Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 21

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM

MÔN:LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

Đề bài: Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án các


cấp

Lớp: N04.TL1
Nhóm: 04

Hà Nội - 2024
BẢNG ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG NHÓM

Môn: Luật tố tụng dân sự


Nhóm: 04
Lớp: N04.TL1
Đánh giá
của Đánh giá của
GV
STT Mã SV Họ và tên SV SV ký tên
GV ký
A B C Điểm
tên
1 461532 Nguyễn Trọng Nghĩa
5
2 461534 Đặng Thị Nhung
6
3 461535 Nguyễn Thị Kiều
7 Oanh
4 461536 Ngô Thị Bích Phượng
8
5 461537 Trần Xuân Quý
9
6 461538 Tống Như Quỳnh
1

7 461539 Nguyễn Khánh Sơn


1

8 461540 Nguyễn Minh Tâm


9 461533 Vũ Minh Ngọc
1

10 461531 Lê Thiện Thanh Nga

Hà Nội, ngày tháng năm 2024


Nhóm trưởng
(Ký và ghi rõ họ tên)
MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.........................................................................................4


MỞ ĐẦU....................................................................................................................................1
NỘI DUNG.................................................................................................................................1
I. Khái niệm và cơ sở của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự..............................1
1.1 Khái quát về xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của tòa án các cấp........................1
1.2. Cơ sở của việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của tòa án các cấp..................2
II. Quy định về xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của toà án các cấp......................3
2.1 Tòa án nhân dân cấp huyện...........................................................................................3
2.1.1. Các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình....................................3
2.1.2. Các tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại............................................5
2.1.3. Các tranh chấp, yêu cầu về lao động.....................................................................5
2.1.4. Các tranh chấp, yêu cầu có yếu tố nước ngoài......................................................6
2.2. Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện.............................................................7
2.3. Tòa án nhân dân cấp tỉnh.............................................................................................7
2.3.1. Các tranh chấp, yêu cầu pháp luật xác định cụ thể thuộc thẩm quyền giải quyết
của tòa án nhân dân cấp tỉnh...........................................................................................8
2.3.2. Những tranh chấp, yêu cầu có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải
uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
nước ngoài, cho toà án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài:................................10
2.3.3. Những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp
huyện mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết
hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện:......................................................11
2.4. Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh..............................................................12
III. Thực tiễn thực hiện và ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự.....12
1. Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự................................................12
2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về chế độ xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân các cấp. 13
IV. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền sơ thẩm theo cấp............13
KẾT LUẬN...............................................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................16
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự


HNGD : Hôn nhân gia đình
CHXHCN : Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
Các quy định về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết vụ việc dân sự nói chung
và thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các cấp Tòa án nói riêng là một trong các căn cứ
pháp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thủ tục tố tụng dân sự. Việc quy định cụ
thể, hợp lý về thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các cấp tòa án sẽ tránh được tình trạng
chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa các tòa án với nhau, giúp vụ việc được
thụ lý và giải quyết nhanh chóng, khách quan, từ đó tạo niềm tin cho nhân dân đối với
cơ quan xét xử của nhà nước là Tòa án. Hơn thế nữa việc xác định đúng thẩm quyền sơ
thẩm dân sự giữa các cấp Tòa án sẽ đảm bảo thuận lợi, tiết kiệm thời gian, chi phí,
công sức cho đương sự khi tham gia tố tụng. Tòa án sẽ không thể hoạt động thật sự
hiệu quả nếu không xác định rõ thẩm quyền giữa các cấp tòa án, mặt khác các quyết
định, bản án dân sự Tòa án đưa ra chỉ có giá trị pháp lý khi đúng thẩm quyền giải
quyết của Tòa án. Vì vậy xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự là công việc
bắt buộc và quan trọng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, nhóm chúng
em xin được lựa chọn nghiên cứu đề số 6: “ Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án
các cấp”.

NỘI DUNG
I. Khái niệm và cơ sở của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự
1.1 Khái quát về xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của tòa án các cấp
Thuật ngữ “thẩm quyền” thường được sử dụng để chỉ phạm vi, giới hạn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định pháp luật của các cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức
thuộc bộ máy nhà nước trong việc thực thi quyền lực nhà nước. Trong khoa học pháp
lý, “thẩm quyền” được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định
của các cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước do pháp luật quy định.
Từ đó có thể rút ra định nghĩa thẩm quyền dân sự của tòa án như sau: “Thẩm quyền
dân sự của tòa án là quyền xem xét, giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết
định khi xem xét, giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của tòa án.”
Sơ thẩm là xét xử một vụ án ở cấp xét xử thấp nhất, là cấp xét xử đầu tiên, qua cấp
xét xử sơ thẩm mới có thể tiếp tục qua các cấp xét xử sau. Ở Việt Nam, trong hệ thống
các cấp Tòa án thì chỉ có Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án nhân dân cấp huyện là có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ việc dân sự.
Như vậy, thẩm quyền sơ thẩm dân sự của tòa án các cấp có thể hiểu là: Quyền của
một cấp tòa án cụ thể, cấp tỉnh hoặc cấp huyện, trong việc xem xét thụ lý giải quyết

5
các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo
thủ tục tố tụng sơ thẩm.
1.2. Cơ sở của việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của tòa án các cấp
Việc xây dựng các quy định xác định thẩm quyền sơ thẩm giữa các cấp tòa án được
dựa trên các cơ sở cơ bản sau:
Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng về hoạt động tư pháp. Pháp luật là sự
thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, việc tuân theo đường lối, chính sách của
Đảng là một trong các yêu cầu cơ bản khi xây dựng các quy định phân định thẩm
quyền sơ thẩm của tòa án các cấp. Ví dụ như, Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 2-1-
2002, của Bộ Chính trị, về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, đã định hướng cải cách tư pháp theo hướng xác
định rõ hơn, cụ thể hơn thẩm quyền của tòa án nhân dân các cấp, mở rộng hơn thẩm
quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp huyện để nâng cao hơn chất lượng xét xử cũng
như giảm áp lực cho Tòa án cấp tỉnh, đồng thời phải xây dựng các quy định pháp luật
theo hướng có lợi nhất, thuận tiện nhất cho các đương sự tham gia tố tụng.
Căn cứ vào tính chất của từng loại vụ việc. Đa phần các vụ việc dân sự đều sẽ thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện do sự thuận lợi của tòa án huyện trong
việc giải quyết các vụ việc, còn các vụ việc có tính chất phức tạp hơn sẽ thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh như vụ việc có đương sự là người nước
ngoài, người có chức sắc tôn giáo hay cán bộ chủ chốt ở địa phương,... Việc căn cứ
vào tính chất đơn giản hay phức tạp của vụ việc để phân hóa loại việc nào thuộc thẩm
quyền tòa án cấp huyện hoặc tòa án cấp tỉnh giải quyết sẽ đảm bảo tòa án giải quyết
vụ việc nhanh chóng, khách quan, phù hợp với điều kiện thực tế, trình độ chuyên môn,
kinh nghiệm của tòa án từng cấp.
Căn cứ vào điều kiện cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thực tế của đội
ngũ cán bộ tòa án. Mỗi cấp tòa án đều sẽ có ưu thế riêng trong việc giải quyết các vụ
việc dân sự. Thông thường Tòa án cấp huyện sẽ thuận lợi hơn trong việc thu thập bằng
chứng, chứng cứ, xác minh các thông tin, giấy tờ liên quan đến các vụ việc dân sự xảy
ra ở địa phương,...; trong khi đó, Tòa án cấp tỉnh sẽ có ưu thế vượt trội hơn về cơ sở
vật chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế của đội ngũ cán bộ Tòa
án. Từ đó việc phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự giữa các cấp Tòa án sẽ phải phù
hợp với tổ chức hoạt động, khả năng thực tế của từng cấp Tòa án để đảm bảo mỗi cấp
Tòa án sẽ phát huy được thế mạnh, cũng như đủ năng lực để giải quyết các vụ việc dân
sự một cách nhanh chóng, khách quan, đúng pháp luật.
Căn cứ vào sự thuận lợi trong quá trình giải quyết vụ việc. Việc phân định thẩm
quyền sơ thẩm giữa các cấp tòa án phải trên cơ sở đảm bảo thuận lợi cho việc tham gia
6
tố tụng của đương sự cũng như hiệu quả trong việc bảo vệ quyền lợi cho họ. Thường
việc giải quyết các vụ việc dân sự ở tòa án cấp huyện sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho đương sự trong việc tham gia tố tụng, đi lại, có mặt khi Tòa triệu tập cũng như là
thu thập bằng chứng, chứng cứ,... Như vậy, việc quy định thẩm quyền sơ thẩm dân sự
rõ ràng, phù hợp với mỗi cấp Tòa án sẽ vừa giúp đương sự dễ dàng hơn khi tham gia
quá trình tố tụng, vừa tạo điều kiện cho Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân
sự.

II. Quy định về xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của toà án các cấp
2.1 Tòa án nhân dân cấp huyện
Tại Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân
dân cấp huyện. Theo đó, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
2.1.1. Các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình
Thứ nhất, nói đến các tranh chấp về dân sự. Có thể hiểu tranh chấp là những bất
đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên liên quan. Trước sự thay đổi
và phát triển của pháp luật, các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền sơ thẩm của tòa án
đã có sự thay đổi theo hướng mở rộng hơn qua từng thời kỳ như Pháp lệnh thủ tục giải
quyết vụ án dân sự năm 1989 hay Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Tuy nhiên, cho dù có
sự thay đổi của pháp luật thì các tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền sơ thẩm của tòa
án đều có đặc điểm chung đó là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể quan hệ
pháp luật dân sự trong việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
dân sự. Theo đó tại bộ luật tố tụng dân sự 2015, các tranh chấp thuộc thẩm quyền sơ
thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện được quy định cụ thể tại Điều 26 của Bộ luật tố
tụng dân sự, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này. Nhìn vào
quy định này có thể thấy, theo tinh thần cải cách tư pháp, nhằm đảm bảo cho Tòa án
thực hiện tốt thẩm quyền sơ thẩm dân sự của mình, đa số tranh chấp dân sự đều thuộc
về Tòa án nhân dân cấp huyện, chỉ một số ít tranh chấp mới thuộc về thẩm quyền của
cấp tỉnh.
Thứ hai, các yêu cầu về dân sự được quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9 và
10 của Điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự, bao gồm: yêu cầu tuyên bố một người mất
năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết quyết
định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn
chế năng lực hành hành vi dân sự; yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi
cư trú và quản lý tài sản của người đó; yêu cầu tuyên bố một người mất tích; yêu cầu
tuyên bố một người là đã chết;… và các yêu cầu khác về dân sự mà pháp luật có quy
định. Có thể thấy so với các quy định trước đây vào năm 2004 của Bộ luật này, rõ ràng

7
nhà làm luật đã có sự bổ sung và kế thừa những sửa đổi vào năm 2011 về thẩm quyền
sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện như yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô
hiệu; yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản,…
Thứ ba, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyết giải quyết sơ thẩm các tranh
chấp về hôn nhân gia đình được quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự bao gồm:
Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; tranh chấp về tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; xác
định cha, mẹ, con; tranh chấp về cấp dưỡng; Tranh chấp về siuy đnh con bằng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Tranh chấp về nuôi con, chia tài
sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc
khi hủy kết hôn trái pháp luật và các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp
luật có quy định. Căn cứ vào điều này, Tòa cấp huyện sẽ xác định được liệu tranh chấp
này có thuộc thẩm quyền dân sự sơ thẩm của mình hay không. Việc này là vô cùng
quan trọng bởi nó sẽ ảnh hưởng tới tính chính xác và liên tục trong hoạt động xét xử.
Nếu xác định đúng ở giai đoạn này sẽ tạo tiền đề cho hội đồng xét xử sớm đưa ra bản
án, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các Tòa án giải quyết tiếp các giai đoạn
sau nếu vụ án bị kéo dài. Ngược lại, nếu xác định sai, bản án sơ thẩm sẽ bị hủy và phải
xét xử lại từ đầu. Vì mang tính chất của quan hệ hôn nhân gia đình nên chủ thể chủ
yếu của tranh chấp sẽ là vợ, chồng. Những tranh chấp HNGĐ chính là các xung đột,
mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh trong hoạt động HNGĐ. Do sức
ảnh hưởng của những quan hệ này đối với xã hội, hoạt động hòa giải ít nhiều sẽ được
thể hiện rõ nét trong quy định của pháp luật. Với trường hợp ly hôn, pháp luật không
bắt buộc phải hòa giải cơ sở mà chỉ khuyến khích các bên đạt được thỏa thuận, tự
nguyện giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên, sau khi đã thụ lý đơn
xin ly hôn thì tòa án cấp huyện phải tiến hành hòa giải theo quy định của điều 54 Luật
HNGĐ.
Bên cạnh các tranh chấp thì những yêu cầu về hôn nhân và gia đình cũng thuộc
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện bao gồm
các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự, quy định đó là
yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật; yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia
tài sản khi ly hôn; yêu cầu công nhận sự thỏa thuận và thay đổi người trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn; yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
hoặc quyền chăm nom con sau khi ly hôn; yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi; yêu
cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của luật hôn nhân và gia đình; Yêu
cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp
luật hôn nhân và gia đình; Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ
theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình; và các yêu cầu khác về hôn nhân

8
và gia đình mà pháp luật có quy định. Phạm vi xem xét giải quyết và quyền quyết định
của Tòa bị giới hạn bởi những yêu cầu được đưa ra cũng như trên cơ sở thỏa thuận về
những vấn đề đó. Khác với tranh chấp hôn nhân gia đình, yêu cầu về hôn nhân gia
đình sẽ được Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét để công nhận hay không công nhận
sự kiện pháp lý, từ đó quyền và lợi ích của người yêu cầu sẽ được bảo vệ. Trước khi
Tòa ra quyết định công nhận hay không công nhận, hoạt động hòa giải cũng sẽ được
tiến hành với mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Từ đó có thể thấy quy định của BLTTDS
và Luật HNGĐ đều được cân nhắc để không chỉ đảm bảo được lợi ích tốt nhất cho các
bên trong quan hệ mà còn giúp ổn định xã hội, kinh tế đặc biệt là bảo vệ được đối
tượng dễ bị tổn thương nhất trong quan hệ này là trẻ em.
2.1.2. Các tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh, thương mại
Tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại được quy định tại khoản 1
Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự. Đó là các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh
doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có
mục đích lợi nhuận. Không chỉ giải quyết các tranh chấp; những yêu cầu về kinh
doanh, thương mại tại khoản 1 và khoản 6 Điều 31 Bộ luật tố tụng dân sự cũng thuộc
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện. Đó là yêu
cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội đồng thành viên
theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và các yêu cầu khác về kinh doanh,
thương mại mà pháp luật có quy định.
2.1.3. Các tranh chấp, yêu cầu về lao động
Việc Tòa án giải quyết chính xác, nhanh chóng, đúng pháp luật sẽ góp phần quan
trọng ổn định quan hệ lao động và quan hệ sản xuất, kinh doanh trong doanh nghiệp,
đồng thời hạn chế được sự kháng cáo, kháng nghị làm kéo dài việc giải quyết vụ việc
hay sự thiếu thuyết phục trong các phán quyết của tòa.
Căn cứ vào khoản 1 điều 35 và điều 32 của BLTTDS, tranh chấp lao động thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện được chia làm 2 loại tranh chấp
chính: tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động,
tranh chấp lao động tập thể về quyền giữa tập thể lao động với người sử dụng lao
động. Một điểm đặc biệt trong việc thụ lý các tranh chấp lao động khác với những vụ
việc như trong tố tụng kinh tế, dân sự,... là về nguyên tắc, tòa chỉ thụ lý đơn kiện nếu
trước đó tranh chấp rơi vào các trường hợp tại khoản 7 điều 188 và khoản 2 điều 192
của Bộ luật lao động 2019 lần lượt đối với tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp
lao động tập thể về quyền. Nói cách khác, người có quyền khởi kiện không thể khởi
kiện trực tiếp ra Tòa án nhân dân cấp huyện mà chưa trải qua một quá trình giải quyết
trước đó, trừ một số tranh chấp nhất định mới không cần đến thủ tục này. So với
BLTTDS 2004, Bộ luật hiện hành không chỉ quy định chi tiết hơn về hai loại tranh

9
chấp chính nêu trên, mà còn bổ sung, làm rõ thêm một số loại tranh chấp lần lượt vào
các khoản 3, 4, 5 của điều 32 gồm: tranh chấp liên quan đến lao động; tranh chấp về
bồi thường thiệt hại do đình công bất hợp pháp và các tranh chấp khác về lao động, trừ
trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật. Riêng đối với những tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, Tòa án sẽ không
có thẩm quyền giải quyết. Với việc xác định đầy đủ, BLTTDS hiện hành đã nâng cao
độ tương thích với các luật nội dung, từ đó mở rộng khả năng các bên tranh chấp trong
quan hệ lao động và quan hệ liên quan đến quan hệ lao động lựa chọn sự bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình thông qua cơ chế Tòa án.
Căn cứ vào điểm d khoản 2 điều 35 và điều 33 BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp
huyện sẽ giải quyết những yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập
thể vô hiệu và những yêu cầu khác về lao động, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Khi được thụ lý, Tòa án
sẽ theo thủ tục giải quyết việc dân sự để xử lý những việc này.
2.1.4. Các tranh chấp, yêu cầu có yếu tố nước ngoài
Trong xu thế hội nhập, các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài tại tòa án tăng lên là
điều có thể lường trước được. Nhìn chung, thẩm quyền sơ thẩm trong giải quyết vụ
việc dân sự nói chung có yếu tố nước ngoài thường được nghĩ đến là tòa án nhân dân
cấp tỉnh, bởi những vụ việc như vậy thường có tính phức tạp cao. Và điều này cũng
được khẳng định tại khoản 3 điều 35 BLTTDS. Theo đó thì những vụ việc thuộc
khoản 1, 2 điều 35 của bộ luật này nếu xuất hiện thêm các yếu tố như “đương sự ở
nước ngoài”; “ tài sản ở nước ngoài” hoặc “cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại
diện nước CHXHCN Việt Nam, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài”
thì sẽ không còn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện nữa mà
phải đẩy lên tòa cấp tỉnh xử lý. Việc xác định rõ các yếu tố được liệt kê nêu trên là rất
quan trọng bởi nó là nhân tố dẫn đến việc thay đổi thẩm quyền xét xử. Tham khảo nghị
quyết 03/2012/NQ-HĐTP, tại điều 7 có giải thích rất rõ như nào là “đương sự ở nước
ngoài”, “tài sản ở nước ngoài” và những trường hợp nào thì cần phải “ủy thác tư
pháp”. Nếu như vụ việc không thỏa mãn những điều kiện nêu trên thì thẩm quyền vẫn
thuộc về tòa nhân dân cấp huyện và không cần chuyển hồ sơ lên tòa cấp cao hơn để
xét xử sơ thẩm.
Ngoài ra, khoản 4 của điều 35 BLTTDS bổ sung thêm 1 ngoại lệ khi mà thẩm quyền
dân sự sơ thẩm lại vẫn thuộc về tòa cấp huyện, mặc dù trong vụ việc có xuất hiện các
yếu tố mang tính chất nước ngoài: “Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công
dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi
và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước

10
láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Bộ luật
này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.” Quy định này là hoàn toàn hợp lý
vì xuất phát từ thực tế đời sống, công dân Việt Nam sinh sống ở khu biên giới khi lấy
vợ, lấy chồng là người Lào, Campuchia, Trung Quốc, giữa họ thường có mối quan hệ
gần gũi với nhau về điều kiện sinh sống. Hơn nữa, do đặc thù địa lý và kinh tế của các
khu vực này, nhằm tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thực hiện tốt các quyền tố tụng
dân sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ được kịp thời bảo vệ, ổn định quan
hệ xã hội cũng như để các quy định của luật thực sự đi vào đời sống ở các vùng biên
giới; tòa án nhân dân cấp huyện chính là sự lựa chọn tốt nhất để làm điều này. Không
chỉ tháo gỡ được khó khăn do thực tiễn phát sinh đối với đồng bào ở khu vực biên giới
trong việc thực hiện quyền tham gia tố tụng dân sự của mình, việc giao thẩm quyền
này cho cấp huyện đồng thời còn tránh được tình trạng dồn ép, quá tải khối lượng công
việc cho tòa án nhân dân cấp tỉnh.
2.2. Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện
Khi đáp ứng được các điều kiện để tổ chức tòa chuyên trách tại tòa án nhân dân cấp
huyện, những vụ việc sẽ được xét xử theo một trong hai loại tòa chuyên trách là tòa
dân sự và tòa gia đình và người chưa thành niên. Theo đó, tòa dân sự sẽ giải quyết
những vụ việc về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền của Tòa
án nhân dân cấp huyện quy định tại điều 35 của BLTTDS. Trong khi đó, tòa gia đình
và người chưa thành niên sẽ đảm nhận giải quyết những vụ việc về hôn nhân và gia
đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại điều 35
của Bộ luật này.
Trong trường hợp không đáp ứng đủ các điều kiện để tổ chức ra tòa chuyên trách thì
sẽ không được phép thành lập ra loại tòa này, tuy nhiên Chánh án Tòa có trách nhiệm
tổ chức công tác xét xử và phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền
của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Có thể thấy việc xác định những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa
án cấp huyện hiện nay được thiết lập nhằm đáp ứng hai yêu cầu là tạo điều kiện thuận
lợi cho đương sự tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình đồng thời điều hòa áp
lực công việc giữa các cấp Tòa án. Do vậy, Điều 35 BLTTDS 2015 hiện nay đã đi theo
hướng mở rộng thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án cấp huyện và xác định hầu hết các
tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động
thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án đều thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án cấp
huyện. Tuy nhiên, dựa vào tính phức tạp của một số loại vụ việc đòi hỏi kinh nghiệm
chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Tòa án hoặc theo yêu cầu về sự vô tư
khách quan trong tố tụng, Điều 35 BLTTDS 2015 đã quy định Tòa án cấp huyện

11
không có thẩm quyền sơ thẩm đối với một số loại vụ việc nhất định mà thẩm quyền
này sẽ thuộc về Tòa án cấp tỉnh.
2.3. Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Theo quy định của luật tố tụng dân sự thì thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh không nhiều và không rộng như của Tòa án nhân dân cấp huyện. Điều 37 Bộ
luật tố tụng dân sự 2015 quy định về thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh dựa trên cơ sở loại trừ những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp huyện. Chủ yếu đây là các loại vụ việc có liên
quan đến yếu tố nước ngoài; các tranh chấp, yêu cầu mang tính chất phức tạp, đòi hỏi
trình độ chuyên môn cao của đội ngũ cán bộ Tòa án.
Theo đó, có thể chia các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền sơ thẩm của tòa án nhân
dân cấp tỉnh như sau:
2.3.1. Các tranh chấp, yêu cầu pháp luật xác định cụ thể thuộc thẩm quyền giải
quyết của tòa án nhân dân cấp tỉnh
Khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự quy định:
“Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ
việc sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản
4 Điều 35 của Bộ luật này;
b) Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy
định tại các Điều 27, 29, 31 và 33 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2 và khoản 4
Điều 35 của Bộ luật này;”
Đầu tiên, pháp luật quy định các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án
nhân dân cấp tỉnh tại điểm a khoản 1 Điều 37. Theo đó, có thể hiểu các tranh chấp này
bao gồm:
Thứ nhất, tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền của tòa cấp tỉnh được quy định tại
khoản 7 Điều 26. Đó là tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn
chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp
yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính.
Thứ hai, các tranh chấp về kinh doanh, thương mại được quy định tại khoản 2, 3, 4,
5 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, bao gồm: Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
12
chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển
nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty; Tranh chấp giữa công ty với các
thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công
ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi
hình thức tổ chức của công ty; và các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ
trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã quy định cụ thể các tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm các tranh chấp về dân sự,
kinh doanh, thương mại. Trong đó, các tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc
thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân cấp tỉnh chủ yếu là các tranh chấp phát sinh
trong việc tổ chức cơ cấu, hoạt động, quản lý của công ty, hay các tranh chấp liên quan
đến tài sản của doanh nghiệp như chuyển nhượng phần vốn góp. Đặc biệt, các tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau có
mục đích lợi nhuận thường phát sinh những vấn đề mới phức tạp trong bối cảnh phát
triển kinh tế và hội nhập nên đòi hỏi trình độ chuyên môn cao của tòa cấp tỉnh để giải
quyết.
Tiếp theo là các yêu cầu về thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân cấp
tỉnh theo điểm b khoản 1 Điều 37:
Thứ nhất, tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm các yêu cầu về
dân sự, hôn nhân và gia đình sau theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015:
Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án,
quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành
chính của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự,
quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước
ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. (khoản 5 Điều 27)
Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án,
quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm
quyền của nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia
đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài không
có yêu cầu thi hành tại Việt Nam. (khoản 9 Điều 29)

13
Thứ hai là các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 2, 3, 4, 5 Điều
31 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, bao gồm: Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương
mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương
mại; Yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển theo quy định của pháp luật về hàng không dân
dụng Việt Nam, về hàng hải Việt Nam, trừ trường hợp bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo
đảm giải quyết vụ án. Ngoài ra, tòa án nhân dân cấp tỉnh còn giải quyết những yêu cầu
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh
doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định
kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt
Nam; Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh, thương
mại của Trọng tài nước ngoài.
Thứ ba là các yêu cầu về lao động quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 33 Bộ luật tố tụng
dân sự 2015. Các yêu cầu này gồm: Yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công;
Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết
định lao động của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định lao
động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam; Yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết lao động của Trọng tài nước ngoài.
Theo các quy định trên, ngoài các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại, lao
động thì có thể thấy các yêu cầu về công nhận và cho thi hành hoặc không công nhận
bản án, quyết định dân sự của tòa án, trọng tài nước ngoài hoặc các cơ quan có thẩm
quyền khác ở nước ngoài đều thuộc về thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của tòa án nhân
dân cấp tỉnh. Việc công nhận và cho thi hành quyết định, bản án dân sự của cơ quan
nước ngoài có thẩm quyền là các vụ việc mang tính phức tạp do có yếu tố nước ngoài.
Trên thực tế, việc giải quyết các còn gặp nhiều khó khăn do vẫn còn nhiều hạn chế về
mặt quy định pháp luật, cũng như công tác tống đạt văn bản, giấy tờ còn gặp khó khăn
dẫn đến việc giải quyết các yêu cầu này rất phức tạp, đòi hỏi trình độ chuyên môn,
kinh nghiệm cao. Do vậy, pháp luật quy định các yêu cầu này thuộc thẩm quyền giải
quyết sơ thẩm của tòa cấp tỉnh.
2.3.2. Những tranh chấp, yêu cầu có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc
cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ở nước ngoài, cho toà án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài:
Trường hợp này được quy định tại khoản 3 điều 35 và điểm c khoản 1 điều 37
BLTTDS 2015. Theo khoản 3 điều 35 BLTTDS 2015, những tranh chấp, yêu cầu về
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà có đương sự hoặc
tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho toà án, cơ quan có thẩm quyền của

14
nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp
tỉnh (trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 Điều 35 BLTTDS 2015).
Những tranh chấp, yêu cầu có yếu tố nước ngoài là những vụ việc có tính chất phức
tạp cao, khó giải quyết đòi hỏi Thẩm phán giải quyết và xét xử những vụ việc này phải
có trình độ chuyên môn cao, có quá trình tích lũy kinh nghiệm và kiến thức lâu dài
mới có đủ điều kiện để giải quyết các vụ việc. Vậy nên, các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là: Trong quá trình Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải
quyết tranh chấp, yêu cầu mà có sự thay đổi không còn đương sự, tài sản ở nước ngoài
và không cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho toà án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có được tiếp tục thụ lý giải quyết vụ việc không? Căn cứ
theo điều 471 BLTTDS 2015 quy định về không thay đổi thẩm quyền giải quyết của
Tòa án thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh vẫn tiếp tục thụ lý giải quyết vụ việc đó.
2.3.3. Những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
cấp huyện mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy
cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện:
Khoản 2 điều 37 BLTTDS 2015 quy định:
“2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những
vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định
tại Điều 35 của Bộ luật này mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết
khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện.”
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thể lấy những vụ việc thuộc thẩm quyền của tòa án
nhân dân cấp huyện để giải quyết trong những trường hợp việc vận dụng pháp luật,
chính sách có nhiều khó khăn, phức tạp; việc điều tra thu thập chứng cứ có nhiều khó
khăn hoặc phải giám định kỹ thuật phức tạp; đương sự là cán bộ chủ chốt ở địa
phương, những người có uy tín trong tôn giáo mà xét thấy việc xét xử ở tòa án nhân
dân cấp huyện không có lợi về chính trị hoặc vụ việc có liên quan đến thẩm phán, phó
chánh án, chánh án tòa án nhân dân cấp huyện. Theo yêu cầu của đương sự, tòa án
nhân dân cấp tỉnh cũng có thể lấy những vụ việc thuộc thẩm quyền của tòa án nhân
dân cấp huyện lên để xét xử nếu xét thấy có lý do chính đáng.1
Quy định này có điểm khác so với BLTTDS 2004. Khoản 2 Điều 34 BLTTDS 2004
quy định: “2. Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm
những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện
1
Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội, NXB. Công an nhân dân, tr.
76, 77
15
quy định tại Điều 33 của Bộ luật này mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải
quyết” . Như vậy, có thể thấy khoản 2 điều 37 BLTTDS 2015 đã quy định chặt chẽ
hơn “... khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện”.
Điều này không chỉ thể hiện sự linh hoạt và phối hợp giữa tòa án nhân dân các cấp mà
còn tránh được tình trạng lạm quyền của tòa án nhân dân cấp tỉnh.
2.4. Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
So với Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì Điều 38 Bộ luật
tố tụng dân sự 2015 có điểm mới là quy định về thẩm quyền sơ thẩm của các tòa
chuyên trách tòa án nhân dân cấp tỉnh. Theo đó, Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp tỉnh
có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh quy định tại Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Tòa
gia đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa
án nhân dân cấp tỉnh quy định tại Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Tòa kinh tế
Tòa án nhân dân cấp tỉnh sẽ có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ
việc về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh quy
định tại Điều 37. Và Tòa lao động Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về lao động thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân cấp tỉnh quy định tại Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Có thể thấy, dựa trên cơ sở về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ
tòa án và các điều kiện khác như cơ sở vật chất, kĩ thuật; pháp luật đã quy định thẩm
quyền giải quyết sơ thẩm đối với các vụ việc cụ thể mang tính chất phù hợp đối với
điều kiện của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Qua đó giúp cho việc giải quyết vụ việc dân
sự được đạt hiệu quả cao, nhanh chóng, đồng thời giúp các đương sự được bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách thuận lợi nhất.

III. Thực tiễn thực hiện và ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự
1. Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự
Việc quy định rõ ràng thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án trong việc giải quyết các việc
dân sự là cơ sở pháp lý để xác định một vụ việc cụ thể có thuộc thẩm quyền giải quyết
của mình hay không. Tòa án sẽ phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để xác định
xem, đối với yêu cầu này thì mình có thẩm quyền giải quyết không. Từ đó, Tòa án có
thể thụ lý, giải quyết đúng các việc dân sự phát sinh trong xã hội thuộc thẩm quyền của
mình, tránh trường hợp áp dụng không thống nhất gây kéo dài thời gian giải quyết do
phải chuyển đi chuyển lại giữa các tòa án, cũng sẽ tránh được sự chồng chéo trong
việc thực hiện nhiệm vụ giữa tòa án với các cơ quan nhà nước, giữa các Tòa án với

16
nhau, góp phần tạo điều kiện cần thiết cho Tòa án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn
các vụ việc dân sự, nâng cao được hiệu quả giải quyết việc dân sự.
Bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền giữa các tòa án một cách hợp lý còn tạo
điêu kiện thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp trước Tòa án, giảm bớt những phiền phức cho đương sự.
Ngoài ra xác định thẩm quyền của tòa án còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định những điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết của đội ngũ cán bộ ở mỗi tòa
án và các điều kiện khác, trên cơ sở đó có kế hoạch đáp ứng đảm bảo cho tòa án thực
hiện được chức năng, nhiệm vụ.
Việc xác định đúng thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án là cơ sở để xác định
đúng thẩm quyền phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thi hành án dân sự, đảm bảo sự phối hợp giữa Tòa án và cơ quan thi hành án
trong việc chuyển giao bản sao bản án, quyết định, giải thích các bản án và quyết định.
Bởi vì, theo quy định của pháp luật thì thông thường cơ quan thi hành án dân sự nơi
Tòa án đã sơ thẩm vụ việc dân sự sẽ có thẩm quyền thi hành án.
Vậy việc xác định thẩm quyền sơ thẩm của tòa án trong việc giải quyết các việc dân
sự có ý nghĩa rất quan trọng cả về phía Tòa án và phía các bên đương sự.
2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về chế độ xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân
các cấp.
BLTTDS 2015 sửa đổi bổ sung 2019 đã quy định rõ ràng hơn về các quy định trên
cơ sở phù hợp với thực tiễn. Như đã quy định rõ ràng, cụ thể và mở rộng thẩm quyền
hơn đối với thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp huyện. Cụ thể đối với
các tranh chấp dân sự và hôn nhân gia đình thì tại điều 26 BLTTDS 2015 đã quy định
mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp huyện thêm các tranh chấp tại
khoản 8, 1, 12, 13, không chỉ vậy còn bổ sung thẩm quyền đối với tranh chấp về giao
dịch dân sự, các quyền khác đối với tài sản so với điều 25 BLTTDS 2004. Thẩm
quyền sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp huyện về các lĩnh vực hôn nhân gia đình; lao
động,… cũng đều được quy định theo hướng mở rộng hơn, đồng thời giảm các vụ việc
thuộc thẩm quyền sơ thẩm của tòa án nhân cấp tỉnh . Các quy định mở rộng thẩm
quyền sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp huyện là rất phù hợp với thực tiễn Việt Nam
hiện nay vì trình độ của tòa án nhân dân cấp huyện đã có sự tiến bộ, cải thiện rõ rệt,
đồng thời đây là cơ quan tư pháp gắn bó chặt chẽ với người dân hơn cả từ đó làm cho
việc giải quyết vụ việc dân sự được diễn ra nhanh chóng, thuận tiện nhất cho nhân dân
cũng như giảm áp lực công việc lên tòa cấp tỉnh đồng thời cũng tạo điều kiện cho tòa

17
án nhân dân cấp tỉnh có thể thực hiện đúng, đủ thẩm quyền xét xử phúc thẩm của
mình.
Tuy nhiên, các quy định hiện hành vẫn còn một số điểm bất cập cần được khắc
phục, cụ thể các bất cập đó là gì, ảnh hưởng thế nào đến thủ tục tố tụng dân sự trên
thực tế, và làm sao để khắc phục các bất cập đó, chúng tôi xin tiếp tục trình bày ở phần
nội dung ngay dưới đây.

IV. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền sơ thẩm theo cấp.
Thứ nhất: về việc xác định thẩm quyền sơ thẩm của tòa án trong trường hợp quy
định tại khoản 2 điều 37 BLTTDS 2015 sửa đổi bổ sung 2019: “Tòa án nhân dân cấp
tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật này
mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc
theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện”. Vậy trường hợp nào thì được coi là cần
thiết, việc quy định một cách định tính như vậy rất dễ dẫn đến trường hợp tranh chấp
của hai cấp tòa trên vì tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền sơ thẩm về vụ việc đó
nhưng cho rằng không cần thiết phải chuyển lên tòa án nhân dân cấp tỉnh. Ngược lại,
tòa án nhân dân cấp tỉnh lại cho rằng vụ, việc đó cần thiết phải là tòa cấp tỉnh giải
quyết, dẫn đến tình trạng tranh giành thẩm quyền khiến cho việc xét xử trở nên mất
thời gian gây khó khăn, mất thời gian cho các đương sự. Vì vậy cần quy định cụ thể
các trường hợp được coi là cần thiết để tránh xảy ra xung đột.
Để cụ thể hoá những trường hợp toà án cấp tỉnh có thể áp dụng quy định trên, chúng
tôi kiến nghị quy định theo hướng toà án nhân dân cấp tỉnh có thể tự mình lấy lên để
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm chỉ với những vụ án có nhiều hơn một tranh chấp, giá
ngạch cao, đồng thời được sự đồng ý của chánh án đại diện toà án nhân dân cấp huyện.
Ngược lại, toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền thụ lý các vụ án mà toà án nhân
dân cấp huyện đề nghị chuyển lên toà án cấp tỉnh.
Thứ hai: Hiện nay, giữa các vùng, lãnh thổ địa lý của nước ta có sự phát triển về
kinh tế, xã hội, trình độ chuyên môn của các cán bộ toà án giữa các tỉnh, huyện cũng
có sự chênh lệch. Vì vậy căn cứ để xác định thẩm quyền toà án theo cấp phải là toà án
có khả năng thực hiện tố tụng vụ việc đó hay không. Ví dụ: nhóm yêu cầu thuộc thẩm
quyền của toà án cấp tỉnh quy định tại khoản 5 Điều 27, khoản 9 Điều 29. Khoản 4
Điều 31 BLTTDS hoàn toàn có thể thực hiện ở toà án cấp huyện ở các địa phương có
trình độ cao. Đương nhiên là có sự chênh lệch về trình độ nhân lực, thiết bị,… giữa toà
án các cấp nhưng khi sự chênh lệnh không phải yếu tố ảnh hưởng đến tính công lý
trong phán quyết thì có thể cân nhắc đến việc xác định lại . Ngược lại với những vụ
việc được quy định thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp huyện/quận, nhưng có
18
quy mô, tình tiết phức tạp thì việc đi theo đúng nguyên tắc hai cấp xét xử sẽ gây nên
sự lãng phí không cần thiết.
Vì vậy, nhằm giải quyết vấn đề thẩm quyền toà án dân sự theo cấp, nhất là đối với
những vụ việc có yếu tố nước ngoài, chúng tôi kiến nghị theo hướng bổ sung quy chế
cho phép ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, dựa theo tình hình thực tế của
địa phương mình, có thể linh động tăng phạm vi giải quyết vụ việc dân sự của toà án
nhân dân cấp huyện. Phạm vi các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của toà án nhân
dân cấp tỉnh được bổ sung vào thẩm quyền toà án nhân dân cấp huyện phải được thống
nhất giữa hai cấp, đồng thời phải được công bố rộng rãi cho quần chúng nhân dân
trong địa phương biết. Danh sách các toà cấp huyện được bổ sung thẩm quyền, phạm
vi thẩm quyền được bổ sung đến đâu có thể được công bố qua từng năm hoặc từng
nhiệm kì chánh án Toà án nhân dân cấp huyện và được phê duyệt bởi toà án nhân dân
tối cao.
Thứ ba, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật tố tụng dân sự 2015 theo hướng
quy định các vụ án dân sự đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn đều thuộc thẩm quyền
sơ thẩm của toà án nhân dân cấp huyện. Điều này là phù hợp bởi thủ tục rút gọn được
áp dụng với các vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã
thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án
và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; các đương sự đều có địa chỉ nơi cư
trú, trụ sở rõ ràng, không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước
ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận
đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn, hoặc các đương sự đã xuất trình được
chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý
tài sản. Những điều kiện trên cho thấy những vụ án, dù được quy định thuộc thẩm
quyền toà án nhân dân cấp tỉnh thì toà án nhân dân cấp huyện hoàn toàn có đủ khả
năng giải quyết.
Cuối cùng, đối với vụ án dân sự có nhiều tranh chấp, trong đó có cả những tranh
chấp thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của toà án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh,
cần có quy định cụ thể điều chỉnh. Có quan điểm cho rằng nên tách vụ án, phần tranh
chấp nào được quy định thuộc thẩm quyền của cấp toà nào thì giải quyết tại cấp toà đó.
Có quan điểm khác lại cho rằng nên quy định theo hướng toà án cấp tỉnh thụ lý toàn bộ
vụ án. Nhóm chúng tôi cho rằng, nên quy định theo hướng toà án nhân dân cấp huyện
có thể lựa chọn thụ lý toàn bộ vụ án hoặc đề nghị toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý toàn
bộ vụ án. Quy định theo hướng này cho phép toà án nhân dân cấp huyện – nơi có điều
kiện dễ dàng hơn trong việc thu thập, tiếp cận chứng cứ, tự đánh giá vụ án nhằm tìm ra
hướng giải quyết tốt nhất. Tránh tuyệt đối việc tách vụ án làm hai phần giải quyết ở hai

19
cấp toà khác nhau, điều này sẽ gây ra phiền hà, lãng phí không đáng có cho các bên
đương sự, làm cho hoạt động tư pháp rườm rà, thiếu hiệu quả.
KẾT LUẬN
Như vậy, thông qua những phân tích ở trên đã phần nào giúp chúng ta nắm được
các quy định hiện hành của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền sơ thẩm của Tòa
án các cấp, cũng như biết được những điểm hợp lý, tiến bộ cũng như những điểm còn
hạn chế trong quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về vấn đề này. Ngoài ra thông
qua việc tìm hiểu việc thực hiện quy định pháp luật trên thực tiễn cũng đã giúp chúng
ta đánh giá được điểm sáng hay những sai sót còn tồn tại trong việc xác định thẩm
quyền giữa các cấp tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ việc dân sự, từ đó nhóm đã đưa ra
các kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật.

20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Sách tham khảo

1, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội, NXB.
Công an nhân dân

2, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Học viện Tư pháp, NXB. Tư pháp

 Website tham khảo

3, Lê Minh Trang, “Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của toà án nhân dân cấp
huyện”,
https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/14633/1/00050007038.pdf.

 Luận văn, luận án tham khảo

4, Nguyễn Thu Hà, “Thẩm quyền dân sự sơ thẩm của tòa án theo cấp và theo
lãnh thổ”, luận văn thạc sĩ Luật học ; TS. Trần Anh Tuấn hướng dẫn
5, Lê Hoài Nam, “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam”, luận án thạc sĩ luật học, PTS Đăng Quang Phương hướng dẫn

21

You might also like