Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 16

Nhu cầu thị trường lớn, cùng với tác động tích cực của Hiệp định thương

mại tự do Việt Nam -


Anh (UKVFTA), đang góp phần đưa việc xuất khẩu thủy sản của doanh nghiệp Việt qua thị
trường Anh tới trước cơ hội bứt phá đầy tiềm năng.

Năm 2021, Anh đứng thứ 5 trong số các thị trường đơn lẻ nhập khẩu thủy sản Việt Nam, chiếm
3,6%, với giá trị 316 triệu USD, giảm 8,3%. Việt Nam đang là nguồn cung cấp thuỷ sản lớn thứ
4 cho thị trường Anh, chiếm 7% thị phần, đứng sau Na Uy và Iceland – 2 quốc gia có thế mạnh
về cung cấp cá thịt trắng.

Sau 1 năm Việt Nam và Anh ký hiệp định thương mại tự do UKVFTA, xuất khẩu thuỷ sản Việt
Nam không có sự đột phá vì các cơ chế ưu đãi thuế quan cũng như các quy định, thủ tục liên
quan xuất khẩu sang thị trường này là sự tiếp nối của hiệp định EVFTA ký và thực hiện từ tháng
8/2020.

Nguyên nhân chính dẫn đến xuất khẩu sang Anh giảm trong năm 2021 là vì dịch Covid khiến
cho cước vận tải biển tăng cao. Nhất là trong quý III, Anh là một trong số các thị trường bị giảm
mạnh nhập khẩu từ Việt Nam với gần 30%.

Năm qua, xuất khẩu tôm chiếm vị trí chủ lực 74% giá trị thủy sản sang Anh, nhưng cũng bị giảm
3,5%. Ngoài yếu tố chi phí vận chuyển tăng, tôm Việt Nam cũng bị áp lực cạnh tranh khốc liệt
với tôm Ấn Độ tại thị trường Anh vì giá tôm Ấn Độ thấp hơn, nhất là tôm cỡ nhỏ phù hợp bán lẻ
trong bối cảnh Covid.

Cũng vì lý do trên, xuất khẩu cá tra, cá ngừ và các loại hải sản khác sang Anh trong năm 2021
đều giảm từ 20 -26% so với năm 2020.

Tuy nhiên, bước sang 2 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Anh
đạt gần 44 triệu USD, tăng 37% so với cùng kỳ năm 2021. Từ tháng 1, xuất khẩu thuỷ sản sang
thị trường này đã hồi phục mạnh mẽ, tăng 45%, sang tháng 2 tiếp tục tăng 25% so với cùng kỳ
năm trước.

Hai tháng đầu năm nay, mặt hàng tôm chiếm 76% với 33,5 triệu USD, tăng 55%. Riêng tôm
chân trắng chiếm 69% giá trị xuất khẩu thuỷ sản sang Anh với 30,4 triệu USD, tăng 54%. Tôm
sú chỉ chiếm 2,7% nhưng so với cùng kỳ năm trước tăng gấp 6 lần cho thấy tín hiệu rất lạc quan
đối với mặt hàng này tại thị trường Anh.

Cá tra chiếm 16,4% xuất khẩu sang Anh với 7,2 triệu USD, tăng nhẹ 4%. Sau khi tăng 20% trong
tháng 1, xuất khẩu cá tra sang Anh trong tháng 2 lại giảm 16% so với tháng 2/2021.

xuất khẩu cá ngừ và các loại cá biển khác sang Anh tiếp tục giảm trong 2 tháng qua, giảm lần
lượt 44% và 24% so với cùng kỳ năm trước.
Từ năm 2022, hàng loạt doanh nghiệp Việt cũng đổ bộ sang thị trường này. Hiện có 47 doanh
nghiệp Việt xuất khẩu thủy sản sang thị trường Anh, trong đó có 3 doanh nghiệp xuất khẩu lớn
nhất gồm Công ty CP thủy sản Thông Thuận - Cam Ranh, Công ty CP Chế biến Thủy sản Tài
Kim Anh, và Công ty CP Vĩnh Hoàn. Top 3 công ty này chiếm gần 30% doanh số xuất khẩu
sang Anh.

Trước tình hình xung đột Nga – Ukraine, hệ thống bán lẻ tại Anh đã có động thái tẩy chay sản
phẩm thuỷ sản từ Nga. Các siêu thị bán lẻ Asda và Wm Morrison đang loại bỏ một số sản phẩm
cá của Nga khỏi kệ bán hàng. Một số dòng cá nguyên con đang bị loại bỏ bao gồm cá minh thái
đông lạnh, cá hồi hồng đông lạnh và sản phẩm thăn cá tuyết tươi. Nga nằm trong top 11 nhà
cung cấp cá thịt trắng cho thị trường Anh, nên phản ứng tẩy chay hàng Nga của người Anh có
thể là cơ hội cho doanh nghiệp cá tra Việt Nam tăng thị phần trong những tháng tới. Việt Nam là
nguồn cung cá thịt trắng lớn thứ 6 tại Anh, chiếm 6% thị phần trong năm 2021.
Thêm vào đó, Hiệp định UKVFTA có hiệu lực từ cuối năm 2020 với những ưu
đãi về thuế quan cũng đang tạo lợi thế cạnh tranh cho thủy sản Việt Nam so
với các đối thủ khác.

Tuy vậy, các doanh nghiệp thủy sản vẫn gặp khó khan tạo ra bởi chi phí
logistics. Cụ thể, chi phí logistics vốn đã ở mức cao từ năm 2020 thì nay
chiến sự Nga - Ukraine lại góp phần làm gia tăng chi phí logistics thêm vì
căng thẳng nguyên liệu. Thêm vào đó, xung đột Nga - Ukraine cũng khiến cho
việc đặt container để xuất hàng ngày càng khó khăn, bế tắc. Những yếu tố
này đang ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu và lợi nhuận của các doanh
nghiệp sang các thị trường nói chung và sang Anh nói riêng.

Dù gặp trở ngại là vậy, với những tín hiệu gia tăng nhu cầu từ thị trường này, dự báo xuất khẩu
thuỷ sản sang Anh những tháng tới vẫn duy trì tăng trưởng dương ở mức 2 con số.

Hai tháng đầu năm 2021, có 47 doanh nghiệp Việt xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Anh. Một
số DN đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này gồm Công ty CP thuỷ sản
Thông Thuận – Cam Ranh, Công ty CP Chế biến Thuỷ sản Tài Kim Anh, Công ty CP Vĩnh
Hoàn…Top 3 công ty này chiếm gần 30% doanh số xuất khẩu sang Anh.
Nhu cầu thị trường lớn, cùng với tác động tích cực của Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam - Anh (UKVFTA), giúp việc xuất khẩu thủy
sản của doanh nghiệp Việt qua thị trường Anh đang đứng trước cơ hội
bứt phá.
Xuất khẩu tăng vọt 37%
Năm 2021, thị trường Anh đứng thứ 5 trong số các thị trường đơn lẻ nhập
khẩu thủy sản Việt Nam, chiếm 3,6%, với giá trị 316 triệu USD, giảm 8,3%.
Việt Nam đang là nguồn cung cấp thủy sản lớn thứ 4 cho thị trường Anh,
chiếm 7% thị phần, đứng sau Na Uy và Iceland - 2 quốc gia có thế mạnh về
cung cấp cá thịt trắng.

Theo bà Lê Hằng, Phó Giám đốc Trung tâm VASEP.PRO (thuộc Hiệp hội Chế
biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam- VASEP), về nguyên nhân xuất khẩu
sang Anh giảm là do trong năm 2021 dịch Covid-19 khiến cho cước vận tải
biển tăng cao khiến cho việc xuất khẩu của doanh nghiệp chậm lại. Ngoài yếu
tố chi phí vận chuyển tăng, tôm Việt Nam cũng bị áp lực cạnh tranh khốc liệt
với tôm Ấn Độ tại thị trường Anh vì giá tôm Ấn Độ thấp hơn, nhất là tôm cỡ
nhỏ phù hợp bán lẻ trong bối cảnh Covid.

Tuy nhiên, bước sang năm 2022, từ tháng 1, xuất khẩu thuỷ sản sang thị
trường này đã hồi phục mạnh mẽ, tăng 45%, sang tháng 2 tiếp tục tăng 25%
so với cùng kỳ năm trước.

Hai tháng đầu năm nay, riêng tôm chân trắng chiếm 69% giá trị xuất khẩu
thủy sản sang Anh với 30,4 triệu USD, tăng 54%. Tôm sú chỉ chiếm 2,7%
nhưng so với cùng kỳ năm trước tăng gấp 6 lần cho thấy tín hiệu rất lạc quan
đối với mặt hàng này tại thị trường Anh.

Cá tra chiếm 16,4% xuất khẩu sang Anh với 7,2 triệu USD, tăng nhẹ 4%. Sau
khi tăng 20% trong tháng 1, xuất khẩu cá tra sang Anh trong tháng 2 lại giảm
16% so với tháng 2/2021.

Xuất khẩu cá ngừ và các loại cá biển khác sang Anh tiếp tục giảm trong 2
tháng qua, giảm lần lượt 44% và 24% so với cùng kỳ năm trước.

Hiện có 47 doanh nghiệp Việt xuất khẩu thủy sản sang thị trường Anh tuy
nhiên top 3 doanh nghiệp gồm Công ty CP thủy sản Thông Thuận - Cam
Ranh, Công ty CP Chế biến Thủy sản Tài Kim Anh, Công ty CP Vĩnh Hoàn
đang chiếm gần 30% doanh số xuất khẩu sang Anh.

Triển vọng đan xen thách thức


Về triển vọng tại thị trường Anh trong năm nay, theo VASEP, thị trường này
đang có tín hiệu tốt với nhu cầu cao và dự báo những tháng tới vẫn duy trì
tăng trưởng dương ở mức 2 con số.

Sở dĩ thị trường chúng ta có cơ hội thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang Anh là
do tình hình xung đột Nga - Ukraine căng thẳng và hệ thống bán lẻ tại Anh đã
có động thái tẩy chay sản phẩm thủy sản từ Nga. Các siêu thị bán lẻ Asda và
Wm Morrison đang loại bỏ một số sản phẩm cá của Nga khỏi kệ bán hàng.
Một số dòng cá nguyên con đang bị loại bỏ bao gồm cá minh thái đông lạnh,
cá hồi hồng đông lạnh và sản phẩm thăn cá tuyết tươi.

“Nga nằm trong top 11 nhà cung cấp cá thịt trắng cho thị trường Anh, nên
phản ứng tẩy chay hàng Nga của người Anh có thể là cơ hội cho doanh
nghiệp cá tra Việt Nam tăng thị phần trong những tháng tới. Việt Nam là
nguồn cung cá thịt trắng lớn thứ 6 tại Anh, chiếm 6% thị phần trong năm
2021”- theo phân tích của bà Lê Hằng.

Sở dĩ thị trường chúng ta có cơ hội thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang Anh là
do tình hình xung đột Nga - Ukraine căng thẳng và hệ thống bán lẻ tại Anh đã
có động thái tẩy chay sản phẩm thủy sản từ Nga. Thêm vào đó, Hiệp định
UKVFTA có hiệu lực từ cuối năm 2020 với những ưu đãi về thuế quan cũng
đang tạo lợi thế cạnh tranh cho thủy sản Việt Nam so với các đối thủ khác.

Tuy vậy, cái khó hiện nay của các doanh nghiệp thủy sản vẫn là chi phí
logistics. Cụ thể, chi phí logistics vốn đã ở mức cao từ năm 2020 thì nay
chiến sự Nga - Ukraine lại góp phần làm gia tăng chi phí logistics thêm vì
căng thẳng nguyên liệu. Thêm vào đó, xung đột Nga - Ukraine cũng khiến cho
việc đặt container để xuất hàng ngày càng khó khăn, bế tắc. Những yếu tố
này đang ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu và lợi nhuận của các doanh
nghiệp sang các thị trường nói chung và sang Anh nói riêng.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu thủy
sản từ Việt Nam sang Anh tăng vọt trong 2 tháng đầu năm. Đặc biệt, các siêu thị
bán lẻ tại Anh đang hạn chế một số sản phẩm cá đông lạnh của Nga nên trong
thời gian tới có thể tạo cơ hội cho doanh nghiệp cá tra Việt Nam gia tăng thị
phần.
Theo VASEP, 2 tháng đầu năm, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường
Anh đạt gần 44 triệu USD (tăng 37% so với cùng kỳ năm 2021). Trong đó
riêng mặt hàng tôm chiếm 76% với 33,5 triệu USD, tăng 55%. Đặc biệt, xuất
khẩu tôm sú sang thị trường Anh tăng đột phá, gấp 6 lần so với cùng kỳ năm
2021. Ngoài ra, xuất khẩu tôm chân trắng sang Anh tăng vọt với 30,4 triệu
USD, tăng 54%; xuất khẩu cá tra đạt 7,2 triệu USD, tăng nhẹ 4%.

Hiệp hội VASEP cho rằng, đây là thành tích khá ấn tượng sau khi xuất khẩu
thủy sản sang Anh năm 2021 giảm mạnh. Dự báo những tháng tới, xuất khẩu
thủy sản sang Anh vẫn duy trì tăng trưởng dương ở mức 2 con số.

Nói về việc vì sao xuất khẩu thủy sản sang Anh tăng mạnh, đại diện VASEP
cho biết, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Vương quốc Anh
(UKVFTA) có hiệu lực từ cuối năm 2020 với những ưu đãi về thuế quan cũng
đang tạo lợi thế cạnh tranh cho thủy sản Việt Nam so với các đối thủ khác. Từ
năm 2022, hàng loạt doanh nghiệp Việt cũng đổ bộ sang thị trường này. Hiện
có 47 doanh nghiệp Việt xuất khẩu thủy sản sang thị trường Anh, trong đó 3
doanh nghiệp xuất khẩu lớn nhất gồm Công ty CP thủy sản Thông Thuận -
Cam Ranh, Công ty CP Chế biến Thủy sản Tài Kim Anh, và Công ty CP Vĩnh
Hoàn đang chiếm gần 30% doanh số xuất khẩu sang Anh.

Theo VASEP, hiện nay do xung đột giữa Nga và Ukraine, hệ thống bán lẻ tại
Anh có động thái hạn chế sản phẩm thủy sản từ Nga. Đây có thể đây là cơ
hội cho doanh nghiệp cá tra Việt Nam, bởi Việt Nam là nước cung cấp cá thịt
trắng lớn thứ 6 tại Anh, chiếm 6% thị phần trong năm 2021.

Nhất là trong quý III/2021, Anh là một trong số các thị trường bị giảm mạnh nhập khẩu
từ Việt Nam với gần 30%. Tuy nhiên, bước sang tháng 1/2022, xuất khẩu thuỷ sản sang
thị trường này đã hồi phục mạnh mẽ, tăng 45%, sang tháng 2/2022 tiếp tục tăng 25% so
với cùng kỳ năm trước.

Quý I/2019, giá trị nhập khẩu cá tra phile đông lạnh của Anh từ Việt Nam cũng tăng 48-
50% so với cuối năm 2019.
(HS 030471) (HS 030462)

VASEP cho rằng, năm nay, Anh tiếp tục được coi là một trong những tâm điểm thị
trường của cá tra Việt Nam tại EU. Đồng thời, VASEP dự báo nhu cầu nhập khẩu tăng
trưởng ổn định, giá tốt. Đây là những yếu tố đối với các doanh nghiệp muốn gia tăng thị
phần xuất khẩu sang EU trong năm 2019.

Cá tra

Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP) cho biết, tính tới nửa đầu tháng
3/2019, giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường Anh đạt 11,9 triệu USD, tăng 69,5% so
với cùng kỳ năm trước, chiếm 3,1% tổng xuất khẩu cá tra.
Ở thời điểm năm 2019, Anh là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của doanh nghiệp cá tra
Việt Nam tại khu vực Châu Âu. Có thể thấy rằng, trong năm 2019, giá cá tra Việt Nam
xuất khẩu sang thị trường Anh ở mức cao ở EU. Trong thời gian này, các doanh nghiệp
đang xuất khẩu chủ yếu sản phẩm cá tra phile đông lạnh sang thị trường Anh. Đây cũng
là loại sản phẩm có giá xuất khẩu cao nhất trung bình từ 1,18 - 5,3 USD/kg. Ngoài ra,
doanh nghiệp cũng xuất khẩu một số sản phẩm cá tra khác như: cá tra cắt portion đông
lạnh, cá tra cắt miếng đông lạnh, cá tra cắt khúc/khoanh đông lạnh và cá tra nguyên con
bỏ đầu, bỏ đuôi, bỏ nội tạng sang thị trường Anh. Đáng lưu ý, giá sản phẩm cá tra cắt
khúc/khoanh đông lạnh trung bình sang thị trường này đầu năm nay ở mức giá khả quan
lên tới 4,3 - 4,7 USD/kg.
Việt Nam ở thời điểm 2019 đang là nguồn cung cá thịt trắng lớn thứ 6 của thị trường Anh
(sau Iceland, Trung Quốc, Nauy, Nga và quần đảo Faroe). Theo thống kê của Trung tâm
Thương mại Quốc tế (ITC), năm 2018, nhập khẩu cá thịt trắng của thị trường này tăng
10,3% so với năm 2017, trong đó, nhập khẩu cá thịt trắng từ 6 thị trường nguồn cung lớn
nhất đều tăng, tổng nhập khẩu cá thịt trắng từ Việt Nam cũng tăng 6,7% về giá trị so với
năm 2017.

Mặc dù, đầu năm 2019, sản phẩm cá tuyết phile đông lạnh chiếm tỷ trọng lớn nhất lên tới
54% tổng cơ cấu nhập khẩu cá thịt trắng của Anh nhưng lượng nhập khẩu cá tra phile
đông lạnh cũng đang tăng dần tỷ trọng trong tổng nhập khẩu cá thịt của nước này. Theo
đà tăng lượng nhập khẩu cá tra phile đông lạnh của Anh, Việt Nam vào năm 2019 cũng
đã tăng được lượng cá tra xuất khẩu đến với tay người tiêu dùng tại Vương quốc Anh.

Trên bức tranh toàn cảnh xuất khẩu cá tra “nhạt nhòa” hơn do Covid-19 tiếp tục hoành
hành dai dẳng ở hầu khắp các thị trường lớn. Giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường Anh
đạt 31,7 triệu USD, chiếm 4,7% tổng giá trị xuất khẩu cá tra sang gần 130 thị trường,
tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Có thể nói, đây là mức tăng trưởng khả quan nhất
trong top 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất của cá tra Việt Nam trong nửa đầu năm nay.
Theo thống kê cập nhật của Trung tâm Thương mại Thế giới (ITC), 5 tháng đầu năm
2020, 91% tổng khối lượng và 90% tổng giá trị nhập khẩu cá tra của Anh từ Việt Nam.
Ngoài nhập khẩu cá tra trực tiếp từ Việt Nam, Anh còn nhập khẩu sản phẩm này qua thị
trường Đức, Indonesia, Hà Lan, Thái Lan. Tuy nhiên, có thể thấy rõ ràng rằng, xu hướng
năm 2020, Anh đã nâng dần nhập khẩu lượng cá tra đông lạnh trực tiếp từ Việt Nam thay
vì nhập khẩu qua một số cảng hay một số thị trường trung gian tại EU như các năm cũ.
Trước đó, Anh cũng thường nhập khẩu cá tra từ một số nước EU như Đức, Đan Mạch,
Hà Lan hay Ba Lan.

Nhìn vào các số liệu trong bảng, có thể dễ dàng thấy mức giá xuất khẩu cá tra phile đông
lạnh sang thị trường Anh của Việt Nam vào quý cuối năm 2019 và quý đầu năm 2020 chỉ
dao động ở khoảng 3 USD/kg do tác động trực tiếp từ đại dịch Covid thời điểm bắt đầu
bùng dịch. Với các nỗ lực kiểm soát dịch bệnh trong suốt năm 2020, giá xuất khẩu cá tra
phile đông lạnh sang thị trường Anh giữ được ở mức giá ổn định, tới tháng 12/2020 thì
mức giá quay lại mốc 3,23 USD/kg.
Năm 2020, giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường Anh tăng trưởng khả quan nhất trong tổng XK
cá tra Việt Nam. Trong đó, tháng 7/2020, giá trị XK sang Anh đạt gần 8,2 triệu USD, tăng
113,8% so với cùng kỳ năm trước và đạt gần bằng giá trị XK cá tra sang cả khối thị trường EU
(9,7 triệu USD).

Cơ cấu sản phẩm XK cá tra sang Anh cũng rất đa dạng. Đáng chú ý, giá trị XK sản phẩm cá tra
chế biến đạt mức trên 18 triệu USD, tăng gần 9,5 lần so với năm 2019. Giá trị xuất khẩu sản
phẩm cá tra tươi, khô, đông lạnh (trừ HS 0304) cũng tăng 56,7% so với năm ngoái. Nhóm sản
phẩm cá tra phile đông lạnh (HS 0304) XK sang Anh giảm nhẹ 3,3%.

Năm 2020, Việt Nam XK các sản phẩm cá tra sau sang thị trường Anh: Cá tra tẩm bột chiên sơ,
phile cá tra cắt tẩm bột chiên sơ, phile cá tra cắt khoai tây tẩm bột chiên sơ đông lạnh, cá tra
nguyên con bỏ nội tạng đông lạnh, cá tra cắt khúc đông lạnh, cá tra nguyên con đông lạnh, phile
cá tra cắt miếng đông lạnh, cá tra phile đông lạnh, bao tử cá tra đông lạnh.

Hiện nay, có hơn 40 DN cá tra tham gia XK cá tra sang thị trường Anh trong năm qua, trong đó
3 công ty có giá trị XK lớn nhất sang thị trường này là: VINH HOAN Corp, VAN DUC TG
FOOF và AGIFISH.

Theo VASEP, nếu giá trị xuất khẩu lạc quan này tiếp tục duy trì ổn định trong các quý
tới, thì mức tăng trưởng cá tra sang Anh - thị trường xuất khẩu lớn thứ 5 rất có khả năng
tăng dương hơn 10% trong năm nay.

Tôm

Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, xuất khẩu tôm Việt
Nam sang Anh có xu hướng ngày càng tăng do Anh đẩy mạnh nhập khẩu tôm nước ấm
có mức giá phải chăng thay thế cho tôm nước lạnh.

Theo VASEP, từ năm 2016 trở lại, Anh là thị trường đáng chú ý của nhiều doanh nghiệp
xuất khẩu tôm Việt Nam. Trong khối EU, Anh đang là thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất
của Việt Nam, chiếm gần 36% tổng xuất khẩu tôm của Việt Nam sang EU và chiếm 6,8%
tổng xuất khẩu tôm Việt Nam đi tất cả các thị trường.
Năm 2017, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Anh đạt 210,6 triệu USD, tăng 55,5% so với
năm 2016. Từ năm 2014 đến nay, Anh luôn ở vị trí thứ 1 và 2 về nhập khẩu tôm của Việt
Nam. Từ 2014 đến 2017, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Anh tăng trưởng liên tục từ 114,6
triệu USD năm 2014 lên 210,6 triệu USD năm 2017, tăng gần 84%.

Trong 10 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Anh giảm trong tháng 5 và
tháng 10 nên mặc dù vẫn tăng trưởng dương nhưng tốc độ tăng trưởng không cao như
năm ngoái. Tính tới 15/11/2018, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Anh đã đạt 212,1 triệu
USD, cao hơn giá trị xuất khẩu tôm Việt Nam sang Anh của cả năm 2017 (212,1 triệu
USD).
Có thể nói, Anh là một thị trường đáng lưu tâm của doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt
Nam trong khối EU vì doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này được hưởng ưu đãi về
thuế GSP giống như quy định chung trong xuất khẩu sang EU. Mặt hàng tôm chế biến
xuất xứ từ Việt Nam trên thị trường Anh đang có lợi thế cao hơn về giá bán và chất lượng
so với hàng của Ấn Độ, Bangladesh.

VASEP lưu ý, vì Anh là một thị trường với nhiều cạnh tranh từ các nguồn cung đối thủ
nên doanh nghiệp cần hiểu biết rõ về thị trường để đưa ra sản phẩm phù hợp với thị hiếu
của người tiêu dùng ở đây. Để thành công trên thị trường Anh, doanh nghiệp cần cung
cấp sản phẩm có giá tốt, khả năng đáp ứng nguồn hàng đều đặn và khả năng cải tiến phát
triển sản phẩm để bắt kịp thị hiếu của người dân.

Cụ thể, theo số liệu của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP),
kim ngạch tôm nhập khẩu từ Việt Nam chiếm phần trăm cao nhất khi đạt 220,4 triệu
USD, song so với năm trước giảm hơn 6%.

Trong khi đó ba thị trường theo sau lại có sự giảm so cùng kì gồm Ấn Độ đứng thứ hai
đạt 109,1 triệu USD giảm hơn 8%; Đan Mạch đứng thứ ba đạt gần 67 triệu USD và giảm
1,8% và Bangladesh đứng thứ tư với 4,1% giảm so với cùng kì.
Trang Seafish Trade & Tariff Tool được quản lý bởi Tổ chức hỗ trợ ngành thủy sản
Vương quốc Anh công bố lượng nhập khẩu thuỷ sản danh nghĩa của Anh từ Việt Nam.
Theo đó, có thể thấy trong 5 năm liên tiếp Việt Nam luôn nằm trong top 7 quốc gia có
lượng xuất khẩu thuỷ sản vào Vương quốc Anh và từ năm 2017 trở đi, Việt Nam chưa
từng rời khỏi vị trí top 5. Vào năm 2020, Việt Nam xếp thứ 3 với 7,8% giá trị nhập khẩu
thuỷ sản vào thị trường Anh với 251,2 triệu Bảng Anh trị giá thuỷ sản, tương đương với
331,5 triệu USD.

Từ các số liệu được cung cấp từ trang công cụ Seafish Trade & Tariff Tool, tác giả tổng
hợp lại vào bảng sau với 2 mặt hàng nghiên cứu chính là mặt hàng tôm và cá da trơn
trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.

Bảng: Lượng thuỷ sản nhập khẩu của Vương quốc Anh từ Việt Nam giai đoạn 2016-2020
Sau sự tăng trưởng đột phá trong năm 2017 về tổng lượng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
nói chung sang thị trường Anh tăng 34% và về mặt hàng tôm xuất khẩu tăng 45%, sự
phát triển trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tới Vương quốc Anh bị
chững lại và tăng trưởng với tốc độ chậm hơn, tốc độ tăng trung bình trong giai đoạn
2018-2020 rơi vào khoảng 8%.
Hoạt động xuất khẩu cá da trơn từ năm 2016 tới năm 2020 không giữ được tốc độ tăng
trưởng ổn định như mặt hàng tôm. sự tăng trưởng trong xuất khẩu cá da trơn chỉ diễn ra
vào 2 năm 2017 (tăng 9%) và 2019 (tăng 31%), năm 2020 chứng kiến mức sụt giảm tới
14% về lượng cá da trơn Vương quốc Anh nhập từ Việt Nam.
Anh giảm nhập khẩu với hầu hết loại tôm trong 4 tháng. Giảm nhiều nhất là tôm nước
lạnh đông lạnh gần 40% so cùng kì 2019 còn khoảng 9,4 triệu USD. Tôm khác đông lạnh
chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong cơ cấu các loại tôm Anh nhập khẩu đạt 400 triệu USD,
giảm hơn 7,5% cùng kì. Do người dân Anh có sự thay đổi hành vi tiêu dùng khi xảy ra
đại dịch vói tỷ lệ dùng các sản phẩm đóng hộp tăng lên mạnh mẽ phục vụ cho thời điểm
giãn cách xã hội và đồng thời các dịch vụ ăn uống đóng cửa tạm dừng kinh doanh, mặt
hàng tôm đóng hộp kín khí đã vươn lên trở thành mặt hàng tôm ưa chuộng của người tiêu
dùng Anh, tăng lên 18,1%.

Những quy định quá khắt khe của EU khiến khó tăng được xuất khẩu sang EU: Châu Âu
ngoài những quy định về kiểm soát iuu (chống khai thác bất hợp pháp và không báo cáo,
không theo quy định), thì còn đưa những quy định khắt khe về ATTP với hải sản nói
chung và cá ngừ nói riêng. Đó là các tàu khai thác, hoặc phải có EU code (được EU công
nhận đạt điều kiện ATTP), hoặc tàu khai thác đó phải được CQTQ nước mà tàu đó treo
cờ chứng nhận rằng tương đương EU về điều kiện ATTP; hoặc như quy định thủ tục
kiểm soát trong nước đối với “giấy chứng nhận ATTP” của lô nguyên liệu nhập khẩu để
sản xuất xuất khẩu vào EU phải được ghi “… phù hợp yêu cầu của EU”… những quy
định này cản trở đáng kể việc xuất khẩu cá ngừ nói riêng và hải sản nói chung sang châu
Âu.

4.1. Đối với doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản
Thứ nhất, các doanh nghiệp nên chủ động tìm hiểu luật pháp, đặc biệt là những
thay đổi trong những quy định của EU. Việc không cập nhật thông tin thường
xuyên sẽ khiến các doanh nghiệp rơi vào thế bị động và sẽ gặp rủi ro cao. Ngoài
ra, các doanh nghiệp cũng phải có những biện pháp tích cực để đối phó mỗi khi
xảy ra tranh chấp thương mại. Doanh nghiệp nên thông qua các hiệp hội của
mình, các cơ quan chuyên nghiệp để nắm bắt thông tin về hàng rào kỹ thuật của
thị trường, và do đó khi làm ăn tại thị trường này cần có sự tư vấn của các đối
tác sở tại.
Thứ hai, doanh nghiệp cần chú ý nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản xuất
khẩu. Thị trường EU vẫn là một thị trường khó tính với những đòi hỏi khắt khe về
chất lượng sản phẩm nên doanh nghiệp cần bám sát các kết quả nghiên cứu thị
trường về thị hiếu người tiêu dùng, các yếu tố liên quan đến sức khỏe con
người, từ đó chào bán sản phẩm an toàn cho người sử dụng với mẫu mã, chất
lượng cải tiến, đa tiện ích, giá cạnh tranh.
Thứ ba, đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm ngay từ cơ sở sản xuất
(bao gồm cơ sở hạ tầng và quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn HACCP. Ngoài ra,
các DN chế biến và xuất khẩu thủy sản cần phải hiểu rõ một số quy định chung
của EU liên quan tới quy tắc vệ sinh thực phẩm có nguồn gốc động vật, dư
lượng cho phép một số chất nhất định với sản phẩm thủy sản.
Thứ tư, nắm vững và hiểu rõ quy tắc xuất xứ của sản phẩm. Cần lưu ý rằng mặt
hàng thủy sản Việt Nam được coi là có xuất xứ thuần túy nếu như các sản phẩm
thủy sản được sinh ra và nuôi lớn tại các trang trại thủy sản trong nước hoặc thu
được qua quá trình đánh bắt trong lãnh hải mà Việt Nam có quyền khai thác độc
quyền. Doanh nghiệp cần phối hợp tốt với những nhà nuôi trồng, đánh bắt thủy
hải sản trong việc tuân thủ quy tắc xuất xứ hàng hóa. Doanh nghiệp cần chú ý
thu mua nguyên liệu hải sản được khai thác hợp pháp, có nguồn gốc, xuất xứ rõ
ràng, không thu mua hải sản của các ngư dân vi phạm, từ những hoạt động khai
thác không có giấy phép, không có nhật ký và không báo cáo theo quy định hoặc
khai thác bằng ngư cụ bị cấm.
Thứ năm, chuẩn bị các điều kiện vượt qua các biện pháp chống bán phá giá,
chống trợ cấp và các biện pháp tự vệ thương mại. Ngoài những yêu cầu về
SPS, TBT, ROO, thị trường EU vẫn có khả năng tiếp tục áp dụng các biện pháp
phòng vệ thương mại như chống bán phá giá và chống trợ cấp.
Thứ sáu, nỗ lực tận dụng EVFTA. EVFTA dự kiến sau khi có hiệu lực sẽ giảm
thiểu các hàng rào thương mại bất hợp lý, tăng tính công khai, minh bạch, có thể
dự báo khi triển khai các biện pháp phòng vệ thương mại, kiểm dịch động thực
vật, cũng như rào kỹ thuật. Vì vậy, các doanh nghiệp có thể tận dụng những cam
kết này để tránh hoặc giảm thiểu nguy cơ đối mặt với các rào cản thương mại
phi thuế mà EU đang và sẽ áp dụng với thủy sản nhập khẩu nói chung và thủy
sản từ Việt Nam nói riêng.

4.2. Đối với nhà nước và các cơ quan hữu quan


Phương hướng
Sau những tìm hiểu cùng nghiên cứu về thực trạng xuất khẩu hàng thuỷ sản trong thời gian vừa
qua theo nhiều góc độ: kim ngạch xuất khẩu, tốc độ xuất khẩu, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và
hoạt động thâm nhập vào thị trường Anh của ngành thuỷ sản, cố một số các phương hướng được
đề xuất nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Vương quốc Anh trong thời gian tới là:
- Tiếp tục đầu tư về công nghệ, nâng cao công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho ngành
thuỷ sản nhằm gia tăng năng lực chế biến để tạo ra được những mặt hàng xuất
khẩu có giá trị gia tăng cao hơn, khai thác được lợi thế về việc giảm thuế suất thuế
nhập khẩu mà Hiệp định UKVFTA mang lại từ khi có hiệu lực. Đây là phương
hướng vô cùng quan trọng bởi lẽ những mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt
Nam sang thị trường Anh hầu hết vẫn là hàng sơ chế, hàng đông lạnh thuần tuý,
mang lại giá trị chưa cao. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt còn xuất khẩu thuỷ
sản nhiều theo hướng gia công xuất khẩu hay gia công tái xuất. Khi nhìn vào chuỗi
cung ứng toàn cầu thì các doanh nghiệp nước ta đang tạo ra ít giá trị nhất dù là nơi
phải tốn nhiều nguồn lực nhất, đặc biệt là nhân lực. Do đó, chỉ có đầu tư tạo ra
những sản phẩm thuỷ sản chế biến sâu thì mới tạo được chỗ đứng vững chắc trên
thị trường Anh nói riêng và thị trường Châu Âu nói chung, từ đó mới tiến triển
được kế hoạch phân phối trực tiếp mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam sang Anh.
- Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tiếp tục xây dựng và đẩy mạnh việc hoàn thiện
quy trình sản xuất đáp ứng các tiêu chuẩn HACCP để thuận lợi hơn trong việc đưa
hàng thuỷ sản của nước ta vào Anh, bằng cách thường xuyên tổ chức theo dõi hệ
thống kiểm soát vệ sinh và môi trường nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản
nhập khẩu của Anh.
- Theo dõi và cập nhật thường xuyên nhu cầu và thị yếu tiêu dùng thuỷ sản của
người dân Anh để kịp thời phát hiện và nắm bắt những cơ hội mới, nhanh chóng
đưa hàng thuỷ sản thích hợp vào chiếm lĩnh thị trường. Cụ thể như vụ việc hành
động của Nga với Ukraine, sau hành động trái chiều của toàn thế giới của Nga,
nhiều nước trên thế giới trong đó có Mỹ, các nước EU, Anh…đã có những động
thái chống lại Nga. Chính phủ Anh mới đây đã ban hành lệnh cấm giao thương với
Nga, đồng thời áp mức thuế nhập khẩu mới lên hàng trăm mặt hàng chủ chốt của
Nga, tăng 35% so với mức thuế cũ. Các loại cá thịt trắng của Nga cũng là một
trong những sản phẩm chịu thuế tăng. Đứng trước những lệnh trừng phạt với thuỷ
sản Nga, các doanh nghiệp Việt Nam cũng le lói một chút cơ hội giành thị phần
của Nga tại các nước NK cá thịt trắng như Mỹ, EU…dù cá tra không hoàn toàn
thay thế cho cá minh thái, cá tuyết.
- Ngành thuỷ sản cũng cần phải có những biện pháp khuyến khích đầu tư vào lĩnh
vực nuôi trồng và chế biến thuỷ sản xuất khẩu từ phía đối tác tại Anh để giúp hàng
thuỷ sản thâm nhập vào Anh vượt qua được những rào cản thương mại phức tạp
hiện nay của thị trường khó tính này.
- Xúc tiến việc thâm nhập vào thị trường Vương quốc Anh thông qua lực lượng
người dân Việt kiều sống tại quốc gia này để đưa hàng thuỷ sản thâm nhập sâu
hơn vào Anh.
Giải pháp
Hiệp định UKVFTA được ký kết với sự kì vọng sẽ trở thành đòn bẩy thúc đẩy Việt Nam
tăng cường giao thương với nước bạn, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản.
Tuy nhiên, trải qua một năm hiệp định UKVFTA có hiệu lực, cùng với áp lực từ ảnh
hưởng tiêu cực từ đại dịch Covid-19 lên cước phí vận tải biển, xuất khẩu sang Anh về
mặt hàng thuỷ sản vẫn phải chịu chung xu hướng sụt giảm như hoạt động xuất khẩu của
các mặt hàng khác. Chưa mang lại kết quả tốt như mong đợi là vậy, bước sang năm 2022,
việc xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Anh vẫn cho thấy những tín hiệu phục hồi khả
quan, hứa hẹn năm 2022 sẽ đưa thuỷ sản Việt Nam quay lại đường đua nhộn nhịp về hoạt
động xuất khẩu tới Vương quốc Anh với nhiều thành tựu đáng kể. Để giúp thực hiện hoá
được kì vọng trong năm 2022 về xuất khẩu thuỷ sản như trên, có một số giải pháp được
đề xuất như sau:
 Về phía Chính phủ, các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước
- Chính phủ cần có chính sách khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc áp dụng
và xây dựng các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế thông qua các biện pháp hỗ trợ tư
vấn, đào tạo; Ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở nghiên cứu, đào tạo gắn kết
với các doanh nghiệp, trang trại và cơ sở sản xuất để đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ mới vào sản xuất; Có chính sách ưu tiên đối với đào tạo nguồn nhân lực hoạt động
nghề cá trên biển. Gắn kết giữa phát triển nguồn nhân lực với bố trí dân cư và xây dựng
làng cá ven biển; Có chính sách hiệu quả tăng cường năng lực cho các trung tâm khuyến
ngư; Tăng cường phổ biến những kiến thức và thông tin khoa học về đánh bắt và nuôi
trồng thủy sản trên các phương tiện truyền thông đại chúng; Tăng cường hỗ trợ các doanh
nghiệp thủy sản về vốn, ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển thị trường và xúc tiến
thương mại...
- Bộ Công Thương cần giúp doanh nghiệp hiểu lợi ích của chứng nhận xuất xứ và tiếp tục
tạo điều kiện cho doanh nghiệp chứng minh nguồn gốc xuất xứ, cũng như tự chứng nhận
xuất xứ hàng hóa. Doanh nghiệp nhỏ cũng có thể tham gia tự chứng nhận xuất xứ hàng
hóa và không có đòi hỏi nào mang tính chất đặt điều kiện mà doanh nghiệp không thể đáp
ứng được. Việc này giúp doanh nghiệp có thể làm quen với một phương thức mới, đem
lại lợi ích trực tiếp cho doanh nghiệp.
- Các cơ quan quản lý cần tăng cường đẩy mạnh các kênh thông tin, phổ biến, hướng dẫn,
nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản về rào cản thương mại phi thuế
của EU và các nước thành viên. Doanh nghiệp Việt phần lớn là quy mô nhỏ, khá hạn chế
trong việc hiểu và ứng xử với các rào cản như vậy, nên việc hỗ trợ doanh nghiệp hết sức
quan trọng và cần thiết, giúp doanh nghiệp chuẩn bị các điều kiện sẵn sàng đối phó, là
yếu tố quyết định ban đầu giúp doanh nghiệp vượt qua các rào cản phi thuế quan.
- Cần tiếp tục quy hoạch các vùng sản phẩm theo lợi thế so sánh. Ứng phó với xu hướng
bảo hộ mậu dịch và vượt qua rào cản về hàng rào kỹ thuật các doanh nghiệp xuất khẩu
thủy sản cần phát triển những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế, có tính chất bổ sung với
sản phẩm của EU. Mỗi vùng đều có 1 sản phẩm có giá trị kinh tế cao, khối lượng không
lớn nhưng đó chính là lợi thế trong tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.

 Về phía bản thân doanh nghiệp


- Các doanh nghiệp nên chủ động tìm hiểu luật pháp, đặc biệt là những thay đổi trong những quy
định của EU. Việc không cập nhật thông tin thường xuyên sẽ khiến các doanh nghiệp rơi vào thế
bị động và sẽ gặp rủi ro cao. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng phải có những biện pháp tích cực
để đối phó mỗi khi xảy ra tranh chấp thương mại. Doanh nghiệp nên thông qua các hiệp hội của
mình, các cơ quan chuyên nghiệp để nắm bắt thông tin về hàng rào kỹ thuật của thị trường, và do
đó khi làm ăn tại thị trường này cần có sự tư vấn của các đối tác sở tại.
- Đảm bảo hơn nữa an toàn vệ sinh thực phẩm cũng như cải thiện chất lượng và mẫu mã sản
phẩm sẽ giúp thủy sản Việt Nam nói chung và các sản phẩm tôm nói riêng tiến xa hơn trên thị
trường Anh;
- Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu để nâng cao khả năng cạnh tranh
của hàng Việt Nam trên thị trường Anh. Các doanh nghiệp cần phải đa dạng hoá và nâng cao
chất lượng sản phẩm thông qua việc đầu tư đổi mới công nghệ và chủ động triển khai áp dụng
các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khoẻ, môi
trường. Nếu muốn trụ vững trên thị trường Anh, các doanh nghiệp Việt Nam phải hướng đến một
nền sản xuất sạch hơn, ở đó chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề đặt lên hàng đầu chứ không phải
là sản lượng và giá cả thấp. Do vậy, việc hình thành chuỗi liên kết là rất cần thiết để có thể cạnh
tranh trên thị trường;
- Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn. Doanh nghiệp cần lựa chọn chiến lược sản phẩm và
chiến lược thâm nhập thị trường Anh phù hợp với nhu cầu, tình hình thực tế của thị trường và
khả năng của doanh nghiệp. Không nên thâm nhập thị trường một cách vội vàng mà cần có quá
trình lâu dài: từ giới thiệu sản phẩm, tạo lòng tin, thiết lập quan hệ rồi mới thực hiện giao dịch
kinh doanh; Nghiên cứu đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao 108 khả năng đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng cũng như tránh các hàng rào kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực
phẩm đã có và sẽ có trong tương lai;
- Chú trọng xây dựng thương hiệu cho hàng xuất khẩu. Giải pháp ưu việt nhất là cung cấp các
sản phẩm đổi mới có giá trị gia tăng cao, có xuất xứ tốt hơn là chỉ đơn giản cung cấp các nguyên
liệu thô và chủng loại hàng rẻ tiền. Việc này sẽ giúp nâng tầm thương hiệu Việt Nam, xây dựng
lòng tin đối với người tiêu dùng và thay đổi nhận thức về việc Việt Nam chỉ cung cấp các sản
phẩm rẻ tiền mà người Anh thường quan niệm hàng rẻ tiền là hàng có chất lượng không tốt. Việc
xây dựng thương hiệu với xuất xứ tốt là đặc biệt quan trọng.

KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu về thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường
Vương quốc Anh, có thể thấy Vương quốc Anh là một thị trường có tiềm năng lớn.
Vương quốc Anh đã luôn nằm trong top 10 quốc gia nhập khẩu mạnh thuỷ sản Việt Nam
nhất, và ngay từ khi còn nằm trong khối liên minh Châu Âu đã từng giữ vị trí là thị
trường nhập khẩu lớn thứ hai về mặt hàng tôm của Việt Nam. Với mức độ tiềm năng hấp
dẫn như vậy, nhiều doanh nghiệp bắt đầu thâm nhập vào thị trường này với mặt hàng
thuỷ sản Việt Nam, nhất là sau khi Hiệp định UKVFTA được ký kết. Tuy nhiên, lợi ích
mà các doanh nghiệp Việt có được từ việc thực hiện Hiệp định trên chưa thấy được rõ.
Điều này có thể là do yếu tố ngoại cảnh như ảnh hưởng trực tiếp từ đại dịch Covid 19 lên
toàn ngành xuất khẩu nói chung hoặc do chính các doanh nghiệp Việt vẫn chưa hiểu được
các quy định khi xuất khẩu hàng thuỷ sản sang Anh, dẫn đến việc chưa đáp ứng đủ các
tiêu chuẩn để được hưởng các ưu đãi như trong hiệp định UKVFTA đã cam kết. Không
chỉ không được hưởng lợi thế khi so sánh với các đối thủ cạnh tranh hoạt động xuất khẩu
thuỷ sản sang Anh khác như Ấn Độ hay Trung Quốc, doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản
Việt còn có nguy cơ bị giảm thị phần của mình đang nắm giữ tại thị trường Anh vào tay
những đối thủ tiềm năng khác. Vì vậy, trong giai đoạn phục hồi và trở về trạng thái bình
thường mới sau sự bùng phát của dịch bệnh, cả các cơ quan chuyên ngành và doanh
nghiệp cần áp dụng nhiều biện pháp để vừa nâng cao giá trị và thương hiệu hàng thuỷ sản
xuất khẩu Việt Nam và vừa đẩy mạnh sự hiểu biết của các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ
sản về các cam kết ưu đãi cùng những quy định khắt khe mà Anh đặt ra cho mặt hàng
thuỷ sản nhập khẩu vào quốc gia này.

You might also like