm cao độ trong cuộc kháng chiến của quân và dân ta và
niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến của dân tộc.
+ Ánh nắng mặt trời rực rỡ: Khung cảnh VB nơi chiến khu hiện lên
rực sáng bởi sự xuất hiện ánh nắng chói chang của mặt trời. Hãy
nhớ lại những tháng năm dân tộc ta phải đi qua “nghìn đêm thăm
thẳm sương dày” mới hiểu hết giá trị của ánh nắng mặt trời khi
chiếu rọi đến nơi đây. Phải chăng điều nhà thơ TH muốn nói thật
giản dị:nơi nào có Đảng, có chính phủ nơi đó có ánh sáng mặt trời,
có sự sống, có độc lập tự do. Đó là chân lý mà chàng thanh niên trẻ
tuổi Nguyễn Kim Thành đã nhận ra từ tuổi đôi mươi.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
→ Tất cả khung cảnh nơi chiến khu hiện lên thật rực rỡ, làm tấm
phông nền tươi sáng cho: “Trung ương, Chính phủ luận bàn việc
công”. Có lẽ không có hình ảnh nào tuyệt mỹ hơn ánh sáng lí
tưởng cách mạng đang tỏa khắp chiến khu, ngọn gió của tự do
đang phần phật thổi trên lá cờ tổ quốc. Tất cả soi đường chỉ lối cho
những quyết định mỗi khi hạ lệnh tổng tiến công được sáng suốt để
mang lại hiệu quả cao nhất. Thời cơ cách mạng không bao giờ lộ
ra, mà đòi hỏi sự nhận định và phân tích tình hình nhạy bén và sắc
sảo, chính xác của chính phủ kháng chiến. Đó là yếu tố quan trọng
thứ ba quyết định thắng lợi của cách mạng.
Đường lối chỉ đạo chung
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
+ Tiền tuyến: Trận chiến đấu nào cũng có hai bộ phận hậu phương và tiền
tuyến. Và hai bộ phận này phải phối hợp với nhau thật nhịp nhàng. TƯ
đảng đã điều động tiền tuyến và phát động chiến dịch thu, đông trong một
sự chỉ đạo thống nhất quyết tâm: Ðiều quân chiến dịch thu đông.
+ Hậu phương: Trong khi tiền tuyến nổ súng thì cũng là lúc hậu phương
phải tập trung cao độ cho sản xuất để hoàn thành vai trò tiếp viện cho
chiến trường. “Nông thôn phát động, giao thông mở đường/Giữ đê,
phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu”. Nông
thôn phát động bao phong trào để thi đua sản xuất: ba tốt, ba đảm đang,
chị hai năm tấn…và sự chỉ đạo còn cụ thể đến cả những việc: Giữ đê,
phòng hạn, thu lương để kịp thời chi viện cho tiền tuyến.
+ Một nhân tố kết nối hậu phương, tiền tuyến chính là bộ phận dân công,
vận tải:giao thông mở đường, để đảm bảo sự thông suốt. Vậy là không
một khâu nào chính phủ bỏ qua không bao quản, đôn đốc. Vũ khí, lương
thực, sức người, sức của liên tục được đáp ứng cho chiến khu: Gửi dao
miền ngược, thêm trường các khu.
→ Sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng đã làm cho guồng máy cách mạng của quân
ta hoạt nhịp nhàng giữa tất cả các bộ phận để phát huy cao nhất tiềm lực vốn có.
Kết quả cuộc kháng chiến
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Kết quả tất yếu của trận chiến khi có sự hội tụ đủ cả ba nhân tố: thiên thời, địa
lợi,nhân hòa là thắng lợi rực rỡ. Và cứ thế tin vui thắng trận dồn dập ùa về. Các
địa danh được nhắc đến qua phép liệt kê liên tiếp như những thắng lợi. Mà có lẽ
điều này cũng được chính chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài thơ Báo tiệp của
mình.
Trăng vào cửa sổ đòi thơ,
’Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về
Niềm vui nối tiếp những niềm vui, và đặc biệt những địa danh ấy khi nhắc đến
là sự hoài niệm về những kí ức nơi chiến khu của người ra đi.

Vai trò của Bác Hồ và chiến khu Việt Bắc


- Vai trò của Bác Hồ
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Biện pháp nghệ thuật đối lập làm nổi bật vai trò của vị lãnh tụ kính yêu và tài ba
của dân tộc. Bóng tối và sự u ám của quân thù không thể lấn át được ánh sáng
tỏa rạng từ Cụ Hồ. Đó không chỉ đơn thuần là ánh sáng của vị lãnh tụ mà còn là
linh hồn, trái tim của cuộc chiến đấu nuôi dưỡng niềm tin của cả dân tộc. Giống
như chính Tố Hữu viết về Bác, giản dị mà bao la:
Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn cỏ mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ lụa tặng già
- Vai trò của Việt Bắc
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
Chiến khu Việt Bắc được nhắc đến qua nghệ thuật đối lập: “Ở đâu đau đớn
giống nòi/Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”. Khi giống nòi dân tộc đang quằn
quại, đau khổ dưới ách nô lệ lầm than, hãy hướng trái tim, niềm tin về chiến khu
VB, nơi hội tụ cội nguồn sức mạnh. Qua biện pháp nghệ thuật này người đọc
càng thấy được vai trò của VB, cũng như tình yêu của nhà thơ dành cho VB,
cũng như vị trí VB trong trái tim và tình yêu của người ra đi.
Chiến khu trong hoài niệm: Thời gian mười lăm năm được nhắc lại lần thứ hai
trong đầy ắp ân tình và kỉ niệm. Và một sự khẳng định như lời thề son sắt:
Mười lăm năm ấy ai quên. Nhưng điều quan trọng là khi cuộc kháng chiến đi
qua mới thấy hết vai trò tiên quyết của VB trong công cuộc đấu tranh giành độc
lập của dân tộc – cái nôi của cách mạng: Quê hương cách mạng dựng nên Cộng
hoà.
Khúc hoàn ca: Tiếng ân ca tha thiết của khúc hát giao duyên của ta và mình lại
cất lên như lời thủy lời chung: Mình về mình lại nhớ ta/Mái đình Hồng Thái cây
đa Tân Trào.
Mình và ta lại quấn quýt giao hòa trong nỗi nhớ thương. Đây cũng chính là câu
trả lời của người ra đi cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình” của người ở lại.
Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa
xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt
đẹp của người cán bộ cách mạng. Và một lần nữa những địa danh thiêng liêng
được nhắc lại: Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào. Như vậy là với biến tấu
của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề
chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ “Việt Bắc” đã đạt đến độ
sâu sắc ngay trong phần một này của thi phẩm.

III. Tổng kết


Đoạn thơ thể hiện sinh động phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu cũng như đặc
điểm chung văn học 1945 - 1975, đó là khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn đậm nét trong cấu tứ, giọng điệu, ngôn từ, bút pháp nghệ thuật và hình
tượng thơ; là tính dân tộc đậm nét trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật, là
giọng điệu tâm tình ngọt ngào, thương mến…
Qua đó, đoạn trích đã thể hiện sâu sắc cảm hứng chủ đạo của cả bài thơ, đó là
nỗi nhớ thương lưu luyến trong giờ phút chia tay, là nghĩa tình thắm thiết với
Việt Bắc, quê hương cách mạng, với đất nước và nhân dân, với cuộc kháng
chiến nay đã trở thành kỉ niệm khiến niềm vui trong hiện tại luôn gắn kết với
nghĩa tình trong quá khứ và niềm tin ở tương lai. Bài thơ là khúc hát tâm tình
chung của con người Việt Nam trong kháng chiến mà bề sâu của nó là truyền
thống ân nghĩa, là đạo lí thủy chung của dân tộc./.
IV. Liên hệ, mở rộng
Tôi còn nhớ nhà thơ Tố Hữu đã từng viết về những hy sinh to lớn của dân tộc
(máu) để tạo nên những chiến công (hoa) chói lọi của lịch sử “phải bao máu
thấm trong lòng đất / Mới ánh hồng lên sắc tự hào”. Có lẽ đúng như cách nói
của Hoài Thanh về Tố Hữu “thái độ toàn tâm toàn ý vì cách mạng là nguyên
nhân chính đi đến sự thành công của thơ anh” và tôi thật sự tin rằng các nhà văn
phải cố gắng sao cho những cái làm cho bản thân anh phấn khởi hay xúc động
cũng là những cái làm cho dân tộc anh vui sướng hay đau khổ.
Cuộc đời cứ trôi đi, nếp sống của dân tộc cứ kế tiếp nhau thay đổi, nhưng
những tình tự, ý nghĩ, rung động đã được ghi bằng những hình ảnh văn chương
nghệ thuật vẫn còn mãi như một sợi dây tinh thần nối kết các lớp người, các thế
hệ, thời đại. Đứa con của dân tộc ngày nay cứ lần theo sợi dây đó mà tìm thấy
gia tộc, nguồn gốc của mình. Và có lẽ tác phẩm của Tố Hữu đã cho chúng ta cơ
hội được hành hương về lại những năm tháng hào hùng của dân tộc trong khúc
khải hoàn ca:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Bài thơ "Việt Bắc" được khép lại trong tình non nước, trong chiến thắng rộn
ràng và ở đó chân dung Bác Hồ kính yêu hiện lên. Đó là mối tình đời đời bất
diệt giống như chính nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Ngàn năm non nước mai sau /
Đời đời ơn Bác càng sâu càng bền.”. Hình ảnh Bác là động lực để dân tộc tiếp
tục chiến đấu, để “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” bởi vì:
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.”
Nhà thơ Tố Hữu từng ghi vào nhật ký câu của La Bruyere “Tất cả những gì liên
quan đến con người không hề xa lạ đối với tôi”. Và ngay cả những lời cuối cùng
ông để lại cho đời cũng không ngoài tâm niệm “Sống là cho” ấy. Những tác
phẩm của Tố Hữu là “tiếng sáo thổi lòng thời đại”, là “giao liên dẫn dắt đưa
đường” tái hiện chân thực và cảm động những sự kiện lịch sử trọng đại của
nước nhà.
Thơ ca tuôn chảy từ nguồn rung cảm hết sức sâu đậm và chân thành: sâu đậm
đến mức trở thành dung dị, chân thành đến mức hồn nhiên. Những năm chung
sống ở mảnh đất Việt Bắc đã bồi đắp cho Tố Hữu “nguồn rung cảm sâu đậm và
chân thành” đó để những vần thơ đầu tiên được cất lên nhẹ nhàng mà thiết tha:
“Mình về mình có nhớ ta”. Để từ đây là một miền nhớ bàng bạc khắp thi phẩm.
Khi đi công tác tại vùng mỏ Quảng Ninh về, Tố Hữu từng ghi trong nhật ký:
“Đời sống của công nhân đầy gian khổ, anh dũng, phải sống trong đó mà sáng
tạo. Đó là công bằng. Đó là nhân phẩm”. Tố Hữu là vậy ,là nhà thơ của nhân
dân nên hầu hết sáng tác của ông đều phục vụ cho cách mạng ,cho đất nước và
cho quần chúng.Như ông từng khẳng định trong bài thơ “Bài ca mùa xuân
1961” của mình:
“Mà nói vậy: “Trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ, và phần để em yêu…”
Khác với các nhà văn, nhà thơ chủ trương văn học vị nghệ thuật, Tố Hữu lại
theo triết lý văn học vị nhân sinh. Ông cho rằng cuộc đời là nền tảng để sáng tác
văn chương còn văn chương tái hiện cuộc đời bằng nét mực trung thực, chân
thành.

“Văn chương không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ
không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là
nơi đi tới của văn học.”

Bên cạnh đó, thi hào cho rằng cuộc sống đầy màu sắc nên nghệ thuật cũng
phong phú, đồng nghĩa với việc người nghệ sĩ cần phải sáng tạo liên tục. Quan
điểm này khá giống với tư tưởng Nam Cao, một nhà văn hiện thực tiêu biểu ở
thế kỷ XX.

“Văn chương không cần những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu
đưa cho.” – Nam Cao

Với Tố Hữu, thơ ca không chỉ là công cụ để truyền tải cảm xúc, ý tưởng mà còn
là tri âm, tri kỷ quý giá. Vì lẽ đó, từng trang thơ, từng con chữ của ông bình dị,
nhẹ nhàng mà thấm đượm tình cảm sâu sắc.

“Thơ là tiếng nói của tri âm.”

Sinh thời, Tố Hữu mong mỏi được là nhà thơ của nhân dân, “tự muốn mình là
tiếng nói của dân tộc mình” (P. Emmanuel). Ý thức sâu sắc cội nguồn sức mạnh
của dân tộc là nhân dân, sức sống của thơ nằm trong sự gắn bó với dân tộc, với
nhân dân, Tố Hữu đã sống “Đắm mình trong dân tộc mình”, gắn bó máu thịt với
nhân dân mình qua từng chặng đường lịch sử cam go và trọng đại. Nhờ biết
sống một cách tâm huyết và trách nhiệm; biết “nối cuộc đời với những đau khổ,
vui sướng, căm thù, mong ước của nhân dân mình” (Tố Hữu), biết tận lòng
“lắng nghe cuộc sống gọi từng giờ”, thơ Tố Hữu đã thực sự là “tập hành khúc
nồng nàn, đằm thắm” hòa nhịp với “cuộc sống vĩ đại, cuộc sống lao động và
đấu tranh đau khổ của muôn triệu con người làm nên lịch sử” (Tố Hữu) dưới sự
lãnh đạo của Đảng quang vinh. Và bởi thế mỗi sự kiện trọng đại trong lịch sử
của dân tộc đều để lại dấu ấn sâu đậm, đều được khúc xạ qua hồn thơ trữ tình
đằm thắm của Tố Hữu và hiện lên đầy xúc cảm trong những thi phẩm vừa có
tầm khái quát vừa ấm nóng hơi thở đời sống.
Tố Hữu đã thực sự là nhà thơ lớn của nhân dân, là “tiếng nói của dân tộc mình”.
Không ai có thể nói một cách thấm thía, xúc động, đầy yêu thương và tự hào về
dân tộc, về nhân dân mình trong thăng trầm lịch sử dựng nước, giữ nước và
dựng xây đất nước được như Tố Hữu. “Những vần thơ tươi xanh”, “những vần
thơ lửa cháy” của Tố Hữu “đã tự nhiên là sự diễn đạt sự giác ngộ của anh (Tố
Hữu) về số phận của dân tộc mình” (P. Emmanuel); là sự hội tụ, kết tinh tuyệt
diệu bản sắc Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam, tâm hồn Việt Nam và văn hóa Việt
Nam; là tài sản tinh thần quý giá của dân tộc Việt Nam.

You might also like