Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 2

Phần 2: Phân tích quan điểm triết học Mác - Lênin về mối liên hệ

1. Làm rõ khái niệm về mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến


*Khái niệm
- Mối liên hệ: Trong phép duy vật biện chứng mối liên hệ dùng để chỉ: sự quy định, sự
tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các
yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.

*Ví dụ: giữa cung và cầu (hàng hoá, dịch vụ) trên thị trường luôn luôn diễn ra quá
trình: cung và cầu quy định lẫn nhau; cung và cầu tác động, ảnh hưởng lẫn nhau,
chuyển hoá lẫn nhau, từ đó tạo nên quá trình vận động, phát triển không ngừng của cả
cung và cầu. Đó chính là những nội dung cơ bản khi phân tích về mối quan hệ biện
chứng giữa cung và cầu.

- Mối liên hệ phổ biến được sử dụng với hai hàm nghĩa:
+ Dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ như: khi khẳng định rằng mối liên hệ
là cái vốn có của tất thảy mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, không loại trừ sự vật,
hiện tượng nào, lĩnh vực nào.
+ Đồng thời, khái niệm này cũng dùng để chỉ: những liên hệ tồn tại được thể hiện ở
nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới (phân biệt với khái niệm các mối liên hệ đặc thù
chỉ biểu hiện ở một hay một số các sự vật, hiện tượng, hay lĩnh vực nhất định).

*Ví dụ: mối liên hệ giữa cung và cầu là mối liên hệ phổ biến, tức cũng là mối liên hệ
chung, nhưng mối liên hệ đó được thể hiện cụ thể khác nhau, có tính chất đặc thù tuỳ
theo từng loại thị trường hàng hoá, tuỳ theo thời điểm thực hiện... Khi nghiên cứu cụ
thể từng loại thị trường hàng hoá, không thể không nghiên cứu những tính chất riêng
có (đặc thù) đó. Nhưng dù khác nhau bao nhiêu thì chúng vẫn tuân theo những nguyên
tắc chung của mối quan hệ cung cầu.

- Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc
thù vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định, nhưng đồng
thời cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó, những mối liên hệ đặc thù
là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ
những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và
ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự nhiên,
xã hội và tư duy.

*Tính chất mối liên hệ phổ biến


- Tính khách quan: sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật,
hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ
thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối
liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến: bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở,
tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
- Tính đa dạng, phong phú: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có
những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và
phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng
nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò
khác nhau.

2. Làm rõ cơ sở của mối liên hệ


*Khái niệm
- Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo đó, các
sự vật, hiện tượng trong thế giới dù có đa dạng, có khác nhau đến thế nào đi chăng
nữa, thì cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
- Những người theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái quyết định mối quan hệ, sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như
trời) hay do ý thức cảm giác của con người. Đứng trên quan điểm duy tâm chủ quan,
Bécơli cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan lại vạch ra rằng “ý niệm tuyệt
đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
- Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất
của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vât và hiện tượng. Các sự vật, hiện
tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song
chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới
vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà
tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm
trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế
giới.

You might also like