VHPT Nhóm 6 bản in

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 43

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

KHOA NGỮ VĂN


*****

BÀI ĐIỀU KIỆN


Đề bài:

JEAN VALJEAN TRONG TÁC PHẨM “NHỮNG NGƯỜI


KHỐN KHỔ” CỦA VICTOR HUGO THUỘC KIỂU NHÂN
VẬT NÀO? HÃY PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH LUẬN
ĐIỂM

Học phần: Thể loại và tác gia tiêu biểu Văn học phương Tây
Giảng viên: PGS. TS. Nguyễn Linh Chi
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 6
Họ và tên sinh viên Mã sinh viên
Nguyễn Thị Kim Hằng 705601145
Nguyễn Thị Thu Hà 705601129
Khương Hoàng Hà 725601119
Mai Thu Hiền 715601137

Hà Nội, tháng 6 năm 2024


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ NHÓM 6
NHIỆM VỤ ĐIỂM
STT HỌ VÀ TÊN MSV
ĐẠT
- Chương 1: Khái quát
chung
+ mục 1.1: Vài nét về tác giả
+ mục 1.2: Tác phẩm “Những
người khốn khổ”
1 Mai Thu Hiền 715601137 + mục 1.3. Kiểu nhân vật 100%
trong văn học và trong nghệ
thuật lãng mạn của Hugo.
- Kết luận
- Thuyết trình
- Check turnitin
- Chương 2: Vẻ đẹp nhân
vật lý tưởng Jean
Valjean
+ mục 2.1: Nhân vật lý tưởng,
xuất chúng, sở hữu sức mạnh
phi thường.
2 Khương Hoàng Hà 725601119 + mục 2.2: Nhân vật trải qua 100%
kiếp sống cơ cực, đầy thăng
trầm nhưng khát vọng sống lại
vô cùng mãnh liệt.
+ mục 2.3: Nhân vật có lí
tưởng sống vị tha, nhân ái
- Làm powerpoint
- Chương 3: Nghệ thuật
xây dựng nhân vật lý
tưởng Jean Valjean
+ mục 3.1: Các thủ pháp nghệ
thuật đặc trưng
3 Nguyễn Thị Thu Hà 705601129 100%
+ mục 3.3: Nghệ thuật phân
tích tâm lý nhân vật
+ mục 3.4: Ngôn từ và giọng
điệu
- Làm powerpoint
- Chương 2: Vẻ đẹp nhân
vật lý tưởng Jean
Valjean
+ mục 2.4: Nhân vật vận động
từ bóng tối ra ánh sáng
- Chương 3:
+ mục 3.2: Quan hệ đặc biệt
giữa tính cách nhân vật và
hoàn cảnh
Nguyễn Thị Kim
4 705601145 - Chương 4: So sánh sự 100%
Hằng (nhóm trưởng)
khác biệt kiểu nhân vật
lý tưởng giữa “Những
người khốn khổ” (Victor
Hugo) và “Ditte- Con
của người đời” (M. A.
Nexo)
- Tổng hợp và chỉnh sửa
bản word.
- Thuyết trình
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG .....................................................................1
1.1. Vài nét về tác giả ............................................................................................1
1.1.1. Tiểu sử, cuộc đời ........................................................................................1
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác .....................................................................................1
1.2. Tác phẩm "Những người khốn khổ" ...........................................................2
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác ....................................................................................2
1.2.2. Tóm tắt tác phẩm .......................................................................................2
1.3. Kiểu nhân vật trong văn học và trong nghệ thuật lãng mạn của Hugo ...3
1.3.1. Nhân vật lý tưởng trong văn học ...............................................................3
1.3.2. Nhân vật lý tưởng trong văn học lãng mạn của Hugo ...............................4
CHƯƠNG 2: VẺ ĐẸP NHÂN VẬT LÝ TƯỞNG JEAN VALJEAN ..................6
2.1. Nhân vật lí tưởng, xuất chúng, sở hữu sức mạnh phi thường ...................6
2.2 Nhân vật trải qua kiếp sống cơ cực, đầy thăng trầm nhưng khát vọng
sống lại vô cùng mãnh liệt. ...................................................................................7
2.3. Nhân vật có lí tưởng sống vị tha, nhân ái ....................................................8
2.4. Nhân vật vận động từ bóng tối ra ánh sáng .............................................. 11
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG ........................................................16
NHÂN VẬT LÝ TƯỞNG JEAN VALJEAN .......................................................16
3.1. Các thủ pháp nghệ thuật đặc trưng ...........................................................16
3.1.1. Lí tưởng hóa nhân vật (so sánh, cường điệu phóng đại) .........................16
3.1.2. Nghệ thuật tương phản ............................................................................18
3.2. Quan hệ đặc biệt giữa tính cách nhân vật và hoàn cảnh ...........................21
3.2.1. Tính cách phát triển độc lập với hoàn cảnh ............................................21
3.2.2. Dấu ấn chủ quan của nhà văn trên tính cách nhân vật ...........................22
3.3. Nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật .......................................................24
3.3.1. Mô tả nội tâm nhân vật đầy đặn, đa dạng ................................................24
3.3.2. Cường độ cảm xúc mãnh liệt ...................................................................25
3.3.3. Độc thoại nội tâm.....................................................................................26
3.4. Ngôn từ và giọng điệu ..................................................................................27
3.4.1. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm ..................................................................27
3.4.2. Giọng điệu trang trọng, thống thiết, hùng biện .......................................28
CHƯƠNG 4: SO SÁNH SỰ KHÁC BIỆT KIỂU NHÂN VẬT LÝ TƯỞNG
GIỮA “NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ” (VICTOR HUGO) VÀ “DITTE-
CON CỦA NGƯỜI ĐỜI” (M.A. NEXO) .............................................................30
KẾT LUẬN .............................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................34
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Vài nét về tác giả
1.1.1. Tiểu sử, cuộc đời
Victor Hugo (1802 – 1885) sinh ra tại Besancon, Pháp; trong một gia đình có
hệ tư tưởng chính trị phức tạp. Cha ông là Leopold Sigisbert Hugo - một sĩ quan cao
cấp dưới thời Napoleon I, ủng hộ sự nghiệp cách mạng. Người mẹ là họa sĩ Sophie
Trebuchet, một phụ nữ nổi tiếng đẹp đẽ, thông minh, xuất thân từ tầng lớp bình dân
lại theo phe bảo hoàng, điều này cũng đã ảnh hưởng đến những quan điểm sau này
của nhà văn.

Năm 1811, Victor được gửi học tại trường Collège des Nobles, Madrid.
Khoảng hai năm sau, vì cha mẹ ông đã chia tay nên ông về sống với mẹ ở Paris.
Năm 1815 là một năm đặc biệt vì ông học tại trường Cordier và bắt đầu dấn thân vào
sự nghiệp làm thơ. Với tính mày mò học hỏi và được mẹ cùng anh trai ủng hộ, ông
tỏ rõ tham vọng của mình: "Tôi muốn trở thành Chateaubriand hoặc không gì cả!".
Năm 19 tuổi, mẹ Victor Hugo qua đời. Hai năm sau đó, ông đã kết hôn cùng với
người bạn ấu thơ Adèle Foucher và có bốn người con. Tuy nhiên, cuộc sống của họ
không hạnh phúc. Đứa con gái đầu tiên của ông sớm ra đi khi chưa đầy hai mươi
tuổi trong vụ lật thuyền ở sông Seine. Đứa con gái kế bị mắc bệnh tâm thần và sống
cả đời ở trong bệnh viện. Ông có hai người con trai, một người thì viết văn, người
thì làm báo nhưng rồi cũng mất khi còn ít tuổi.

Victor Hugo không chỉ sáng tác văn chương mà ông còn tham gia vào hoạt
động chính trị, bênh vực cho người dân nghèo. Ông theo chủ nghĩa tự do và ủng hộ
nền dân chủ. Ngoài ra, Victor Hugo còn từng là nghị sĩ của Quốc hội Pháp và là
thành viên của Viện Hàn lâm Pháp.

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác

Victor Hugo từ sớm đã tiếp thu “tinh thần dân chủ và lý tưởng cách mạng thời
đại do sống ở Paris – quê hương của cách mạng Pháp”. Ông đã bắt đầu sáng tác từ
sớm, khi mới 14 tuổi.Từ năm 1820 đến 1830, Victor Hugo liên lạc với nhóm nhà
văn lãng mạn và trở thành lãnh tụ của nhóm này. Ông dành hết những nhiệt huyết
và tài năng sáng tác để chống lại tư tưởng nghệ thuật gò bó của chủ nghĩa cổ điển;
sáng tác cho nền văn học mới đầy tự do.

Giai đoạn đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Hugo là khi ông bị đày ra
nước ngoài trong mười chín năm do năm 1851 cuộc đảo chính lật đổ chế độ cộng

1
hòa. Tại đây, đối diện với cuộc đời lưu vong, trước mắt là biển cả bao la rộng lớn
hiện lên cùng sự căm phẫn trước hành vi phi pháp của Napoleon đệ III, ông đã dành
hết tâm sức viết nên nhiều sáng tác được coi là “vũ khí duy nhất” của ông. Trong
khoảng thời gian này, ông đã sáng tác những tập thơ và những bộ tiểu thuyết có giá
trị nhất như tập thơ “Trừng phạt” và bộ tiểu thuyết “Những người khốn khổ”.
Năm 1885 Victor Hugo qua đời, chấm dứt một cuộc đời thăng trầm của cây
bút đã góp phần “định hình nên nền văn học Pháp”. Ông đã để lại cho đời khối lượng
đồ sộ các tác phẩm văn học ở nhiều thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, thơ ca, kịch,
với những tác phẩm văn học đầy dấu ấn như “Những người khốn khổ” (Les
Misérables), “Thằng gù nhà thờ Đức Bà” (Notre-Dame de Paris), “Lao động biển
cả” (Les Travailleurs de la Mer), “Thằng cười” (L'Homme Qui Rit).... Hugo đã phá
vỡ những quy tắc thông thường của chủ nghĩa cổ điển, về lĩnh vực nghệ thuật ông
đã từng phát biểu “Những tác phẩm vĩ đại đều có một tiêu chuẩn chung là tính tuyệt
đối. Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”. Bởi vậy, những nhân vật trong tác
phẩm của ông là những nhân vật phi thường mang tính lý tưởng hóa. Ông khắc họa
nên những nhân vật xấu xí về hình dáng bên ngoài nhưng bên trong lại có một tâm
hồn đẹp đẽ và nhân ái.

Hugo chính là “hiện thân của chủ nghĩa lãng mạn Pháp thế kỷ XIX”, là cây
bút xuất sắc của thế kỷ để lại những tác phẩm văn học đồ sộ mang dấu ấn sâu đậm.

1.2. Tác phẩm "Những người khốn khổ"


1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Tác phẩm “ Những người khốn khổ” của Victor Hugo được xuất bản vào năm
1862, trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh mẽ ở Pháp. Điều này
chỉ mang lợi ích cho những người giàu có, còn đại đa số người dân sống trong cảnh
nghèo đói, khổ cực. Bối cảnh xã hội Pháp lúc bấy giờ có sự phân chia giai cấp rất rõ
rệt. Trong khi giai cấp tư sản nắm giữ mọi quyền lực về chính trị và kinh tế thì giai
cấp vô sản lại phải lao động vất vả với mức lương rẻ mạt. Vì vậy, mâu thuẫn giữa
hai giai cấp này ngày càng trở nên gay gắt, từ đó dẫn đến những cuộc đấu tranh.
Tác phẩm "Những người khốn khổ" của Victor Hugo đã phản ánh chân thực
bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Thông qua câu chuyện của Jean Valjean, tác giả đã khắc
họa những số phận khốn khổ của những người dân nghèo, bị áp bức, bóc lột bởi giai
cấp tư sản. Đồng thời, tác giả thể hiện niềm tin vào sức mạnh của con người, vào
khả năng vượt lên số phận của những người khốn khổ.

1.2.2. Tóm tắt tác phẩm


Jean Valjean xuất thân trong một gia đình nghèo, làm nghề xén cây, ông trở thành
trụ cột của gia đình, phải nuôi đàn con nhỏ của chị gái mình. Vì quá nghèo đói, Jean

2
Valjean đập tủ kính ăn trộm chiếc bánh mì, bị bắt và bị kết án 5 năm tù. Sau mấy lần vượt
ngục không thoát, án tù tăng dần lên con số tổng cộng là mười chín năm. Ra tù, nhờ sự
cảm hóa của Giám mục Myriel, ông đã có lý tưởng của đời mình đó là phải trở thành
người tốt. Sau đó, ông đổi tên thành Madeleine, mở nhà máy, trở nên giàu có, luôn giúp
đỡ mọi người và được cử làm Thị trưởng một thành phố nhỏ. Nhưng thanh tra mật thám
Javert dưới quyền ông vẫn nghi ngờ, rình mò, theo dõi. Ông lại quyết định ra tòa tự thú
để cứu Champmathieu bị bắt oan khi đang giúp đỡ Fantine – người đàn bà khốn khổ, bị
phát hiện có con hoang và bị quản lí đuổi việc. Jean Valjean trở lại với tên thật của mình,
vào tù, rồi lại vượt ngục, tìm đến chuộc bé Cosette đang sống khổ sở tại nhà chủ quán
Thenardier, giữ lời hứa với Fantine lúc chị qua đời. Ông đưa Cosette lên Paris, sống lẩn
trốn nhiều năm trời. Một cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống lại chính quyền nổ ra ở
Paris được miêu tả hết sức hào hùng với nhiều hình tượng đẹp như anh sinh viên Enjolras,
cụ già Marbeuf, chú bé Gavroche... Gavroche băng mình ra ngoài chiến lũy vừa hát, vừa
bò vừa lết đến bên xác chết của bọn lính lấy đạn đem về tiếp tế cho đồng đội và hy sinh
anh dũng. Valjean cũng có mặt trên chiến lũy. Ông cứu sống Marius, người yêu của
Cosette, và tha chết cho Javert. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, ông vun đắp cho tình
yêu của Marius và Cosette, sống cô đơn và ra đi trong vòng tay của Cosette và Marius.

1.3. Kiểu nhân vật trong văn học và trong nghệ thuật lãng mạn của Hugo
1.3.1. Nhân vật lý tưởng trong văn học
Nhân vật trong văn học chính là phương tiện, hình tượng để tác giả thông
qua đó bày tỏ quan điểm, tư tưởng của mình về con người, về xã hội. Henri Benac
trong cuốn “Dẫn giải ý tưởng cho văn chương” đã nói về khái niệm văn học như
sau “một người được hư cấu tưởng tượng trong một tác phẩm văn học, một tác
phẩm điện ảnh hay sân khấu. Nhân vật là tấm gương cho phép người ta hiểu rõ hơn
những quy luật của tâm hồn con người. Đôi khi nhân vật giúp cho người đọc hiểu
được những quy ước của một thời đại, thậm chí cả những thói hư, tật xấu của thời
đại ấy.”
“Nhân vật văn học là con người con người được nhà văn miêu tả trong tác
phẩm bằng phương tiện văn học”, có thể có tên hoặc không và đều mang hình dáng,
tính cách của con người. Thông qua nhân vật, tác giả thể hiện được những tư tưởng,
dấu ấn đặc sắc.

Trong tác phẩm văn học, loại hình các nhân vật rất phong phú và đa dạng.
Từ góc độ kết cấu, vị trí và chức năng của nhân vật trong tác phẩm ta có thể chia
thành 3 loại: nhân vật phụ, nhân vật chính và nhân vật trung tâm. Từ góc độ nội
dung, tư tưởng sẽ có hai loại: nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Trong đó,
nhân vật chính diện được tác giả xây dựng với những phẩm chất tốt đẹp, có đạo
đức, có lí tưởng. Và khi nhân vật chính diện có ý nghĩa mẫu mực cao độ, trở thành

3
nhân vật đại diện cho lối sống của một tầng lớp, một giai cấp, một dân tộc thì được
gọi là nhân vật lý tưởng.
Hình tượng nhân vật lý tưởng xuất hiện ngay từ thời kì cổ đại, tiêu biểu là
trong “anh hùng ca” của Homer là Iliat và Ôđixê. Đó chính là những nhân vật anh
hùng, dám xông lên và chiến đấu dũng cảm với mong muốn lập được chiến công,
mang về danh dự cho mình, lưu tên sử sách. Như vậy, nhân vật lý tưởng mỗi thời
kì sẽ đại diện cho tư tưởng của xã hội thời kì đó. Ở thời cổ đại Hi Lạp, nhân vật lí
tưởng là những nhân vật anh hùng, có lý tưởng, có khát vọng trên chiến trường.
Đến thời kì Phục hưng, nhân vật lý tưởng hiện lên là những nhân vật đấu
tranh kiên cường, thể hiện khát vọng nhân đạo chủ nghĩa nhưng kết cục lại đều bi
thảm. Điển hình trong tác phẩm “Âm mưu và tình yêu” của Sêcxpia, nổi bật là nhân
vật Romeo và Juliet là hai nhân vật lý tưởng biểu hiện cho tình yêu vĩnh cửu, có thể
thấy rằng ở thời kì Phục hưng, nhân vật lý tưởng là những con người dám đấu tranh
để giành quyền tự do cho bản thân mình, xé bỏ hết mọi xiềng xích mà xã hội quy
định, vượt thoát những gò bó của xã hội.
Bước sang thế kỉ XVIII, văn học Ánh sáng đã xuất hiện, đánh dấu bước
chuyển mình quan trọng của nền văn học phương Tây. Nhân vật lý tưởng của văn
học thời kì này đề cao lí trí, dùng lí trí để giải phóng con người, dùng lí trí để chiến
đấu với chế độ phong kiến lạc hậu và bất công. Điển hình trong thời kì này là chàng
thanh niên trong tác phẩm “Canđiđơ hay chủ nghĩa lạc quan” của Vônte khi nhận
ra những quan niệm về mọi sự đều hoàn hảo trong thế giới là vô cùng sai lầm, mặc
dù anh được nuôi dưỡng trong môi trường quý tộc. Như vậy, thời kì văn học Ánh
sáng khẳng định nhân vật lí tưởng là những nhân vật mang nặng lí trí, họ sống với
hoài bão cải tạo thế giới – một hoài bão đầy ảo tưởng.
Đến thế kỉ XIX, văn học phương Tây nói chung hình thành những trào lưu
văn học mới, tiêu biểu là trào lưu văn học lãng mạn và văn học hiện thực. Trong
văn học lãng mạn, những nhân vật lý tưởng sẽ vượt lên hiện thực và sống hết mình
bằng sự hy sinh cao cả, bộc lộ nhân cách cao đẹp, tiêu biểu là Jean Valjean trong
tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của Victor Hugo. Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện
thực lại có sự khác biệt khi xây dựng hình tượng nhân vật lý tưởng từ xã hội tư sản
đương thời và hướng về thực tại.
Tóm lại, ở bất cứ giai đoạn văn học nào cũng tồn tại loại hình nhân vật lý
tưởng. Mỗi giai đoạn, nhân vật lí tưởng lại có sự thay đổi tùy thuộc vào nhận thức
và nhu cầu của con người ở giai đoạn đó, nhân vật lí tưởng trong các thời kì không
có sự trùng lặp hoàn toàn, mỗi nhân vật lí tưởng đều mang dấu ấn riêng của thời
đại.

1.3.2. Nhân vật lý tưởng trong văn học lãng mạn của Hugo
Có thể thấy, khi nói về hệ thống nhân vật lí tưởng trong tác phẩm của mình,
Hugo chưa có một phát biểu chính thức nào nhưng thông qua việc tìm hiểu và
4
nghiên cứu các sáng tác của Hugo ta có thể nhận ra được điều đó. Trong “Bàn về
sức mạnh của thơ Mara”, nhận xét chung về các nhà văn lãng mạn tích cực như
Hugo, Bairon, Sinle, … Lỗ Tấn có nói: “Nhìn chung họ đều có xu hướng như nhau:
bất mãn với thời thế và không bằng lòng với tiếng kêu hòa hoãn. Cho nên họ đã cất
lên những tiếng làm cho người nghe phải đứng dậy giành lấy đất trời và chống lại
bọn phàm tục”. Thật vậy, Hugo sống trong suốt thời kì sóng gió bão táp cách mạng
của châu Âu thế kỉ XIX. Những sáng tác của ông thể hiện sự cố gắng, phấn đấu cho
tự do dân chủ, hòa bình hữu nghị cho các dân tộc. Đồng thời, tác phẩm của ông
phản ánh hiện thực đời sống của nhân dân dưới thời kì của chế độ tư bản, phản ánh
sự áp bức, sự xấu xa của bọn tư sản thống trị. Đặc biệt, Hugo luôn tin tư tưởng có
thể giải phóng loài người. Bởi vậy, những nhân vật của ông có tâm hồn cao thượng,
giàu lòng nhân ái.
Với Hugo, nhân vật lý tưởng chính là những con người bình thường sống
trong thế giới vật chất nhỏ bé, họ có thể chịu cuộc sống khốn khổ, nghèo đói, vùi
dập nhưng lại có tâm hồn cao đẹp, một thế giới tâm hồn khổng lồ. “Lý tưởng của
V.Hugo là làm sao cho con người được như giám mục Mirien quên mình vì kẻ
nghèo khổ, như Jean Valjean sẵn sàng ra tay cứu giúp con người trong mọi hoàn
cảnh, kinh doanh công nghệ để thợ có chỗ làm ăn, tiền lời dùng một phần quan
trọng vào việc phúc lợi xã hội, cứu giúp mẹ con Côdét vô điều kiện”. Nhà văn luôn
tin rằng ẩn sâu trong tâm hồn của mỗi người luôn có cái tốt, và chiến thắng cái xấu.
Thế giới của Hugo là thế giới lý tưởng, là sự vận động của con người từ bóng tối
đến ánh sáng. Bởi theo tác giả, chỉ có tình yêu thương, nhân ái cùng với việc cải
tạo tư tưởng con người mới chống lại được những áp bức, bất công, đòi được tự do
dân chủ. Nhân vật của Hugo sẽ luôn lên tiếng cho khát vọng sống về tình yêu thương
chan hòa dù họ là ai và số phận có khó tin đến thế nào.

Nhân vật lý tưởng theo nghiên cứu trong các sáng tác của Hugo là những con
người bình thường nhưng có tâm hồn cao đẹp và trái tim ấm áp, luôn sẵn sàng hi
sinh quên bản thân mình về người khác. Ông luôn hướng đến việc lấy điều thiện để
chống lại điều ác, đề cao việc tu dưỡng đạo đức và lòng yêu thương để cải tạo được
xã hội. Theo Hugo, nhân vật lý tưởng phải là “những con người phi thường trong
thế giới tâm hồn, họ có nhiệm vụ truyền tải bức thông điệp mang tên tình yêu thương
đến với xã hội đầy rẫy những bất công, ngang trái kia để cải tạo nó.”
Hơn ai hết, tác giả là người đề cao tình thương, ông có ước muốn xây dựng
xã hội mà ở nơi đó con người sống với nhau công bằng, tự do và nhân ái. Đó là
những lí do để ta có những tượng đài về tình yêu thương như Jean Valjean,
Cadimôđô, Gôvanh … đã trở thành thứ ánh sáng chói lòa trong nền văn học Pháp
cũng như văn học lãng mạn thế giới.

5
CHƯƠNG 2: VẺ ĐẸP NHÂN VẬT LÝ TƯỞNG JEAN VALJEAN

2.1. Nhân vật lí tưởng, xuất chúng, sở hữu sức mạnh phi thường
Jean Valjean được xây dựng là một nhân vật lí tưởng với vẻ đẹp, tài năng,
phẩm chất cao quý, một vị thánh giữa đời thường. Trước hết, tác giả xây dựng một
nhân vật có sức mạnh thể chất phi thường, một đặc điểm tất yếu ở những người
anh hùng. Điều đó được thể hiện trong nhiều sự kiện xuyên suốt tác phẩm, không
kể thời gian, địa điểm, tuổi tác, địa vị.
Khi còn là một chàng thanh niên, Jean Valjean vốn là một nông dân nghèo
lương thiện, làm nghề xén cây. Cha mẹ mất sớm, anh sống cùng người chị gái góa
chồng và bảy đứa cháu nhỏ. Anh phải làm việc quần quật, vất vả, cực nhọc suốt ngày
để nuôi sống cả gia đình. Thương đàn cháu nhỏ đói rét giữa trời đông lạnh giá, Jean
túng quẫn làm liều, đập vỡ cửa kính, thò cánh tay vào ăn cắp một chiếc bánh mì. Sự
việc bại lộ, “tên ăn trộm sải chân chạy trốn; lão đuổi theo và tóm được. Tên trộm
đã vứt bánh đi nhưng cánh tay máu me đầm đìa”, Jean Valjean bị truy tố vì tội “ăn
trộm ban đêm có phá cửa trong một nhà có người ở”, chính thức trở thành một người
tù khổ sai. Trong thời gian ở tù, Jean Valjean làm được những công việc nặng nhọc
nhất, từ việc dòng dây cáp, quay tời... một mình anh làm khỏe bằng bốn người. Vốn
là người cầu tiến, anh còn theo học các lớp văn hóa do nhà tù tổ chức.
Sức khỏe phi thường ấy còn thể hiện ở sự ngỡ ngàng đến kinh hãi của dân
chúng thị trấn Montreuil khi chứng kiến cảnh Jean Valjean, lúc này đã trở thành thị
trưởng Madeleine, cứu người nông dân Fauchelevent đang bị một cái xe kéo đè lên
người. Jean đã chui xuống gầm xe, lấy lưng bẩy xe lên để Fauchelevent đang kẹt ở
đó có thể thoát ra được. Thanh tra Javert bắt gặp cảnh này đã liên tưởng đến tù nhân
bỏ trốn mà mình đang săn lùng, “lấy lưng mà nâng một cái xe nặng thế này, phi
người nào có sức khỏe ghê gớm thì ai làm nổi”, và “bình sinh tôi chỉ biết có mỗi
một người có thể làm nổi cái việc ông nói đó”, “suốt đời tôi chỉ biết có một người
thay nổi cái kích”, người đó chính là Jean Valjean. Sức mạnh phi thường và duy
nhất ấy của Jean được người ta mệnh danh là Giăng Kích.
Sức mạnh thể chất cùng sự nhanh nhẹn, dẻo dai ấy đã nhiều lần giúp Jean
Valjean vượt ngục hay trốn thoát khỏi Thernardier và Javert, trong đó có cuộc rượt
đuổi trong đêm tối với Javert trên đường phố Paris. Sức khỏe cùng sự khéo léo và
khả năng leo trèo đã giúp ông cõng Cosette vượt qua bức tường cao để vào trú trong
nhà tu kín. “Anh leo trèo theo chiều thẳng đứng, chân bám vào những nơi chỉ hơi
gợn một tí, anh coi việc này chỉ là trò chơi với mình.”
Tài năng của Jean Valjean còn bộc lộ trên chiến lũy – nơi sự sống mong
manh còn cái chết lúc nào cũng luôn chực chờ. Đây là không gian quan trọng để
6
Victor Hugo xây dựng hình tượng Jean Valjean với sức mạnh phi thường trong hoàn
cảnh phi thường. Ở đây, ông cứu người bất chấp nguy hiểm, trở thành người hùng
trên chiến lũy. Jean Valjean còn có tài bắn súng “bắn đâu trúng đó”. Được giao
nhiệm vụ xử tử Javert – người luôn theo dõi, lùng bắt mình, nhưng Jean lại thả hắn
đi vô điều kiện bởi ông hiểu viên thanh tra trước giờ chỉ đang làm tròn nghĩa vụ. Khi
cuộc khởi nghĩa thất bại, Jean Valjean không quản ngại nguy hiểm, khó khăn cõng
Marius đang bất tỉnh vì bị thương nặng chạy trốn bằng đường cống ngầm Paris.
Sức mạnh thể chất phi thường ấy kết hợp với vẻ đẹp lí tưởng và xuất chúng
làm cho nhân vật lãng mạn hiện lên một cách rực rỡ. Tám năm sau khi ra tù, lấy
tên là Madeleine, nhờ sự thông minh cùng tài làm ăn tháo vát, ông trở nên giàu có:
“Jean Valjean lúc mới đến, anh không mang quá nhiều vốn nhưng nhờ trí tuệ và tài
làm ăn có ngăn nắp, có suy nghĩ nên không bao lâu làm giàu cho cả xứ.” Vì ngay
thẳng, chính trực, luôn làm việc thiện, ông được mọi người yêu quý và bầu làm thị
trưởng. Vẻ ngoài và tâm hồn ông như một vị Chúa cứu rỗi. “Bao giờ ông Madeleine
cũng giữ tác phong giản dị như những ngày mới đến. Mắt nghiêm chỉnh, tóc hoa
râm, da rám nắng như một người thợ nhưng vẻ mặt thì đăm chiêu như một triết gia.”
Vẻ đẹp ngoại hình của ông cũng hiện lên qua cái nhìn của Marius: “Trạc tuổi 60, có
vẻ buồn rầu và nghiêm nghị, với các vóc dáng khỏe mạnh và mệt mỏi của con nhà
lính đã giải ngũ. Trang phục của ông tươm tất và sạch sẽ. Ông có mái tóc bạc phơ...
trông ông ra vẻ hiền lành nhưng khó gần, ông không để mắt nhìn vào một ai cả.”
Khác với các nhân vật khác, Jean Valjean được tác giả khắc họa chủ yếu qua hành
động. Ông ít nói, ít cười và ít giao tiếp với mọi người, tạo nên vẻ đẹp buồn bã, đơn
độc, kiêu kì, đậm chất lãng mạn của một tâm hồn tài hoa bị số phận bạc đãi. Nhưng
ẩn đằng sau vẻ ngoài lãnh đạm, cô độc ấy là một tâm hồn sáng ngời vẻ đẹp của tình
yêu thương và đức hy sinh cao cả.
Như vậy, Jean Valjean được miêu tả như một hình mẫu lí tưởng, một anh
hùng, một cứu tinh, một con người phi thường trong hoàn cảnh đặc biệt. Với sức
mạnh thể chất, tài năng, bản lĩnh, sự thông minh, trí tuệ, Jean được xây dựng như
một ước mơ trong một thế giới lý tưởng.

2.2 Nhân vật trải qua kiếp sống cơ cực, đầy thăng trầm nhưng khát vọng sống
lại vô cùng mãnh liệt.
Trong suốt 64 năm cuộc đời, dù trải qua nhiều thăng trầm, biến cố nhưng khát
vọng sống của Jean Valjean luôn cháy bỏng. Xuất phát điểm của Jean là nền tảng
thiện trong bản chất. Từ khi còn là thanh niên, ông đã lao động, làm quần quật vất
vả cả ngày chỉ để kiếm sống. Chính vì khát vọng được sống, giành giật lấy sự sống
cho gia đình, không cam chịu cảnh đói khát của đàn cháu mà Jean Valjean đã ăn
trộm một chiếc bánh mì. Vì lẽ đó, anh phải đánh đổi bằng năm năm tù khổ sai, mở
đầu cho chuỗi bi kịch cuộc đời một con người bị xã hội cự tuyệt. Xã hội bất công

7
đẩy con người vào tội ác, “luật pháp tuyên án đẩy người ta vào một cuộc trầm luân”.
Nhưng cuộc sống tù đày không khuất phục được Jean Valjean, khát vọng sống, khát
vọng tự do của Jean chưa bao giờ nguôi, ông bỏ trốn ngay khi có cơ hội. Sau bốn
lần vượt ngục bất thành, án tù của Jean tăng lên mười chín năm, chôn vùi cả một
thời trai trẻ của người nông dân lương thiện.
Những tưởng khi ra tù, Jean Valjean có thể làm lại cuộc đời, được sống bình
thường như mọi thành viên trong xã hội, nhưng vì tấm giấy thông hành màu vàng
mang mác cựu tù khổ sai mà đi đến đâu Jean cũng bị mọi người xua đuổi, khinh rẻ.
Cả những nhà trọ xác xơ, tồi tàn nhất cũng từ chối chứa chấp Jean Valjean. Muốn
xin trọ trong nhà lao, anh phải trở lại làm tội phạm, đến vào ngủ trong cái ổ chó cũng
bị nó đuổi đi. Bi kịch của một con người bị chối bỏ, cự tuyệt, bị đẩy ra ngoài rìa xã
hội hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Trong cảnh khốn cùng, Jean Valjean gặp được
Đức giám mục Myriel nhân từ, độ lượng. Tình yêu thương của cụ đã cảm hóa, thanh
lọc tâm hồn thù hận, lầm lạc, thức tỉnh Jean Valjean, đưa anh “ra khỏi bóng tối của
tội ác đến với ánh sáng chói lòa của lòng lương thiện.”
Không thể sống bình yên với tên thật của mình vì tên đó gắn với mác tù khổ
sai, Jean Valjean tiếp tục hành trình trốn chạy – trốn chạy một cái tên bằng cách đội
lốt giả, đeo mặt nạ, sử dụng nhiều cái tên, thân phận giả khác nhau. Nhờ cứu hai đứa
trẻ trong đám cháy ở tòa thị chính, Jean lấy tên Madeleine, trở nên giàu có và trở
thành Thị trưởng. Không thể làm ngơ trước tình cảnh Champmathieu vô tội bị bắt
oan – ông ra tòa tự thú, lại lần nữa trở thành tù tội với số tù mới “9430”. Không cam
chịu số phận, Jean tiếp tục vượt ngục tìm đến nhà Thenardier, thực hiện lời hứa với
Fantine – cứu Cosette và mai danh ẩn tích nuôi dạy cô nên người. Nhờ cứu người
thủy thủ, ông rơi xuống biển và bị tưởng là đã chết, nhưng bằng khả năng vượt biển,
ông giành lại một cơ hội được sống. Trước sự truy đuổi của viên thanh tra Javert,
một lần nữa ông cần che giấu thân phận, đổi tên thành Uyntim Phosolovang, chui ra
từ một chiếc xe tang, giả chết, tự phủ định để được sống yên – dùng cái chết để mở
ra cho mình con đường sống.
Như vậy, qua bao dâu bể cuộc đời, bao lần “đeo mặt nạ”, “thay tên đổi họ”,
khao khát được sống của Jean Valjean chưa bao giờ vơi. Khát vọng sống mãnh liệt
ấy được đặt trong hoàn cảnh bất thường càng tô đậm thêm con người lý tưởng, xuất
chúng, tính cách phi thường của nhân vật. Sự lãng mạn ở đây chính là niềm tin vào
cuộc sống và khát vọng sống cháy bỏng, vượt lên trên mọi hoàn cảnh của Jean
Valjean. Dù cho cuộc đời có trớ trêu, khắc nghiệt đến đâu thì Jean Valjean vẫn luôn
cố gắng sống và luôn khát vọng được sống.

2.3. Nhân vật có lí tưởng sống vị tha, nhân ái


Bên cạnh vẻ đẹp của cái Tài, của tình yêu cuộc sống thiết tha, Jean
Valjean còn mang vẻ đẹp của cái Tâm, cái Thiện. Dẫu cho bao đắng cay trong cuộc
đời, Jean luôn sáng ngời một tâm hồn trong sáng, cao cả, chan chứa yêu thương.
8
Nhân vật Jean Valjean được Hugo gửi gắm lí tưởng tình thương, ông
sống với triết lí đó từ khi còn trẻ đến giây phút lìa đời, dẫu cho có đôi lúc lầm lạc.
Tình yêu thương ấy trước hết được thể hiện trong bổn phận, trách nhiệm giúp đỡ
gia đình. Hàng ngày, anh cần cù lao động kiếm tiền nuôi cháu. Tuy bề ngoài hay
cộc cằn, cau có, anh vẫn giấu chị gái tới trả tiền sữa mà các cháu còn thiếu nhà người
ta để chúng đỡ phải bị đòn. Cũng vì thương đàn cháu đói ăn, anh đã ăn trộm một
chiếc bánh mì, để rồi phải chịu bản án khổ sai 19 năm tù. Dù hoàn toàn ý thức được
hành động của mình là sai lầm, nhưng tình thương cháu lớn hơn nỗi thương thân.
Ngay cả những ngày tháng khốn khổ trong tù, anh cũng chỉ nghĩ tới những đứa cháu
nhỏ ở nhà: “Trong khi người ta quai mạnh búa để tán chiếc đinh trên cái gông cổ
phía sau gáy, anh khóc lên, nghẹn ngào không nói nên lời, chốc chốc mới thốt được
một câu: “Tôi làm nghề xén cây ở Phavơrôn”. Rồi anh vừa nức nở và giơ tay lên,
hạ xuống bảy lần, mỗi lần mỗi hạ thấp hơn, trông như anh đang lần lượt sờ đầu bảy
đứa trẻ lớn nhỏ khác nhau. Trông cử chỉ ấy người ta đoán biết anh đã làm điều phi
pháp gì đó cũng là vì miếng cơm manh áo của bảy đứa bé con.”
Tình yêu thương của Jean Valjean không chỉ với những người thân
yêu ruột thịt trong gia đình mà còn dành cho những người không hề quen biết.
Sau khi được cảm hóa bởi tình yêu thương của Đức giám mục Myriel, Jean luôn
kiên định với lí tưởng tình thương, sống lương thiện, hy sinh vì người khác, mang
lại hạnh phúc cho mọi người. Tự nguyện chịu ràng buộc bởi những đòi hỏi của bác
ái, Jean Valjean dấn thân vào công cuộc cứu vớt những số phận bất hạnh:
Tại một thị trấn nọ, khi tòa thị chính bốc cháy, Jean Valjean đã dũng cảm xả
thân mình lao vào đám cháy cứu hai đứa trẻ. Chính việc tốt đó đã mang đến cho anh
cơ hội sống một cuộc đời mới – cuộc sống không bị ràng buộc bởi tấm giấy thông
hành. Jean trở thành ngài thị trưởng Madeleine, một người giỏi giang, nhân hậu,
được dân chúng hết mực yêu quý, ngưỡng mộ. Giữa thực tại giả dối của xã hội tư
sản đương thời, ông không những không đi theo quy luật tất yếu của thời đại – trở
thành một tư sản tàn bạo, ác độc, mà trái lại, còn thực hiện lí tưởng dựng xây. Victor
Hugo dựng lên xưởng máy của ông Madeleine dường như để tô vẽ cho kiểu mẫu
một xã hội lý tưởng – nơi không có bất công, áp bức. Ở đây, không có chuyện tư sản
bóc lột công nhân. Ông tạo công ăn việc làm cho nhân dân, làm rất nhiều việc thiện
giúp đỡ họ, “trong những phòng khách cầu kì của thành phố..., người ta bảo đó là
một con người quê mùa và không thích giao du.” Ông kinh doanh công nghiệp để
thợ có chỗ làm ăn, tiền lợi nhuận được dùng để cải thiện đời sống người lao động,
tổ chức y tế, cứu tế trong xưởng... “Ông giải hòa những đám xích mích, ông ngăn
ngừa những sự kiện tụng, ông giúp những kẻ thù làm lành với nhau. Ai cũng muốn
nhờ ông phân xử hộ, lòng chính trực của ông là một bộ luật tự nhiên.” Bằng tiền
bạc, địa vị của mình, Madeleine thực hiện lý tưởng cao đẹp, cứu vớt những phận
người khốn khổ trong xã hội.

9
Khi biết được cảnh ngộ của Fantine – một người ông thậm chí chưa từng gặp
mặt, Madeleine không ngần ngại cung cấp tiền, giúp đỡ, bào chữa để cô không bị bỏ
tù, đưa Fantine vào làm công nhân trong xưởng máy của mình. Sau này, khi Fantine
lâm bệnh nặng, ông cũng hết lòng đưa chị đến bệnh viện chạy chữa. Tình yêu thương,
sự giúp đỡ của Madeleine tỏa ra thứ ánh sáng rực rỡ, cứu rỗi, sưởi ấm tâm hồn người
phụ nữ khốn khổ, trao cho chị một niềm tin. Ông hứa với Fantine sẽ cứu và chăm
sóc Cosette để chị được ra đi thanh thản. Jean Valjean hiện lên như một vị thánh
giữa đời thường, hết lòng yêu thương, trân trọng, giúp đỡ những số phận nghèo khổ,
bất hạnh như cách ông đã được nhận từ cụ Myriel đáng kính.
Trước tình cảnh một người tên Champmathieu bị bắt ra tòa vì giống mình,
Jean Valjean đã quyết định ra tự thú để cứu con người vô tội ấy. Sự lương thiện của
ông đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Ông đã lựa chọn đánh đổi
tất cả để cứu một người chẳng hề quen biết: “Dứt khoát rồi, phải theo con đường
ấy! Phải làm tròn bổn phận của mình. Phải cứu người ấy.” Ông thà “xuống địa ngục
để thành thiên thần còn hơn sống ở thiên đàng để làm ác quỷ.” Như vậy, Jean
Valjean đã chiến thắng trong phép thử lương tâm khi phải chọn giữa đạo đức và hạnh
phúc cá nhân. Ông trở về với thân phận một người tù khổ sai.
Thay đổi thân phận nhưng tâm hồn ông vẫn tỏa sáng như viên ngọc toàn bích.
Tình yêu thương to lớn của Jean Valjean kết tinh hết thảy ở Cosette. Jean đã giữ
đúng lời hứa với Fantine, ông vượt ngục để cứu Cosette khỏi gia đình Thernardier
độc ác và cưu mang, nuôi nấng cô bé “bằng những tình cảm say sưa của một người
mẹ và của một người ông”, “ông yêu Cosette như con, như mẹ, như em gái”. Tình
cảm Jean Valjean dành cho Cosette không chỉ là tình thương, sự che chở với những
mảnh đời nhỏ bé, bất hạnh trong xã hội mà trên hết, đó còn là thứ tình cảm gia đình
vô giá. Cô bé mang “một thứ tình cảm mới mẻ tràn vào tâm hồn ông”, trở thành
nguồn sống, là động lực to lớn giúp Jean vượt qua mọi khó khăn. Giờ đây với ông,
Cosette đã trở thành một phần không thể thiếu. Jean Valjean đã bao lần lo lắng rồi
một mai, cô sẽ lấy chồng và rời xa ông. Nhưng cũng vì tình thương ấy, Jean sẵn sàng
lên chiến lũy, xông pha vào mưa bom bão đạn để cứu Marius – người yêu của
Cosette, để rồi chấp nhận sự cô đơn hiu quạnh của lòng mình. Sau này, khi về già,
cũng vì nhớ thương Cosette mà ông đã đổ bệnh.
Marius cũng là bước đệm khẳng định cái thiện trong Jean Valjean. Với ông,
Marius như một đối thủ cướp mất Cosette – tình yêu lớn nhất của đời ông. Thế nhưng
không thể yên lòng khi cô đau khổ, ông đã bỏ qua tất cả, xông pha lên chiến lũy bảo
vệ và cứu Marius đang bị thương nặng. Dù “ông căm ghét chàng trai tóc nâu ở vườn
Luxembourg đã tự cho phép mình nhìn con gái của ông bằng đôi mắt quá đỗi dịu
dàng”, Jean Valjean đã thỏa hiệp với Thernardier để cứu Marius vượt qua tấm lưới
sắt ở miệng ống cống, cầu xin Javert tạm tha để đưa Marius đi bệnh viện. Đó là đức
hy sinh cao cả, thầm lặng của người cha đích thực. Cái thiện lại một lần nữa chiến
thắng.
10
Sự cao cả của Jean Valjean được thể hiện rõ nét qua hành động tha chết và trả
tự do cho Javert. Viên thanh tra Javert là nỗi ám ảnh, sợ hãi của đời Jean, là đại diện
cho bóng tối. Hắn là một kẻ vô tình, cuồng tín, sẵn sàng làm tất cả để phục vụ Nhà
nước tư sản. Javert luôn theo dõi, lùng bắt, truy đuổi Jean Valjean, vậy mà khi được
giao nhiệm vụ xử tử hắn, ông đã quyết định thả Javert. Tha thứ là triết lí sống, là
phương châm hành động của Jean Valjean. Câu nói “Ông được tự do” của Jean
khiến Javert bất động, hắn không thể tin sự thật mình được thả bởi chính kẻ thù. Hắn
dằn vặt, thừa nhận rằng “tên cùng khốn ấy cao cả thật.” Trước tấm lòng cao cả, vị
tha ấy, niềm tin của Javert về nhà nước, pháp luật bị lung lay. Jean Valjean đã có
được lòng tôn trọng, khâm phục của Javert: “Hình ảnh ông Madeleine lại hiện lên
đằng sau Jean Valjean: hai khuôn mặt đáng tôn kính”.
Với bản chất nhân từ, lương thiện của mình nên dù khi mang tên Phosolovang,
ông vẫn thầm lặng giấu kín thân phận của mình. Họ chỉ biết ông là một người tốt
bụng và hay giúp đỡ những kẻ ăn xin ở ngoài đường.
Như vậy, Jean Valjean hiện lên như một vị thánh, là biểu tượng của sự cứu
rỗi, mang ánh sáng của tình yêu thương đi giữa cuộc đời để thực hiện sứ mệnh cao
cả cảm hóa và mang lại hạnh phúc cho mọi người, dù thực hiện những ảo tưởng lãng
mạn nhưng hết sức cao đẹp Nhân vật lí tưởng của Hugo hội tụ đủ mọi tố chất ưu
việt, sáng ngời vẻ đẹp thiện lương, nhân từ, bác ái. Đây là kiểu nhân vật tiêu biểu
của chủ nghĩa lãng mạn.

2.4. Nhân vật vận động từ bóng tối ra ánh sáng

Trong tác phẩm “Những người khốn khổ”, nhân vật lý tưởng đại diện cho
nhân cách và hành động trọn vẹn và hoàn thiện. Sự hoàn thiện đó không phải ngay
từ đầu đã có mà phải qua một quá trình vận động phát triển theo chiều hướng đi lên
để đạt một mẫu mực cao độ. Tức là tính cách và hành động của nhân vật lí tưởng
luôn có sự phát triển từ bóng tối ra ánh sáng, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Trong cuộc sống, con người muốn làm người lương thiện không bao giờ dễ
dàng, nhưng sa ngã lại rất đơn giản. Trong “Những người khốn khổ”, V. Hugo đã
giành cả một chương mang tiêu đề “Sa ngã” để nói về quá trình sa ngã của Jean
Valjean.

Jean Valjean mãn hạn tù trở về và nỗi đau bị cả xã hội khước từ. Lần đầu tiên
sự khước từ diễn ra khi sau một ngày đi đường vất vả, hắn ta đã mệt mỏi và đói khát
lắm rồi và hắn đến tòa thị chính để trình giấy tờ, với hành động “khúm núm cúi chào
nhưng người lính không chào hắn, chăm chú nhìn hắn, trông theo hắn một lúc rồi bỏ
đi”. Ở lần khước từ thứ hai khi anh đến quán cơm Croa đờ Côn ba để ăn cơm và ngủ
lại, nhưng chủ quán lại bảo không có phòng trống, đồ ăn cũng hết, anh xin xuống

11
chuồng ngựa nhưng chuồng ngựa cũng đầy. Sự liên tiếp bị từ chối, bởi hắn đã biết
thân phận thực sự của Jean Valjean bị hắt hủi, thậm chí thân con người không bằng
thân con ngựa, con ngựa còn có chuồng có chốn dung thân. Giá trị con người nằm ở
đâu, một tiếng khóc than cho thân phận rẻ rúng. Khốn khổ thay cho người đáng
thương ấy.
Tiếp tục bước đi trong đau khổ, màn đêm buông xuống anh đi về phía một
quán rượu đồng thời là một quán cơm ở phố Sapho. Cái dáng vẻ đau thương của con
người từng quen đau khổ ấy lại bị khước từ lần thứ 3, khi chủ quán biết thân phận
của anh “mày đi ra ngay khỏi nhà này”, lũ trẻ thấy anh bước ra nhặt đá ném theo.
Đây là lần khước từ thứ ba. Chao ôi, đúng là sự xua đuổi, họ xua đuổi một con người
hơn xua đuổi loài vật. Tại sao lại khiến cho con người trở nên bi đát, đáng thương
và tội nghiệp như thế! Lần khước từ thứ tư là ở chốn nhà lao, anh cũng bị người gác
cổng từ chối. Chốn lao tù còn chẳng buồn chứa một người như anh. Sự khốn khổ
đến cùng cực của một con người có thân phận là một người tù khổ sai lại bị xã hội
ghê gớm đến mức vậy?

Lại tiếp tục bước đi trong ngày tàn để tìm chốn dung thân, anh ta rẽ sang một
khu phố nhỏ, thấy một gia đình đầm ấm, vui vẻ bên nhau. Con người khốn khổ ấy
dường như đặt niềm tin rằng rằng ở một nơi tràn đầy hạnh phúc như thế sẽ tìm được
một chút tình thương chăng, anh gõ cửa ba lần với dáng vẻ khúm núm, cung kính,
van xin để có chỗ ăn, chỗ ngủ sau một chuỗi hành trình đi bộ dài ngày. Ở lần này,
người chủ nhà cũng sinh nghi nhìn anh ta, khi biết thân phận của anh, nhanh chóng
với tay lấy khẩu súng tên tường: “quân cướp đạo”, “cút đi”. Đây đã là sự từ chối,
khước từ lần thứ năm. Đến đây dường như ta phải tự đặt ra câu hỏi, loài người ơi,
có cần phải đến mức đó không? Cũng là con người mà tại sao chỉ vì một thân phận
người tù ấy lại chà đạp, đẩy con người đến bước đường cùng như vậy. Đáng thương
và khốn khổ thay thân phận con người ấy!
Chắc hẳn không sự khước từ nào bi thảm khổ đau như lần khước từ thứ sáu
này, trời mỗi lúc mỗi tối, gió núi thổi về lạnh buốt, cơn đói và cơn rét đã hành hạ
con người ấy. Trong ánh sáng lờ mờ của ngày sắp tàn, anh nhìn thấy một cái lều đất
đắp bằng đất cỏ, hóa ra là cái ổ chó. Tưởng như đã tìm thấy chốn dung thân rồi
nhưng anh bị con chó đuổi cắn khiến quần áo bị rách nát thêm. Đến chỗ ở của loài
chó mà cũng không giành cho anh. Lần này sự khước từ lại đến từ động vật. Thân
phận con người sao mà rẻ rúng chẳng bằng một con chó? “Thân ta thật không bằng
một con có”- anh ta than thở.

Dường như anh đã nhận ra việc cả xã hội xua đuổi, bị cuộc đời từ chối nên
anh mất dần niềm tin hy vọng ở con người nên lần cuối này anh lại nương tựa vào
thiên nhiên hoang vắng. Lúc này, chân trời đã tối mịt đêm đã đến, quang cảnh thật
12
đáng sợ, não nề, chật chội- nhiều lúc thiên nhiên có vẻ thù ghét con người, anh ta
mơ màng quay gót quay trở lại con đường cũ. Khi đi qua quảng trường nhà thờ lớn,
anh “hằn học giơ quả đấm lên nhà thờ” biểu thị cho sự tuyệt vọng đến cùng cực, sự
mất niềm tin hy vọng vào cuộc sống phía trước, kiệt quệ đến nỗi con người phải thù
ghét đến cả Chúa.Tất thảy đều là những sự khước từ, là tiếng kêu đến xé lòng, xé
gan người đọc, V. Hugo muốn cất lên tiếng nói tìm lại quyền lợi của con người đúng
nghĩa. Nhưng suy cho đến cùng, với tấm lòng của nhà văn, ông không bỏ rơi những
con người khốn khổ, cánh cửa này đóng lại ắt sẽ có cánh cửa khác mở ra mà cánh
cửa này lại chẳng bao giờ đóng chốt, cài then khóa cửa mà khi nào cũng mở ra sẵn
sàng chờ đón những con người như Jean Valjean- đây là lối thoát mà ông tìm cho để
họ tìm kiếm, quay trở lại với con đường lương thiện.

Khi bị cả xã hội rẻ rúng, xua đuổi, coi thường thì Chúa đã cử sứ giả là ông
Myriel xuống để cứu rỗi cuộc đời của Jean Valjean. Ở đây, anh không chỉ được đối
xử như một con người bình thường mà còn như một thượng khách. Ở đây chúng ta
nhận thấy sự tương phản đối lập trong thị trấn và nhà thờ. Bức tranh ở đây có khoảng
sáng và tối. Thị trấn tượng trưng cho bóng tối cũng như cuộc xua đuổi bắt đầu từ
chiều tối còn nhà thờ lại là nơi ánh sáng mặt trời tưới mát cho tâm hồn đã héo úa.
Trong thị trấn thì anh luôn bị từ chối, bị khước từ, bị rẻ rúng nhưng đến nhà thờ thì
anh không chỉ được ăn, được ngủ mà còn được đối xử như những người thân thiết,
bình đẳng và tôn trọng.

Hoàn cảnh trước khi đến với thân phận tù tội của Jean Valjean cũng thật sự
đáng thương làm sao?! Cha mẹ mất sớm khi anh còn nhỏ, ở với một người chị đã
góa chồng với bảy đứa con thơ. Anh- một người nông dân nghèo làm nghề xén cây,
phải làm rất nhiều việc để nuôi mình, nuôi chị và nuôi cả bảy đứa cháu. Tình huống
đưa Jean Valjean vào cảnh tù tội xuất phát từ anh việc đập một miếng kính và lấy
một cái bánh mỳ. Anh chính thức trở thành người tù khổ sai, cả quãng đời trước đây
dường như bị xóa mờ, xóa mờ cả tên tuổi, trên đời dường như không còn có tên là
Jean Valjean nữa mà con số 24. 601 rồi còn nhiều con số khác. Con người mất tên,
mất tuổi, mất cả nguồn gốc đến mất cả giá trị người theo thứ được gọi là luật pháp
tư sản, nhân phẩm và danh dự đã không còn. Ở chế độ xã hội tư sản Pháp thế kỉ XIX,
nguyên tắc tôn trọng con người đã bị vi phạm, họ trở thành nô lệ bị chà đạp thân
phận người của mình đến tận cùng đáy của xã hội. Từ đây, Hugo đưa ra một triết lý
sâu sắc: “Trong xã hội văn minh của chúng ta có những giờ phút đáng sợ, là những
lúc luật phát tuyên án đẩy người ta vào một cuộc trầm luân. Còn gì thê thảm hơn
bằng cái giây phút mà xã hội lánh xa và dứt khoát vứt bỏ một con người biết suy
nghĩ”. Cảnh tù mười chín năm trời đã thay đổi con người một cách ghê gớm: “Lúc
vào tù Jean Valjean run sợ, khóc lóc: đến khi ra, anh thành người thản nghiên, trơ
như đá. Lúc vào, lòng anh tuyệt vọng, nay lòng anh đen tối. Cái gì đã xảy ra trong

13
tâm hồn anh?”. Trong cuộc đời đày ải ấy, khi bị roi vọt, xiềng xích, nằm trong lao
ngục, lao dịch, khi ở ngoài trời nắng thiêu đốt, lúc nằm trên tấm phản nhà tù, anh
thường tự vấn lương tâm của mình anh không phải là người ác. Anh tự nhận mình
là kẻ vô tội bị xử oan, tự mình thú nhận mình trót làm việc cùng quẫn ấy có sai lầm
thật nhưng sống trong xã hội Pháp lúc bấy giờ, lỗi lầm ấy không đáng để chịu một
hình phạt khắc nghiệt và nặng nề như thế! Nếu như xã hội ấy nhân văn thấm đẫm
tình người thì sẽ không có chuyện vì ăn cắp một cái bánh mì mà cướp mất đi mười
chín năm thanh xuân rực rỡ của đời người.

Cuộc đời anh bị đối xử với quá nhiều những nỗi đau, sự mất mát và dần dần
biến thành sự thù hằn, hận và mất lòng tin. Chỉ khi con người quá đau khổ, họ sẽ hận
tất cả mọi thứ kể cả là trời bởi vì trời đã sinh ra cái xã hội kia. Được ăn, được ngủ,
được đối xử bình đẳng tại nhà ông giám mục nhưng những ý nghĩ xấu xa, đen tối lại
xuất hiện trong đầu, anh muốn đánh cắp bộ đồ ăn bằng bạc. Mặc dù có chút ít do dự
và tranh đấu bản thân nhưng anh vẫn cương quyết hành động và lần này anh đã sa
ngã thêm lần nữa. Thế nhưng Chúa cũng không bỏ mặc con chiên của mình dù họ
có lạc lối, lầm lỗi; Chúa sẽ tha thứ, mở rộng cánh cửa để chào đón anh làm lại cuộc
đời.

Tác giả Lê Nguyên Cẩn trong bài viết “Các điểm dừng không thời gian trong
hành trình hướng thiện của Jean Valjean khẳng định: “đôi chân đèn bằng bạc của
Myriel sẽ thắp lại ánh sáng lương tâm của người tù khổ sai mãn hạn, đặt anh ta vào
con đường hướng thiện để sống, hành động theo lẽ thiện” còn “Cuộc gặp gỡ Myriel-
Jean Valjean lần thứ hai này có ý nghĩa quan trọng đối với người tù khổ sai vì nó tạo
ra sự tuyệt đối với quá khứ nơi đó màu đen bao phủ. Nó tạo ra bước ngoặt đổi đời
của Jean Valjean. Ông Myriel xuất hiện như một vị cứu tinh, một đấng cứu thế cho
cuộc đời của Jean Valjean. Ông chính là người mở đường, chỉ lối cho con người đó
đi vào đúng quỹ đạo của con đường lương thiện, đạo đức. Rõ ràng, đức cha là sứ giả
Chúa đã cử xuống để cứu vớt những mảnh đời bất hạnh. Jean Valjean bị bắt nhưng
hành động của đức giám mục lại khiến anh ngạc nhiên: “A, anh đấy à! Thấy anh tôi
mừng làm sao! Nhưng mà này, tôi còn cho anh cả đôi chân đèn nữa kia mà, cũng
bằng bạc đấy, có thể bán được hai trăm phơrăng. Sao lại không mang cả đi một thể
với bộ đồ ăn?”. Ở đây, cái thiện đã đạt đến giá trị tuyệt đối, muốn cứu rỗi con người
bằng giá trị đạo đức nhân văn, bằng sự vị tha cao cả. Đức giám mục đáng kính ấy
không thể giương mắt nhìn cuộc đời con người tù tội ấy vừa bước qua lỗi lầm này
lại bước vào địa ngục tù tội khác, ông chỉ mong muốn anh trở thành con người thiện
lương. Jean Valjean cũng biết biết rõ điều này nên đã nói dối là được giám mục cho.
Một điều mà chúng ta có thể nhận thấy ngay lúc này đó là “cái thiện đã làm tâm hồn
đã hóa đá, cằn cỗi của anh bị xáo trộn, những ý nghĩ trả thù xã hội, trả thù loài người

14
đã bị lung lay bởi chân lý và niềm tin của cái thiện, đạo đức mang đến cho con người
trong lúc gian nguy nhất”.

Với lời dặn dò, nhắn nhủ chứa đựng biết bao tình cảm, tình yêu thương và
niềm mong mỏi hãy trở thành người tốt: “Đừng quên, đừng bao giờ quên rằng anh
đã hứa với ta sẽ dùng số tiền này để trở thành con người lương thiện nhé”. Ông coi
Jean Valjean như một người anh em ruột thịt, với ông- Jean Valjean không còn là kẻ
ác nữa, anh thuộc về phía người lương thiện rồi: “Linh hồn của anh ta mua đây, ta
đem nó ra khỏi cõi hắc ám, ra khỏi tư tưởng sa ngã, ta đem dâng nó cho Chúa”. Tâm
hồn con người khốn khổ này nhờ ông mà tràn trề ánh sáng lộng lẫy, sau mười chín
năm lao khổ khi tâm hồn đã hóa đá, Jean Valjean đã khóc. Anh khóc như vậy bao
nhiêu lần? Khóc rồi anh làm gì? Đi đâu? Ta chỉ biết rằng đây là sự mở đường vĩ đại,
vì sau này chúng ta sẽ có một Jean Valjean hóa thân, lột xác ngoạn mục từ một thân
phận của người tù khổ sai thành vị thiên sứ. Myriel là người đã đưa Jean Valjean “ra
khỏi bóng tối của tội ác đến với ánh sáng chói lòa của lòng lương thiện”.
Trong “Những người khốn khổ”, V. Hugo đã để cho nhân vật lý tưởng Jean
Valjean của mình khóc hai lần. Lần thứ nhất là “Trong khi người ta quai mạnh búa
để tán chiếc đinh trên cái gông cổ ở phía sau gáy, anh khóc lên, nghẹn ngào không
nói nên lời, chốc chốc mới thốt được một câu: “Tôi làm nghề xén cây ở Phavơrôn”.
Rồi anh vừa nức nở vừa giơ tay lên, hạ xuống bảy lần, mỗi lần mỗi hạ thấp hơn,
trông như anh đang lần lượt sờ đầu bảy đứa trẻ lớn nhỏ khác nhau. Trông cử chỉ ấy
người ta đoán biết anh đã làm điều gì phi pháp gì đó cũng là vì miếng cơm manh áo
của bảy đứa bé con”. Trong hoàn cảnh này, tại sao Jean Valjean khóc? Tác giả muốn
đảm bảo nguyên tắc thiện của con người, anh khóc bởi bất lực trước tình cảnh của
mình, khóc cho sự bất công của xã hội. Với giọt nước mắt này, Hugo muốn khẳng
định bản chất sa ngã của Jean Valjean không xuất phát từ điều xấu, điều ác.
Đến lần thứ hai, trái ngược với lần trước anh lại sa ngã khi cướp đồng xu của
bé Giecve- đây là một hành động xấu xa. Anh vi phạm vào nguyên tắc tình thương
của anh trước khi vào tù. Tiếng khóc nức nở của đứa bé đáng thương, tội nghiệp ấy
có sức lay động tâm hồn anh, nó văng vẳng cất lên như lời kể tội. Anh như một con
thú hoang vừa bị mắc bẫy vùng chạy tìm bé Giecve, miệng kêu rú lên “Ta là một
thằng khốn nạn”. Với bản chất thiện lương của mình, vì lo cho bọn trẻ đói rét nên
anh mới đi trộm chiếc bánh mì. Đối với đứa bé Giecve anh gây ra tội lỗi trong vô
thức. Bởi lẽ, anh vừa ở nhà ông giám mục ra, lúc này đây trong tâm trí của anh đang
diễn ra sự giao tranh giữa một bên là cái phần thú độc ác kia và một bên là đức nhân
từ cao cả của đức giám mục. Vô tình gặp bé Giecve và cướp đồng bốn mươi xu đó
là do phần con vật trong anh, vì bản năng mà đặt bàn chân lên đồng bạc của đứa bé
đáng thương ấy. Đến khi phần người thức tỉnh và nhận ra hành động thú vật kia, anh
mới hoảng hốt giật lùi và rú lên ghê sợ. Trong lương tâm, anh suy nghĩ về cuộc đời
15
anh mà thấy ghê sợ, anh nhìn linh hồn anh mà thấy ghê tởm. Dường như với tiếng
khóc ấy đã thức tỉnh, khơi dậy lương tri, anh khóc cho chính tội lỗi của mình và nó
chính là dấu mốc đánh dấu anh bước ra khỏi con đường sa ngã. Có một điểm chung
giữa hai lần người đàn ông đã rơi lệ đều là khóc cho những đứa trẻ đáng thương. Và
đêm hôm ấy, có một người quỳ gối trên thềm trước cửa nhà Đức cha Biêngvơnuy,
người ấy đang cầu nguyện.Trong cuốn “Giáo trình văn học phương Tây” của các tác
giả Lê Huy Bắc, Lê Nguyên Cẩn, Nguyễn Linh Chi ta gặp ý kiến về nhân vật Jean
Valjean: “Ở giai đoạn bột phát, Jean là một người nông dân, còn khởi đầu cho sự
nghiệp xây dựng, Jean là thị trưởng. Đây là sự tương phản hợp lý và độc đáo của V.
Hugo. (…) Từ một người nông dân Jean trở thành thị trưởng và đám cháy ở tòa thị
chính mang tính chất biểu trưng của sự thanh lọc, thiêu rụi quá khứ Jean, giúp Jean
đổi lốt thành một con người mới”.

Ngay cả cách sắp xếp này, cũng cho chúng ta thấy được tấm lòng của nhà văn
giành cho nhân vật lý tưởng của mình, V. Hugo không bao giờ bỏ rơi họ, ông sẽ tìm
về cội nguồn và gốc rễ liên quan tới sự sa ngã của nhân vật và hành vi cứu rỗi mọi
linh hồn tội lỗi của ông giám mục là một minh chứng đó.

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG

NHÂN VẬT LÝ TƯỞNG JEAN VALJEAN

3.1. Các thủ pháp nghệ thuật đặc trưng


3.1.1. Lí tưởng hóa nhân vật (so sánh, cường điệu phóng đại)

a. Biện pháp cường điệu phóng đại


Hugo xây dựng hệ thống nhân vật rạch ròi như ngày với đêm, thậm chí còn
rạch ròi hơn thế. Đối với Javert đại diện cho pháp luật của xã hội thiếu tình thương,
vì vậy, nhân vật này hội tụ tất cả những gì xấu xa nhất, đê tiện nhất của xã hội, tác
giả đã gán cho nhân vật này những hành động, lời nói ghê tởm nhất không chút
nương tay, Javert trở thành “nô lệ của pháp luật”, hắn thượng tôn pháp luật. Nhưng,
hắn là một kẻ có lý tưởng sống, hắn sống vì những điều hắn tin tưởng. Vậy thì, thứ
thực sự bị cường điệu hóa ở đây là gì ngoài pháp luật xã hội Pháp. Điều được tác giả
cường điệu phóng đại ở đây chính là xã hội Pháp, một xã hội thối nát và mất nhân
tính, xem con người như cỏ rác, chỉ có những luật lệ cứng nhắc, địa vị của những
tên cầm quyền là cao hơn tất thảy.

16
Đối với Jean Valjean, cho dù bị pháp luật Pháp đàn áp một cách dã man nhưng
Jean Valjean vẫn không sinh ra một con người thù hận. Điều ông tâm niệm duy nhất
đó là phải thay đổi nó. Và con đường đó phải là con đường tình thương, tư tưởng
này của Hugo xuyên suốt tác phẩm và việc ông cường điệu phóng đại nhân vật Jean
Valjean chính là vì lẽ đó. Ông đã không để người khác phải chết thay mình nên đã
cứu người bị bắt nhầm hay cho dù Javert đã dành một đời để truy lùng và gây khó
dễ cho mình nhưng Jean Valjean đã không hề thù hận hắn, thậm chí còn cứu giúp
hắn khi ở chiến lũy. Ông đã vượt bao nguy hiểm để đem Marius trở về cho Cossett.

Thủ pháp cường điệu hóa nhân vật còn được thể hiện rõ nét trong đoạn mục
sư Mirien thay Chúa cứu Jean Valjean khỏi con đường của bóng tối và thù hận. Jean
Valjean là một đại diện điển hình cho những nạn nhân của xã hội Pháp thời bấy giờ,
sinh ra trong đói nghèo, vì một cái bánh mì mà bị kết án 19 năm tù, sau khi ra tù,
Jean valjean như trở thành một con người khác, và chắc hẳn 19 năm tù khổ sai đã
biến anh ta đáng lẽ phải trở thành con người của thù hận và tàn bạo. Nhưng không,
anh ta có tấm lòng nhân ái, trở thành biểu tượng của tình yêu, của tinh thần nhân đạo
chỉ sau một lần được giám mục Mirien cứu rỗi và Jean Valjean tin sâu vào Chúa.
Làm sao để một con người đã quen tay trộm cướp, bị nhà tù làm cho thay đổi đã trở
thành con người lương thiện chỉ bởi một hành động đơn giản như thế? Quá khó tin,
chúng ta chỉ có thể giải thích đó là do ơn lành của Chúa.
Victor Hugo đã cường điệu hóa chi tiết này bởi lẽ với ông “đức tin là lành”,
“Chúa là tất cả’’ và chỉ cần tình thương chân thật sẽ cứu rỗi được một con người
đang dần hắc hóa trong mười chín năm ngục tù.

Sau bao lần giáp mặt giữa tình thương và hiện thực, cuối cùng tình thương đã
giành chiến thắng. Một cái kết “rất có hậu”, được xây dựng bằng những chi tiết
“cường điệu hóa” mà có lẽ ra sẽ khó thấy ở ngoài đời thật. Đó cũng chính là bức
tranh xã hội mà Hugo muốn hướng đến, một xã hội tràn đầy tình thương, con người
đối xử với nhau một cách nhân văn và cuối cùng chính nghĩa sẽ chiến thắng. Cuốn
tiểu thuyết “Những người khốn khổ” không chỉ là bức tranh về ước mơ của Hugo
mà còn là câu chuyện xoa dịu những trái tim đau khổ của con người.

Ở Hugo ông thường dùng phương pháp cường điệu phóng đại để xây dựng
nên những tượng đài to lớn, với những tâm hồn cao cả, siêu việt, những tình huống
đầy thách thức gây biến động tâm hồn nhân vật để gây ấn tượng mạnh mẽ với người
đọc. Những nhân vật chính diện đều hiện lên với nhân cách sáng ngời, vĩ đại dù dòng
đời đẩy xô, những nhân vật phản diện đều hiện lên như một tên đểu cáng, tàn bạo.

b. Nghệ thuật so sánh

17
Hugo đã đặt Jean Valjean ngang hàng với một vị thánh, một người anh hùng
thực thụ, trong một đoạn trích về nhân vật này, Hugo viết: “Đó là một anh hùng!
Đó là một ông Thánh”. Việc so sánh ngang hàng Jean Valjean với những vị thánh
giúp người đọc hình dung rõ hơn về con người thánh thiện, cao cả của Jean Valjean
– con người sống như một vị thánh. Điều đó không chỉ thể hiện sự tôn trọng, trân
trọng của Hugo đối với một con người sống bằng tình thương mà còn thể hiện sự tôn
thờ “tình thương” của Hugo.

3.1.2. Nghệ thuật tương phản

a. Nghệ thuật tương phản đối lập trong hệ thống nhân vật
a.1 Cặp nhân vật đối lập Jean Valjean và Javert
Đây được xem như cặp nhân vật của lý tưởng và hiện thực xã hội Pháp. Javert
– một người tôn sùng luật pháp, được xem như tay sai của hệ thống chính trị Pháp
thời bấy giờ. Với tinh thần “thượng tôn pháp luật”, Javert sống vô cùng cứng nhắc,
ông bỏ qua hết thảy những gì được coi là “ngoài pháp luật” bao gồm cả lòng trắc ẩn
và tình yêu thương chân thật. Về đặc điểm tính cách của Javert, Hugo đã có đoạn
văn miêu tả: “Nông dân vùng Asturi quả quyết rằng lứa nào sói đẻ cũng có lẫn một
con chó, đẻ ra là sói mẹ cắn chết ngay, nếu không lớn lên chó sẽ ăn thịt hết sói con.
Con chó do sói đẻ ấy, cho nó một cái mặt người, thì đó là Javert”, ngay từ cách miêu
tả, Hugo đã tinh tế cài cắm vào nhân vật Javert những con vật tượng trưng cho tính
cách hắn, hắn trung thành như loài chó và tàn bạo, máu lạnh như loài sói. Về ngoại
hình, Hugo miêu tả hắn cũng với những đặc điểm như loài chó sói “Hắn mũi tẹt, có
hai lỗ mũi sâu hoắm, khi hắn cười thì đôi môi mỏng dính dang rộng và bồi thêm
chung quanh cái mũi là cả một vệt nhăn nhúm đáng sợ, nom như mõm ác thú. Lại
còn cái trán hẹp, cái hàm bạnh, tóc toả xuống tận chân lông mày, giữa hai con mắt
lúc nào cũng có một nếp nhíu giữa hai lông mày trông như luôn luôn giận dữ, cả
người toát ra một thứ quyền uy tàn ác.” Hugo đã thành công trong việc khắc họa
nhân vật Javert một cách rõ nét, làm nổi bật tính cách hung tàn, độc ác của tên tay
sai chính quyền này.

Về chân lý sống của Javert, hắn là một tên “thượng tôn pháp luật”, cả đời tôn
thờ, nguyện sống chết vì pháp luật của nước Pháp. Đáng thương thay, sự tôn thờ của
hắn đã che mờ mặt khiến hắn không thể nhận ra được cái đúng cái phải, sự tôn thờ
đó biến Javert trở thành một con người máu lạnh, khô cằn và sắt đá, mất dần những
cảm xúc chân thực của con người. Khi nói về chân lý sống của nhân vật này, tác giả
đã viết “ví thử cha hắn vượt ngục, hắn cũng cứ bắt, mẹ hắn phạm pháp, hắn cũng

18
cứ tố cáo”. Thêm nữa, hắn tuyệt đối phục tùng cấp trên của mình. Chỉ cần là cấp
trên ra lệnh, hắn cứ vậy mà làm, không suy nghĩ thêm.

Đối ngược với hắn là nhân vật Jean Valjean, hai nhân vật này sống trong cùng
một thế giới nhưng lại mang hai màu sắc vô cùng rõ rệt, không có sự hòa lẫn dù chỉ
chút ít. Như đã phân tích và làm rõ ở phần trên, nhân vật Jean Valjean là đại diện
cho tư tưởng của Hugo, cả đời ông sống thượng tôn tình thương. Quan sát cả cuộc
đời của nhân vật Jean Valjean, ta thấy, dù trải qua muôn vàn những chuyện bất như
ý, thậm chí đã có lúc ông bị đẩy vào tình huống đầy thử thách đó là cứu Marius –
người yêu của Cossette, với một người đầy lòng nhân ái như Valjean, điều đó tưởng
chừng dễ dàng nhưng khi đặt trong tình huống nếu cứu Marius ông có khả năng phải
rời xa con gái của mình thì đó lại là một chuyện khác. Nhưng cuối cùng, với lý tưởng
cao đẹp “chỉ có tình thương tồn tại”, Jean Valjean đã cứu Marius trong giây phút
nguy hiểm nhất. Hay khi giáp mặt với Javert, trái ngược với sự hung bạo, thô lỗ của
hắn ta, Jean Valjean đã rất điềm tĩnh, lịch sự và cuối câu chuyện, chính Jean Valjean
lại là người cứu Javert sau tất cả những chuyện hắn đã làm. Điều đó càng làm nổi
bật nhân cách cao đẹp của Jean Valjean trong những tình huống ngặt nghèo.
Kết thúc của hai nhân vật, đại diện cho hai lý tưởng, sau khi được Jean Valjean
cứu giúp, Javert đã bị giằng xé bởi một bên là tình thương, một bên là lý tưởng, là
pháp luật cả một đời hắn tôn sùng và trung thành như một con “chó”
Tiểu kết: Việc đặt hai nhân vật mang tính đối lập thể hiện tư tưởng đề cao tình
thương của Hugo. Cái chết của Javert là lời khẳng định “tình thương” là thứ tồn tại
duy nhất và cao nhất trong xã hội loài người. Cuối cùng, “tình thương” mới là thứ
cảm hóa được lòng người, thay đổi chế độ xã hội và là yếu tố quan trọng để cách
mạng tư tưởng xã hội nước Pháp thành công.

a.2 Cặp nhân vật đối lập Jean Valjean và vợ chồng Thenardier
Nếu Jean Valjean là biểu tượng của sự thánh thiện, lòng nhân từ thì Thénardier
là biểu tượng cho những gì đê hèn và xấu xa nhất của con người. Jean Valjean đổi
tên vì một cuộc đời mới tốt đẹp hơn, thánh thiện hơn, vợ chồng Thenardier lại đổi
tên vì bọn chúng dùng tên giả để lừa đảo kiếm sống. Cùng một hành động nhưng
mục đích của hai bên lại hoàn toàn khác nhau. Vợ chồng Thenardier không chỉ là
một cặp nhân vật hư cấu mà nó còn đại diện cho một lớp người hèn hạ, sống trên
lòng tin và lợi ích của người khác. Việc tồn tại cặp vợ chồng Thenardier chính là
phông nền để tôn lên tấm lòng cao đẹp, nhân cách sáng ngời của Jean Valjean.

b. Nghệ thuật tương phản đối lập trong chính bản thân nhân vật Jean Valjean:
Tương phản giữa hoàn cảnh và tính cách

19
Nếu nói “hoàn cảnh sống hình thành nhân cách con người” thì có lẽ trường
hợp của Jean Valjean trong “Những người khốn khổ” là một trường hợp ngoại lệ.
Trong suốt hơn 60 năm cuộc đời của Jean Valjean, trải qua biết bao thăng trầm. Sinh
ra trong gia đình nông dân, mẹ mất vì cơn sốt,cha chết vì trượt chân ngã trên núi,
lớn lên làm nghề xén cây ở Phavoron. Những người thân của Jean Valjean đó là
người chị góa chồng và 7 đứa cháu nhỏ tội nghiệp, chỉ mới 25 tuổi nhưng Jean
Valjean đã phải gánh một trọng trách hết sức nặng nề đó là trở thành trụ cột gia đình,
lo cho cả thảy tám miệng ăn, điều này được miêu tả trong đoạn: “Jean Valjean năm
ấy đúng hai mươi lăm tuổi, anh thay anh rể đi làm giúp chị nuôi các cháu. Rất là
giản dị: anh coi đó là một bổn phận phải làm”.

Mười chín năm tiếp theo của cuộc đời, Jean Valjean sống trong ngục tù, mất
đi cái tên Jean Valjean thay vào đó là con số 24601 “Anh bị thay chiếc áo nông dân
kia bằng chiếc áo tù khổ sai, cả quãng đời của anh trước đây bị xóa mờ, anh không
còn là Jean Valjean nữa mà được thay bằng con số 24601”. Nguyên nhân của mười
chín năm tù đó thực chẳng có gì to tát, lỗi là Jean Valjean đã đập vỡ cửa kính, ăn cắp
chiếc bánh mì cho 7 đứa cháu đói khổ ở nhà, cũng lại bắt đầu từ tình thương mà Jean
Valjean phải ở trong chốn ngục tù mười chín năm.

Chưa hết, khi ra tù “Hắn ta khoảng trên 45 tuổi, người tầm thước, to cao, vạm
vỡ trông đầy sung sức. Chiếc mũ Cát-Két có lưỡi trai bằng da sụp xuống chán che
khuất một phần khuôn mặt rạm nắng nhễ nhại mồ hôi. Chiếc sơ mi vải thô màu vàng,
cổ cái mỏ, đeo bạc, để lòi ra cái ngực đầy lông. Chiếc cà vạt vặn lại như mẩu thừng.
Cái quần bằng vỏ thô màu xanh đã cũ nát, 1 bên gối bạc phếch và 1 bên bị thủng…”
. Tâm lý cũng thay đổi “Lúc vào tù Jean Valjean run sợ, khóc lóc: đến khi ra anh
thành người thản nhiên, trơ như đá. Lúc vào lòng anh tuyệt vọng, nay ra lòng anh
đen tối. Cái gì đã xảy ra trong tâm hồn anh?”
Chưa dừng lại ở đó, khi đã trở thành thị trưởng Madeleine, ông lại phải dè
chừng sự lần mò của tên Javert. Cho đến cuối đời, với cái tên Uyntim Phosolovang
ông sống như một kẻ lặng lẽ, không ai biết rõ lai lịch, ông được miêu tả qua lời của
nhân vật Marius: ‘Trạc tuổi 60, có vẻ buồn rầu và nghiêm nghị, với các vóc dáng
khỏe mạnh và mệt mỏi của con nhà lính đã giải ngũ. Trang phục của ông tươm tất
và sạch sẽ. Ông có mái tóc bạc phơ… trông ông ra vẻ hiền lành nhưng khó gần, ông
không để mắt nhìn vào một ai cả”.

Cuộc đời khiến người đọc phải xót xa, đó là một cuộc đời đầy đau khổ và cơ
cực. Nhưng, đó vẫn chỉ là nền, một phông nền xám xịt để Hugo làm nổi bật lên nhân
cách của Jean Valjean. Cho dù dòng đời xô đẩy nhưng ông ta đã không chọn cái ác
trong những lúc người bình thường sẽ ác, Jean Valjean sống và làm theo lẽ phải đến
cuối đời của mình. Khi là Jean Valjean, ông đã sống, đã làm việc và đã trộm cắp một
20
chiếc bánh mì để cho những đứa cháu của mình – vì tình thương. Khi là thị trưởng
Madeleine, ông tạo ra công ăn việc làm cho công nhân, đối xử với họ một cách tử tế
và thánh thiện, ông chính là một vị thánh cứu rỗi con người. Hay ngay khi đã trở
thành Uyntim Phosolovang, khi đã sống thầm lặng, giấu mình, ông vẫn được nhắc
đến như một ông lão thánh thiện, thường giúp đỡ những người ăn xin trên đường.
Theo lẽ thường, trước một cuộc đời đầy bi kịch, con người ta có lẽ đã phải tha
hóa đã phải trở nên độc ác, “trả thù đời” nhưng những điều đó không xảy ra ở Jean
Valjean. Theo Lê Nguyên Cẩn thì đây là: “thời điểm để tác giả phủ lên nhân vật tấm
màn lãng mạn kỳ ảo, biến Jean Valjean từ một nạn nhân bị đời ruồng rẫy, xua đuổi
thành một ân nhân cứu thế, giúp đời theo quan điểm chủ nghĩa xã hội không tưởng
và theo cách nhìn nhân đạo lãng mạn của Hugo”. Đúng như Lê Nguyên Cẩn nhận
xét, hình tượng Jean Valjean thuộc về xã hội không tưởng bởi những điều hết sức
cao cả và lớn lao đã diễn ra trong cuộc đời khốn khổ ấy.

3.2. Quan hệ đặc biệt giữa tính cách nhân vật và hoàn cảnh
3.2.1. Tính cách phát triển độc lập với hoàn cảnh

Với chủ nghĩa lãng mạn, các tác giả văn học thường xây dựng nguyên tắc tính
cách nhân vật dựa trên sự phi thường, độc đáo đầy tính riêng biệt để đối lập với cái
tầm thường của hiện thực. Tính cách nhân vật thường không xuất phát từ nguyên
mẫu đời sống, không phải theo logic khách quan, là sản phẩm của hiện thực mà dựa
trên trí tưởng tượng phong phú của nhà văn.
Quay cuồng giữa xã hội đề cao đồng tiền, tình người thật nhỏ bé dường như
nhân vật Jean Valjean không mảy may bị tác động. Vượt lên trên tất thảy hiện thực
tối tăm, anh vẫn sống bằng tâm hồn thiện lương của mình, bằng tình yêu thương giữa
con người với con người, bằng bản chất thánh thiện vốn có. Trong tác phẩm văn học,
đôi khi sự vận động của tính cách nhân vật không nhất thiết phải tuân theo logic
khách quan mà phụ thuộc vào ý niệm chủ quan, suy nghĩ, tình cảm của nhà văn. Thế
giới tâm hồn của nhân vật lí tưởng thường không tuân thủ theo quy định của sự thăng
trầm của hoàn cảnh, đối lập với thế giới bên ngoài thành một thế giới, lĩnh vực riêng
và duy nhất.

Sống trong một xã hội tư sản đầy rẫy sự bất công với những người lương thiện,
bắt họ vào tù và cấp tờ giấy thông hành màu vàng để tước đoạt đi quyền làm người
của họ. Xã hội ấy thật tàn nhẫn khi không cho Jean Valjean“một ngụm nước, một
bữa ăn, một chỗ nghỉ chân”. Mặc dù như vậy nhưng anh vẫn có lòng tốt, lòng thương
người với những người khốn khổ kể cả những người đặc biệt thù hằn với mình .

21
Bằng trái tim lương thiện, anh khoan dung với chính kẻ thích bắt bớ những người
lương thiện như mình, giúp đỡ Fantine , chăm sóc Cosette. “Nếu xã hội tư sản chỉ
thích gông cùm, bạo lực thì anh lại tôn thờ lẽ sống tình thương, lấy tình thương yêu
con người làm động lực để chiến đấu và cứu vớt nhân loại,”

Con người lý tưởng tưởng chừng như bị vùi dập bởi hoàn cảnh nhưng tính
cách của Jean Valjean vẫn phát triển độc lập với hoàn cảnh, không bị hoàn cảnh làm
biến đổi tâm tính. Mặc dù bị xã hội vùi xuống “bùn lầy” nhưng nhân vật lý tưởng
vẫn vươn lên và tỏa sáng nhờ lòng tốt, bao dung, nhân từ, vị tha và đức hi sinh lớn
lao của anh. Hoàn cảnh càng khắc nghiệt, đen tối chừng nào thì nhân vật càng lý
tưởng, càng cao cả bấy nhiêu. Có được điều đó, bởi lẽ đại diện của dòng văn học
lãng mạn V. Hugo luôn có một lòng tin rằng, lòng yêu thương sẽ chiến thắng, nó có
khả năng tiêu diệt tất thảy những điều xấu xa, cái ác của xã hội và mang lại niềm
hạnh phúc cho số phận của những người khốn khổ. Đó chính là những rung động
đầy chất thơ được nâng lên thành giải pháp có tính chất triết lý mà Hugo có thể giải
quyết loại bỏ những nỗi đau khổ của nhân loại hôm nay và mai sau.

3.2.2. Dấu ấn chủ quan của nhà văn trên tính cách nhân vật

Trong tác phẩm văn học, nhân vật chính là “đứa con tinh thần” của mỗi tác
giả, bởi thế bất kì một nhân vật văn học nào cũng mang dấu ấn chủ quan của người
cầm bút. Với cách xây dựng cốt truyện ly kỳ, tính cách xuất chúng, mạnh mẽ, hoàn
cảnh đặc biệt trong đó nhân vật hội tụ cái đẹp, cái cao cả trong văn học, là nhân vật
chính diện có ý nghĩa mẫu mực cao độ cho một lối sống lý tưởng, tất thảy đều dựa
vào “đầu óc tưởng tượng phóng khoáng, một thích thú ngẫu hứng, một khát vọng
huyền ảo của nhà văn”. V. Hugo cũng thế, ông đã xây đắp nên nhân vật lý tưởng của
mình cho các “ảo ảnh vĩ đại trong tâm linh”, trí tuệ của ông biến các “biểu tượng
khô cứng ấy thành nhân vật và tình tiết sinh động”. Trong “Những người khốn khổ”,
nhân vật lý tưởng Jean Valjean mang dấu ấn chủ quan của nhà văn rõ nét. Thông
qua nhân vật lý tưởng, Hugo gửi gắm tình cảm, quan niệm sáng tác nghệ thuật và
quan niệm về con người của riêng mình, một quan niệm không chỉ được thể hiện
trong những áng văn chương mà còn được vận dụng trong hành động và cuộc sống
đời thường.

Cả cuộc đời của Hugo luôn gắn liền với hành trình tìm kiếm và khẳng định lẽ
sống tình thương và quyền bình đẳng cho con người. Năm 1849, tại Đại hội quốc tế
lần thứ nhất, những người bạn của Hòa Bình họp tại Paris, Hugo đã từng nói: “Tư
tưởng hòa bình là ở khắp thế giới, là tài sản của tất cả các dân tộc, mọi người đòi hỏi
hòa bình, vì hòa bình là hạnh phúc tối cao của họ”. Tác phẩm của ông đều đại diện
“cho chính nghĩa, cho tự do, cho hòa bình, dân chủ”. Vì thế tất cả các nhân vật ấy

22
đều thể hiện tuyệt vời các ý tưởng của Hugo, đều truyền đạt thông điệp mà nhà văn
gửi gắm cho công chúng về một xã hội lý tưởng theo mộng ước của ông.

Ngay ở lời đề từ trong “Những người khốn khổ” cũng thể hiện cảm quan nhân
đạo của Hugo: “Khi pháp luật và phong hóa còn đày đọa con người, còn xây nên
những địa ngục giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng
chất lên thiên mệnh. Khi những người đàn ông còn sa đọa vì bán sức lao động, khi
những người đàn bà còn trụy lạc vì đói khát khi trẻ thơ còn cằn cỗi vì tăm tối thì
cuốn sách này còn có ích”. Nhân vật Jean Valjean là nhân vật tiêu biểu thuộc tuyến
công lý tình thương, là sản phẩm của chủ nghĩa bác ái mà V. Hugo muốn theo đuổi.
Những nhân vật lý tưởng đặc trưng này là “người khốn khổ, là con người tỳ vết, là
con người bị xua đuổi dưới mọi hình thức, con người sống ngoài vòng pháp luật”
mang vào văn học tiếng nói của anh, đầy sức tố cáo phản kháng chống lại cái thực
tại tư sản đã vùi dập anh, đã xô đẩy anh. Ở đây thế giới nghèo khổ, bất hạnh anh tự
đòi quyền, tự lên tiếng phán xét cái xã hội đang đè nặng biến anh trở thành nạn nhân
của xã hội, bị xã hội tư sản, xã hội đồng tiền đẩy vào con đường tội lỗi bần cùng.

Jean Valjean vào tù năm 1796, ra từ năm 1815 và chết 1833. Như vậy anh ta
là sản phẩm của xã hội tư sản, do thực tại tư sản đẻ ra. Để phản ứng lại xã hội tư sản,
Hugo chủ trương dùng giải pháp tình thương, dùng công lý tha thứ để cải tạo, để làm
thay đổi xã hội. Được tác giả giao phó nhiệm vụ thắp sáng ngọn nến tâm hồn là giám
mục Myriel, ông đã tìm cách xác định thái độ xử sự ban đầu, tìm cách xác lập cách
nhìn cuộc sống và phương châm sống, thắp lại tia lửa đầu tiên bằng sự tha thứ và
cảm hóa. Từ đó, Jean Valjean mang ánh sáng lương tâm đã được thắp lại, đi cứu nạn
cho những người bị xua đuổi. Ở đây, anh là hiện thân và tiếp nối công lý tha thứ, là
người mang giải pháp tình thương đi cứu giúp thiên hạ như Myriel đã thực hiện
nhưng mang ở mức cao hơn. Myriel chỉ cảm hóa được một người tù, còn qua Jean
Valjean, Hugo muốn cảm hóa cả xã hội. Ta thấy rằng, tia lửa từ bi, bác ái được thắp
lại trong Jean Valjean là hoài bão, ước mơ của tác giả.

Hugo muốn cải tạo và xây dựng xã hội bằng con đường tình thương, ít bạo
lực, đổ máu. Do đó nhân vật lý tưởng Jean Valjean sử dụng cải tạo xã hội bằng con
đường gắn với tình yêu thương, ông cho mở xưởng công nghiệp chỉ với mục đích là
người thợ của mình có chỗ làm ăn và dùng tiền lời đó vào việc cải thiện đời sống
còn nghèo khổ cho thợ, tổ chức y tế, cứu tế trong xưởng và đề cao phong mỹ tục.
Quá trình chuyển biến từ một con người thù hằn xã hội trở thành con người nhân từ,
bác ái thể hiện một quan điểm của Hugo về cái thiện và cái ác- đây là sự tồn tại mâu
thuẫn hai mặt đối lập trong thế giới con người. Hugo nhận ra rằng con người luôn
có bản tính thiện lương của mình và cái ác ấy chính là một khuynh hướng bất hạnh-
một dạng gánh nặng mà người ta phải thoát ra được bằng sự đau khổ của chính bản
thân mình.
23
Luôn lấy tình thương làm lẽ sống, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình
nhưng đa số nhân vật của Hugo đều có kết thúc bất hạnh bởi hạnh phúc của con
người và xã hội không dễ dàng có được khi chỉ thuần túy bồi đắp và cải tạo bằng
tình yêu thương. Song chủ nghĩa lãng mạn là như vậy, nhân vật luôn mâu thuẫn gay
gắt với thực tại- một mâu thuẫn không thể phá bỏ và điều hòa, các nhân vật luôn
đứng cao hơn hoàn cảnh để thực hiện những giấc mơ của mình dù đó là những giấc
mơ không có thực.

3.3. Nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật


3.3.1. Mô tả nội tâm nhân vật đầy đặn, đa dạng

Hugo luôn chú trọng miêu tả nội tâm nhân vật một cách đầy đặn và cụ thể,
thông qua những miêu tả nội tâm sâu sắc đó, Hugo thể hiện những trăn trở, suy tư
của mình trước đời và trước người. Nội tâm nhân vật là những suy nghĩ, cảm xúc
của nhân vật khi đứng trước những tình huống, thể nghiệm trên hành trình cuộc đời
của nhân vật.
Nhân vật Jean Valjean trong “Những người khốn khổ” được tác giả khắc họa
một cách đầy đủ không chỉ về ngoại hình mà còn sự thay đổi thế giới nội tâm trong
từng chặng đường của nhân vật. Từ đó, cuộc đời Jean Valjean hiện lên sinh động và
sắc nét như một bộ phim từ khi Jean Valjean ra tù, mang tâm lí căm phẫn, muốn trả
thù đời bởi không ai chấp nhận anh, sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng khi được giám mục
Myriel cưu mang khi không tìm được nơi trú chân, tâm lý sợ hãi, dè chừng khi Jean
Valjean lén lấy cắp đồ nhà giám mục, sự xúc động mạnh mẽ khi anh ta được giám
mục bảo vệ trước cảnh sát vì tội ăn trộm. Tâm trạng xót xa cho tình mẫu tử cao cả
của Fantine, tâm trạng hạnh phúc, sung sướng khi dạy Cossett học chữ, ngắm con
bé khi ngủ và hoảng sợ khi nghĩ đến việc con bé sẽ rời xa mình…

Với dung lượng hạn chế, nhóm chúng em xin phép đưa ra những tình huống
cụ thể thể hiện rõ ràng thế giới nội tâm phong phú, sâu sắc của Jean Valjean.
Dưới đây là một đoạn trích ghi lại những diễn biến tâm lý của Jean Valjean
khi Champmathieu - người bị nhầm tưởng là Jean Valjean bị bắt và bị xử.

“Nghe Javert nói trước tiên ông chỉ muốn chạy đi tự thú, kéo Champmathieu
ra khỏi nhà tù, nộp mình thay cho ông ta. nhưng ngay sau đó ông đã kịp ngăn chặn
ý đồ cao cả đó ông đã lùi bước trước thái độ anh hùng.”.“Những tiếng khóc nức
nở nghẽn tắt và não lòng làm tan nát lòng ông. ông lại quay quắt trước sự chọn
lựa đau lòng : ở lại thiên đường và trở thành quỷ dữ ở đó, hoặc trở về với địa ngục
và trở thành thiên thần. Cứ thế mà tâm hồn khốn khổ đó dãy dụa trong lo lắng,
muộn phiền.”“Ông Madeleine buông một tiếng thở dài, chỉ trong mấy khoảnh

24
khắc ông cảm nhận gần như tất cả những xúc động có thể có. Vụ việc chưa xong,
ông không thể nói mình đang hài lòng hay buồn đau nữa.”

Hugo đã khắc họa tâm lý nhân vật một cách rõ nét, thông qua cách khắc họa
tâm lý nhân vật Jean Valjean, Hugo đã thể hiện tư tưởng, quan điểm của mình về
cuộc đời và con người, con người để sống thiện không chỉ đấu tranh với thế giới bên
ngoài mà còn phải đấu tranh với chính bản thân mình trong thế giới nội tâm, đó là
những cảm xúc giằng xé, suy nghĩ triền miên để lựa chọn việc tự thú hay cứ coi như
không liên quan đến mình. Đồng thời, cách mô tả nội tâm nhân vật đó giúp hình
tượng Jean Valjean trở thành con người của đấu tranh, con người luôn tự soi chính
mình.

Nội tâm nhân vật trong tác phẩm “Những người khốn khổ” của Hugo được
miêu tả như một dòng chảy, không ngắt quãng. Ngòi bút và trí tuệ của Hugo giống
như luồng không khí đi vào mọi ngóc ngách cùng tối nhất của nhân vật, Hugo phác
họa nên một con người hoàn chỉnh qua từng giai đoạn của nhân vật. Trên trang giấy
của ông, gần như suy nghĩ và hành động của nhân vật luôn đi song song, không tách
rời.

3.3.2. Cường độ cảm xúc mãnh liệt

Các nhân vật xuất hiện trong “Những người khốn khổ” của Victor Hugo đều
được khắc họa trong tình yêu thương, vì vậy những nhân vật trong tác phẩm của ông
đều có những cảm xúc mãnh liệt, sự rung cảm mạnh mẽ xuất phát từ trái tim và tình
cảm chân thật. Để bộc lộ được những cảm xúc mãnh liệt, cao trào đó, Victor Hugo
đã đưa nhân vật của mình vào những tình huống căng thẳng, gây cấn, bắt buộc nhân
vật phải đối mặt với tình huống đó bằng cảm xúc chân thật và mãnh liệt.
Jean Valjean trong “Những người khốn khổ” khi được giám mục Myriel cứu
giúp, cảm xúc mạnh mẽ đến độ ông không thể nói ra thành tiếng mà lắp bắp, ngơ
ngác. Hay lần đầu Jean Valjean gặp Cosette – đứa bé mà ông đã vượt ngục đi tìm
bởi lời hứa với người mẹ xấu số của Cosette: “Jean Valjean giật nẩy người như
chạm phải điện ông cúi xuống cô bé và nhìn cô bằng tất cả tâm hồn mình.”

Hay khi Jean Valjean ngắm Cosette đang ngủ, tình yêu thương, lòng nhân ái
và cảm nhận của một người mẹ đã khiến ông “Nhìn Cosette sống, ông thấy lòng
mình rung động. Tất cả những gì thắm thiết, say mê nơi ông đều đổ dồn về cô bé đó.
Ông vẫn đứng bên giường nơi cô đang ngủ, và ông run lên vì sung sướng. ông cảm
nhận tất cả những tình cảm say sưa của người mẹ và của một người ông.”

25
Việc cường độ cảm xúc mãnh liệt, đặc biệt trong mối quan hệ của Jean Valjean
đối với Cossett giúp ta thấy rõ thứ tình cảm cha con thiêng liêng, lớn lao. Và càng
làm rõ hơn sự giận dữ, đau đớn tột cùng của Jean Valjean khi Cosstt kết hôn với
Mariuyt. Trong đám cưới của Cossett khi mọi người đang ăn uống vui vẻ, Jean
Valjean lặng lẽ ra về, gặm nhấm nỗi đau một mình. Không những thế, cảm xúc đau
đớn tột độ của Jean Valjean còn được Hugo miêu tả khi Jean Valjean thú nhận với
Mariuyt trong đoạn: “Ông ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm mặt không nghe thấy
tiếng gì, nhưng nhìn hai vai nhô lên hạ xuống thì biết ông đang khóc. Nước mắt âm
thầm, nước mắt ghê gớm. Tiếng thổn thức nghẹn ngào làm cho người ta nghẹt thở.
Ông như bị co giật, phải ngả người ra đằng sau, trên lưng ghế như để thở, buông
thõng hai cánh tay. Mariuytx nhìn rõ mặt ông chan hòa nước mắt. Chàng nghe thấy
ông nói rất sẽ như từ một nơi sâu thẳm: Ôi! Tôi muốn chết cho rồi”

Như vậy, những nhân vật lí tưởng trong tác phẩm của Hugo đều được ông
miêu tả với một cường độ cảm xúc mãnh liệt, khi hạnh phúc họ hạnh phúc đến đỉnh
điểm nhưng trong đau khổ họ cũng quặn thắt đến tận cùng. Đó cũng chính là đặc
trưng thường thấy trong thế giới nhân vật của văn học lãng mạn.

3.3.3. Độc thoại nội tâm

Tài năng của Victor Hugo đã đưa nhân vật vào sâu trong tâm trí người đọc và
cũng đưa người đọc thấu hiểu về nhân vật đó một cách cặn kẽ nhất. Phương pháp
mà ông dùng để khắc họa sâu sắc tâm lý nhân vật đó là độc thoại nội tâm. Ở nhân
vật Madeleine, Hugo đã đi sâu vào suy nghĩ của nhân vật để người đọc thấy rõ sự
đấu tranh giữa thiện và ác.

Đoạn trích dưới đây là đoạn độc thoại nội tâm của thị trưởng Madeleine khi
nghe tin Champmathieu bị bắt và phải nhận án tù chung thân bởi bị nhầm là Jean
Valjean. Qua đoạn độc thoại ta như được quan sát trực tiếp những điều mà nhân vật
nghĩ, Jean Valjean liên tục đấu tranh giữa những suy nghĩ thiện ác trong đầu, ông
đưa ra hàng loạt những lí do để bao biện cho việc mình đã thoát nạn và mọi việc đến
đây là đã kết thúc. Ông xứng đáng được ở ngoài bởi nhờ có ông bao nhiêu con người
đã được cứu vớt. Bằng nghệ thuật sử dụng ngôn từ của mình, Victor Hugo đã đưa
nhân vật liên kết trực tiếp với người đọc, khiến cho nhân vật trở nên chân thật và
gần gũi hơn bao giờ hết. Jean Valjean cũng như bao người bình thường khác, đứng
trước những điều bắt buộc phải lựa chọn con người ta đều tìm mọi lí do để thoái
thác. Vậy điều gì đã làm nhân cách ấy khác với những phần còn lại? Đó chính là
những suy nghĩ và trăn trở trong ông. Nhớ về giám mục Myriel, nhớ về những lời
hứa với Chúa, Jean Valjean đã có những cuộc giằng xé nội tâm sâu sắc. Nhân vật
Jean Valjean lúc này hiện lên rất đời thường, chân thực với người đọc.

26
“Bởi tôi đã thoát nạn và mọi việc đã kết thúc, còn tên Javert kia, con chó săn
dễ sợ vẫn ngây người trước tôi, đã hoàn toàn mất dấu. Hắn lo bắt Jean Valjean, và
tôi chẳng can hệ gì trong chuyện đó! Chính trời đã làm hết mọi việc. Chính Thượng
đế muốn tôi phải tiếp tục những việc tôi đã khởi đầu, tôi phải làm điều thiện, tôi phải
là bạn của người nghèo khổ và kẻ bất hạnh..., một tấm gương đáng khích lệ.
Vả chăng tôi không có một nhiệm vụ cấp bách là gì ? Tôi đã hứa với người
phụ nữ bất hạnh đó, người nữ công nhân có thể đang chết dần vì đói nghèo và bịnh
tật đó mà tôi đã yêu cầu người ta nhận vào bịnh viện, hứa đi trời. Trong khi nếu tôi
nộp mình, nếu vì bổn phận mà tôi trở lại là tên tù khổ sai Jean Valjean, đích thực đó
là tôi hoàn tất cuộc hồi sinh của mình, tôi vĩnh viễn đóng chặt cửa địa ngục từ đó
tôi đã bước ra. Nếu tôi không làm thế, thì trọn cuộc đời hiện tại của tôi sẽ vô ích,
trọn sự sám hối của tôi cũng vất đi. Và ông giám mục sẽ nói gì đây, ông vốn đã trông
thấy tâm hồn tôi, bộ mặt thật của tôi trong khi mọi người chỉ trông thấy mặt nạ của
tôi?”
Xuyên suốt cuốn tiểu thuyết “Những người khốn khổ” Victor Hugo đã không
ngừng sử dụng nghệ thuật độc thoại nội tâm để xây dựng hình tượng một nhân vật
có thật, hiện hữu trước mắt người đọc như một thực thể sống động. Khi khắc họa
nhân vật Jean Valjean, tác giả đặt điểm nhìn toàn tri về phía nhân vật, những giằng
xé trong nội tâm, những suy nghĩ triền miên không dứt của nhân vật được khắc họa
rõ nét. Những điều đó cho người đọc có thêm một góc nhìn sâu sắc về thế giới bên
trong của nhân vật, rằng mỗi người khi hướng đến cái thiện đều diễn ra một cuộc
đấu tranh nội tâm sâu sắc. Cuộc đấu tranh nội tâm đó cho ta hiểu rằng, đi đến cái
chính nghĩa, lựa chọn dùng tình thương để cảm hóa cuộc đời chưa bao giờ là dễ
dàng, mỗi người đều sẽ có những ích kỉ, những điều mà họ muốn bảo vệ, ngoài cuộc
đấu tranh bên ngoài ta còn có cuộc đấu tranh bên trong.
Victor Hugo không chỉ khắc họa thành công xã hội Pháp thời kỳ bấy giờ mà
ông còn có sự am hiểu sâu sắc, đi đến những nơi cùng kín nhất của con người để
khơi nên những điều người ta thường giấu. Đó chính là điều khiến những tác phẩm
của ông trường tồn cùng thời gian và dù ở thời kì nào những tác phẩm đó vẫn “hợp
thời đại”.

3.4. Ngôn từ và giọng điệu


3.4.1. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm

Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất để biểu đạt hình tượng nghệ thuật.
Nếu xi là nguyên vật liệu quan trọng để đúc tượng thì ngôn ngữ là phương tiện quan
trọng để khắc họa nhân vật. Hơn nữa, đối với văn học lãng mạn thì ngôn ngữ đó phải
là thứ ngôn ngữ được trau chuốt tỉ mỉ, phải vừa làm rõ nét bề ngoài nhân vật, vừa
27
chạm được vào những rung cảm vi tế nhất của nhân vật. Các nhân vật trong tác phẩm
của Victor Hugo cũng vậy, ông đưa nhân vật đến gần với người đọc bằng ngôn ngữ
giàu hình ảnh và giàu tính biểu cảm nhất.

Trong đoạn trích miêu tả cái nhìn của Javert dành cho thị trưởng Madeleine,
bằng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, Victor Hugo đã làm cho nhân vật hiện lên trước
mắt người đọc một cách rõ ràng nhất, độc giả như trực tiếp bị cái nhìn của Javert
xuyên thủng: “Con người ghê gớm đó giống như một con mắt lúc nào cũng nhìn
đăm đăm vào ông Madeleine, một con mắt nghi ngờ và ức đoán, ông Madeleine cuối
cùng cũng nhận ra điều đó nhưng ông không tìm cách lẩn tránh cái nhìn đó và ông
cư xử với Javert một cách thỏa mái và tốt đẹp”

Ngôn ngữ đầy tính khinh mạt và rẻ rúng khi miêu tả Jean Valjean ăn trộm đồ
của giám mục Madeleine “Hắn lén lút chui qua lỗ như một con chó. Hay ngôn ngữ
tràn đầy tha thiết khi miêu tả Jean Valjean với những phút giây hạnh phúc bên
Cosette: “Cosette như một luồng ánh sáng êm dịu rọi vào tương lai ông”, hay trong
những lúc nguy hiểm nhất, đưa Cosette trốn chạy, thông qua cách sử dụng ngôn ngữ
giàu tính biểu cảm, Jean Valjean hiện lên với một tâm hồn thản nhiên: “Trong khi
nghe tiếng hát, Jean Valjean quên hết mọi ưu phiền. Ông không thấy đêm tối, ông
chỉ thấy trời xanh. Ông cảm thấy hình như đôi cánh thiên thần ở trong ông từ từ mở
ra.”. Đặc biệt là khi nói về Cosette, thông qua ngôn ngữ, một thứ trừu tượng như
tình thương bỗng hiện hữu có hình, có sắc: “Lần ấy là lần đầu tiên cha đụng bàn
tay bé bỏng tội nghiệp của con. Sao mà nó lạnh thế? Ờ!Tiểu thư ạ, tay tiểu thư lúc
nào cũng bầm cơ. Bây giờ thì tay tiểu thư trắng lắm”

Tóm lại, khi miêu tả về nhân vật lý tưởng của mình, Victor Hugo luôn dùng
ngôn từ giàu hình ảnh, giàu tính biểu cảm cốt làm sao để nhân vật đó đến với người
đọc sinh động nhất, đẹp đẽ và dịu dàng nhất.

3.4.2. Giọng điệu trang trọng, thống thiết, hùng biện

Giọng điệu trong văn chương nghệ thuật nhằm thể hiện tư tưởng, thái độ của
chủ thể đối với vấn đề đang được nhắc tới. Với mục đích tố cáo xã hội đương thời
Pháp, Victor Hugo đã sử dụng giọng điệu thống thiết, lời hùng biện thuyết phục:
“Xã hội có nhiệm vụ thấy rõ những điều mà chính xã hội gây ra… Một người lao
động như anh mà phải thất nghiệp, một người siêng năng như anh mà phải đói khát,
vậy đó có phải là một vấn đề nghiêm trọng không?... Xử phạt nặng như thế có phải
để kẻ phạm tội chuộc tội không? Hay là lại đưa đến cái kết quả ngược biến cái sai
lầm của kẻ phạm tội trở thành cái sai lầm của kẻ đàn áp, biến thủ phạm thành nạn
nhân, biến con nợ thành chủ nợ và cuối cùng đem công lý đặt vào bên kẻ đã xâm
phạm công lý?". Giọng văn hùng biện này thể hiện thái độ phẫn nộ, bức xúc gay gắt

28
trước những bất công của chế độ cầm quyền, con người bị rẻ rúng, chế độ cầm quyền
ngang nhiên sử dụng quyền hành của mình một cách không chính đáng, biến những
con người chỉ vì “mưu sinh” trở thành tù đày, thay vì cho họ một cơ hội để chuộc
lại lỗi lầm thì chế độ ấy lại xử phạt cực kỳ nặng, liệu kẻ phạm tội ấy có cơ hội để
chuộc tội không? Giọng điệu thống thiết khi Jean Valjean cầu xin Javert để Fantine
không phải chịu đau khổ thêm: “Xin ông thư cho ba ngày, ba ngày để đi tìm đứa
con của người đàn bà đáng thương này! Phải hết bao nhiêu tiền tôi cũng trả. Nếu
cần ông cứ đi kèm tôi cũng được.” Ngay trong lúc này, Jean Valjean đã ở trong thế
yếu, ông thống thiết xin được thư cho ba ngày không phải vì mình mà vì người đàn
bà đang hấp hối trên giường bệnh. Giọng điệu thống thiết ấy đã lột tả một cách chân
thực nhân phẩm của Jean Valjean, cho đến cuối cùng, ông vẫn chỉ là vì tình thương
người. Hay khi Jean Valjean thú tội với Marius, ông đã nói bằng giọng điệu vô cùng
thống thiết: “Khi người ta mang một nỗi nhục nhã ghê gớm như vậy, người ta không
có quyền bắt người khác vô tình cam chịu, người ta không có quyền truyền sang họ
cái dịch tễ đó, không có quyền làm họ sa dần xuống cái vực thẳm của mình mà không
biết, … Đến bên những người lạnh mạnh, mang cái ung nhọt của mình cọ xát lên
người họ, thật ghê tởm.” Những lời hùng biện thống thiết ấy càng làm nổi bật lên
nhân cách cao đẹp của Jean Valjean, ông sống cả đời làm những việc ý nghĩa, tận
tụy cống hiến cho xã hội, ngay trong lúc ông phải sống cô đơn, khắc khổ một mình,
ông vẫn không cho mình cái quyền được mang những nhục nhã ghê gớm ấy mà liên
lụy đến người khác. Một tấm lòng như thế, một cuộc đời chưa bao giờ dám ích kỉ
cho riêng mình, thật xót thương làm sao!

Tóm lại, giọng điệu trong tác phẩm của Victor Hugo được thay đổi một cách
linh hoạt, hướng tới thể hiện tư tưởng của tác giả, đó là lột tả bộ mặt xã hội Pháp và
đề cao một nhân cách lớn trong xã hội chỉ đầy rẫy những rối ren và bất công.

29
CHƯƠNG 4: SO SÁNH SỰ KHÁC BIỆT KIỂU NHÂN VẬT LÝ TƯỞNG
GIỮA “NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ” (VICTOR HUGO) VÀ “DITTE-
CON CỦA NGƯỜI ĐỜI” (M.A. NEXO)

Đều viết về hiện thực xã hội tư bản bị chi phối bởi đồng tiền, đạo đức con người suy
tàn nhưng miêu tả hiện thực không phải thứ “sự thật đắng cay” (Stendhal), “sự thật
hèn mọn” (Maupassant) mà là “sự thật có cánh” dù có khắc khổ, đau đớn thì vẫn
hướng tới tương lai tốt đẹp nhưng cách xây dựng nhân vật lý tưởng của Victor Hugo
và M.A. Nexo lại có sự khác nhau. Dưới đây là một số điểm khác nhau kiểu nhân
vật lý tưởng giữa tác phẩm “Những người khốn khổ” (Victor Hugo) và “Ditte- Con
của người đời” (M.A. Nexo).

Thứ nhất, về nội dung, tư tưởng của tác phẩm

+ Trong “Những người khốn khổ” Jean Valjean là kiểu nhân vật thể hiện lý
tưởng mà cả đời Hugo theo đuổi về một thế giới công bằng, tự do và hạnh
phúc cho những người khốn khổ. Đây là nhân vật đại diện cho tinh thần nhân
văn của tác phẩm, ở Jean Valjean lòng vị tha và nhân ái luôn luôn thường trực.
Vì ăn cắp một cái bánh mì cho bảy đứa cháu đang đói lả ở nhà mag ông phải
vào tù. Khi ra tù ông vì tấm giấy thông hành màu vàng mà đi đâu ông cũng bị
xua đuổi. Khi được giám mục Mirien cảm hóa, Jean Valjean đã thay đổi cuộc
đời của chính mình, ông trở thành vị thánh hiện xuống trần gian để cứu giúp
dân chúng. Không chỉ cứu giúp Fantine, Cosette … mà bất cứ kẻ khốn khổ
nào gặp được trên đường ông cũng giúp đỡ. Ngay cả với kẻ thù của mình là
Gia- ve, hắn luôn truy đuổi và tìm cách bắt ông nhưng ông cũng không tỏ ra
thù ghét mà ngược lại đã tha chết và trả tự do cho hắn. Chính lòng cao thượng
ấy đã khiến hắn cảm phục không chỉ đưa tay giúp đỡ con người mà còn cảm
hóa họ. Thông qua nhân vật này nhà văn Hugo muốn khẳng định sức mạnh
của lẽ sống tình thương, tình yêu thương không chỉ nâng đỡ mà còn cảm hóa
lòng người và cải tạo xã hội. Vì thế những nhân vật lý tưởng trong văn học
lãng mạn thường là những nhân vật gắn với tình yêu thương, lòng nhân ái, vị
tha.

Dưới cái nhìn lí tưởng hóa của nhà văn lãng mạn, nhân vật lí tưởng dùng lẽ sống
tình thương để cải tạo XH, đây là biện pháp chưa triệt để. Victor Hugo muốn xây
dựng hình tượng nhân vật lý tưởng để gửi gắm những ý nghĩa nhân văn cao cả, thể
hiện ước mơ và khát vọng về một xã hội nhân đạo, công bằng, do đó nhân vật lý
tưởng luôn thoát li hiện thực, thể hiện sự quay lưng với hiện thực xã hội đương thời.
+ Với “sứ mệnh thủ tiêu sự bất bình đẳng xã hội, việc con người áp bức con
người” văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đã xây dựng nên hình tượng nhân
30
vật lý tưởng gắn với những con người lao động nhỏ bé, cần cù bị áp bức, bóc
lột nhưng dám đứng lên chống lại hiện thực và cải tạo hiện thực.

Trong tác phẩm “Ditte- Con của người đời” nhà văn Nexo đã xây dựng nên nhân vật
lý tưởng Ditte với cái nhìn đầy hiện thực không phải cái nhìn lý tưởng hóa như văn
học lãng mạn.
Nhà văn trao cho nhân vật lý tưởng sức sống mãnh liệt, dùng hành động cụ thể để
đổi thay thế giới đầy bất công. “Đấu tranh có tổ chức của nhân dân quần chúng,
trước hết là của giai cấp vô sản- là con đường phát triển rộng lớn tất thắng của phong
trào cách mạng”. Đây cũng là cái nhìn đầy cách mạng, mang tính triệt để của những
nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhà văn không chỉ thể hiện niềm tin ở con người
mà còn đưa ra những giải pháp cụ thể giúp con người làm chủ được vận mệnh của
mình và cải tạo được xã hội. Để nhân vật lý tưởng của mình đối diện, thậm chí là
phản kháng lại hiện thực xã hội.
Thứ hai, cách xây dựng nhân vật tự giác ngộ
+ Với tác phẩm “Những người khốn khổ”, Jean Valjean thay đổi cuộc đời nhờ hành
động của giám mục Myriel, dưới ánh sáng của tình thương và tấm lòng nhân hậu của
Myriel đã khiến Jean Valjean thức tỉnh, quay trở về làm người lương thiện, được
mọi người, kính trọng. Mirien chính là người biến anh từ một tên tù khổ sai thành
một ông thị trưởng, một “bậc thánh nhân” trong lòng của tất cả mọi người. Như vậy,
nhân vật lý tưởng thường được giác ngộ và hoàn thiện nhân cách bởi một nhân vật
khác. Nhân vật này có vai trò giác ngộ, khai thông tư tưởng đưa đường dẫn lối để
nhân vật trung tâm phát triển và trở thành nhân vật lý tưởng.

+ Nhân vật lý tưởng trong “Ditte- Con của người đời”, Ditte tự nhận thức về xã hội,
phát triển hành động của mình mà không phải nhờ sự giác ngộ của Chúa, cũng không
có sự xuất hiện của nhân vật chức năng nào khác ra tay giúp đỡ mà là sự tự giác ngộ,
tự nhận ra bản chất xã hội tư sản và phản kháng, đổi thay nó.

Tự giác ngộ là “quá trình tự nhận thức, tự nhận ra bản chất của con người và thế giới
xung quanh”. Nhân vật Ditte từ một cô gái luôn nhẫn nhịn và cam chịu, luôn xem
việc phục vụ và hầu hạ những ông bà chủ của mình là bổn phận, là trách nhiệm, là
lẽ sống của đời mình. Ngay cả từ khi còn nhỏ, Ditte đã được bà ngoại “tiêm nhiễm”
để trở thành đầy tớ đắc lực cho chủ: “Ăn đi con ạ, có cao lớn khỏe mạnh thì sau này
đến nhà người ta mới xốc vác công việc được” hay cả khi ở với người mẹ hay trong
chính ở trường, thầy giáo cũng răn dạy, giáo dục về sự trung thành, ngoan ngoãn của
một người hầu đối với người chủ. Vì thế khi được làm người đầy tớ cho chủ trại Đất
núi của mục Caren, Ditte đã luôn hồi hộp, háo hức và mong chờ. Khi rời làng quê

31
lên thành phố lớn, trong suy nghĩ của Ditte vẫn giữ nguyên những suy nghĩ như vậy.
Thế nhưng trước hiện thực xã hội đầy nghiệt ngã và đau khổ với sự bóc lột nặng nề
và thiếu tình người, Ditte dần thay đổi nhận thức suy nghĩ của mình “Ditte nhận thức
được mình không còn là một con người nữa, mà là một thứ dụng cụ ở nhà chủ”, cô
nhận ra sự tận tâm chăm sóc, phục vụ hết lòng của mình lại bị chủ đem ra bóc lột và
lợi dụng. Điều này khiến cho cô đau đớn và thất vọng, tổn thương tâm hồn của cô
khiến Ditte nhận ra bản chất thật sự của xã hội này và “chữa khỏi cho chị căn bệnh
mềm yếu, tiêu cực”.

Sự chuyển biến mang tính bước ngoặt trong quá trình nhận thức của nhân vật là từ
khi cô từ bỏ kiếp sống người đầy tớ để được làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp
“Ditte muốn theo gương các bạn. Bọn họ, người nọ theo chân người kia, đều xin vào
làm trong các nhà máy”. Cô nhận ra cuộc sống của mình cho dù có tiền công và nơi
ăn chốn chốn ở ổn định nhưng sống ở trong kiếp người ấy lại thiếu đi hơi ấm của
tình người. Như vậy, Nexo đã xây dựng nên hình tượng người phụ nữ lao động đầy
mạnh mẽ và kiên cường từ một con người luôn sống trong sự cam chịu, luồn cúi đã
biết tự mình “đấu tranh và khao khát được đứng trong hàng ngũ lao động công- binh,
khao khát được hòa mình vào quần chúng nhân dân lao động, được mang cái tôi hòa
chung vào cái ta của thời đại”.

Bên cạnh đó, cô cũng nhận ra những việc làm đen tối của những kẻ xấu xa trong
Viện bảo vệ sức khỏe “những đứa trẻ tự dưng biến mất rồi tự dưng xuất hiện, có
những đứa trẻ được đưa ra tòa để tranh giành tài sản, có những đứa trẻ dù còn non
nớt, bú mớm nhưng đã trở thành công cụ kiếm tiền của cha mẹ và của những kẻ
đứng đầu trong Viện”. Nơi mà nghe tên tưởng chừng như là thế giới tràn đầy tình
yêu thương nhưng lại là nơi bóc lột con người, bóc lột cả những đứa bé ngây thơ, vô
tội. Từ đó cô nhận ra bản chất thối nát của xã hội đằng sau vẻ đẹp hào nhoáng kia
“Đi sâu vào sau tấm màn che, chị thấy rất nhiều sự việc hoàn toàn khác trước đây.
Chị thấy rằng những nhân vật trong xã hội thượng lưu cũng chẳng tốt đẹp gì hơn
những người ở tầng lớp chị, cái gọi là lịch sự văn minh ở xã hội thượng lưu chẳng
qua chỉ là một trò lừa bịp”. “Quan niệm của chị về thượng lưu và hạ lưu đã trở nên
mơ hồ, và lòng tin của chị với hai chữ công bằng cũng đã lung lay”. Nếu như là con
người cô của trước đây, chịu nhiều bất công nhưng không bao giờ nghĩ đến hai chữ
“công bằng” thì bây giờ cô đã dần thay đổi. Khi mua được chiếc máy khâu bằng
hình thức trả góp với niềm tin vào một tương lai tươi sáng sẽ giúp Ditte có thể nuôi
sống được gia đình, nhưng đây chỉ là hình thức bọn chủ tư sản biến thành trò lừa bịp
để móc túi người nghèo. Cô bị cho vào bẫy và nhận ra bộ mặt thật của tên chủ hiệu,
nhận ra bọn chúng chỉ là những tên “quỷ hút máu người”, không thể đòi lại chiếc
máy lại suýt chút nữa bị bọn chúng cướp nốt những đồng cua- ron cuối cùng đã
khiến Ditte tức giận, vung nắm đấm về phía cửa hiệu “Đồ quỷ hút máu! Rồi đây thế

32
nào cũng có ngày mày phải nếm mùi đau khổ”. Cách nói và thái độ của Ditte đã hoàn
toàn thay đổi, cô trở thành người phụ nữ mạnh mẽ bao giờ hết, “nắm đấm của cô
như một lời tuyên chiến, phản kháng mạnh mẽ trước áp bức, bóc lột”. Càng đau đớn,
khổ đau biết bao nhiêu thì cô lại càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Sự đau khổ, bất công ấy
đã tôi luyện ý chí, giác ngộ nhân vật tự nhận ra bản chất của xã hội tư sản.
Tiểu kết: Những nhân vật lý tưởng với những phẩm chất đẹp đẽ, không chỉ giàu lòng
vị tha, nhân ái mà còn là những biểu tượng về sức sống mãnh liệt của con người.
Nhân vật trong hai tác phẩm đều có cuộc đời nhiều đau thương, bất hạnh nhưng họ
không khiến người đọc bi quan hay mất niềm tin vào cuộc sống mà ngược lại giúp
cho chúng ta tin vào tương lai. Kết thúc cả hai tác phẩm là cái chết của hai nhân vật
lý tưởng nhưng cái chết ấy đã trở thành bất tử bởi sự cảm hóa lòng người bằng trái
tim nhân ái và niềm tin vào cuộc sống mà nhân vật mang lại.

KẾT LUẬN

Hugo chính là đại diện tiêu biểu cho chủ nghĩa lãng mạn tích cực, ông đã cống
hiến những tác phẩm đồ sộ có giá trị nội dung và nghệ thuật. Đồng thời, những tác
phẩm của Hugo hiện rõ những tư tưởng và khát vọng của ông của hình tượng nhân
vật lý tưởng, điển hình là Jean Valjean – kết tinh những lý tưởng nhân đạo, hiện thân
cao đẹp của những người nghèo khổ luôn mang giấc mơ cải tạo xã hội tốt đẹp, mang
tình yêu thương để giúp đỡ con người. Trong một xã hội đầy sự bất công, vẫn cần
thêm sức mạnh mang tính hành động để xóa bỏ những điều bất công đang diễn ra.
Thông qua hình tượng nhân vật lý tưởng Jean Valjean, nhà văn Hugo đã thể
hiện sức mạnh của cái thiện chiến thắng cái ác. Nhân vật cũng chính là “hình bóng
của những nghệ sĩ lãng mạn, con người mải mê đi tìm cái cao cả trong cuộc sống và
khao khát cống hiến cho nhân loại”. Bởi vậy, nhân vật lý tưởng cùng những tác phẩm
của Hugo sẽ mãi trường tồn trong dòng chảy chung của văn học nhân loại.

33
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đặng Thị Hạnh, Chuyên luận tiểu thuyết Hugo, NXB ĐHQG, 2002.
2. Hà Minh Đức (Chủ biên), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, 2002.
3. Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, NXB Viện ngôn ngữ học, 2000.
4. Phùng Văn Tửu, V. Hugo, NXB Giáo dục, 1978.
5. Trần Thị Anh, Cách xây dựng nhân vật của Victor Hugo qua bộ ba Fantine-
Jean Valjean- Javert trong “Những người khốn khổ”, ĐHSP Hà Nội, 2004.
6. Trần Thị Thu Hiền, Nhân vật lý tưởng trong văn học lãng mạn (Khảo sát qua
một số tác phẩm của V.Hugo), ĐHQGHN, 2014.
7. Lê Huy Bắc, Lê Nguyên Cẩn, Nguyễn Linh Chi, Giáo trình văn học phương
Tây, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017.
8. Nguyễn Thị Thanh Hòa, Kiểu nhân vật lý tưởng trong “Ditte- Con của người
đời” của Martin Andersen Nexo, ĐH Sư phạm Hà Nội, 2016.

34

You might also like