Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 7

ĐẤT NƯỚC

(Trích mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)


I.TÁC GIẢ Nguyễn Khoa Điềm:
- Vị trí : Nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ trưởng thành trong những năm chống Mỹ cứu nước, có
nhiều dóng góp cho sự phát triển của thơ ca dân tộc.
- Đặc điểm thơ:
+ Thơ NKĐ giàu suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người tri thức tích cực tham gia vào sự
nghiệp chung, ý thức sâu sắc trách nhiệm củ bản thân đối với đất nước
+ Ông đặc biệt thành công khi viết về Đất nước và những tình cảm thiêng liêng bền vững của con
người Việt Nam như: tình yêu quê hương Đất nước, tình mẫu tử...
II. TÁC PHẨM: Trường ca Mặt đường khát vọng:
- Hoàn cảnh ra đời: Hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971, xuất bản lần đầu 1974
- Nội dung: Viết về sự thức tỉnh của thế lệ trẻ miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, ý
thức trách nhiệm của tuổi trẻ đối với nhân dân, đất nước....
III. ĐOẠN TRÍCH: Đất Nước:
1/ Vị trí: Trích Phần đầu chương V của bản trường ca
2/ Nội dung:
- Thể hiện những cảm nhận khám phá cụ thể, mới mẻ của NKĐ về ĐN trên nhiều bình diện: chiều dài
của thời gian lịch sử, chiều rộng của không gian địa lý và chiều sâu của phong tục, tập quán.... Ở mỗi
phương diện đều thể hiện tư tưởng cốt lõi: ĐN của nhân dân.
+ Ở bình diện thời gian lịch sử: NKĐ cảm nhận ĐN trong mối quan hệ với thời gia từ quá khứ - hiện
tại và tương lai; để khẳng định ĐN có lịch sử phát triển lâu đời với những truyền thống tốt đẹp
+ Ở bình diện không gian địa lý: NKĐ khẳng định ĐN là không gian quen thuộc gắn bó với cuộc sống
của con người; ĐN có không gian bao la hùng vĩ. Vậy nên, hình ảnh ĐN hiện ra vừa thân thuộc, bình dị,
vừa thiêng liêng, lớn lao.
+ Ở bình diện chiều sâu văn hóa, NKĐ khẳng định, ĐN có bề dày truyền thống VH, đậm đà bản sắc DT
- Tư tưởng bao trùm lên đoạn thơ: ĐN của nhân dân- nhân dân bình dị vô danh đã làm nên Đất Nước.
=> Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ: “Đất Nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của
những anh hùng nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân”. “Tôi cố gắng thể hiện
hình ảnh Đất Nước giản dị, gần gũi nhất”
3/ Nghệ thuật:
- Kết cấu độc đáo, chặt chẽ: Đoạn trích có kết cấu là một cuộc trò chuyện giữa haai nhân vật trữ tình:
Anh và Em -> trả lời cho ba câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ, ĐN là gì? Ai đã làm ra Đất Nước. Từ đó
khẳng định: ĐN của nhân dân; nhân dân là người gìn giữ,xây dựng và bảo vệ ĐN.
- Sử dung chất liệu văn hóa dân gian linh hoạt, sáng tạo: Có khi lấy cả câu ca dao, khi lấy một từ,
hình ảnh trong những câu chuyện cổ. Điều này tạo ra một không gian nghệ thuật độc đáo, vừa bình dị
gần gũi, vừa lãng mạn bay bổng. Đồng thời thể hiện thấm thía chủ đề ĐN của nhân dân.
- Thể thơ tự do, các câu thơ dài ngắn đan xen rất nhịp nhàng với giọng điệu linh hoạt thể hiện được đa
dạng những cung bậc cảm xúc, suy tư của tác giả về đất nước.
- Kết hợp hài hoà yếu tố chính luận và chất trữ tình: Hình thức tâm tình trò chuyện nhỏ to làm cho ý
thơ chính luận trở nên mềm mại, uyển chuyển, giàu cảm xúc
PHÂN TÍCH:
1/ Đoạn 1( 9 câu đầu): Cảm nhận và lí giải độc đáo về cội nguồn của Đất nước:
- Mở đầu đoạn thơ là lời khẳng định: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
+ Câu thơ giản dị giống như một lời tự sự, đậm chất văn xuôi mà nhỏ nhẹ như một lời tâm sự,
trò chuyện của một cá nhân với một cá nhân cụ thể. Nhân vật trữ tình xưng “ta” vừa mang tính chất
riêng tư của đôi lứa vừa như đại diện cho một lớp người, một tập thể, bộc lộ cảm nhận, cảm xúc về ĐN
+ Giọng điệu tâm tình thủ thỉ như lời kể chuyện cổ tích, dẫn người đọc đi tìm cội nguồn đất
nước: "Đất nước có từ bao giờ?".
+ Cụm từ “Đất Nước đã có rồi” vang lên vừa như 1 lời khẳng định chắc nịch Đất Nước đã có
từ rất lâu rồi, có từ trước khi ta sinh ra và lớn lên.
- Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước:
1
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
+ Câu thơ thứ nhất, có cụm từ chỉ thời gian “ngày xửa ngày xưa”. Ngày xửa ngày xưa chỉ thời gian rất
xa, đã trôi qua từ lâu, rất lâu. Theo NKĐ, Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất
Nước có từ rất lâu đời, từ thuở bình minh sơ khai của lịch sử loài người. ĐN có từ trước khi những câu
truyện cổ ra đời, khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước
hiện diện trong truyện cổ - thế giới kì diệu bồi đắp tâm hồn con người từ thuở ấu thơ.
+ Câu thơ thứ hai, nhà thơ khẳng định : Đất Nước “bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Ý thơ gợi
nhắc phong tục ăn trầu của người Việt, gợi ta nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” - một câu
chuyện cổ tích vào loại xa xưa nhất, ngợi ca tình anh em thắm thiết, tình vợ chồng thủy chung. Miếng
trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Như
vậy, lịch sử lâu đời của đất nước gắn liền với bản sắc văn hóa dân tộc.
- Cứ như thế, lịch sử lâu đời của Đất Nước được tác giả nhìn từ chiều sâu văn hóa với những
truyền thống, đạo lí, những phong tục tập quán tốt đẹp:
+ Sự trưởng thành, lớn mạnh của Đất Nước được gợi lên từ câu thơ: Đất Nước lớn lên khi dân mình
biết trồng tre mà đánh giặc nói về. Ý thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng
trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc - niềm tự hào về truyền thống giữ nước, chống
ngoại xâm bất khuất kiên cường của nhân dân ta. Để rồi, cây tre đi vào trong văn học như một biểu
tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp
của con người Việt Nam. Chữ “lớn lên” được dùng rất chính xác, chỉ sự trưởng thành của Đất Nước,
chứa đựng niềm tin, niềm tự hào dân tộc.
+ Lịch sử lâu đời của ĐN còn gắn liền với những truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Nếu hình ảnh
dân mình trồng tre đánh giặc gợi lên truyền thống bất khuất trong suốt chặng đường dài của lịch sử dân
tộc thì hình ảnh gừng cay muối mặn trong câu thơ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn đưa ta
vào một truyền thống đã trở thành đạo lí sống của con người Việt Nam – truyền thống nghĩa tình thủy
chung. Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, câu thơ lấy ý của câu ca dao Tay nâng đĩa muối
chén gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau để ngợi ca tình cảm chân thành, bền chặt của mẹ
cha, của người dân Việt.
+ Bất khuất kiên cường trong đánh giặc, ân nghĩa thủy chung trong cuộc sống, dân tộc ta còn cần cù,
chịu thương chịu khó trong lao động. Truyền thống đó được gợi ra trong câu thơ “Hạt gạo phải một
nắng hai sương xay giã dần sàng”. Thành ngữ một nắng hai sương kết hợp với một loạt động từ xay,
giã, dần, sàng trong một dòng thơ đã làm nổi bật sự vất vả của người làm ra những hạt cơm ngọt bùi.
Thắm trong từng hạt gạo nhỏ bé, là vị mặn của mồ hôi, vị đắng cay nặng nhọc, sự vất vả "một sương hai
nắng" trên cánh đồng "Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần"
+ Cùng với truyền thống, đạo lí từ ngàn đời là những thuần phong mĩ tục( phong tục tập quán) in đậm
dấu ấn con người Việt: – Tóc mẹ thì bới sau đầu
– Cái kèo cái cột thành tên
Thật mộc mạc, thân thương trong hình ảnh tóc búi sau đầu của mẹ - một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất
riêng; trong những nếp nhà dựng lên từ cái kèo, cái cột, mái lá, tường rơm, vách đất; trong cách đặt tên
con giản dị nôm na. Những nét đẹp văn hoá cội nguồn của dân tộc dù trải qua 1000 năm Bắc thuộc được
NKĐ khái quát trong những câu thơ bình dị.
- Đoạn thơ khép lại bằng lời khẳng định Đất nước có từ ngày đó... “Ngày đó” là ngày ta có truyền
thống, có phong tục tập quán, có văn hóa.
*Nghệ thuật :
+ Cả đoạn thơ là cảm xúc thăng tiến: Từ "Đã có", “có trong”,"bắt đầu" rồi đến "lớn lên” khẳng định
sự hình thành, tồn tại và lớn mạnh của đất nước theo chiều dài thời gian.
+Thể thơ tự do với các câu thơ dài ngắn đan xen rất linh hoạt cùng hình thức trò chuyện tâm tình
làm cho ý thơ chính luận và chất trữ tình được kết hợp hài hoà, các cung bậc của cảm xúc, suy tư của tác
giả được thể hiện một cách tự nhiên.
+ Các từ ngữ và hình ảnh trong các câu ca dao, các câu truyện cổ khẳng định: Đất nước không xa xôi
trừu tượng, mà là những gì gần gũi nhất, thiêng liêng nhất quanh mỗi chúng ta. Các chữ Đất Nước điệp
lại nhiều lần và viết hoa thể hện tình cảm trân trọng, ngợi ca đối với ĐN của tác giả.

2
* Tóm lại: Chín câu thơ đầu đoạn thơ thật đặc sắc. Nó người đọc hình dung một cách toàn diện nhất về
nguồn cội của Tổ Quốc. Hơn nữa, chất liệu văn hóa dân gian đã góp phần khắc họa và tô đậm những
truyền thống cần được lưu giữ và phát huy của dân tộc. Nó khiến ai đó còn đang nhận thức mơ hồ về đất
nước suy ngẫm, cảm nhận.... Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn
dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm
yêu quý quê hương, Tổ quốc mình.
2/ Đoạn 2( 20 câu tiếp):
- Nếu như chín câu thơ đầu của đọan trích nhà thơ đi trả lời câu hỏi : Đất nước có từ bao giờ. Thì ở
đoạn thơ tiếp theo, NKĐ trả lời cho câu hỏi : Đất nước là gì?
- Để trả lời câu hỏi đó, Nguyễn Khoa Điềm đã soi chiếu Đất Nước trên các phương diện : không gian
địa lý và thời gian lịch sử.
* Đất Nước là không gian gần gũi quen thuộc:
- ĐN gắn với những kỉ niệm riêng tư của mỗi chúng ta:
“ Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm”.
- NKĐ sử dụng phép chiết tự, tách đôi khái niệm Đất Nước thành hai thành tố: “Đất là..”, “Nước
là…”. Bằng cách ấy, cái khái niệm trừu tượng xa xôi kia trở thành cụ thể và gần gũi. Thì ra đất nước
hiện hữu trong con đường đến trường, dòng sông, bến nước đầu làng - không gian gần gũi quen thuộc
trong đời sống hàng ngày. Sâu sa hơn, hình ảnh con đường, dòng sông, bến nước còn là hình ảnh của
quê hương. Như vậy, NKĐ đã đồng nhất hình ảnh ĐN thiêng liêng với hình ảnh quê hương – mảnh đất
ta sinh ra và lớn lên, luôn khắc sâu trong tiềm thức mỗi người. Bởi vậy, ĐN vừa cụ thể vừa thân quen
với tất cả mọi người
- Đất Nước không chỉ là nơi sinh ra, nuôi dưỡng con người khôn lớn mà còn là cội nguồn của tình
yêu : ĐN là nơi ta hò hẹn/ Đất là nơi em đánh rơi trong nỗi nhớ thầm. Lấy ý trong bài ca dao quen
thuộc về nỗi nhớ tha thiết của tình yêu đôi lứa,NKĐ đã có liên tưởng sáng tạo làm ý thơ có sự vận động
bất ngờ, vừa cụ thể vừa lắng đọng sâu sa. Đất Nước là nơi ghi dấu những kỉ niệm tình yêu. Đất nước là
nơi hò hẹn gặp gỡ của tình yêu. Đất nước chứng kiến cho tình yêu của con người và con người hóa tình
yêu của mình vào đất nước. Tất cả đều bình dị, cụ thể gần gũi đáng yêu với anh, và em, với mỗi chàng
trai cô gái. Nói cách khác, Đất Nước là một phần trong đời sống tinh thần, một phần trong tâm hồn con
người.
* Đất Nước là không gian mênh mông với núi sôg rừng biển rộng dài:
-Đất Nước là núi rừng sông bể, “là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, nơi con cá ngư
ông móng nước biển khơi”, là không gian hùng vĩ, đẹp tươi, vĩnh hằng, là nơi cho những câu hát điệu hò
ra đời, biểu thị đời sống tâm hồn, tình cảm của nhân dân.
-Đ. Nước là ko gian sinh tồn của giống nòi, của cộng đồng DT yêu thương: “nơi dân mình đoàn tụ”.
* Ở phương diện thời gian Thời gian "đằng đẵng”:
-Lịch sử ĐN được gợi ra từ truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết trăm trứng và giống
nòi con Lạc cháu Hồng rất cao quý của nhân dân ta: Đất là nơi chim về/ Nước là nơi rồng ở/ Lạc Long
Quân và Âu Cơ/ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
-> Nhà thơ nhắc nhở người đọc nhớ về với cội nguồn thiêng liêngcủa dân tộc qua huyền thoại chim
về, rồng ở, con rồng cháu tiên. Huyền thoại Mẹ Âu Cơ lấy cha Lạc Long Quân đẻ ra đồng bào trong bọc
trứng đem lại niềm tự hào về lịch sử xa xăm của ngày lập nước, niềm kiêu hãnh về dòng dõi con Rồng
cháu Tiên, niềm thương mến về nghĩa tình "đồng bào" thiêng liên, ruột thịt. Hai chữ "đồng bào" đã được
xác lập từ thuở sơ khai và đến thời điểm hiện tại - khi cả nước cầm súng, bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ nền
độc lập dân tộc, nó càng trở nên quý giá và có sức lay động lòng người; thể hiện ý nghĩa sâu sắc: tất cả
các dân tộc trên đất nước Việt Nam đều là anh em trong quan hệ máu thịt. Tư tưởng nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một được gợi ra chính từ hình ảnh thơ ấy. Câu thơ như một lời thầm thì về tình
non nước,về cội nguồn truyền thống ông cha. Chính nhữngtruyền thống văn hoá vững bền ấy, tạo nên
mạch ngầm chảy từ quá khứ nối liền với hiện tại và tương lai...
- Thức dậy lòng yêu nước, niềm tự hào về dòng máu Lạc Hồng, dòng máu con rồng cháu tiên, từ đó,
nhà thơ nhắc nhở thế hệ trẻ phải biết kế tục truyền thống của cha ông, của Đất Nước :
Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ/ Yêu nhau và sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần người đi trước
để lại/ Dặn dò con cháu chuyện mai sau

3
Yêu nước, lớp lớp con cháu người Việt nối bước cha ông, gánh vác trên vai trách nhiệm xây dựng và
bảo vệ đất nước. Cảm xúc và suy tư, trữ tình và chính luận khiến những câu thơ trên có sức lay động lớn
đến tâm hồn người đọc về ý thức trách nhiệm của mỗi chúng ta : truyền thống dân tộc, đạo đức cha ông,
các thế hệ con cháu phải có trách nhiệm kế thừa và phát huy.
- Quá khứ, hiện tại, tương lai đã gắn kết trong một ý thức cộng đồng bền chặt: ý thức về tổ tiên và
nguồn gốc tổ tiên, không bao giờ được quên cội nguồn dân tộc được nhà thơ khẳng định: Hàng năm ăn
đâu làm đâu / Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Câu thơ vận dụng sáng tạo câu ca dao “ Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng
Ba”. Cho nên tự trong bản thân nó đã bao hàm lời nhắc nhở về nguồn gốc, dòng giống Tổ tiên. Hai
chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc cha ông. Cúi đầu để
hướng về lịch sử về những Tổ Hùng Vương đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc, nay là nước Việt
Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu. Người Việt mình dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh
của họ luôn có một ngôi nhà chung để quay về. Đó chính là Quê cha đất Tổ Vua Hùng.
* Tóm lại: Đoạn thơ với những câu thơ tự do ngọt ngào, đằm thắm như lời tâm tình trò chuyện giữa
“anh” và “em”; với hình ảnh thơ giàu sức gợi;với vốn kiến thức phong phú và khả năng vận dụng sáng
tạo các yếu tố văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng tỏ câu hỏi Đất Nước là gì bằng quan
điểm và cái nhìn thật mới mẻ, sâu sắc. Đoạn thơ khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc,
cùng trách nhiệm mỗi con người chung tay xây dưng đất nước.
2/ Đoạn 3( 13 câu tiếp): Trách nhiệm đối với Đất Nước:
- Đoạn trích Đất Nước có kết cấu độc đáo, chặt chẽ, chia thành nhiều đoạn thơ nhỏ giống như câu trả
lòi cho các câu hỏi về Đất Nước. Tất cả được đặt dưới hình thức của một cuộc trò chuyện tâm tình của
hai nhân vật trữ tình anh, em. Cuộc trò chuyện thực chất là lời độc thoại của tác giả để gửi gắm những
suy nghĩ về Đất Nước. Đoạn thơ 13 câu tếp tục nêu những cảm nhận khám phá về ĐN, từ đó khẳng định
trách nhiệm của mỗi người đối với ĐN:
- Chín câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm nêu lên những cảm nhận của mình về đất nước. Nếu như ở
đoạn thơ trước đó trong bài thơ, tác giả nhìn nhận đất nước từ bề dày văn hoá dân tộc hàng nghìn năm
qua, thì ở đoạn này, nhà thơ suy nghĩ về đất nước từ cuộc sống hiện tại, trong các mối quan hệ riêng –
chung, cá nhân – cộng đồng, sự tiếp nối giữa các thế hệ.
+ Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định : Đất Nước ở trong mỗi con người.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước.
+ Câu thơ có từ chỉ thời gian hôm nay. Đó là thời gian của hiện tại. Đặt trong mối quan hệ với đoạn
thơ trước, nó tạo chiều dài thời gian từ quá khứ đến hiện tại:bắt đầu từ ngày xửa xửa ngày xưa -> hôm
nay. Như vậy,ĐN có lịch sử lâu đời và luôn đồng hành cùng hiện tại.
+ Số từ một phần xác định cụ thể sự tồn tại của ĐN trong mỗi con người. Đây là nhận thức sâu sắc của
nhà thơ về ĐN. ĐN không phải là khái niệm xa xôi, trừu tượng mà cụ thể hữu hình. ĐN hiện diện trong
sự sống của mỗi con người. Đất Nước có trong anh, trong em, trong tất cả mọi người dân Việt Nam. Sự
sống cảu anh, em và mọi người không chỉ là cái riêng tư mà còn là Đất Nước bởi mỗi chúng ta đều thừa
hưởng những di sản vật chất và tinh thần của ĐN của nhân dân. Có ai lớn lên không từ lời ru của mẹ, từ
câu chuyện của bà, từ hạt lúa củ khoai và mầm rau trên đồng ruộng?
 Hai câu thơ nói lên mối quan hệ gắn bó giữa cá nhân với ĐN.
- Sự gắn bó ấy được mở rộng trong bốn câu thơ tiếp:
Khi hai đứa cầm tay/ Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người/ Đất Nước vẹn tròn, to lớn
- Bốn dòng thơ làm thành hai cặp đối xứng nhau về ngôn từ: Khi... Đất Nước. Chữ cầm tay điệp lại
hai lần trong kết cấu song song ấy diễn tả sự thân thiết, tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Khi hai đứa cầm
tay là vòng tay của riêng tư đôi lứa, Đất Nước hiện hình trong những cảm xúc cá nhân. Còn khi chúng
ta cầm tay mọi người ấy là vòng tay gắn kết rộng mở, vòng tay cộng đồng khăng khít , đoàn kết, thống
nhất, bền chặt . ĐN lớn lên từ trong tình đoàn kết dâm tộc. Các tính từ “ hài hòa, nồng thắm, vẹn tròn to
lớn”. Hình ảnh này thể hiện nhận thứ sâu sắc của tác giả: Đất Nước không phải là một khái niệm trừu
tượng, càng không phải một giá trị bất biến, có sẵn. Đất Nước là kết tinh của tình đoàn kết dân tộc và
tình yêu đôi lứa của các thế hệ.

4
- Trên cơ sở mối quan hệ gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, giữa tình yêu cá nhân với tình yêu lớn của
đất nước , tác giả nghĩ về tương lai ĐN:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang ĐN đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng

Ba dòng thơ có các từ giàu ý nghĩa. Từ con ta chỉ thế hệ trẻ của ĐN - Sự xuất hiện của nhân vật này
tiếp tục là lời khẳng định: ĐN là sự tiếp nối của các thế hệ con người VN. Các từ mai này , lớn lên, đi
xa, tháng ngày mơ mộng, mỗi từ có một ý nghĩa riêng nhưng đều nói về tương lai và sự trưởng thành lớn
mạnh của ĐN. Lời thơ chứa đựng niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào tương lai tươi sáng của ĐN.
Trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến khốc liệt thời bấy giờ, những câu thơ trên còn là một khát vọng: Đất
nước sẽ hoà bình, đất nước sẽ tươi đẹp và còn nhiều hơn thế nữa.
- Từ nhận thức sâu săc về ĐN, nhà thơ nêu trách nhiệm đối với ĐN:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình……… Làm nên Đất Nước muôn đời...”
+ Cấu trúc đoạn thơ theo kiểu suy luận: Đất nước là ...nêu lên một tiền đề. Từ tiền đề ấy, nhà thơ rút
ra kết luận: phải biết.../phải biết....để làm nên.... Tuy nhiên đoạn thơ không hề gượng ép, khô khan nhờ
lời gọi ngọt ngào, tha thiết em ơi em ở đầu đoạn.
+ Hình ảnh so sánh Đất nước là máu xương của mình khẳng định ĐN là sự sống của mỗi con người,
ĐN hiện diện trong mỗi con người. Sâu sa hơn, nhà thơ muốn khái quát một chân lí: ĐN là mồ hôi,
xương máu của bao thế hệ con người VN trong lịch sử dựng và giữ nước.
+ Đất nước là máu xương còn có nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn
phải có rất nhiều hi sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống
còn của ĐN
+ Từ mệnh lệnh “ phải biết”( điệp 2 lần) mang sắc thái khẳng định mạnh mẽ trách nhiệm của mỗi
người đối với ĐN.
+ Mỗi cá nhân phải biết gắn bó và san sẻ. Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật thiết với nhau. Từ sự
gắn bó ấy mới có thể san sẻ. San sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Hoá thân
cũng có nghĩa là dâng hiến. Thời chiến, dâng hiến cả sự sống của mình. Thời bình, dâng hiến sức lực,
mồ hôi cho tổ quốc; hiến dâng cuộc đời cho đất nước trường tồn. Sự dâng hiến ấy, theo nhà thơ, là cuộc
hoá thân. Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất nước. Không có sự hoá thân
kia làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất nước muôn đời!
Những câu thơ in đậm chất duy lý (khá chặt chẽ, logic) cất lên như tiếng gọi của trái tim, vì thế nó thiết
tha, thúc giục lòng người.
Lời thơ gợi ta nhớ tới tình cảm dạt dào và trách nhiệm của cá nhân với ĐN trong thơ Chế Lan Viên:
Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi, dòng sông
( Sao chiến thắng)
Câu thơ còn tạo nhịp cầu nối giữa đoạn thơ này với đoạn thơ khám phá về thiên nhiên ĐN ở sau: Ôi
ĐN sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy / Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Tóm lại: Đoạn thơ có chất trữ tình – chính luận, khẳng định sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân
với vận mệnh chung của dân tộc. Trách nhiệm đối với ĐN xuất phát từ tình yêu ĐN thiết tha nồng nàn
3. Đoạn 4( 12 câu tiếp):
- Giọng điệu: Trữ tình - chính luận
- Nội dung: Những phát hiện mới mẻ về thiên nhiên ĐN
Suy nghĩ về mối quan hệ giũa nhân dân với ĐN
a/ Phát hiện mới mẻ về thiên nhiên ĐN:
- Đoạn thơ liệt kê hàng loạt địa danh quen thuộc, những danh lam thắng cảnh của ĐN – niềm tự hào
của con người VN bao đời nay – đưa người đọc vào cuộc hành trình của ĐN. Từ đó phác họa hình ảnh
một ĐN bao la, hùng vĩ, thơ mộng, trữ tình; gửi gắm tình yêu niềm tự hào đối vói ĐN.

5
- Các kì quan thiên nhiên xuất hiện trong đoạn thơ rất tiêu biểu, trải dài trên lãnh thổ VN từ Bắc vào
Nam. Lựa chọn các địa danh này, trước hết NKĐ muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước. Đặt
trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ, khi ĐN ta tạm thời bị chia cắt, nhà thơ còn ngầm khẳng định: VN là
một Đn tjoongs nhất, đó là một chân lí lịch sử mà không một thế lực nào có thể thay đổi, không một sức
mạnh nào có thể chia cắt. Qua đó, khơi gợi trong người đọc ý thức trách nhiệm đối với ĐN, góp phần
bảo về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.
- Những địa danh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Mỗi địa danh gắn liền với một sự tích hay một
truyền thuyết, để lại nhiều suy ngẫm trong người đọc:
+ Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái từ lâu đã trở thành biểu tượng văn hóa đẹp của con người Việt Nam.
Hòn Vọng Phu (ở Lạng Sơn) - gắn liền với tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá - là số phận,
cuộc đời những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chiến chinh. Hòn Trống Mái (ở Sầm Sơn, Thanh
Hóa) tương truyền do hai vợ chồng yêu nhau hóa thân thành trở thành biểu tượng của tình yêu thủy
chung bền vững chiến thắng mọi thử thách cuộc đời.
+ Chứng tích “ao đầm ” hình móng chân ngựa mọc đầy quanh chân núi Sóc Sơn (Hà Nội) gắn với
truyền thuyết về người anh hùng làng Gióng. Quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao
quanh núi Hi Cương (Phú Thọ) nơi đền thờ vua Hùng ngự trị...nhắc nhở chúng ta nhớ về truyền thống
đánh giặc giữ nước, công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước của cha ông.
+ Trong cảm nhận của nhà thơ, Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê
hương cùng góp cho”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm… ở vùng cực Nam Đất nước xa xôi, đó là do “những người dân nào đã góp tên”, đã đem mồ hôi,
xương máu bạt rừng, lấn biển, đào kênh, bắt sấu, bộ hổ… làm nên ? Trong cách diễn đạt của nhà
thơ, “những người dân nào” không ai biết mặt biết tên, nhưng bằng đức tính cần cù, siêng năng, dũng
cảm trong lao động sáng tạo, họ đã “góp cho”, “góp nên”, “để lại”, “góp mình”, “cùng góp cho”, “đã
góp tên làm cho ĐN ngày thêm giàu đẹp. Nhà thơ đã đem đến cho những động từ – vị ngữ ấy (góp cho,
góp nên…)nhiều ý nghĩa mới mẻ, nhiều sắc thái biểu cảm với bao liên tưởng đầy tính nhân văn..
+ Cứ như vậy, cảnh vật thiên nhiên Đất Nước qua cái nhìn của NKĐ hiện lên như một phần tâm hồn,
một phần máu thịt của nhân dân.Chính nhân dân đã ghi dấu cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi dòng sông,
tấc đất. chính nhân dân đã xây dựng nên hình sông thế núi.
b. Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên tầm khái quát: sự hóa thân của Nhân Dân vào bóng hình Đất Nước.
- Từ những hình ảnh cụ thể về mối quan hệ của nhân dân – Đất Nước, nhà thơ đã khái quát sâu sắc::
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
- Hai câu thơ là khẳng định dáng hình của Nhân Dân trong không gian Đất Nước “trên khắp ruộng
đồng gò bãi”. Ruộng đồng gò bãi… là hình ảnh thân quen của quê hương đất nước. Và nhà thơ cho rằng
bất cứ ở đâu trên đất nước Việt Nam đều mang theo “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.
Chữ “một” được điệp lại 3 lần như nhấn mạnh : Bao trùm lên xứ sở thân yêu là điệu tâm hồn, phong
cách, ước mơ hoài bão của ông cha ta là phong tục tập quán, là văn hóa Đại Việt. Nhân dân không chỉ
góp danh lam thắng cảnh, mà còn góp vào đó những giá trị tinh thần, là phong tục, tập quán, là truyền
thống văn hóa lưu dấu tới mai sau.
- Đoạn thơ được kết lại trong cảm xúc ngây ngất tự hào :
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta..”
Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử, Đất Nước có biết bao“cuộc đời đã hóa núi sông ta” mà thành.
Từ cảm thán “ôi” kết hợp chữ “ta” được láy lại 2 lần, đã tạo nên những vần thơ du dương về nhạc
điệu, nồng nàn, say đắm tự hào về cảm xúc. Giọng điệu thơ vừa đĩnh đạc hào hùng, vừa thiết tha lắng
đọng. Ý thơ giản dị mà sâu sắc khiến ta hình dung Đất Nước thật gần gũi và thân thuộc.
* Tóm lại: Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong
bài “Đất Nước”. Câu thơ mở rộng đậm đặc chất văn xuôi. Yếu tố chính luận và chất trữ tình, chất cảm
xúc hoà quyện, làm cho chất thơ dào dạt , ý tưởng sâu sắc, mới mẻ. Đất nước hùng vĩ, nhân dân anh
hùng, cần cù, hiếu học, ân nghĩa thủy chung… được nhà thơ cảm nhận với tất cả lòng yêu mến tự hào.
Chất liệu văn hóa dân gian được tác giả vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng đất nước mà nhà thơ ca
ngợi tâm hồn nhân dân, khẳng định bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam.

6
4. Đoạn còn lại( ĐÃ THI NĂM 2019)

You might also like