Professional Documents
Culture Documents
Minh Lý Đạo như tôi hiểu Đại Cơ Minh full chapter download PDF
Minh Lý Đạo như tôi hiểu Đại Cơ Minh full chapter download PDF
https://ebookstep.com/product/orgia-dos-loucos-1st-edition-
ungulani-ba-ka-khosa/
https://ebookstep.com/product/90-masakan-rumahan-untuk-sebulan-
endang-indriani/
https://ebookstep.com/product/ho-chi-minh-vida-e-obra-do-lider-
da-libertacao-nacional-do-vietna-ho-chi-minh-pedro-de-oliveira-
organizador/
https://ebookstep.com/product/90-resep-masakan-menu-praktis-
untuk-sebulan-laras-kinanthi/
Genèse 5 11 Commentaire Volume 90 Études Bibliques
Nouvelle Série 1st Edition J L Hour
https://ebookstep.com/product/genese-5-11-commentaire-
volume-90-etudes-bibliques-nouvelle-serie-1st-edition-j-l-hour/
https://ebookstep.com/product/power-negara-syarifurohmat-pratama-
santoso-s-ip-christine-anggi-sidjabat-ba-ir-m-han/
https://ebookstep.com/product/dan-toc-cham-luoc-su-dohamide-do-
hai-minh-dorohiem/
https://ebookstep.com/product/le-psautier-quatrieme-livre-
ps-90-106-1st-edition-r-meynet/
https://ebookstep.com/product/sinh-ly-hoc-2019th-edition-gs-ts-
pham-thi-minh-duc/
MINH LÝ ĐẠO
NHƯ TÔI HIỂU
1 1 2
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ MINH LÝ ĐẠO NHƯ TÔI HIỂU
Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo Ấn tống lần thứ nhất 1.500 quyển
Tủ Sách NGHIÊN CỨU ĐẠI ĐẠO do công quả 24.500.000 đồng
của quý ân nhân phương danh như sau:
hướng về một trăm năm Minh Lý Đạo Khai (1924-2024)
________ 1. ĐT BÙI THỊ CẢNH. TTi Ngọc Điện Huỳnh Hà, HTCĐ Tiên Thiên. Hồi hướng 1.000.000
cửu huyền thất tổ. Gởi đợt 184.
2. Hồi hướng CỬU HUYỀN THẤT TỔ các họ Hoàng, Trần, Lâm, Đỗ, Phan, cố đạo 4.000.000
ĐẠI CƠ MINH tâm Hứa Thị Lợi, và cố đạo tâm Huỳnh Thị Nam Cừu. Gởi đợt 185.
3. ĐT ĐẶNG THỊ BẠCH TUYẾT. TT Long Phú, Bến Lức, HTCĐ Ban Chỉnh Đạo. Hồi 500.000
hướng giác linh thân phụ (ĐH Đặng Hữu Tánh, 1926-2020). Gởi đợt 182.
4. ĐH HÀ NGUYỄN NHẬT MINH. Xã đạo Phước Mỹ, họ đạo Trung Nam, HT 1.000.000
Truyền Giáo CĐ. Hồi hướng giác linh ông nội (ĐH Hà Thất, sanh năm 1918,
quy 30-3 Kỷ Hợi, 2019). Gởi đợt 182.
5. Gia đình ĐT HỒNG QUANG HƯƠNG. TTi Thanh Tịnh Đàn. Gởi 30-7. 1.000.000
6. ĐT HỒNG TRANG HƯƠNG. TTi Thanh Tịnh Đàn, Tiền Giang. Gởi đợt 184. 1.000.000
7. ĐH HUỲNH VĂN NGẤN. HTCĐ Tây Ninh. An Phú, An Giang. Gởi đợt 183. 1.000.000
8. Giáo Hữu HƯƠNG PHONG. TT Từ Vân (PN), HT Truyền Giáo CĐ. Gởi đợt 184. 500.000
9. ĐT LÊ THỊ THANH THẢO. TTi Ngọc Điện H/Hà, HTCĐ Tiên Thiên. Gởi đợt 182. 500.000
MINH LÝ ĐẠO 10. ĐH LÊ TRÍ DŨNG. TT Trung Minh, HT Truyền Giáo CĐ. Gởi đợt 183.
11. ĐH MAI NGỌC HÂN. TT Phan Thiết, HTCĐ Tây Ninh. Gởi đợt 184.
3.000.000
3.000.000
NHƯ TÔI HIỂU 12. Giác linh Giáo Hữu NGỌC MUỘI HƯƠNG (Trần Thị Muội, 65 tuổi, quy 05-7
Tân Sửu) và giác linh ĐH LÊ VĂN BIẾU (71 tuổi, quy 06-7 Tân Sửu). Cùng là
1.000.000
môn sanh HTCĐ Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý. Gởi đợt 184.
In lần thứ nhất
13. ĐT NGUYỄN HỒNG TỪ PHƯỚC. Thành Tâm Đàn, HTCĐ Minh Chơn Đạo. Hồi 1.000.000
hướng giác linh cha mẹ (ĐH Nguyễn Văn Mới và ĐT Võ Thị Quán), giác linh
Lễ Sanh Thái Bang Thanh (Nguyễn An Bang) & ĐT TỪ THỊ NHUNG TT Thành
Tâm Đàn. Kinh Xáng, Phụng Hiệp, Tân Thành, Cà Mau). Cùng gởi đợt 184.
14. Giác linh ĐT NGUYỄN THỊ ĐỨC (1947-2021). Họ đạo Từ Vân (Phú Nhuận), 2.000.000
HT Truyền Giáo CĐ. Gởi đợt 184.
15. Gia đinh tu sĩ TRẦN CÔNG KIỆP, nhà tu Trí Huệ, Tam Kỳ, HT Truyền Giáo 3.000.000
CĐ. Hồi hướng giác linh Thông Sự Trần Công Thành (sinh năm 1959; xã đạo
Phước Long, HĐ Từ Vân, Quảng Nam, quy 28-3 Nhâm Dần). Gởi đợt 182.
16. Đạo hữu TRẦN HỒNG NHI. TTi Tân Minh Quang, Thạnh Lộc, quận 12. Hồi 500.000
Nhà xuất bản HỒNG ĐỨC hướng giác linh mẹ (ĐT Phạm Hồng Châu). Gởi đợt 183.
Hà Nội 2022 17. ĐT TRẦN PHẠM ANH THƠ. Hồi hướng song thân. Gởi đợt 182. 500.000
3 2 4
NỘI DUNG GIAO CẢM
4. Kiến Trúc Của Tam Tông Miếu 57 Quyển sách này trước tiên là chỉ là sự trao đổi giữa tôi và
quý bạn, qua giáo lý, nghiên cứu thánh ngôn và luận giải của
5. Lược Giải Cách Thờ Phượng Tại Tam Tông Miếu 71
Thầy tôi, Ngài Minh Thiện, Minh Chánh… Quý Ngài viết với
6. Bác Nhã Tịnh Đường * 93 lối văn cổ kính thuở đầu thế kỷ 20, thường có nhiều từ Hán
7. Đạo Phục Của Minh Lý Đạo 108 Việt về tôn giáo, nên khó hiểu với phần đông chúng ta, nhất
là những người mới mon men vào cửa đạo. Tôi sẽ tùy theo
8. Tiền Bối Minh Chánh: Cuộc Đời Và Đạo Nghiệp 117 chút hiểu biết ít ỏi của mình mà giải thích Minh Lý Đạo một
9. Mười Hai Vị Tiền Bối Tịch Minh 135 cách thật giản dị, để chia sẻ cùng quý bạn.
10. Thay Lời Kết 143 Đạo học thì bao la rộng lớn; sự hiểu biết của tôi thì hạn
hẹp. Do đó, tập sách này chỉ là đôi lời giải thích rất đơn sơ,
Tài Liệu Tham Khảo 145
chưa đưa đến phần cốt lõi. Nếu quý bạn muốn hiểu sâu hơn
* Chữ prajñā (tiếng Sanskrit) được kinh điển Hán tạng về Minh Lý Đạo, xin đọc thêm kinh sách đã được Minh Lý
chuyển ra chữ Nho là 般若, và các cao tăng chuyển sang từ Đạo ấn tống và các bài giảng của Ngài Minh Thiện.
Hán-Việt là bát nhã. Nhưng chữ bát này không có nghĩa nào Tập sách quý bạn đang có trên tay được hình thành từ gợi
gợi liên tưởng tới trí huệ sâu rộng nên Ngài Minh Thiện (vốn ý của những anh chị lớn như ông Hiệp Lý Đại Bác Lâm Lý
là bậc túc Nho) đã chủ trương viết bác nhã, vì chữ bác gợi
Hùng (1939-2021), nữ tu Mai Thành Bùi Thị Như Kha (1928-
liên tưởng đến sự rộng lớn, thông suốt (quảng bác).
2019), v.v… và nhất là hiền huynh Huệ Khải; nếu không có sự
5 3 6
cổ vũ, khích lệ và giúp đỡ của hiền huynh, tập sách chắc chắn
sẽ không hình thành.
Nhân dịp này tôi xin chân thành tri ân quý anh chị lớn nói
trên.
Nhắc đến đây không thể nào không nhớ nghĩ đến ơn sâu
nghĩa dày của hai bậc tiền khai Minh Chánh và Minh Thiện;
chính hai vị đã mở đường, gầy dựng, và phát triển Minh Lý
Đạo cả về hữu vi cũng như vô vi.
Tập sách mỏng manh này xin nguyện làm vật phẩm bé
mọn kính thành đóng góp vào những của lễ hiến dâng lên
Tam Giáo Tổ Sư và các bậc tiền khai với tấc lòng trọn hướng
về đại lễ kỷ niệm một trăm năm ngày Minh Lý Đạo Khai
(1924-2024) sắp sửa cận kề.
Chút công đức nếu có trong muôn một, xin hồi hướng và
dâng lên: ba mẹ tôi (ông Hoàng Thiên Tích và bà Định Tướng
Lâm Tú Hoa) đã tạo cho tôi hình hài này; cô tôi (Hoàng Thị
Kỷ) đã nuôi tôi nên người; cậu mợ tôi (Tường Sơn và Huyền
Như Sơn) đã hướng tôi về con đường Minh Lý, cùng tất cả
quý bạn tôi đã có duyên gặp gỡ trong những tháng năm loay
hoay xuôi ngược trong cõi ta bà.
Rất lòng thành tín.
7 4 8
Lý là chơn tánh, là có một không hai (vô nhị thị),(2) tức là lý
tuyệt đối, là Lẽ Thật. Minh Lý nghĩa là thắp sáng Lẽ Thật,
khêu ngọn đèn thiêng đó đến mức trọn sáng (viên minh).
1. LƯỢC NGHĨA MINH LÝ ĐẠO
Đạo là con đường mà mọi người đều đi trên đó để đạt đến
Lẽ Thật. Lẽ Thật đó, tùy quan điểm, mỗi người có cách gọi
khác nhau. Có thể là Cao Đài (3) theo Cao Đài Giáo, Lý Tánh
Ba chữ Minh Lý Đạo 明理道 thấy có vẻ đơn giản nhưng có theo Khổng Giáo, Chơn Tâm hay Phật Tánh theo Phật Giáo,
rất nhiều ý nghĩa. Ba chữ này gồm cả lý thuyết và thực hành v.v...
tu thân hành đạo kiêm cả yếu khuyết luyện đơn.
Minh Lý Đạo là sự tổng hợp Tam Giáo hay Tam Tông, nên
Đơn giản nhất, ta có thể hiểu như sau: tên gọi thánh sở của Minh Lý Đạo là Tam Tông Miếu; do đó,
– Minh (động từ) là làm cho sáng tỏ. có thể nói Minh Lý Đạo là con đường dung hợp Tam Giáo
nhằm giúp ta thắp sáng Chơn Tâm, Lý Tánh để tự mình vươn
– Lý là Lẽ Thật tuyệt đối. lên (siêu việt) ngõ hầu được hiệp nhứt cùng Ngôi Một (Lẽ
– Đạo là con đường. Thật). Đây là nói về lý thuyết. Trong cuộc sống, các môn sanh
phải làm thế nào để hiệp nhứt cùng Lẽ Thật? Nói cách khác,
– Minh Lý Đạo là con đường làm sáng Lẽ Thật tuyệt đối.
các môn sanh của Minh Lý áp dụng hai chữ Minh Lý để sống
Cuốn Bố Cáo của Minh Lý Đạo giải nghĩa ba chữ Minh Lý với đức tin của mình như thế nào?
Đạo như sau:
Đức Bình Đẳng Diệu Quan Chơn Nhơn (4) giải về chữ Lý:
ĐẠO là căn bổn khá tầm mò
Lý ở đời: trung hòa, chánh trực
MINH mẫn lương tâm cạn xét dò
Động tịnh theo thước mực kỷ cương
LÝ ấy tánh chơn vô nhị thị
Người người dụng sự sống tình thương
Giải phân họa phước chẳng so đo.
Tâm minh liễu nhờ nương ở Lý.(5)
Theo trên, Minh là làm cho thật sáng lương tâm của mình.
Theo Đức Lão Tử, sự thắp sáng này phải do sự thấu hiểu (2) Vô nhị thị: Đảo ngữ của “thị vô nhị” 是無二 (là không hai).
chính mình chứ không phải sự sáng sự biết do học hỏi bên (3) Cao Đài là cái đài cao / Vượt lên tất cả đón rào ngăn che. (Đức
ngoài.(1) Quảng Đức Chơn Tiên, Tam Tông Miếu, 08-7-1981.)
(4) Ngài thế danh là Lê Văn Lợi (sanh năm 1905), nhập môn Minh
Lý Đạo (1927), giữ chức vụ: Tổng Lý Hành Pháp (1973), Tổng Lý
(1) Tri nhân giả trí; tự tri giả minh. (Đạo Đức Kinh, Chương 33) Định Pháp (1994), quy vị ngày 21-2-1995.
vi đại. Thân thân chi sái, tôn hiền chi đẳng, lễ sở sinh dã. (Trung
(5) Thánh ngôn, 19-7-1997. Dung, Chương 20). Nhị Thập Tứ Điều, Nguyễn Minh Thiện luận
(6) Dưỡng Chơn Tập, Phụ Giải Chữ Nhân, Nguyễn Minh Thiện dịch. giải.
(7) Mạnh Tử, Cáo Tử, chương cú thượng, 11. (11) Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động.
(8) Dưỡng Chơn Tập, Nguyễn Minh Thiện dịch. (Luận Ngữ, 12:1)
truyền khẩu quyết. Khẩu quyết này cũng ẩn trong chiết tự ba huệ mài đây / Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rồi. Trong đạo
Cao Đài, Kinh Cầu Tổ Phụ Đã Quy Liễu có câu: Dâng gươm huệ
kiếm xin cầm / Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.
(21) Chữ Minh 明 chiết tự gồm chữ nhật 日 và nguyệt 月. Chữ Lý 理
(16) Về các chi tiết này, xem bài 4: Kiến Trúc Của Tam Tông Miếu. gồm chữ vương 王, chữ đao 刀 và chữ khuê 圭. Xem thêm Minh Lý
(17) Thánh ngôn, 19-7-1997. Chơn Giải, và Đạo Học Chỉ Nam để rõ hơn.
Tưởng Mở Đạo Cao Đài. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2013, tr. 39.)
(5)Huyền cơ (tiếng Anh: pneumatography; tiếng Pháp: pneumato-
graphie) dùng sợi dây để “treo” (huyền 懸: hanging, suspending)
một phong bì nên chữ Nho gọi là huyền kê 懸乩. Dùng huyền cơ
để cầu Tiên thì chữ Nho gọi là huyền kê triệu Tiên 懸乩召仙.
Chắc quý bạn cũng thắc mắc về quy luật hoạt động khi Việc làm đồng tử là một việc khó khăn, nào khác chi như
Thiên điển hiệp cùng phàm điển như thế nào trên đồng tử. dắt trâu qua ống trúc. Việc đó hiền đệ nên lấy thần mà hiểu.
Không một việc nào bởi Kiền mà không nhờ Khôn, bởi Khôn
Có thể nói rằng Thiên điển là điển Trời, là dương điện; mà chẳng có Kiền.(21)
điện âm là tư tưởng người hầu đàn; đồng tử là nơi tiếp nhận
Thần Thánh đến với ta như luồng điện xuyên ngang. Mắt
cả hai loại điển nói trên. Người đồng tử sử dụng bút hay cơ
không hề thấy, tai chẳng hề nghe, mũi không đánh mùi, tay
để viết lại thông điệp, đồng tử phải để lòng thanh tịnh như
không rờ chụp được. Nó nhẹ hơn lông hồng. Hiền đệ bẻ một
tấm gương soi sáng phản chiếu mọi vật thì mới tiếp được điển
vô trần.(18) Nếu đồng tử để tâm không thì “điển vô trần” (tức cành lá để một lúc, thấy nó [héo] xào, vì nó đã tách rời sự
sống, nên mất hẳn màu tươi. Hiền đệ muốn mình còn dính mãi
Thiên điển) sẽ điều hành ngay lúc đó; nếu lòng người đa
cùng dòng điển quang, [thì] nên như sợi đồng (22) để chuyền
đoan, vướng mắc, Thiên điển sẽ bị ngăn trở, toàn bộ chỉ còn
là phàm điển.
(19) Tam Tông Miếu, 01-3-1930.
của Thầy để truyền đạo cho thiên hạ. Các con đừng tưởng việc bút
(20) Tam Tông Miếu, 01-3-1930.
cơ là việc tầm thường. (21) Kiền (Càn) và Khôn ở đây tạm hiểu như dương với âm.
(18) Tam Tông Miếu, 08-7-1967. (22) Sợi đồng: Sợi dây đồng thường dùng làm dây dẫn điện.
Tiên cơ, tà cơ, và nhơn cơ. Tất cả đều có điển. Cơ bút nào đâu giống cốt đồng
Thiên nhơn thuần định mới thông công
Tiên cơ là dùng luật huyền vi chơn lý, chánh đáng để dìu Người chưa để bước qua chơn đạo
dắt nhơn sanh như sau: Khi đồng tử định chơn thần thì tâm Tiếp điển nương cơ dạ khó mong.(26)
tịnh. Tâm tịnh [thì] minh khiếu sẽ phát lộ. Kế tiếp chơn thần
Theo bài thánh thi dẫn trên, đồng cốt là người không tu
hiện nối tiếp với Thiên điển sẽ rọi ra thành thánh giáo. Khi lập
tập, phải dựa vào khá nhiều âm thanh sắc tướng (đàn, hát
đàn phải thật thanh tịnh, đừng khua động. Nếu động thì tâm
múa chầu văn, quần áo, v.v…). Những âm thanh sắc tướng
đồng tử động [khiến cho] minh khiếu tiếp Thiên điển sẽ rời ra
này khác nhau cho mỗi giá đồng. Mỗi đồng tử chỉ đại diện
thành đứt điển.
một vài chơn linh nào đó (Cậu, Cô, Thánh…) và đề tài thường
Tà cơ là dùng mê tín dị đoan. Thiên điển quá ít, âm điển là nhơn sự tư riêng, tầm thường như về người thân đã mất,
quá nhiều, ít sự chân thật, đưa con người vào đường mê tín gia đình, xin chữa bệnh… Như vậy, theo thánh ngôn Ngài Bảo
sai lầm là lấy sự chẳng đặng chơn thật, kiếm thế cho các con Pháp Nguyễn Trung Hậu trích dẫn, đồng cốt là tà cơ hoặc
quá mê theo những sự dị đoan mà phải sai lầm. nhơn cơ.
Đức Đông Phương Lão Tổ dạy về cơ bút như sau: Muốn thông công bằng trực giác, phải thanh tịnh cầu lấy
chơn tâm. Muốn cầu lấy chơn tâm, cần quày cả ngũ quan và ý
Cơ bút là diệu pháp làm lợi cho những kẻ biết tu mà cũng
chí vào trong. Thần được duy nhứt, khí được tụ chứa, thì
làm hại cho người nông cạn. Các hiền cũng thấy cái chi có lợi
Thiên cơ Tạo Hóa cũng quy ở đó. Khỏi cần bói toán mà kiết
thì cũng có hại, hoặc thái quá bất cập. Cái họa ấy không vừa.
hung họa phước, thấy được rõ ràng. Không cần thiết lập cơ
Kẻ nghe theo cơ bút là nghe theo Thần Thánh. Cũng có đám
đàn mà cũng ứng đồng cùng trời đất.
đời rồi đây mượn Thần Thánh, mượn cơ bút để triệt hạ Thần
Thánh và cơ bút. Song phải biết cơ bút là một pháp môn mầu nhiệm để làm
ngọn đuốc đưa đường cho nhơn sanh. Khi nào người tự có
Những bài cơ bút viết ra thành bài học quý giá, mà rồi đây
đuốc của mình, thì khỏi cần cầu đuốc ngoại tha.
cũng như việc qua rồi, bài ấy là xiềng khóa của chư hiền. Đừng
mỗi cái viết thành rồi khi đốt không kịp. Bần Đạo muốn các (...) Các trò muốn bảo tồn Minh Lý, muốn cứu độ nhơn
hiền lấy bộ Tâm Kinh mà chép, lấy bộ Tâm Kinh mà xem. sanh, muốn giải thoát cho thân, phải đi mạnh vào con đường
Ngoài ra là giả tạo, là hữu hình trói buộc người, trói buộc trung đạo là trực tâm lãnh hội.(28)
mình, trói buộc Đạo. Mà các hiền cũng không nên quá lợi dụng Bài viết này chắc chắn không khỏi thiếu sót, và chỉ là suy
cơ bút hay cơ bút quá lợi dụng các hiền. nghĩ riêng của một môn sanh Đại Đạo muốn góp phần tìm
Thần Tiên luôn luôn là người đắc đạo. Cái thái quá hay bất hiểu về cách thông công để chúng ta có cái nhìn đúng đắn, tin
cập là cái không phải của Thần Tiên. Thần Tiên là Trung, là tưởng mà không mê tín.
Đạo, là Thời. Mất Thời, mất Đạo, mất Trung, dầu vị ấy có xưng
là Đại La cũng không nên vội tin. Tại sao các hiền không mở (27) Tam Tông Miếu, 04-01-1976.
(28) Tam Tông Miếu, 05-01-1966.
Nền MINH LÝ TIÊN THIÊN ĐẠI ĐẠO Vì thế, bình đẳng trong tiêu ngữ của Minh Lý nói đến là
BÌNH ĐẲNG tâm vạn giáo đồng nguyên bình đẳng tâm, là phần bản chất bất biến thường hằng. Tâm
Thiên nhơn CỘNG TÁC Thánh truyền bình đẳng là tâm từ bi đã chứng ngộ lý các pháp bình đẳng,
Đại đồng HÒA ÁI kết liên tu hành. đối với hết thảy chúng sinh không khởi cái thấy oán, thân sai
1. Bình Đẳng
(1)The United States Declaration of Independence.
Phạm trù đầu của tiêu ngữ là Bình Đẳng. Bình đẳng (2)The Universal Declaration of Human Rights (UDHR) by the United
(equal) là ngang bằng, công bằng, không có sai biệt. Phạm trù Nations General Assembly.
(3) Phật Quang Đại Từ Điển. Hòa Thượng Thích Quảng Độ dịch.
(4) Bác Nhã Tịnh Đường, 17-12-1974.
Đức Thái Thượng Đạo Tổ dạy: Cõi thế gian được dựng nên, Đạo Học Chỉ Nam mượn ví dụ để giải rõ vấn đề nầy như
tuy do phép nhiệm mầu của đấng Tạo Hóa, nhưng nếu không sau: Một khu vườn xinh xắn là một tập hợp bao cá thể, từ
có nhơn, không có vật để góp phần tô điểm cho cõi dinh hoàn những viên sỏi nhỏ bé đến làn nước xanh mờ, len lỏi dưới
nầy [thì] cũng không thể được. Như quyển Đạo Học Chỉ Nam, hàng hoa sặc sỡ, dưới cụm tùng bá uy nghi. Cái hiệp không
dầu Hưng Đạo Đại Vương, dầu Vạn Hạnh Thiền Sư sẵn có đạo tranh ấy tạo một khung cảnh phối hợp từ màu sắc đến hương
lý uyên bác đến đâu, nếu không có cõi hữu hình hữu thể này, vị, cả một ý tưởng thanh thoát của con người chiêm ngưỡng.
cũng phải đành chịu vậy. Nếu không có bộ phận thông công, Hình thể, vật thể, ngắn dài, tròn vuông, mọi sự vật mang hình
không có Thánh Hội Minh Lý, [không có] chư đệ tử phát tâm thái riêng biệt, phơi mình dưới ánh sáng thiên nhiên. Nhờ vậy
phụng thừa, không có Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, thì dầu
những nhiệm mầu vô hình kia có linh hoạt đến đâu cũng (9) Tam Tông Miếu, 27-02-1971.
Đạo Học Chỉ Nam nói: Một tình thương cao thượng thiêng Nếu bè từ tế độ, chở lấy sanh linh mà không gộp lại, kết
liêng sẽ giải quyết được vạn sự kiện của nhơn sinh. Dòng nước thành không chặt chẽ, thì bị sóng đánh gió xua, nước đùa giữa
bản thể luân lưu trong các hình tướng biến hiện sẵn có đủ vô bể thì mỗi cây trôi mỗi hướng, nhơn vật trên bè cũng bị chìm
lượng tánh để soi rọi chơn như của vạn thể chúng sanh. đắm nơi vực sâu. Nghĩa là các con phải hợp sức nhau mới làm
được việc lớn. Mà sự hợp sức cốt ở lòng yêu thương, tin cậy
Hòa Ái của Minh Lý chính là dung hòa, hòa chung nhịp nhau.
sống cùng Trời cùng người, xem mình với thiên hạ làm một,
Yêu thương, tin cậy là mối dây ràng buộc giữa nhau, tức là
tương thân tương ái, thuận lý hợp thời, thương yêu không vị
những mối lạt để cột nên bè. Lạt ấy, dây ấy là tình thương và
lợi, vì thương người chính là thương ta đó.
sự kính mến giữa nhau. Tình thương mất rồi thì mỗi người
Đức Vô Cực Từ Tôn dạy: mỗi ý, mỗi con mỗi cách, làm sao lo được việc lớn mà Trời
Phật đã trao cho để làm phương tiện lập công? (10)
Như vậy tiêu ngữ của Minh Lý Đạo gồm ba phạm trù kết
hợp chặt chẽ, không thể thiếu một. Tâm bình đẳng là khởi
đầu cho cộng tác hiệu quả, yêu thương, hòa ái, và hòa ái là
mối dây ràng buộc chúng ta thuận theo ý Trời, cùng nhau lập
công hành đạo theo thứ lớp, không phân biệt tôn giáo hay
môn phái, và cuối cùng đích đến chính là tâm bình đẳng, giải
thoát.
Đức Bác Nhã Thiền Sư dạy:
giao làm bảy lần. Người nhận hợp đồng xây cất là ông Bùi Quang
Quát. Ngày giao tiền đầu tiên là 09-9-1926 và ngày giao tiền cuối giá bình quân 9,96 đồng một tạ (100kg); như vậy, có giảm xuống
cùng là 17-02-1927. Chủ đầu tư là hai ông Âu Kiệt Lâm (1896- một chút so với giá gạo cùng loại vào năm 1925 bình quân là 10
1941) và Nguyễn Văn Xưng (1891-1957). So sánh với giá gạo ở đồng một tạ.
Sài Gòn – Chợ Lớn vào những năm 1925-1928, có thể ước tính số Nguồn: https://sites.google.com/site/nkltnguyenduchiep/tuyen
tiền 7.200 đồng nói trên tương đương khoảng 720 tạ gạo loại -tap-nguyen-dhuc-hiep/vai-tro-lua-gao-trong-doi-song-kinh-te-
một (25% tấm). Thật vậy, theo Chambre de Commerce de Saigon, va-chinh-tri-o-saigon-cho-lon-dau-the-ky-20-phan-2. Truy cập
Bulletin Bi-mensuel, 15 Fevrier 1928, gạo loại một vào năm 1928 02-8-2021.
(4) Soán truyện quẻ Trạch Lôi Tùy viết: Tùy, cương lai nhi há nhu,
động nhi duyệt. Tùy, đại hanh trinh, vô cữu, nhi thiên hạ tùy thời.
Tùy thời chi nghĩa, đại hỹ tai.
Đức Cái Thiên Cổ Phật giải: Quẻ Tùy thuộc đạo Tùy và cũng ở
ngay thời Tùy, nên người quân tử, kẻ hướng đạo phải biết nhún
nhường mà đê tâm hạ khí để làm cho được việc là hơn cả. Bởi vậy
mà ta phải tùy người, tùy thuận cái dục của đời để họ vui lòng mà
cùng ta trở về với lẽ Đạo. (Chu Dịch Huyền Giải, quyển II, Trạch
Lôi Tùy, Tam Tông Miếu xuất bản.)
(5) Kiến trúc sư Hoàng Hùng tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật
họa đồ Trung Hưng Bửu Tòa của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài
tại Đà Nẵng (1955) và được Đức Thánh Trần khen ngợi.
https://doanducthanhlg2014.wordpress.com/2008/07/08/n-2/
https://dalatarchi-tranconghoakts.blogspot.com/2014/06/kts-
ao-trong-cuong-va-cac-kts-au-tien.html.
(6) Tức 26-11 Canh Tý (theo diễn văn khai mạc lễ khánh thành).
(7) Ngũ Chi Đạo: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, và (9)Đảnh lư: Chảo lò (dụng cụ để nấu). Ở đây là biểu tượng Đạo Giáo
Phật Đạo. trong tu luyện. Bác Nhã Khai Môn (vé thi 36) nói: Tinh hóa Khí do
(8) Tam Cực: Theo thứ tự là Vô Cực, Hoàng Cực, Thái Cực (hoặc Vô thân bất động / Khí hóa Thần bởi trống lòng ư / Ý thuần, Thần
Cực, Thái Cực, Hoàng Cực). mới hườn hư / Tam gia tương kiến, đảnh lư luyện đoàn.
For his own part, considering the hazard and expense which
attended horse-racing and hawking, he was eager to proclaim the
superior attractions of cocking, as being a sport from which no such
inconveniences arose. The very qualities of the bird recommended it
—namely, ‘his Spanish gait, his Florentine policy, and his Scottish
valour in overcoming and generosity in using his vanquished
adversary.’ The ancients called him an astronomer, and he had been
‘an early preacher of repentance, even convincing Peter, the first
pope, of his holiness’s fallibility.’ ‘Further,’ says he, ‘if variety and
change of fortune be any way prevalent to engage the minds of men,
as commonly it is, to prefer one recreation to another, it will beyond
all controversy be found in cocking more than any other. Nay, the
eloquence of Tully or art of Apelles could never with that life and
exactness represent fortune metamorphosed in a battle, as doth
cocking; for here you’ll see brave attacks and as brave defiances,
bloody strugglings, and cunning and handsome retreats; here you’ll
see generous fortitude ignorant of interest,’ &c.
Mr Machrie, therefore, goes con amore into his subject, fully
trusting that his treatise on ‘this little but bold animal could not be
unacceptable to a nation whose martial 1702.
temper and glorious actions in the field
have rendered them famed beyond the limits of the Christian world;’
a sentence from which we should have argued that our author was a
native of a sister-island, even if the fact had not been indicated by his
name.
Mr Machrie gives many important remarks on the natural history
of the animal—tells us many secrets about its breeding; instructs us
in the points which imply strength and valour; gives advices about
feeding and training; and exhibits the whole policy of the pit. Finally,
he says, ‘I am not ashamed to declare to the world that I have a
special veneration and esteem for those gentlemen, within and about
this city, who have entered in society for propagating and
establishing the royal recreation of cocking (in order to which they
have already erected a cock-pit in the Links of Leith); and I earnestly
wish that their generous and laudable example may be imitated in
that degree that, in cock-war, village may be engaged against village,
city against city, kingdom against kingdom, nay, the father against
the son, until all the wars in Europe, wherein so much Christian
blood is spilt, be turned into the innocent pastime of cocking.’
Machrie advertised, in July 1711, that he was not the author of a
little pamphlet on Duelling, which had been lately published with his
name and style on the title-page—‘William Machrie, Professor of
both Swords.’ He denounced this publication as containing
ridiculous impossibilities in his art, such as ‘pretending to parry a
pistol-ball with his sword.’ Moreover, it contained ‘indiscreet
reflections on the learned Mr Bickerstaff [of the Tatler],’ ‘contrary to
his [Machrie’s] natural temper and inclination, as well as that civility
and good manners which his years, experience, and conversation in
the world have taught him.’[325]
The amusement of cock-fighting long kept a hold of the Scottish
people. It will now be scarcely believed that, through the greater part
of the eighteenth century, and till within the recollection of persons
still living, the boys attending the parish and burghal schools were
encouraged to bring cocks to school at Fasten’s E’en (Shrove-tide),
and devote an entire day to this barbarising sport. The slain birds
and fugies (so the craven birds were called) became the property of
the schoolmaster. The minister of Applecross, in Ross-shire, in his
account of the parish, written about 1790, 1702.
coolly tells us that the schoolmaster’s
income is composed of two hundred merks, with payments from the
scholars of 1s. 6d. for English, and 2s. 6d. for Latin, and ‘the cock-
fight dues, which are equal to one quarter’s payment for each
scholar.’[326]
Stage-coaches did not as yet exist, but there were a few hackneys at
Edinburgh, which might be hired into the country upon urgent
occasions. ‘The truth is, the roads will hardly allow them those
conveniences, which is the reason that the gentry, men and women,
choose rather to use their horses. However, their great men often
travel with coach-and-six, but with so little caution, that, besides
their other attendance, they have a lusty running-footman on each
side of the coach, to manage and keep it up in rough places.’
Another Englishman, who made an excursion into Scotland in
1704, gives additional particulars, but to the same general purport.
At Edinburgh, he got good French wine at 20d., and Burgundy at
10d. a quart. The town appeared to him scarcely so large as York or
Newcastle, but extremely populous, and containing abundance of
beggars. ‘The people here,’ he says, ‘are very proud, and call the
ordinary tradesmen merchants.’ ‘At the best houses they dress their
victuals after the French method, though perhaps not so cleanly, and
a soup is commonly the first dish; and their reckonings are dear
enough. The servant-maids attended without shoes or stockings.’
At Lesmahago, a village in Lanarkshire, he found the people living
on cakes made of pease and barley mixed. ‘They ate no meat, nor
drank anything but water, all the year round; and the common
people go without shoes or stockings all the year round. I pitied their
poverty, but observed the people were fresh and lusty, and did not
seem to be under any uneasiness with their 1702.
way of living.’
In the village inn, ‘I had,’ says he, ‘an enclosed room to myself,
with a chimney in it, and dined on a leg of veal, which is not to be
had at every place in this country.’ At another village—Crawford-
John—‘the houses are either of earth or loose stones, or are raddled,
and the roofs are of turf, and the floors the bare ground. They are but
one story high, and the chimney is a hole in the roof, and the
fireplace is in the middle of the floor. Their seats and beds are of turf
earthed over, and raddled up near the fireplace, and serve for both
uses. Their ale is pale, small, and thick, but at the most common
minsh-houses [taverns], they commonly have good French brandy,
and often French wine, so common are these French liquors in this
country.’
Our traveller, being at Crawford-John on a Sunday, went to the
parish church, which he likens to a barn. He found it ‘mightily
crowded, and two gentlemen’s seats in it with deal-tops over them.
They begin service here about nine in the morning, and continue it
till about noon, and then rise, and the minister goes to the minsh-
house, and so many of them as think fit, and refresh themselves. The
rest stay in the churchyard for about half an hour, and then service
begins again, and continues till about four or five. I suppose the
reason of this is, that most of the congregations live too far from the
church to go home and return to church in time.’[327]
The general conditions described by both of these travellers exhibit
little, if any advance upon those presented in the journey of the
Yorkshire squire in 1688,[328] or even that of Ray the naturalist in
1661.[329]
‘Spott, 19 May.
‘This way of proceeding, my lord, will seem verey abrupte and inconsiderat to
you; but I laye my count with the severest censer you or may malicious enemies
can or will saye of me. So, not to be tedious, all I have to speak is this: I think you
most absurd to [have] bought the lands of Spott from Mr Murray without my
consent, which you shall never have now; and I hope to be poseser of Spott hous
when you are att the divel; and believe me, my childrin’s curse and mine will be a
greater moth in your estate than all your ladey and your misirable wretchedness
can make up and pray [pay].
‘This is no letter of my lord Bell Heavins, and tho you saye, in spite of the divell,
you’le buy it befor this time twell month, you may come to repent it; but thats non
of my bisnes. I shall only saye this, you are basely impertinent to thrust me away in
a hurrey from my houss at Whitsunday, when I designed not to go till Martinmis:
and I wish the ghosts of all the witches that ever was 1703.
about Spott may haunt you, and make you the
unfortountest man that ever lived, that you may see you was in the wrong in
makeing aney such bargain without the consent of your mortal enemy,
Clara Murray.’[335]