Professional Documents
Culture Documents
WEEK1 Studetnts
WEEK1 Studetnts
Phong cách văn hoc là một phong cách khó xác định nhất. Trước hết, một nhà ngữ học nổi tiếng, Edward Sapir đã đứng
góc độ ngôn ngữ học và định nghĩa văn học như sau:
"Đổi với chúng ta, ngôn ngữ là một cái gì đó hơn là một hệ thông chuyển giao ý ưởng. Nó là những bộ quần áo vô hình
bao phủ xung quanh tinh thần chúng ta và tạo ra một hình thái xác định trưỚc cho các phát biểu mang tính chất biểu
tượng của tinh thấn. Khi một phát biểu mang theo một ý nghĩa bất thường, ta gọi đó là văn học".
(Languages are more to us than systems of thought transference. They are invisible garments that drape themselves
about our spirit and give a predetermined form to all its symbolic expression when the expression is of unusual
significance, we call it literature, cf. Language and Literature)
Trong ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta, đôi khi chúng tạ cũng có nhận xét rằng: “Anh chàng đó ăn nói văn hoa quá."
Chữ "văn hoa" ở đây có thể mang theo ngu ý chê bai (= ăn nói kiểu cách, không tự nhiên) hoặc có thể chuyên chở hàm
ý khen (ăn nói hay ho, bóng bấy).
Nhưng cả hai ngu ý đó đều gặp nhau ở một điểm: sự phát biểu mang theo một ý nghĩa bất thường (unusual
significance) như Edward Spir nói.
ví dụ:
(2) He is a lion.
Rõ ràng câu (2) văn hoa hơn câu (1) và có vẻ bất thường hơn, mặc dù về mặt ý nghĩa, cả hai gần như nhau. Câu (1) là một
phát biểu bình thường. Câu (2) đã sử dụng một lối nối ẩn dụ (metaphorical) rất phổ biển trong phong cách văn học.
Sau đây là một số thủ thuật, phương thức mà nhà văn thường dùng đế tạo ra phong cách văn học.
Phong cách văn học cũng có thể được cấu tạo bằng các phương thức cú pháp:
SUBJECT+VERB…. (
Để tạo ra các ý nghĩa bất thường, chúng ta có thể đảo lộn trật tự nói trên để gây hiệu quả.
Vị dự:
(1) Steyne rose up, grinding his teeth, pale, and with fury in his eyes (Thackeray).
(Steyne đứng dậy, răng nghiến lại, mặt nhợt nhạt, và mắt bừng lửa giận).
Phần có gach dưới chữ nghiêng được xem là cấu trúc tách rời, dùng để bổ nghĩa cho chủ ngữ "Steyne". Nếu viết câu trên
theo kiểu bình thường S - P - O thì câu sẽ hóa ra như sau
"Steyne rose up, he ground his teeth, his face was pale, and his eyes were furious (full of fury)".
1. And he walked slowly past again, along the river- an evening of clear, quiet beauty, all harmony and comfort,
except within his heart".
… Và chàng chầm chậm đi qua lần nữa, dọc theo dòng sông- vào một buổi chiều mang vẻ đẹp
bình yên, tất cả là sự hòa điệu và êm dịu, ngoại trừ trừ lòng chàng ".
2. Day light was dying, the moon rising, gold behind the poplars".
Ánh sáng ban ngày đang tắt đi, trăng đang lên, áng sáng vàng rực sau những hàng bạch dương .Chiều dần tà, trăng
dần lên, trải đầy ánh vàng trên những rạng bạch dương
Cấu trúc song song là những cấu trúc tồn tại trong một câu hay một đoạn văn và có cấu trúc tương tự nhau như hai
đường thẳng song song (về ý và về nghĩa).
2
Ví dụ:
(1) "It is the mob that labour in your fields and serve in your houses - than man your navy and recruit your army, that
have enabled you to defy all the world and can also defy you when neglect and calamity have driven them to despair”.
(Byron).
(Chính là đám đông đã làm lụng cày cấy trên ruộng của anh và hầu hạ phục vụ trong gia đình anh - chính họ cung cấp
người cho hải quân và tuyển mộ lính cho quân đội của anh – họ có thể giúp anh thách đố cả toàn thế giới và có thể thách
đố cả chính anh khi sự quên lãng và tai họa đã đẩy họ đến tuyệt vọng).
Cũng giống như cấu trúc song song thuận, cấu trúc này cũng lặp lại một loại câu trúc câu, nhưng lại nghịch chiều nhau
(hai câu ngược đầu nhau).
Ví dụ:
(1) Down dropped the breeze/ The sails dropped down (Gió hạ, buồm hạ).
Đây là thủ pháp nhấn manh phổ biến nhât trong phương pháp cú pháp. Có thể lặp lai cấu trúc câu, có thể lặp lại từ vựng,
cũng như có thể lặp lại ý tưởng được phát biểu rồi.
3
Ví dụ: (1) What has my life been! Flag and grind, flag and grind. Turn the wheel, turn the wheel
1. A smile extended into a laugh, the laugh into roar, and the roar became general
Một nụ cười kéo dài thành tiếng cười, tiếng cười tạo nên tiếng rống và tất cả đều cười rống cả lên .
Theo Galperin, "Liệt kê là một thủ thuật phong cách trong đó những sự vật, đối tượng, hiện tương, đặc tính, hành động
tách rời nhau được gọi tên lần lượt sao cho tao thành một xâu chuỗi mà những móC nối của nó vốn cùng một vị trí về
mặt cú pháp buộc phải bộc lộ ra một sự tương trùng về mặt ngữ nghĩa cho dù nó có xa nhau thể nào đi nữa.
"Fleur's wisdom in refusing to write to him was profound, for he reached each, new place entirely without hope or fever,
and could concentrate immediate attention on the donkeys and tumbling bells, the priests, patios, beggars, children,
crowing cocks, sombreros, cactus hedges, old high white villages, goats, olivetrees, greening plains, singing birds in
tiny cages, watersellers, sunsets, melons mules, great churches, pictures, and swimming grey-brown mountains of a
fascinating land." (Galsworthy)
Sự khôn ngoan của Fleur khi từ chối viết thư cho anh ta thật là sâu sắc vì anh đến mỗi nơi mới lạ hoàn toàn
không có chút hi vọng hay sốt ruột mà có thể ngay lập tức tập trung sự chú ý vào nào là lừa, tiếng chuông nhà
thờ, linh mục, mái hiên nhà, hành khất, trẻ em, tiếng gà gáy, những chiếc mũ rộng vành Mexico, hàng sương
rồng, những ngôi làng cổ xưa tường cao màu trắng, những con dê, cây ô liu, đồng bằng xanh tươi, chim hót
trong những chiếc lồng nhỏ bé, người bán nước, cảnh hoàng hôn, những trái dưa, thánh đường , tranh ảnh và
những ngọn núi màu nâu xám như đang trôi nổi trong một vùng đất thần tiên nào đó.
Trong một câu có hai phần chia ra đối lập với nhau một cách tương đôi, giống như lối văn biền ngẫu của Việt Nam,
(5) Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
(6) Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
(7) Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
(8) Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
4
H. Phép tiệm tiến (climax)
Các câu văn được sắp xếp chồng lên nhau Sao cho cái sau phải mạnh hơn cái trước như mỗi lúc một tiến lên cao hơn,
tưởng dồn dập hơn.
ví dụ:
(1) Little by little, bit by bit, and day by day, and year by year the baron got the worst of some disputed question.
1. They looked at hundreds of houses; they climbed thousands of stairs; they inspected innumerable kitchens.
Họ đã xem hàng tram ngôi nha, họ đã trèo lên hàng hàng cái cầu thang và đã xem xét vô số những cái bếp
2. It was a lovely city, a beautiful city, a fair city, a veritable gem of a city.
Đó là một thành phố đáng yêu, một thành phố yêu kiều ,một thành phố tráng lệ, một thành phố tuyệt vời diễm
lệ như trân châu, ngọc bích.
3. Soames turned away; he had an utter disinclination for talk, like one standing before an open grave, watching a
coffin slowly lowered.
Soams quay đi, hoàng toàn không muốn nói chuyện nữa, như một người đang đứng trước một huyệt mộ mở
toang và xem quan tài chầm chậm được hạ xuống