Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 11

Tổng quan

Đối tượng: sinh viên khối ngành khxh và nv


Mục tiêu: “ mỹ học đại cương” là môn thuộc khối kiến thức cơ bản, cung cấp cho con
người tri thức nền tảng về:
- NHững vấn đề luôn được tranh luận trong Mỹ học;
- Đối tượng nghiên cứu của Mỹ học;
- Chủ thể thẩm mỹ;
- Khách thể thẩm mỹ: cái Đẹp, cái Bi, cái Hài, cái Cao cả;
- Nghệ thuật: Định nghĩa về nghệ thuật, Nguồn gốc, Bản chất nghệ thuật, Nội dung và
cả hình thức nghệ thuật, Hình tượng nghệ thuật;
- Chức năng nghệ thuật, giáo dục thẩm mỹ;

1. Những vấn đề Mỹ học


- là một bộ phận hợp thành các khoa học triết học Mác- Lenin, Mỹ học Mac – lenin
quán triệt các quan điểm thẩm mỹ của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, khẳng định mọi niềm vui, khát vọng và những hoạt động và thực tiễn xã
hội con người trong cuộc sống đều gắn liền với hoạt động lao động và thực tiễn của
con người
- Mỹ học Mac- lenin là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực thẩm mỹ, là công cụ nhận
thức, hiểu biết, khám phá và sáng tạo quan hệ thẩm mỹ trong đời sống và trong nghệ
thuật 1 cách đúng đắn
Mỹ học là gì ?
• Mỹ học là một khoa học hợp thành các khoa học triết học. Đối tượng chủ yếu của nó
là các dạng biểu hiện của cái thẩm mỹ trong toàn bộ hoạt động đời sống con người.
Thuật ngữ quốc tế của khoa học này là Aesthétics.
• Các tư tưởng của nhân loại nghiên cứu về cái thẩm mỹ đã xuất hiện từ 500 năm
trước Công nguyên, song các tư tưởng đó thường gắn với đạo đức học, xã hội học,
luật học, văn học, sử học, nghệ thuật học. -- thời kỳ văn, sử, triết bất phân.
• Năm 1735, học giả trường Đại học Frankfurt (Đức) Alechxander Gotlieb
Baumgarten đã công bố bài báo “Những suy xét có tính chất triết học trong việc xây
dựng thi ca, trong đó, ông đặt vấn đề xây dựng một khoa nghiên cứu tình cảm song
song với khoa học nghiên cứu lý trí,
•Năm 1750, Baumgarten hoàn thành công trình Aesthétik, đồng thời giới định ranh
giới của Mỹ học trong tương quan với các khoa học khác như
sau:
Khoa logic học là khoa học nghiên cứu nhận thức hợp lý xuất phát từ lý trí. Song hận
thức của con người ta không chỉ bằng tư duy lý luận mà còn phải dựa vào cảm giác và
tình cảm nữa. Vì vậy, bên cạnh và đồng thời với khoa logic học, muốn nghiên cứu tốt
nhận thức của con người phải có khoa học nghiên cứu về tình cảm. Khoa logic học thì
nghiên cứu những quy luật của nhận thức lí tính, của nhận thức dựa vào tư duy và dạy
cho ta cách đạt được, cách nắm bắt được chân lý.
Còn Mỹ học thì phải tìm hiểu những quy luật của nhận thức, tình cảm, cảm tính; hay
nói cách khác, mỹ học giúp ta nhận thức được cái đẹp. Logic học hướng tới những
chân lý, mỹ học hướng tới cái đẹp. Mỹ học là khoa học nghiên cứu sự cảm thụ cái
đẹp”.
Mỹ học của Baumgarten

Chức năng nhận


Chức năng tính dục
thức

Các tình cảm, sự phấn khích, sự khoan khoái của con người thường thông qua các giác
quan mà có. Các giác quan đã mang lại sự đam mê quá khích và thường không tỉnh
táo, không phục tùng lý trí. Và sự xúc động tập trung nhất là lĩnh vực nghệ thuật.
Chân lý nghệ thuật chấp nhận sự ưu tiên cho tình cảm.
 Lý trí trong nghệ thuật chịu sự khoan dung của tình cảm. Mọi cái đúng, cái tốt
trong mỹ học đều được nghiên cứu từ dạng xúc cảm (Sinlichkeit). Chân lý thẩm mỹ
tồn tại dưới dạng tình cảm.

2. Cơ sở khoa học của Mỹ học


Những tư tưởng của mỹ học đã manh nha từ thời cổ đại qua quan niệm của Pythagore
(580 - 500 TCN), Heraclite (530 -470 TCN), của Soecrates (469 - 399 TCN), của
Plato (427 -347 TCN), của Aristotle (384 - 322 TCN) về cái đẹp, về hoạt động thâm
mỹ của con người. Nhưng chỉ đến giai đoạn Mac - Lenin, Mỹ học mới thực sự trở
thành một khoa học, có cơ sở triết học đúng đắn và tiêu biểu cho tư tưởng tiến bộ của
thời đại.
Mỹ học trước và sau Marx có những đặc điểm nổi bật gì?
• Mỹ học thời kỳ nguyên thủy
• Thời kỳ này chưa xuất hiện các tư tưởng về mỹ học nhưng đời sống thâm mỹ đã hình
thành và phát triển. Một số hình vẽ, hoa văn, đô vật, đặc biệt là đồ gồm được tìm thấy,
mặc dù còn rất thô sơ và trừu tượng nhưng đã mô tả đời sống tinh thần của người
nguyên thủy có xuất hiện yếu tố thẩm mỹ.
• Cơ sở cho sự sáng tạo thẩm mỹ là từ nhu cầu hướng đến sự hoàn thiện công cụ.
• Các đề tài trong đời sống thẩm mỹ người nguyên thủy có thể thấy là: Đề tài về sự
vật, đề tài về con người, đề tài về phong cảnh thiên nhiên.
Mỹ học thời kỳ cổ đại (thế kỷ thứ VIII TCN - thế kỷ thứ 4 TCN)
•Trung Quốc cổ đại: Tư tưởng Mỹ học rất ít được đề cập đến, chỉ gói gọn đầu tiên
trong chữ “Nghệ” của người Trung Quốc. “Nghệ” () lúc đầu để chỉ việc chăm sóc cây
cối, về sau mới dùng chỉ nghệ thuật. Sau đó xuất hiện chữ “họa” (E),“nhạc” (),“Thi” ()
Tuy nhiên, sự phát triển của Mỹ học ở Trung Quốc thể hiện không rõ ràng. Có lẽ, do
tính đặc thù của nền triết học mang nặng tính chính trị xã hội nên chỉ tập trung giải
quyết các vấn đề chính trị xã hội, ít quan tâm đến đời sống thẩm mỹ.
•Hy Lạp cổ đại: (TK VIII TCN - IV TCN) Giai đoạn này, Mỹ học là một bộ phận của
Triết học, nhưng là giai đoạn đặt nền móng cho toàn bộ tư tưởng triết học cũng như
Mỹ học cho thế giới phương Tây sau này.
•Nghệ thuật Hy Lạp mang tính xã hội công dân, thấm nhuần lòng tin vào vẻ đẹp và sự
cao cả của con người tự do biết đón nhận trách nhiệm. Điều này có được do tác động
của kiểu tổ chức xã hội dựa trên nguyên tắc dân chủ khẳng định vai trò và vị trí quan
trọng của con người.
•Đây cũng là lần đầu tiên vẻ đẹp toàn diện của con người trở thành lý tưởng thẩm mỹ
trong sáng, thành nguồn cảm hứng chủ yếu cho sáng tạo nghệ thuật.
Hy lạp cổ đại là thời đại của nghệ thuật điêu khắc.
Một số nhà triết học- mỹ học tiêu biểu:
Protago- con người là thước đo của muôn loài
Pitagore- Hòa điệu
Heraclite- cụ thể, tương đối.
Demoncrite- mức độ, trật tự.
Aristole- tỉ lệ, hài hòa.
Mỹ học Trung cổ phương Tây (thế kỷ IV TCN - đầu thế kỷ XIV) - Thời kỳ Mỹ học
thần học
•Đặc điểm nổi bật của tổ chức chính trị thời kỳ này là hệ thống phức tạp về đẳng cấp
của xã hội phong kiến và nhà thờ bởi cơ chế kép: Bên cạnh vương quyền là thần
quyền, nên người dân chịu hai tầng áp bức.
•Thần học thống trị tuyệt đối, những hình thái ý thức xã hội khác như Triết học, Mỹ
học, Nghệ thuật... trở thành công cụ truyền giáo.
•Tư tưởng triết học điển hình thể hiện ở hai trường phái: Chủ nghĩa kinh viện - tuyệt
đối hóa kinh thánh, lối tư duy giáo điều; Chủ nghĩa giáo điều - đặt niềm tin huyễn
hoặc vào một cuộc sống trên thiên đàng.
•Đặc điểm Mỹ học là phủ nhận cái đẹp nơi trần thế, mà tuyệt đối hóa cái đẹp trên
thiên đường. Nghệ thuật chỉ là công cụ truyền giáo, hướng đến cái đẹp tâm linh.
•Thời đại trung cổ ở phương Tây là thời đại của nghệ thuật kiến trúc. Các hình thái
kiến trúc đặc trưng: Byzantine; Roman; Gothique.
Một số nhà Mỹ học tiêu biểu:
Tertullien (160 - 230): Lòng tin về Chúa là cái đẹp duy nhất, nên trí tuệ và khoa học
không có giá trị. Tôn giáo chính là lòng tin, dựa trên cảm nhận dù nó là vô lý - “Tôi
tin bởi điều đó là vô lý”.
Augustine 354 - 430): Thừa nhận vẻ đẹp trần thế nhưng tất thảy đều do Chúa trời ban
cho. Cái gì làm người ta thích thú bằng tỉ lệ, cân xứng, hài hòa thì là đẹp.
Thomas D’Aquin (1225 - 1274): Chúa trời là nguồn gốc tỏa sáng của cái đẹp. Mọi vẻ
đẹp đều có hình thức, nhưng hình thức đó do Chúa tạo ra, nên ta có thể đánh giá nó
bằng các giác quan. Xem giác quan là cơ sở đề vươn đến cái đẹp, tuy nhiên khởi
nguyên là từ Chúa.
Mỹ học Phục hưng (thế kỷ XIV – XVI)
Mỹ học thời kỳ Phục hưng còn gọi là mỹ học nhân văn, gắn với cuộc cách mạng trên
lĩnh vực văn hóa, tư tưởng do giai cấp tư sản thực hiện. Phục hưng thực chất là khôi
phục lại sự hưng thịnh những giá trị nhân văn của nền văn hóa Hy Lạp - La Mã cổ đại
nhằm bác bỏ tư tưởng thần quyền Kitô giáo.
Với cái cớ của thời kỳ cổ đại, đó là: Coi con người là trung tâm, là thước đo của muôn
loài; Cần phải đấu tranh cho tự do của con người. Từ đó giai cấp tư sản có cơ sở để so
sánh với thời kỳ trung cổ, khi con người bị chà đạp thô bạo lên quyền sống và quyền
tự do. Với sự so sánh này, giai cấp tư sản chỉ rõ được sự thối nát, lộng quyền của nhà
thờ trung cổ và đánh thức được tinh thần đấu tranh vì con người trong lòng người dân.
Đây chính là nền tảng cho cuộc Cách mạng tư sản sau này.
Tư tưởng Mỹ học thời kỳ này:
+ Thế giới tự nhiên sinh ra, tự vận động, tự phát triển, không phải do Chúa trời tạo
nên. Con người cũng là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên, không phải do Chúa trời
tạo nên từ mẫu đất sét hay đốt xương sườn cụt.
+ Trần thế là đẹp, không phải là nơi đày ải, mà là nơi con người có thể xây dựng hạnh
phúc, chăng phải đợi ngày mai trên thiên đường.
+ Con người là trung tâm cái đẹp trong vô vàn cái đẹp của cuộc đời và con người là
trung tâm, là đối tượng của nghệ thuật. Ba mẫu người lý tưởng của thời đại:
- Người công dân anh hùng có tầm vóc khổng lồ - Thể hiện tinh thần sẵn sàng đón
nhận nhiệm vụ để xây dựng 1 xã hội mới - Tượng David của Michelangelo.
- Con người trí tuệ và nội tâm phong phú - Tác phẩm nàng Mona Lisa của Leonardo
Da Vinci.
- Doanh nghiệp tài năng - Tác phẩm Thương gia George Gisze của Bobbein.
+ Mỹ học Phục hưng là Mỹ học hành động, chưa xuất hiện các nhà Mỹ học lý luận, tư
tưởng chủ yếu thể hiện thông qua các tác phẩm nghệ thuật. Các nhà Mỹ học tiêu biểu
như:
• Ở giai đoạn mở đầu có Botticelli (1445 - 1510) với các tác phẩm “Mùa xuân”
“Venus tái sinh”.
• Ở giai đoạn cực thịnh có Leonardo Da VinCi với “Bữa tiệc ly biệt”, “Mona Lisa",
Raphael với “Trường Academy”, Michelangelo với “Người khổng lồ bị trói”.
• Ở giai đoạn suy tàn có William Shakespeare với vở kịch Hamlet.
• Nghệ thuật Phục Hưng là nghệ thuật hội họa.
Mỹ học Cổ điển Pháp (thế kỷ XVI - Thế kỷ XVII)
• Đây là thời kỳ hòa hoãn giai cấp lớn nhất và đầu tiên trong lịch sử, giữa một bên là
giai cấp tư sản đang lên với một bên là giai cấp phong kiến đang thất thế.
•Cơ chế kép này tác động mạnh mẽ tạo nên yếu tố nhị nguyên trong Triết học và cả
Mỹ học. Trong Mỹ học là sự thừa nhận cả hai thị hiếu cơ bản của hai giai cấp nổi trội
trong xã hội: giai cấp phong kiến chuộng nghĩa vụ; giai cấp tư sản chuộng dục vọng.
• Về cái đẹp: do cơ chế kép, đã tạo ra cái đẹp trở trêu giữa một bên là nghĩa vụ và một
bên là dục vọng. Sự giằng co giữa nghĩa vụ và dục vọng mà không thiên hắn về một
bên.
• Về nghệ thuật: Kịch nghệ trở thành hình thái nghệ thuật độc tôn, bởi qua đối thoại,
người diễn viên dễ dàng làm bật lên được sự giăng xé tư tưởng biểu hiện sự hòa hoãn
giữa nghĩa vụ và dục vọng. Chủ đề chính cũng là khai thác mâu thuẫn giữa giai cấp tư
sản và giai cấp phong kiến. Tác phẩm tiêu biểu của thời đại: Le Cid của Pierre
Corneille.
Mỹ học Khai sáng (thế kỷ XVIII)
•Đây là giai đoạn thế cân bằng của thời kỳ cổ điển bị phá vỡ khi triều đình phong kiến
càng lúc càng lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Về kinh tế, nền sản xuất công nghiệp cơ
khí ra đời thay thế cho nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu. Điều này đòi hỏi con người
phải có trí tuệ, có trình độ, học vấn nhất định để đáp ứng nhu cầu thời đại. Bên cạnh
đó, giai cấp tư sản đã đưa ra lý tưởng về một xã hội tự do - bình đăng bác ái thay thế
cho xã hội Phong kiến đang thối nát đã kích thích mở mang dân trí và khai sáng đầu
óc con người.
•Giai đoạn này là giai đoạn của cuộc Cách mạng tư sản 1789 đánh dấu sự lên ngôi của
giai cấp tư sản, nên Mỹ học cũng mang màu sắc tư sản. Cảm hứng cơ bản của thời đại
là cảm hứng về cuộc đổi đời.
•Sự phát triển của văn minh công nghiệp dẫn đến mở mang đô thị. Thị dân phát triển
cũng xuất hiện nhu cầu thẩm mỹ riêng. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân vật quần
chúng xuất hiện với tư cách là một đám đông.
•Về cái đẹp: Cái đẹp phải hướng đến khai mở dân trí. Cái đẹp và cái thiện phải thắng
lợi trong xã hội, thể hiện trong khoa học, trong đạo đức, pháp luật...
cao.
•Về nghệ thuật: Văn học bước lên giữ vị trí trung tâm vì một số lý do:
•Do bản chất khai sáng nên số người biết chữ càng nhiều, nhu cầu thẩm mỹ
•Kỹ thuật in ấn phát triển nhanh chóng.
•Bằng văn chương có thể diễn đạt rất rõ nét cảm hứng của thời đại - cảm hứng về một
cuộc đôi đời. Ngôn từ xuất phát từ chính cuộc sông phô thị, phản ánh được hình tượng
những con người bon chen, hy vọng đổi đời trong một xã hội đây biên động, con
người hướng đến đồng tiền.
Mỹ học Cổ điển Đức (thế kỷ XIX)
Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, nền văn minh công nghiệp đã có những thành tựu to
lớn. Nguyên lý tính hệ thống trở thành nguyên lý chung, I.Kant “cần hiểu toàn bộ thế
giới tự nhiên trong toàn bộ tính vô cùng của nó như một hệ thống duy nhất”. • Mỹ học
cổ điển Đức có công lao hệ thống hóa tư tưởng Mỹ học của con người, đồng thời mở
ra một kiểu tư duy mới - tư duy đoán định - khoa học dự báo.
Mỹ học cổ điển Đức kết tinh ở hai nhà mỹ học tiêu biểu là I. Kant và F. Hegel. •
I.Kant, các tác phẩm Mátcơva (bản dịch), 1964, tr. 206.
Immanuel Kant (1724-1804)
• Cơ sở mỹ học của I.Kant là tư tưởng về “nguyên lý về tính hệ thống” và “nguyên lý
vô cùng tận của đối tượng nhận thức”, từ đó đưa ra khái niệm “vật tự nó”.
Nhận thức là một quá trình giải mã, mở dần “chiếc hộp đen” - “vật tự nó”, song việc
nhận thức luôn có giới hạn không thể giải mã được - gọi là “lim”. Để khắc phục giới
hạn đó phải dùng phương pháp nhận thức “tiên nghiệm”. Khi lý tính bất lực, con
người quay lại bản thân mình, dùng “nội tỉnh” để nhận thức, qua đó “giác ngộ”. Nó
đột khởi như một sự “hồi âm”, nhưng là “hồi âm phản chiếu”.
• Từ quan điểm về nhận thức trên, I. Kant cho rằng “không có khoa học về cái đẹp, chỉ
có sự phán đoán về cái đẹp mà thôi”. Theo đó, con người không thể dùng tư duy lý
tính để vạch ra quy luật của cái đẹp, mà phải bằng năng lực cảm nhận qua chiêm
nghiệm đối tượng trên cơ sở phán đoán thẩm mỹ của chủ thể.
• Phán đoán thẩm mỹ phải được tiến hành theo các bước sau:
Năng lực cảm thụ thẩm mỹ, một loại trực giác đầy cảm xúc, tiên nghiệm
Năng lực đánh giá thẩm mỹ, để khám phá cái đẹp bản chất một cách vô tư, không vụ
lợi vừa có tính cá nhân, vừa có tính phổ biến.
Năng lực thỏa mãn, là đáp ứng mục đích khám phá bản chất đích thực của đối tượng
nhằm đem lại “khoái cảm tuyệt đối” của chủ thể thẩm mỹ.
Với ba năng lực trên I. Kant cho rằng:
-Cái đẹp là cái gây thích thú một cách tất yếu, phổ quát cho mọi người một cách vô tư
và bằng tính hình thức thuần túy tuyệt đối của nó.
- Năng khiếu thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ - là khả năng phản tư, cảm nhận tiên
nghiệm trước đối tượng thẩm mỹ. Đây là yêu tố quan trọng quyết định con đường đạt
được giác ngộ”. Theo I. Kant, bản thân cái đẹp tự nó đã đẹp – “vật tự nó”, con người
có thể cảm nhận, đánh giá và thưởng ngoạn nó để vươn tới cái ý niệm cao đẹp, toàn
vẹn, phổ biến. “vẻ đẹp không ở đôi má hông của người thiếu nữ mà ở trong con mắt
của kẻ si tình”.
Về cái trác tuyệt – cái cao cả.
* Khác với cái đẹp ở chỗ: cái đẹp có liên quan đến hình dạng, còn cái trác tuyệt có thể
thấy được ở cái vô dạng. Cái đẹp trực tiếp làm nảy sinh sự phấn khởi, còn cái trác
tuyệt là một sự khoái lạc nảy sinh gián tiếp.
Xét ở mặt chất, cái trác tuyệt được chia làm 3 loại:
+ Loại trác tuyệt kinh khủng: khi tình cảm về cái trác tuyệt mang lại sự khủng khiếp
hoặc buồn phiên
+ Loại trác tuyệt thanh cao: mang lại lòng khâm phục trầm lắng
+ Loại huy hoàng: gắn liền với tình cảm về cái đẹp tràn lan trên một phạm vi rộng lớn.
Xét ở mặt lực lượng, được chia làm 2 loại
+ Cái trác tuyệt toán học - chính là những cái vĩ đại một cách tuyệt đối, nghĩa là so với
nó, mọi cái khác đều bé cả.
+ Cái trác tuyệt uy lực - chính là sức mạnh tinh thần của con người vượt qua thử
thách, bất chấp mọi khó khăn, khắc phục mọi sợ hãi.
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831)
• Là nhà Triết học, Mỹ học cổ điển hàng đầu ở Đức. Đóng vai trò quyết định trong xây
dựng lý luận biện chứng về sự phát triển,
•Theo Hegel, “Mỹ học là triết học về nghệ thuật”. Đó là luận điểm quan trọng, đặt cơ
sở cho toàn bộ hệ thống mỹ học của ông.
•Xuất phát từ quan điểm duy tâm khách quan về thế giới - “ý niệm tuyệt đối” Hegel
đưa ra phạm trù “ý niệm đẹp” - bản thân cái đẹp cần được lý giải là một ý niệm, thậm
chí ý niệm ây lại mang nội dung lý tưởng.
•Nếu Kant tuyệt đối hóa cái “tôi” chủ quan thì ngược lại, Hegel đứng trên quan niệm
về lịch sử để giải quyết vấn đề cái đẹp. Chính điều này tạo ra mẫu thuẫn trong quan
niệm về cái đẹp của Hegel. Một mặt, ông thừa nhận cái đẹp trong tự nhiên và xã hội
theo quy luật riêng của nó nhưng lại cho cái đẹp đó mờ nhạt, thấp kém vì nó có tính
vật chất và khởi nguyên từ “ý niệm đẹp” - chỉ có “ý niệm đẹp” mới là cái đẹp chân
chính.
• Hegel, Mỹ học, tập 1, NXB Văn học, 1999, tr.55
• Về chủ thể sáng tạo, hoạt động sáng tạo nghệ thuật là hoạt động thống lĩnh hai
phương diện chủ quan và khách quan. Hegel đưa ra khái niệm “thiên tài trong nghệ
thuật” để nói về chủ thể nghệ sĩ, chủ thể đó thể hiện ở 3 mặt:
• Hư cấu: là óc sáng tạo, đòi hỏi chủ thể phải có biệt tài và sự mẫn cảm. Hư cấu là
phương tiện để thể hiện cái tôi bên trong nghệ sĩ.
• Tài năng: là khả năng thể hiện thực tế vào tác phẩm bằng những hình thức đặc biệt
khác nhau với cá tính khác nhau của chủ thể nghệ sĩ.
• Thiên tài: là một khả năng khái quát để sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật thực sự.
Nghệ sĩ phải có tài năng bẩm sinh cùng sự tập dợt khả năng ấy để đạt tới thiên tước
mới vượt qua giới hạn của sự khéo léo bên ngoài mà hình thành nên tác phẩm nghệ
thuật
• Người chủ thể nghệ sĩ thể hiện nội dung của mình không phải chỉ bằng hình thức
thuần túy mà còn có trực giác nhạy bén, cảm quan chính xác để nắm bắt những
khoảnh khắc biểu hiện của cái đẹp. Để làm được điều đó tài năng và thiên tài chưa đủ
mà cần phải có cảm hứng và hư cấu. Những yếu tố trên thống nhất chặt chẽ với nhau
làm nên điều kiện để tạo ra tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa.
• Tác phẩm nghệ thuật là sự kết cấu vật thể hữu hạn, nhưng nội dung mỹ cảm thì lan
tỏa vô hạn qua trí tưởng tượng và cảm nhận của mỗi người.
Từ quan điểm về chủ thể sáng tạo thẩm mỹ nêu trên, Hegel tiếp tục phân tích các khái
niệm:
- Cảm hứng: có thể xuất phát từ tâm trạng, nhưng nhiều khi cũng có từ yếu tố bên
ngoài ảnh hưởng đến. Nó là sự kết hợp giữa hoạt động của hư cấu và hoàn thành ý
định về mặt kỹ thuật với trạng thái tâm hồn của nghệ sĩ.
- Phong cách: là tư chất đặc biệt của nghệ sĩ trong việc nắm bắt bản chất của sự vật và
năng lực biểu hiện sự vật với một hình thức đặc sắc.
- Cá tính: là sự độc đáo của nghệ sĩ, là cảm hứng chủ quan, phản ánh chính xác tâm
hồn của nghệ sĩ.
- Lý tưởng: là cái hoàn thiện, thể hiện khát vọng vươn tới chân lý và luôn mang hình
thức cái đẹp. Tính vượt trước là một đặc điểm quan trọng của lý tưởng. Hegel xét lý
tưởng trong quan hệ với cái đẹp hoàn mỹ của nghệ thuật - nghệ thuật lý tưởng. Lý
tưởng và nghệ thuật luôn biện chứng, nhờ có lý tưởng, nghệ thuật mới có thể nâng cao
những sự vật vốn không có giá trị và ngược lại.
Mỹ học Marx - Lenin
•Những nhà mỹ học trước Marx có những sai lầm và phiến diện ở một số điểm như
sau:
•Coi cái thẩm mỹ là cái vốn có của ý niệm, của cá nhân con người, của tự nhiên hiện
thực;
• Coi chủ thể thẩm mỹ là chủ thể thần thánh, chủ thể sinh vật, chủ thể người cá nhân
tách biệt khỏi yêu tố xã hội;
• Coi lĩnh vực nghệ thuật là cái vượt ra ngoài bản chất xã hội đích thực của nó.
Khác với các nhà mỹ học trước đó, Marx xem xét đời sống thẩm mỹ trên tất cả các
bình diện của nó: bình diện đời sống, bình diện chủ quan, bình diện nghệ thuật -
“Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay là sự vật, hiện
thực, cái cảm giác chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực
quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn.
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.3, tr.9
•Marx coi mỹ học là một bộ phận hợp thành của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng mỹ học của ông gắn với triết học, kinh tế chính trị học
và chủ nghĩa xã hội khoa học.
• Marx khẳng định, cái thẩm mỹ là một quan hệ giữa chủ thể thẩm mỹ và đối tượng
thẩm mỹ, tuyệt đối không phải là cái vốn có của tư tưởng, của động vật hay của các
dạng tồn tại bất kỳ. Cái thẩm mỹ có nguồn gốc từ lao động, không phải là thuộc tính
sẵn có của tự nhiên. Phải băng lao động con người mới biển các hiện tượng trong tự
nhiên thành các hiện tượng thẩm mỹ gắn với xã hội loài người. Vì thế, cái thẩm mỹ là
một giá trị xã hội, tuyệt đối không phải là cái tự có theo chủ nghĩa duy tâm khách
quan, hoặc xuất phát từ tình cảm của mỗi cá nhân theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Cái thẩm mỹ không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn có tính độc lập tương
đối so với cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đã cung cấp cho mỹ học
cách nhìn toàn diện về các quan hệ thẩm mỹ trong quá trình vận động của nó, trong đó
cái thẩm mỹ là một quan hệ gồm ba mặt hợp thành:
• Mặt đối tượng trong quan hệ thẩm mỹ: Đó là cái đẹp, cái bị, cái hài, cái cao cả tồn
tại khắp mọi nơi trong đời sống xã hội.
• Mặt chủ thể trong quan hệ thẩm mỹ: Đó là các hoạt động của chủ thể thẩm mỹ; về
thị hiếu thẩm mỹ; về lý tưởng thẩm mỹ của những con người xã hội.
Tóm lại, mỹ học Marx - Lenin có những giá trị thực tiễn sau:
- Với hệ thống phạm trù có tính chất khoa học và biện chứng, là cơ sở cần thiết cho
chủ thể đi sâu vào quan hệ thẩm mỹ và là tiền đề đem lại tính năng động tự giác cho
chủ thể chỉ phối quan hệ ấy;
- Góp phần củng cố niềm tin vào con người, vào tương lai tươi sáng, khẳng định cái
đẹp và con đường hiện thực để đấu tranh cho cái đẹp thăng lợi;
- Góp phần phê bình khắc phục một cách tích cực độ lệch tự do của thị hiếu cá nhân
so với các chuẩn mực của cuộc sống
- Là công cụ phương pháp luận quan trọng hướng dẫn việc hưởng thụ thẩm mỹ đúng
đắn và đấu tranh chống các tư tưởng thẩm mỹ phản động, thị hiếu thẩm mỹ thấp hèn,
kích dâm, bạo lực do hội nhập mang lại đang có khả năng làm băng hoại các giá trị
thẩm mỹ, tỉnh hoa văn hóa của dân tộc.

3. Đối tượng của Mỹ học


Định nghĩa “Mỹ học là Triết học về nghệ thuật”đã nêu bật được đối tượng then chốt
nhất của Mỹ học là sự sáng tạo nghệ thuật, nhưng vẫn chưa làm bằng lòng tất cả các
nhà nghiên cứu, đặc biệt là những nhà nghiên cứu Macxist.
Bên cạnh sự khác nhau về cách nhìn, quan điểm, quan niệm, nguyên nhân còn nằm ở
chỗ nền văn minh nhân loại đã phát triển mạnh mẽ đã mở rộng phạm vi nghiên cứu
của Mỹ học, khiến cho đối tượng của nó là một vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ.
• Các nhà Mỹ học Macxist cho rằng quan niệm “Mỹ học là Triết học về nghệ thuật”
vô hình trung đã gạt bỏ một bộ phận hết sức quan trọng có vai trò nguồn gốc, cội rễ
của nghệ thuật, đó là đời sống thẩm mỹ.
• Mỹ học Macxist khước từ cách nhìn nghệ thuật trước hết như sự tự biểu hiện, sự
hoá thân của thế giới tâm linh người nghệ sĩ, để kiên trì luận điểm cho rằng, nghệ
thuật xét cho cùng là sự phản ánh hiện thực khách quan, một sự phản ánh năng động
và đặc thù.
7 nghiên cứu đời sống thẩm mỹ với những khách thể thẩm mỹ tồn tại không phụ
thuộc vào cảm giác, tư tưởng, tình cảm của con người.
 Cái đẹp trước hết là cuộc sống, nghĩa là một thực thể khách quan.

4. Các phương pháp của Mỹ học


Trong nghiên cứu mỹ học, việc nghiên cứu đối tượng thường được tiến hành với
phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, tức là hệ thống lý luận về phương
pháp chung đối với các ngành khoa học.
Bên cạnh đó, các phương pháp cụ thể cũng được sử dụng như mọi khoa học khác:
Phương pháp logic - lịch sử, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp so sánh,...
Các phương pháp đặc thù của nghiên cứu mỹ học, đó là: Phương pháp hệ hình,
phương pháp hình thái cấu trúc và phương pháp tổng thể luận.
Tham khảo: Lạc Quốc Khánh (2017), “Các phương pháp đặc thù trong nghiên cứu mỹ
học”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Câu hỏi ôn tập và thảo luận
1. Mỹ học đã dần trở thành khoa học độc lập như thế nào?
2. Những quan niệm về đối tượng của Mỹ học đã từng tồn tại trong lịch sử?
3. Mỹ học trước Mac và sau Mac có sự khác biệt như thế nào?

You might also like