BAO CAO TONG KET DE TAI 12.4.2023

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 77

UỶ BAN NHÂN DÂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

BÁO CÁO TỔNG KẾT


ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
ĐỐI VỚI THÁI ĐỘ HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Mã số đề tài: SV2022-34

Thuộc nhóm ngành khoa học: Giáo dục


Chủ nhiệm đề tài: Trần Nguyễn Diễm Tuyền
Thành viên tham gia:
Thái Thị Bích Loan
Nguyễn Hồ Ngọc Ngân
Trần Thị Ngọc Thương
Lăng Nguyễn Đoan Trang

Giảng viên hướng dẫn: Phạm Phúc Vĩnh

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 4 năm 2023


UỶ BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

BÁO CÁO TỔNG KẾT


ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
ĐỐI VỚI THÁI ĐỘ HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Mã số đề tài: SV2022-34

Xác nhận của Khoa Giáo viên hướng dẫn Chủ nhiệm đề tài
(ký, họ tên) (ký, họ tên) (ký, họ tên)

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 4 năm 2023


UỶ BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

BÁO CÁO TỔNG KẾT


ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
ĐỐI VỚI THÁI ĐỘ HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Mã số đề tài: SV2022-34

Xác nhận của Chủ nhiệm đề tài


Chủ tịch hội đồng nghiệm thu (ký, họ tên)
(ký, họ tên)

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 4 năm 2023


MỤC LỤC

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THƯC TIÊN ................................................................ 5


1.1. Khái niệm thái độ hoc tập của sinh viên ..................................................................... 5
1.1.1. Hoc tâp ..................................................................................................................... 5
1.1.2. Thai đô ..................................................................................................................... 8
1.1.3. Thai đô hoc tâp ...................................................................................................... 10
1.2. Nhưng biêu hiện của thái độ hoc tập ......................................................................... 11
1.2.1. Thai đô hoc tâp trên lơp ...................................................................................... 12
1.2.2. Thai đô hoc tâp ơ nha ............................................................................................13
1.3. Nhưng nhân tố tác động đến thái độ hoc tập của sinh viên hiện nay ..................... 13
1.3.1. Nhân tô khach quan: .............................................................................................13
1.3.2. Nhân tô chu quan: .................................................................................................21
1.4. Yêu cầu đối với phương pháp hoc tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh theo định
hướng phát triên năng lực người hoc ............................................................................... 22
1.4.1. Phương phap hoc tâp đôi vơi dạng đề trắc nghiệm khach quan: ....................... 23
1.4.2. Phương phap hoc tâp vơi dạng đề trắc nghiệm (đoc-hiểu): ................................25
1.4.3. Phương phap hoc tâp vơi dạng đề tự luân: ..........................................................27
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ ĐỐI VỚI
THÁI ĐỘ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN ....................... 29
2.1. Kiêm tra, đánh giá hoc phần tư tưởng Hồ Chí Minh của trường Đại hoc Sài Gòn
.............................................................................................................................................. 29
2.1.1. Giai đoạn trươc đổi mơi kiểm tra đanh gia .......................................................... 29
2.1.2. Giai đoạn sau đổi mơi kiểm tra đanh gia ............................................................. 31
2.2. Nhưng yêu cầu đặt ra cho sinh viên đối với việc đổi mới kiêm tra đánh giá: ........34
2.2.1 Yêu cầu đặt ra cho sinh viên đôi vơi dạng đề thi Trắc nghiệm: ...........................34
2.2.2. Yêu cầu đặt ra cho sinh viên đôi vơi dạng đề thi Đoc-hiểu: ................................35
2.2.3 Yêu cầu đặt ra cho sinh viên đôi vơi dạng đề thi Tự luân: ...................................37
2.3. Tác động của việc đổi mới kiêm tra đánh giá đối với thái độ hoc tập môn tư tưởng
Hồ Chí Minh. ...................................................................................................................... 39
2.3.1. Tac đông tích cực: ................................................................................................. 39
2.3.2. Tac đông tiêu cực: ................................................................................................. 41
2.4. Tổng quan mức độ quan trong của hoc phần tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sinh
viên trường Đại hoc Sài Gòn ............................................................................................. 43
2.4.1. Tổng quan mức đô quan trong cua hoc phần tư tương Hồ Chí Minh đôi vơi sinh
viên ơ cac nhóm nganh ................................................................................................... 43
2.4.2. Tổng quan mức đô quan trong cua hoc phần tư tương Hồ Chí Minh đôi vơi sinh
viên thuôc cac nhóm đôi tượng .......................................................................................47
2.5. Thái độ hoc tập của sinh viên giưa môn tư tưởng Hồ Chí Minh so với nhưng môn
đề mở khác. ......................................................................................................................... 52
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................................ 59
3.1. Kết luận ........................................................................................................................ 59
3.2. Kiến nghị ...................................................................................................................... 61
3.2.1. Đôi vơi nha trường ................................................................................................ 61
3.2.2. Đôi vơi giảng viên ..................................................................................................62
3.2.3. Đôi vơi sinh viên .................................................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................... 65
PHỤ LỤC.................................................................................................................................68
DANH MỤC BẢNG BIỂU HÌNH ẢNH

Trang

Biểu đồ 1. Biểu đồ về đánh giá độ khó của dạng thức đề thi đánh giá năng lực 32
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Biểu đồ 2. Biểu đồ tỉ lệ số lượng sinh viên thực hiện khảo sát ở các nhóm 39
ngành

Biểu đồ 3. Biểu đồ về việc đánh giá mức độ quan trọng học phần tư tưởng Hồ 40
Chí Minh của sinh viên.

Biểu đồ 4. Biểu đồ về mức độ lo lắng của sinh viên đối với việc đáp ứng bài 42
thi môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Biểu đồ 5. Biểu đồ về tỉ lệ nhóm đối tượng tham gia khảo sát 43

Biểu đồ 6. Biểu đồ so sánh độ khó của dạng đề thi môn tư tưởng Hồ Chí Minh 49
so với dạng đề thi của các môn Triết học Mác Lênin, Kinh tế chính trị Mác –
Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học

Biểu đồ 7. Biểu đồ tương quan mức độ trong hoạt động học tập của sinh viên 50
ở môn tư tưởng Hồ Chí Minh với môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính
trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội.

Bảng 1. Bảng so sánh đánh giá của sinh viên thuộc nhóm đối tượng đã và 44
đang học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dạng thức trắc nghiệm khách
quan

Bảng 2. Bảng so sánh đánh giá của sinh viên thuộc nhóm đối tượng đã và 46
đang học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dạng thức đọc hiểu

Bảng 1. Bảng so sánh đánh giá của sinh viên thuộc nhóm đối tượng đã và 47
đang học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dạng thức tự luận
TÓM TẮT ĐỀ TÀI

Mục đích của đề tài nhằm khảo sát, đánh giá và phân tích thái độ của sinh viên
trường Đại học Sài Gòn đối với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá môn tư tưởng Hồ Chí
Minh. Ngoài ra, đề tài còn phân tích tác động của việc đổi mới kiểm tra, đánh giá đối
với thái độ học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại học Sài Gòn.
Từ những khảo sát, phân tích, đánh giá trên, sau đó sẽ đưa ra kết luận về sự thay đổi
thái độ học tập của sinh viên trường Đại học Sài Gòn môn tư tưởng Hồ Chí Minh
trước và sau đổi mới kiểm tra, đánh giá. Cuối cùng, sẽ rút ra phương pháp học tập mới
đối với môn tư tưởng Hồ Chí Minh sau đổi mới kiểm tra, đánh giá.
Đề tài nghiên cứu về thái độ học tập của sinh viên có những thay đổi tích cực,
tiêu cực như thế nào. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu của từng dạng thức thì sinh viên
phải có thái độ học tập nhằm đáp ứng các yêu cầu mà dạng thức đưa ra. Từ những yêu
cầu đó thì sinh viên có những phương pháp học tập như thế nào để nâng cao hiệu quả
học tập. Từ thực tiễn có thể thấy đa số sinh viên không chuyên lí luận chính trị thường
có thái độ xem nhẹ môn học, coi đây là môn phụ dẫn đến việc học đối phó. Thể hiện rõ
qua việc trước đây, nhà trường áp dụng phương thức tổ chức kiểm tra tự luận đề mở,
sinh viên có thể đem theo tài liệu giấy vào phòng thi dẫn đến việc sinh viên có thái độ
học đối phó, đi theo lối suy nghĩ “không cần học vẫn có điểm”. Sau đổi mới kiểm tra
đánh giá sang phương thức thi tự luận đề đóng kết hợp trắc nghiệm đã đặt ra vấn đề
dành cho sinh viên rằng nếu có thái độ học không nghiêm túc, vẫn có quan điểm học
đối phó sinh viên sẽ có kết quả học tập kém hơn. Từ đó sẽ giúp sinh viên nhất là sinh
viên những khóa sau sẽ có những thay đổi nhất định về thái độ học tập môn tư tưởng
Hồ Chí Minh sau đổi mới kiểm tra đánh giá. Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần
làm rõ tác động của việc đổi mới kiểm tra, đánh giá đối với thái độ học tập môn tư
tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại học Sài Gòn. Từ đó, nghiên cứu góp
phần hình thành phương pháp học tập mới đối với học phần tư tưởng Hồ Chí Minh khi
đã đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá.
Kết quả đạt được sau khi nghiên cứu đề tài thấy được thái độ của sinh viên giữa
môn tư tưởng Hồ Chí Minh so với các môn khác có sự khác nhau đáng kể, từ việc nghĩ
học, đi học muộn cho đến tìm tư liệu để làm bài tập,... Đồng thời, qua nghiên cứu cũng
thấy được sự thay đổi tích cực lẫn tiêu cực sau khi đổi mới kiểm tra đánh giá theo
hướng tiếp cận năng lực người học ở môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua phiếu khảo sát
thấy được ở những ngành học khác nhau sẽ có quan điểm về tầm quan trọng của môn
học khác nhau. Nhưng nhìn chung thì sinh viên trường vẫn đặt môn tư tưởng Hồ Chí
Minh ở một vị trị quan trọng nhất định. Cuối cùng là có những giải pháp thiết thực để
học tập một cách hiểu quả môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trên đây là mục tiêu, nội dung, và kết quả nghiên cứu sau đã khảo sát, phân
tích, tổng hợp các thông tin thu thập được từ ý kiến sinh viên, từ nhiều nguồn sơ cấp
và thức cấp mà nhóm đã trình bày.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chon đề tài
Hiện nay, học tập ngày càng có vai trò quyết định đến sự phát triển của xã hội
cũng như từng cá nhân trong xã hội đó. Khoa học giáo dục hiện đại cũng đã xác định
được mục tiêu cơ bản của giáo dục đó là việc hình thành nhân cách cho người học
nhằm đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Việc phân tích, đánh giá thái độ học tập của sinh viên hiện nay đang là vấn đề
cần quan tâm trong giáo dục, là yếu tố cơ bản nhất trong việc cải thiện chất lượng giáo
dục của trường Đại học Sài Gòn nói riêng và chất lượng giáo dục của tất cả các trường
đại học nói chung song song với đó chính là việc kiểm tra đánh giá trong học tập. Giữa
kiểm tra đánh giá và thái độ học tập có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thái độ học
tập của người học bị chi phối bởi nhiều yếu tố như nội dung môn học, mục đích học
tập môn học, phương pháp dạy học, kiểm tra; đánh giá,... trong đó kiểm tra đánh giá
chính là yếu tố quyết định, có sự chi phối lớn nhất đối với thái độ học tập của sinh viên
nói chung.
Theo Nghị quyết 29, Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nhấn mạnh “Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng
phát triển phẩm chất, năng lực của người học”. Nhiều trường đại học đã áp dụng việc
đổi mới vào chương trình giáo dục và trường Đại học Sài Gòn cũng là một trong
những trường áp dụng phương pháp đổi mới này cho nhiều môn học khác nói chung
và môn học tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng bắt đầu từ giai đoạn 2019-2020 đến nay.
Từ thực tiễn có thể thấy đa số sinh viên không chuyên lí luận chính trị thường
có thái độ xem nhẹ môn học, coi đây là môn phụ dẫn đến việc học đối phó. Thể hiện rõ
qua việc trước đây, nhà trường áp dụng phương thức tổ chức kiểm tra tự luận đề mở,
sinh viên có thể đem theo tài liệu giấy vào phòng thi dẫn đến việc sinh viên có thái độ
học đối phó, đi theo lối suy nghĩ “không cần học vẫn có điểm”. Sau đổi mới kiểm tra
đánh giá sang phương thức thi tự luận đề đóng kết hợp trắc nghiệm đã đặt ra vấn đề
dành cho sinh viên rằng nếu có thái độ học không nghiêm túc, vẫn có quan điểm học

1
đối phó sinh viên sẽ có kết quả học tập kém hơn. Từ đó sẽ giúp sinh viên nhất là sinh
viên những khóa sau sẽ có những thay đổi nhất định về thái độ học tập môn tư tưởng
Hồ Chí Minh sau đổi mới kiểm tra đánh giá.
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần làm rõ tác động của việc đổi mới kiểm
tra, đánh giá đối với thái độ học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên trường
Đại học Sài Gòn. Từ đó, nghiên cứu góp phần hình thành phương pháp học tập mới
đối với học phần tư tưởng Hồ Chí Minh khi đã đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Khảo sát, đánh giá và phân tích thái độ của sinh viên trường Đại học Sài Gòn
đối với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phân tích tác động của việc đổi mới kiểm tra, đánh giá đối với thái độ học tập
môn tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại học Sài Gòn.
- Đưa ra kết luận về sự thay đổi thái độ học tập của sinh viên trường Đại học
Sài Gòn môn tư tưởng Hồ Chí Minh trước và sau đổi mới kiểm tra, đánh giá.
- Rút ra phương pháp học tập mới đối với môn tư tưởng Hồ Chí Minh sau đổi
mới kiểm tra, đánh giá.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đôi tượng nghiên cứu
Thái độ học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên trường đại học Sài
Gòn đối với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: Trường Đại học Sài Gòn.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2019 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận chủ yếu và bao quát của đề tài là phương pháp điều tra,
khảo sát, phân tích và đánh giá.

Phương pháp điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi: Phương pháp này được thực hiện
cùng một lúc với nhiều người theo một bảng, mẫu hỏi đã được thiết kế sẵn. Người
được hỏi trả lời ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào các ô tương ứng theo một
quy ước nhất định hoặc trả lời các câu hỏi được đưa ra. Đề tài sử dụng phương pháp
khảo sát bằng bảng hỏi, phiếu điều tra nhằm đánh giá thái độ của sinh viên theo học
2
môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Những số liệu thu thập được qua khảo sát, nhóm nghiên
cứu quy ước cụ thể như sau: Rất dễ = 1, Dễ = 2, Trung bình = 3, Khó = 4, Rất khó = 5.
Tính theo thang điểm từ 1 đến 5 trong đó 5 là điểm cao nhất và 1 là điểm thấp nhất.

Theo cách tính này, kết quả đánh giá là bình quân gia quyền của các kết quả
đánh giá (Giá trị khoảng cách = (Maximum – Minimum)/n = (5-1)/5 = 0.8) và điểm số
trung bình được hiểu như sau:

Giá trị trung bình Ý nghĩa của điểm trung bình

1.0-1.80 Rất/hoàn toàn không đồng ý/Rất không hài lòng/…

1.81-2.60 Không đồng ý/ Không hài lòng/ Không quan trọng…

2.61-3.40 Khá đồng thuận/Trung bình/Tương đối hài lòng…

3.41-4.20 Đồng ý/ Hài lòng/ Quan trọng…

4.21-5 Rất đồng ý/ Rất hài lòng/ Rất quan trọng…

Phương pháp phân tích: Phương pháp nghiên cứu các văn bản, tài liệu lý luận
khác nhau về một chủ đề, bằng cách phân tích thành từng bộ phận, từng mặt để hiểu
một cách toàn diện. Dựa trên kết quả điều tra, khảo sát thu được, tiến hành phân tích,
đối sánh thái độ của sinh viên trước và sau đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá.
Nguồn dữ liệu thứ cấp: từ các tạp chí và những công trình nghiên cứu của các
chuyên gia trong và ngoài nước như: sách tham khảo, sách chuyên khảo, đề tài nghiên
cứu khoa học các cấp, tạp chí khoa học, luận văn luận án.
Nguồn dữ liệu sơ cấp: Để có cơ sở đánh giá thái độ học tập môn tư tưởng Hồ
Chí Minh của sinh viên Đại học Sài Gòn, đề tài tiến hành điều tra bằng bảng hỏi, phiếu
khảo sát đối với đối tượng là sinh viên đã học môn tư tưởng Hồ Chí Minh tại trường
Đại học Sài Gòn.
5. Nhưng đóng góp mới của đề tài
Giá trị lý luận
Cung cấp tài liệu về thực trạng thái độ học tập sau đổi mới kiểm tra đánh giá
học phần tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên Đại học Sài Gòn.
3
Giá trị thực tiễn
Đề tài nghiên cứu góp phần đánh giá sự thay đổi trong thái độ học tập học phần
tư tưởng bị Hồ Chí Minh trước và sau đổi mới kiểm tra đánh giá của trường Đại học
Sài Gòn.
Kết quả của đề tài góp phần phục vụ cho việc khảo sát mức độ hiệu quả của
việc đổi mới kiểm tra, đánh giá học phần tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Cấu trúc của đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, đề tài gồm có 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Tác động của việc đổi mới kiểm tra, đánh giá đối với thái độ học tập
môn tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại học Sài Gòn.
Chương 3: Kết luận và kiến nghị

4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THƯC TIÊN

1.1. Khái niệm thái độ hoc tập của sinh viên

1.1.1. Hoc tâp

Khi nhắc đến học tập, thông thường sẽ nghĩ ngay đến khái niệm học và luyện
tập để mở rộng hiểu biết, rèn luyện kĩ năng, kế thừa những tri thức sẵn có của nhân
loại và sáng tạo những tri thức mới. Ngày nay, hoạt động học tập ngày càng có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của xã hội cũng như là từng cá nhân trong xã hội.
Trong xã hội Việt Nam, từ xưa việc học đã được chú trọng thể hiện qua các cuộc thi
“Hương, Hội, Đình” từ đó cũng thấy được vai trò quan trọng của việc học tập. Một số
định nghĩa về “học tập” được biết đến như sau:

Trong từ điển Tiếng Việt, học tập là “học và luyện tập để hiểu biết, để có kỹ
năng, có tri thức”. Trong xã hội hiện đại, học tập ngày càng có vai trò quyết định đến
sự phát triển của xã hội cũng như của từng cá nhân trong xã hội đó.

Theo định nghĩa của các nhà tâm lý thì: “Học tập là một sự thay đổi tương đối
lâu dài về hành vi, là kết quả của các trải nghiệm”. Một số học thuyết về học tập điển
hình như Thuyết kiến tạo: “Học tập là quá trình kiến tạo kiến thức của người học
thông qua sự tương tác với môi trường. Kiến thức sẽ được hình thành qua kinh nghiệm
của chính bản thân người học” (Constructivism Theory).

Mặt khác, dựa trên quan điểm của Richard Gross - tác giả của cuốn sách tâm lý
“Psychology: The Science of Mind and Behaviour 6th Edition” thì khái niệm “học
tập” được định nghĩa như sau: “Học (hay còn gọi là học tập, hay học hành, hay là học
hỏi) là quá trình đạt được sự hiểu biết, kiến thức, hành vi, kỹ năng, giá trị, thái độ và
sở thích mới”.

Từ những khái niệm nêu trên, có thể hiểu học tập là hoạt động đặc thù của con
người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới,
những hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định.

5
Thông qua khái niệm và vai trò của học tập, có thể rút ra khái niệm về học tập
đối với cá nhân sinh viên như sau: Hoạt động học tập của sinh viên là một loại hoạt
động được tổ chức một cách có ý thức nhằm tiếp thu những tri thức khoa học chuyên
sâu chuẩn bị cho họ trong tương lai trở thành những chuyên gia phát triển toàn diện và
có trình độ nghiệp vụ cao trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định.

Dựa trên khái niệm, có thể thấy, học tập không chỉ giúp trau dồi kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm, giá trị mà còn là quá trình tìm hiểu các vấn đề về tình cảm, đạo
đức, lối sống, tiếp thu và hiểu biết những chuẩn mực đạo đức. Học tập không ngừng
nghỉ là điều vô cùng cần thiết đối với nhân dân, đối với cả nhân loại từ xưa đến nay,
nó giúp con người mở mang kiến thức, giúp cho đất nước văn minh, tiến bộ. Đối với
Việt Nam, học tập khi còn trong thời kì kháng chiến bảo vệ tổ quốc việc học hỏi từ
những đất nước tiên tiến, các nước đã bước vào thời kỳ phát triển đỉnh cao còn được
chủ tịch Hồ chí Minh nhấn mạnh: “Học tập là một dòng chảy liên tục, người học
không được để nó gián đoạn, không ngắt quãng, dù công việc cuộc sống có bộn bề đến
đâu. Người căn dặn chúng ta trong mọi hoạt động cách mạng đều có thể và đều cần
phải học tập, còn sống thì còn phải học” (Hồ Chí Minh, 2011, tr.377). Từ xa xưa con
người đã rất xem trọng việc học tập và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có quan điểm:
“Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân
dân, Tổ quốc và nhân loại” (Hồ Chí Minh, 1956). Kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh thì Đảng cộng sản Việt Nam Ngày 9/2/2018, Ban bí thư đã ban hành Chỉ thị
số 23-CT/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu,
vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình
mới tiếp tục xây dựng xã hội học tập dựa trên nền tảng phát triển.

Nhà văn Nga Lép Tôn - xtôi đã viết : “Lí tưởng là ngọn đèn soi đường”, từ câu
nói trên đã thấy rõ việc xác định được đúng mục đích học tập cũng quan trọng như
việc xác định lý tưởng sống. Từ mục đích học tập đúng đắn này, mỗi người học đều
nhận rõ được sai lầm nhận thức về việc học và kịp thời sửa đổi, rèn luyện, trang bị
kiến thức về mọi mặt để có trình độ chuyên môn vững vàng để đáp ứng kịp thời nhu
cầu ngày càng cao của đất nước, xã hội trong những giai đoạn mới.

6
Từ những định nghĩa trên, xác định hoạt động học tập của sinh viên có những
đặc điểm chung sau:

Thứ nhất, mục đích của hoạt động học tập của sinh viên là tiếp thu các tri thức
khoa học chuyên sâu trong một lĩnh vực nhất định, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp và thái độ tương ứng, phát triển những phẩm chất nhân cách của người
chuyên gia về một lĩnh vực trong tương lai.

Thứ hai, hoạt động thường xuyên diễn ra với nhịp độ cao.

Thứ ba, mang tính độc lập trí tuệ cao, đòi hỏi sinh viên phải là người chủ động
trong việc tổ chức, định hướng, cụ thể hóa quá trình học tập của mình.

Thứ tư, hoạt động học tập ở bậc đại học đòi hỏi sinh viên phải tích cực trao đổi
với giảng viên, bạn bè về vấn đề học tập, độc lập nghiên cứu tài liệu, có óc phê phán,
có chính kiến riêng,...

Thứ năm, hoạt động học tập gắn bó chặt với hoạt động nghiên cứu khoa học
giúp sinh viên làm quen với tác phong làm việc của người nghiên cứu, phát triển lối tư
duy sáng tạo và các đặc điểm nhân cách.

Tóm lại, để có thể lĩnh hội kiến thức, người ta có nhiều cách đón nhận nó khác
nhau. Mỗi người đều cần phải hoàn thiện những kỹ năng, kỹ xảo hay sự thành thạo
trong một lĩnh vực nào đó để bản thân ngày một tốt hơn. Thực tiễn đòi hỏi con người
phải có tri thức khoa học thực sự, phải hình thành những năng lực thực tiễn mới, mà
cách học ngẫu nhiên dựa trên cơ sở hoạt động tự nhiên của con người là không thể tạo
ra được. Để đáp ứng được điều này đã xuất hiện một hoạt động và mục đích cơ bản
của nó chính là học. Hoạt động đặc thù đó của con người có mục đích chính là học tập,
được gọi là hoạt động học tập.

Việc xác định rõ tầm quan trọng của việc học tập của sinh viên giúp cho cơ sở
giáo dục nói chung và nhà giáo dục nói riêng có những cách thức tiếp cận phù hợp
trong việc cung cấp kiến thức và kỹ năng cần thiết cho người học, đáp ứng nhu cầu
của xã hội. Do đó, nhiều công trình nghiên cứu về thái độ học tập của sinh viên hiện

7
nay ở Việt Nam và quốc tế đã ngày càng được mở rộng hơn, đi sâu hơn trong việc
hình thành thái độ học tập đúng đắn cho người học hiện nay.

1.1.2. Thai đô

Từ khi khái niệm thái độ đưa ra lần đầu vào năm 1918, cùng rất nhiều nghiên
cứu khác nhau về thái độ, đó cũng là lúc xuất hiện những định nghĩa khác nhau của
các nhà tâm lý học về thái độ. Mỗi định nghĩa bàn tới một khía cạnh thái độ khác nhau
của thái độ, góp phần phong phú thêm cách hiểu về phạm trù này. Trước tiên, từ điển
định nghĩa thế nào về thái độ. Trong từ điển tiếng Việt, “thái độ” được định nghĩa là:
“Cách nhìn nhận, hành động của cá nhân về một hướng nào đó trước một vấn đề, một
tình huống cần giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của ý nghĩ, tình
cảm của cá nhân đối với con người hay một sự việc nào đó” (tr407). Trong từ điển
Anh-Việt, “thái độ’’ được viết là “Attitude” và được định nghĩa là “Cách ứng xử, quan
điểm của một cá nhân”. Trong từ điển các thuật ngữ Tâm lý và Phân tâm học xuất bản
tại New York năm 1996 thì lại cho rằng: “Thái độ là một trạng thái ổn định bền vững,
do tiếp thu được từ bên ngoài, hướng vào sự ứng xử một cách nhất quán đối với một
nhóm đối tượng nhất định, không phải như bản thân chúng ra sao mà chúng được nhận
thức ra sao.” Như vậy, khi đề cập đến thái độ, các từ điển đều cho rằng: “Cách ứng xử
của cá nhân đối với các tình huống, các vấn đề của xã hội”. Nó được cấu thành rất
phức tạp, với nhiều bộ phận hợp thành, cho dù cách sử dụng từ ngữ khác nhau.

Hầu hết các nhà tâm lý học ở Việt Nam đều xuất phát từ quan điểm tâm lý học
hoạt động khi nghiên cứu tâm lý con người trong đó có vấn đề thái độ. Thái độ được
tác giả đề cập trên bình diện lý luận, chủ yếu khái quát những vấn đề lý luận về thái độ
như định nghĩa, cấu trúc, đặc điểm của thái độ.

Theo tác giả Phạm Minh Hạc, thái độ là một trong những biểu hiện của động cơ
học tập, là mục đích hàng đầu của dạy học bên cạnh việc cung cấp tri thức, rèn luyện
kỹ năng, kỹ xảo. Cùng với quan điểm tương tự như vậy, hai tác giả Đặng Vũ Hoạt và
Hà Thị Đức cho rằng thái độ là một trong bốn thành phần của nội dung dạy học đại
học (hệ thống tri thức kỹ năng, kỹ xảo, hệ thống khái niệm hoạt động sáng tạo, hệ
thống các chuẩn mực thái độ với hiện thực). Tác giả Thái Duy Tuyên đã đề cập đến
8
thái độ như là các mặt biểu hiện của định hướng giá trị trong các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, đời sống xã hội…

Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, thái độ được hiểu như sau:

+ Tổng thể nói chung những biểu hiện ra bên ngoài (bằng nét mặt, cử chỉ, lời
nói, hành động) của ý nghĩ, tình cảm đối với ai hay đối với sự việc nào đó.

+ Cách nghĩ, cách nhìn hoặc cách hành động theo một hướng nào đó trước một
vấn đề, một tình hình.

Tuy nhiên, đây chưa phải là cách định nghĩa của khoa học tâm lí. Vì vậy, định
nghĩa thái độ theo hướng này chưa nhấn mạnh được thái độ là cái tâm lí bên trong của
mỗi người.

Trong từ điển tâm lý học của Nguyễn Khắc Viện: “Trước một đối tượng nhất
định, nhiều người thường có phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng
tình hay chống đối như đã có sẵn trong cơ cấu tâm lí tạo ra định hướng cho việc ứng
phó. Từ thái độ sẵn có, tri giác về đối tượng cũng như bị chi phối, về vận động thái độ
gắn liền với tư thế”. Theo nhóm nghiên cứu, cách định nghĩa này vẫn chỉ tập trung
nhấn mạnh thái độ là những phản ứng bên ngoài của con người.

Năm 1935, nhà tâm lý học người Mỹ là G.Allport đã định nghĩa: “Thái độ là
trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm,
có khả năng điều chỉnh hoặc ảnh hưởng năng động đối với phản ứng của cá nhân
hướng đến các khách thể và tình huống mà nó quan hệ”.

Sau này Newcom cũng cho rằng thái độ của cá nhân đối với một đối tượng nào
đó là thiên hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của anh ta với khách thể
liên quan.

Trên đây là những định nghĩa về thái độ theo tâm lý học phương Tây, còn theo
tâm lý học Macxit (đại diện là V.N.Miaxisev) cho rằng: Thái độ là khía cạnh chủ quan
bên trong, có tính chọn lọc của các mối liên hệ đa dạng ở con người với các khía cạnh
khác nhau của hiện thực. Hệ thống này diễn ra trong toàn bộ lịch sử phát triển của con
9
người, biểu thị kinh nghiệm cá nhân và quy định nội hàm hành động cũng như các trải
nghiệm của họ. Khái niệm thái độ là khía cạnh tiềm năng của các quá trình tâm lý, liên
quan đến tính tích cực chủ quan, có chọn lọc của nhân cách. Qua cách định nghĩa trên,
chúng tôi nhận thấy, giữa các tác giả chưa có sự thống nhất về định nghĩa thái độ.
Định nghĩa thái độ của mỗi tác giả đưa ra đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định.

Từ việc tìm hiểu, xem xét, phân tích các quan điểm về thái độ nêu trên, thái độ
có thể được định nghĩa như sau: “Thái độ là một thuộc tính của nhân cách, tạo ra tâm
lý sẵn sàng phản ứng lại các tác động khách quan; sẵn sàng hoạt động của chủ thể với
đối tượng theo một hướng nào đó, được biểu hiện ra bên ngoài thông qua nhận thức,
xúc cảm - tình cảm và hành vi của chủ thể đối với đối tượng trong những tình huống,
điều kiện nhất định”.

1.1.3. Thai đô hoc tâp

Trong quá trình dạy học, ngoài việc cung cấp cho người học những tri thức, kĩ
năng mà còn có nhiệm vụ hình thành ở người học thái độ học tập phù hợp. Để hoạt
động học tập được thực hiện có hiệu quả và thu được kết quả thì việc hình thành cho
người học thái độ học tập tích cực rất quan trọng. Đó là quá trình làm ảnh hưởng đến
việc tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ năng cho sinh viên. Với một thái độ học tập tích cực,
đúng đắn thì sẽ trở thành động lực để người học vượt qua những khó khăn trở ngại.
Bên cạnh đó vẫn có sinh viên mang thái độ học tập tiêu cực, điều đó làm cho con
đường chinh phục kiến thức trở nên khó khăn hơn. Vì vậy, thái độ học tập tích cực sẽ
là cơ sở để quá trình tiếp thu kiến thức, kỹ năng cho sinh viên một cách dễ dàng hơn
đồng thời đảm bảo sinh viên có hướng đi đúng đắn trong học tập.

Chính vì sự quan trọng của thái độ học tập trong hoạt động học tập nên đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu về thái độ học tập nhằm mục đích giúp người học xác
định rõ phương hướng học tập. Một số khái niệm về “thái độ học tập” cũng được đưa
ra.

Theo tác giả Đào Lan Hương: “Thái độ học tập là một bộ phận cấu thành đồng
thời là một thuộc tính cơ bản toàn vẹn của ý thức học tập của chủ thể, là yếu tố quy

10
định tính tự giác, tích cực học tập và thể hiện bằng những cảm xúc, hành động tương
ứng”.(Đào Lan Hương, 1998).

Hay theo quan điểm của tác giả Dương Như Xuyên đó là: “Thái độ học tập là
một trong những cơ sở tâm lý quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách
cá nhân của sinh viên Đại học Sư Phạm”.

Tổng quan lại có thể đưa ra kết luận rằng: “ Thái độ học tập là một thuộc tính
tâm lý của nhân cách tạo ra tâm lý so sánh phản ứng tích cực hoặc tiêu cực của người
học đối với đối tượng trong những tình huống, điều kiện nhận định được biểu hiện ra
bên ngoài thông qua nhận thức xúc cảm và hành vi”.

Như vậy, đối với sinh viên, thái độ học tập có tác động rất lớn đến hiệu quả học
tập của mỗi sinh viên. Việc sinh viên có thái độ học tập tích cực có ảnh hưởng rất lớn
đến sự nghiệp của bản thân. Điều đó thúc đẩy sinh viên ham muốn học hỏi, tìm tòi,
lĩnh hội tri thức mới trong quá trình học tập.

1.2. Nhưng biêu hiện của thái độ hoc tập

Về những biểu hiện của thái độ học tập, tác giả S.Frans đã đưa ra những tiêu
chuẩn đánh giá về thái độ học tập và đã được thừa nhận có thể sử dụng rộng rãi. Theo
tác giả, những nội dung chung nhất về thái độ học tập tích cực đồng thời cũng bao quát
được tương đối đầy đủ mọi mặt thể hiện của thái độ học tập bao gồm 10 mặt biểu hiện
cơ bản sau:
 Trên lớp chú ý nghe giảng
 Học và làm bài đầy đủ.
 Cố gắng vươn lên trong học tập
 Không vội vàng phản ứng nếu có chỗ nào chưa hiểu hoặc không nhất trí với bài
giảng trong nội dung bài học.
 Đảm bảo kỷ luật học tập để học tốt.
 Cố gắng đạt thành tích học tập tốt.
 Thích độc lập tự thực hiện nhiệm vụ.
 Hăng hái nhiệt tình trong giờ chữa bài tập và giờ thảo luận.

11
 Hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nghiêm túc.
 Giữ gìn tài liệu một cách cẩn thận.
Như vậy, nhìn chung các nghiên cứu về thái độ học tập của các tác giả nước
ngoài đã đạt được những thành quả nhất định và cũng là cơ sở cho các tác giả Việt
Nam tham khảo khi nghiên cứu lĩnh vực này.
Thế hệ trẻ sinh viên là một đội ngũ trí thức không thể thiếu, là tầng lớp có trình
độ nghề nghiệp cao và chiếm đa số trong xã hội. Bởi sinh viên chính là một yếu tố
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đưa đất nước đi lên sánh ngang với các
nước phát triển hay đi xuống thành một đất nước lạc hậu. Không vì thế mà sinh viên
đối với môn học tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện thái độ học tập một cách tích cực còn
chưa cao, mà trái lại hành vi dẫn đến thái độ học tập tiêu cực vẫn còn diễn ra khá nhiều.
Những biểu hiện của thái độ học tập được biểu hiện không chỉ ở ngay trên lớp học,
trong giảng đường, mà thái độ học tập còn được biểu hiện tại nhà. Dù là ở trường hay
ở nhà thì đều có những hành vi tốt và không tốt, từ những hành vi này có thể thấy
được biểu hiện của thái độ học tập.

1.2.1. Thai đô hoc tâp trên lơp

Trước hết, đối với sinh viên còn ngồi trên giảng đường đại học cần phải có
trách nhiệm đối với việc học để tiếp thu tri thức là cần thiết và tất yếu, là quan trọng
đối với việc phát triển bản thân của người học. Vì thế việc xây dựng được thái độ học
tập nghiêm túc được biểu hiện qua những hành vi trên lớp cơ bản nhất phải nói đến là
đến lớp đúng giờ, hạn chế tối đa việc đi học muộn, đi học đầy đủ, ít khi nghỉ học, cúp
học. Sinh viên chú ý, lắng nghe những kiến thức mà giảng viên truyền đạt cũng là một
hành vi biểu hiện thái độ học tập tích cực. Sinh viên còn chủ động ghi chép, đặt câu
hỏi, thảo luận, trao đổi với giảng viên để làm rõ những vấn đề xoay quanh nội dung,
năng động, tích cực tham gia đóng góp xây dựng bài học. Ngoài những hành vi trên,
thái độ học tập nghiêm túc còn được biểu hiện ở hành vi luôn trong tâm thế hứng thú
với nội dung môn học. Đồng thời, khi kiểm tra, đánh giá có hành vi trung thực, đúng
với năng lực của bản thân. Song song đó, không thiếu những hành vi biểu hiện thái độ
học tập không nghiêm túc, mà các hành vi dễ thấy nhất đó là hay đi trễ, cúp học nhiều.
Những hành vi như không chú ý nghe giảng, không tập trung vào nội dung bài học,
12
ngủ gật trên lớp, nói chuyện ồn ào không tập trung. Ngoài ra, hành vi làm việc riêng
trong giờ học, thiếu trách nhiệm trong làm việc nhóm, thiếu trung thực trong việc kiểm
tra đánh giá cũng là một hành vi biểu hiện thái độ học tập không nghiêm túc.

1.2.2. Thai đô hoc tâp ơ nha

Ngoài những hành vi trên lớp, thì tại nhà cũng có những hành vi biểu hiện của
thái độ học tập tích cực của sinh viên. Trước khi đến lớp, sinh viên chủ động soạn bài,
tìm tòi những kiến thức liên quan đến nội dung bài học hôm sau. Sau khi kết thúc tiết
học, sinh viên có những thắc mắc liên quan đến nội dung bài học, sẽ trao đổi với giảng
viên. Ở nhà, sinh viên tự giác học bài, soạn bài, ôn bài, làm bài tập, chăm chỉ nghiên
cứu, tìm tòi những vấn đề xoay quanh nội dung bài học, đây là những hành vi biểu
hiện thái độ học tập nghiêm túc của sinh viên. Song song đó, không thiếu những hành
vi biểu hiện thái độ học tập không nghiêm túc. Có thể kể đến hành vi không chuẩn bị
bài, soạn bài trước khi lên lớp. Hành vi lười biếng, thụ động học bài, làm bài tập được
giảng viên giao nhiệm vụ, không chủ động làm việc nhóm, cũng là biểu hiện của thái
độ học tập không nghiêm túc.

Trên đây là những biểu hiện của thái độ học tập nghiêm túc, không nghiêm túc
của sinh viên ở cả trên lớp và tại nhà, từ những biểu hiện của thái độ học tập này sẽ
dẫn đến những kết quả về sau. Qua những biểu hiện của thái độ học tập, có thể thấy có
nhiều nhân tố tác động đến thái độ học tập của sinh viên.

1.3. Nhưng nhân tố tác động đến thái độ hoc tập của sinh viên hiện nay

1.3.1. Nhân tô khach quan:

1.3.1.1 Nội dung môn học:

Hiện nay, đối với các môn học lý luận chính trị sinh viên có biểu hiện coi nhẹ,
cho rằng các môn lý luận chính trị là môn học không thiết thực mặc dù trong các
trường đại học, việc học tập các môn lý luận chính trị giữ vai trò trọng yếu trong việc
học tập của sinh viên. Ngoài ra, mức độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng của một số sinh viên còn hạn chế, trong
đó biểu hiện rõ nhất là môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh. Mà nguyên nhân phần lớn là do
13
thái độ học tập của sinh viên thiếu tính sáng tạo, thụ động, chưa có độ tin tưởng vào
tính khoa học, tính cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng, vào sự đúng đắn của tư tưởng, lý luận, quan điểm
được trang bị, cũng như sự kiên định lập trường trong cuộc đấu tranh chống lại những
luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Một phần là do tính đặc thù của
bộ môn lý luận chính trị có tính trừu tượng cao, khó tiếp cận, khô khan, cứng nhắc khó
tiếp thu và thường được xếp vào chương trình học năm thứ nhất, năm hai của sinh viên
khi mà tâm lý của sinh viên chưa ổn định, chưa quen với phương pháp học mới dẫn
đến ý thức, động cơ, thái độ học tập chưa tốt, có thái độ bất mãn và chán nản khi học
các môn lý luận chính trị, còn có hiện tượng sinh viên gian lận trong thi cử của một bộ
phận sinh viên ở các Trường đại học nói chung và Trường đại học Sài Gòn nói riêng.
Vì vậy, công tác giảng dạy của giảng viên và việc học tập của sinh viên sẽ gặp nhiều
khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập.

1.3.1.2 Giáo viên - phương pháp dạy học:

Thực tiễn cho thấy bên cạnh những sinh viên có thành tích xuất sắc, thái độ học
tập tích cực thì cũng có khá nhiều sinh viên còn thái độ thờ ơ, thiếu nghiêm túc, không
đam mê học tập và chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập. Do vậy, đã
có rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về các yếu tố tác động đến thái độ học tập
của sinh viên, trong đó yếu tố xuất phát từ “người giảng viên” là mấu chốt.

Giảng viên là người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình dạy và học,
cũng là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập để giúp sinh viên
chiếm lĩnh tri thức dễ dàng hơn, cạnh đó giảng viên còn là người truyền cảm hứng,
định hướng, kích thích thái độ học tập tích cực, say mê cho sinh viên. Giảng viên phải
là người có kiến thức chuyên môn, sử dụng được các phương pháp giảng dạy tích cực,
lấy người học làm trung tâm,… là những yếu tố góp phần nâng cao thái độ học tập của
sinh viên. Mỗi giảng viên cần hiểu từng đối tượng sinh viên để có phương pháp giảng
dạy phù hợp, liên tục, thường xuyên đọc giáo trình, nội dung bài giảng lý thuyết, bài
tập thực hành, cập nhật các kiến thức, sự kiện thực tế, chính xác tạo điều kiện và
khuyến khích sinh viên.

14
Nhằm thu hút sinh viên học tập tích cực với các môn lý luận chính trị, trong đó
có môn tư tưởng Hồ Chí Minh thì đội ngũ giảng viên tại các trường Đại học đã và
đang đổi mới phương pháp giảng dạy học chậm mà chắc và dễ hiểu, nhìn chung đa số
Giảng viên đã chọn sử dụng phương pháp là thuyết trình là chủ yếu. Phương pháp này
đến nay vẫn mang lại hiệu quả, khi thuyết trình, sinh viên sẽ chủ động tìm tòi kiến
thức, ở phương pháp này sinh viên và giảng viên có nhiều thời gian trao đổi với nhau.
Người dạy dễ dàng nhận thấy những điểm đúng để người học phát huy thêm, phát hiện
cái sai để uốn nắn, đưa ra lời khuyên để sinh viên rút kinh nghiệm. Việc đa dạng hóa
các phương tiện dạy học, bên cạnh giáo án điện tử với hình ảnh sinh động, video minh
họa tăng tính trực quan, sinh động, hấp dẫn của bài giảng, các phương tiện phục vụ
phương pháp thảo luận, thì phòng học cũng được trang bị bàn ghế dễ di chuyển để có
thể linh hoạt thay đổi các hình thức học tập, đảm bảo đầy đủ các phương tiện nghe
nhìn chất lượng, máy chiếu đa năng, máy vi tính nối mạng internet để thu phát thông
tin nhanh chóng, kịp thời.

Bên cạnh đó thì cần kết hợp nhiều phương pháp dạy học để tăng sức hấp dẫn,
lôi cuốn sinh viên, dựa vào quan điểm lấy người học làm trung tâm. Các phương pháp
này sẽ tạo cơ hội cho mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, hình thành thói quen
sinh hoạt tư tưởng bình đẳng, tinh thần tôn trọng sự khác biệt, hình thành những quan
điểm cá nhân, hướng tới những giá trị chung, phổ biến và bao quát nhất. Việc áp dụng
các phương pháp dạy học tích cực sẽ góp phần phát huy tính chủ động, tự giác, hăng
hái của sinh viên trong học tập, làm cho tiết học trở nên sôi động, thu hút sinh viên
tham gia. Đa dạng hóa hình thức dạy học các môn lý luận chính trị. Hiện nay, hình
thức dạy và học các môn lý luận chính trị chưa thực sự đa dạng, chủ yếu do học tập
trên lớp khiến sinh viên bị nhàm chán, lười tư duy. Vì vậy việc tổ chức học tập gắn
liền với thực tiễn sẽ giúp sinh viên hứng thú, tích cực hơn. Có nhiều hoạt động dạy học
bằng các hình thức đa dạng như: Tổ chức các trò chơi, các cuộc thi tìm hiểu tri thức lý
luận chính trị, tham quan các địa điểm như bảo tàng cách mạng, bảo tàng Hồ Chí Minh,
Các di tích lịch sử, các căn cứ cách mạng… để sinh viên có cơ hội được kiểm chứng
tri thức lý luận, trên cơ sở đó, rèn luyện bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin vững chắc
vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước.

15
1.3.1.3 Kiểm tra đánh giá:

Kiểm tra, đánh giá là một quá trình được tiến hành có hệ thống, để xác định
mức độ đạt được về trình độ nắm kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng trình độ phát triển tư duy
và trình độ được giáo dục của người học trong quá trình dạy học; là khâu quan trọng
trong quá trình dạy học, có ý nghĩa tác động và điều chỉnh đến toàn bộ quá trình dạy
học. Nếu hoạt động đánh giá kết quả học tập của người học được thực hiện khách quan,
chính xác thì sẽ tạo được hứng thú, động lực thúc đẩy sinh viên trong quá trình lĩnh
hội kiến thức và hình thành các năng lực theo mục tiêu của môn học và chương trình
đào tạo.

Hiện nay, các khái niệm kiểm tra đánh giá được đề cập đến trong nhiều công
trình nghiên cứu. Như định nghĩa về đánh giá trong giáo dục của Nguyễn Công Khanh
và Đào Thị Oanh: “Là một quá trình thu thập, tổng hợp, diễn giải thông tin về đối
tượng cần đánh giá (hiểu biết về năng lực của học sinh, chương trình giáo dục, điều
kiện nhà trường,…) một cách có hệ thống nhằm mục đích hiểu biết sâu và sử dụng các
thông tin này để quyết định về học sinh, về chương trình, về nhà trường hay đưa ra các
chính sách giáo dục”[Nguyễn Công Khanh (chủ biên) (2017), tr.33].

Khái niệm kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của Woodhouse, của trường ĐH Khoa
học và Công nghệ Manchester, của Walvoord và Anderson, của Vlasceanu và cộng sự,
của Tổ chức đảm bảo chất lượng Giáo dục Đại học của Anh và của T. Dary Erwin.
Các khái niệm này thể hiện rõ 3 quan điểm:

Quan điểm thứ nhất: Kiểm tra, đánh giá xác nhận kết quả học tập của người
học.

Quan điểm thứ hai: Cho rằng Kiểm tra đánh giá giúp cải thiện việc học tập của
người học.

Quan điểm thứ ba: Cho rằng Kiểm tra đánh giá nhằm 2 mục đích: (1) xác nhận
kết quả học tập của người học và (2) giúp cải thiện việc dạy và học.

16
Từ các phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm kiểm tra đánh giá kết quả học tập
như sau:

Kiểm tra đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin từ
hoạt động học tập của người học, so sánh với mục tiêu đề ra nhằm xác nhận kết quả
học tập của người học sau một giai đoạn học tập và cung cấp thông tin phản hồi giúp
cải thiện việc dạy và học.

Về vị trí:

- Theo quan điểm truyền thống: kiểm tra đánh giá kết quả học tập là một quá
trình tách rời quá trình dạy - học và được thực hiện sau khi kết thúc quá trình dạy - học.

- Quan điểm mới: Kiểm tra đánh giá là một phần không thể tách rời quá trình
dạy - học, được thực hiện liên tục, đan xen trong quá trình dạy - học.

Về vai trò:

- Kiểm tra, đánh giá có vai trò rất quan trọng trong công tác giáo dục đó là: xác
nhận kết quả học tập của người học; giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy; thúc
đẩy tính tích cực của người học; giúp người học điều chỉnh hoạt động học.

- Phân loại kiểm tra, đánh giá kết quả học tập

- Với 2 mục đích, kiểm tra đánh giá là xác nhận kết quả học tập của người học,
giúp cải thiện việc dạy và học thì kiểm tra đánh giá kết quả học tập được phân thành 2
loại:

- Kiểm tra đánh giá tổng kết: nhằm đánh giá kết quả học tập và ghi nhận trình
độ của người học tại từng giai đoạn cụ thể được tiến hành định kỳ sau một khoảng thời
gian hoặc sau khi kết thúc một phần, một chương của môn học hay sau khi kết thúc
môn học.

- Kiểm tra đánh giá quá trình: nhằm cung cấp thông tin phản hồi liên tục từ hoạt
động học của người học để điều chỉnh quá trình dạy - học từ khi bắt đầu và trong suốt
quá trình dạy - học để nâng cao chất lượng học tập của người học.
17
Các phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập thông thường thực hiện
gián tiếp thông qua các bài kiểm tra với các phương pháp truyền thống rất quen thuộc
là kiểm tra viết, kiểm tra vấn đáp, kiểm tra thực hành. Phương thức kiểm tra đánh giá
này chủ yếu đánh giá nhận thức và kỹ năng cứng, những kỹ năng tối thiểu mà người
học cần phải có. Trong phương pháp kiểm tra truyền thống, công việc của giảng viên
bao gồm: ra đề, giám sát người học làm bài kiểm tra, chấm điểm bài làm của người
học; công việc của người học là thực hiện bài kiểm tra. Với phương pháp kiểm tra
truyền thống thì phần nội dung bài kiểm tra luôn bị hạn chế và khó đạt được đầy đủ
mục tiêu đề ra.

Mới đây, trong Giáo dục Đại Học, các nhà Giáo dục học đã giới thiệu một số
phương pháp kiểm tra đánh giá thực (Authentic Assessment), bao gồm 5 loại: Kiểm
tra đánh giá trình diễn, tìm kiếm nhanh, câu hỏi mở, hồ sơ học tập và tự đánh giá.
Kiểm tra đánh giá thực là hình thức kiểm tra đánh giá trực tiếp trong đó người học
được yêu cầu thực hiện những nhiệm vụ thực sự diễn ra trong cuộc sống, đòi hỏi phải
vận dụng một cách tích hợp các kiến thức giữa kỹ năng cứng và kỹ năng mềm. Kiểm
tra đánh giá thực không chỉ quan tâm đến đánh giá kỹ năng cứng mà còn quan tâm đến
đánh giá kỹ năng mềm, những kỹ năng không bó hẹp trong lĩnh vực chuyên môn mà
chúng cần cho cuộc sống và công việc hàng ngày. Với các phương pháp này, kiểm tra
đánh giá thực góp phần đánh giá mức độ đạt được chuẩn đầu ra của người học chính
xác hơn. Khác với các phương pháp truyền thống, kiểm tra đánh giá thực được người
dạy và người học cùng nhau thực hiện liên tục trong quá trình dạy - học theo chu trình:
đặt vấn đề, giải quyết, nhận xét, phản hồi, tranh luận và chỉnh sửa vấn đề. Kiểm tra
đánh giá thực yêu cầu người học giải quyết các vấn đề diễn ra trong thực tiễn nên cho
ta những minh chứng trực tiếp về kết quả mà người học đạt được.

Thực tế công tác kiểm tra đánh giá ở các trường Đại Học, trong đó bao gồm cả
Trường đại Học Sài Gòn đã và đang áp dụng hình thức kiểm tra, thi bằng phương pháp
tự luận kết hợp trắc nghiệm... Về thời gian làm bài là từ 60-180 phút, tùy vào quy định
của mỗi khoa và phần nội dung của đề thi sẽ xoay quanh chương trình của học phần đã
học. Mỗi học phần có từ 2 - 4 tín chỉ, trong đó sẽ có một bài kiểm tra giữa kì và một
bài thi kết thúc học phần. Bài kiểm tra giữa kì thường chiếm 30% - 40% điểm học
18
phần, do đó sinh viên thường không chú trọng vào bài kiểm tra này nên sinh viên có
thái độ thi để đối phó, học tủ, học lệch, việc kiểm tra như vậy chưa thực sự đánh giá
được tính khách quan, chính xác.

Nhằm thay đổi thái độ học tập đúng đắn cho sinh trong trong các môn học, đặc
biệt là học phần tư tưởng Hồ Chí Minh thì công tác kiểm tra, đánh giá cần công bằng,
chuẩn xác, đánh giá đúng năng lực người học. Thay vì kiểm tra bằng việc nhớ các kiến
thức như nêu khái niệm, định nghĩa thì giảng viên sẽ phải yêu cầu sinh viên phân tích,
bình luận, đối chiếu... Như vậy sinh viên buộc phải học để hiểu chứ không thể học vẹt,
học tủ. Việc kết hợp sử dụng các dạng kiểm tra, đánh giá qua hình thức giao bài tập,
làm tiểu luận sẽ giúp cho sinh viên phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự giác tìm kiếm
nắm bắt kiến thức. Giảng viên áp dụng linh hoạt các trọng số đánh giá như là điểm
chuyên cần, điểm thái độ học tập, ý thức để thu hút sinh viên.

Việc kiểm tra, đánh giá đúng thực tế, chính xác, khách quan sẽ giúp sinh viên
có thái độ học tập tự giác, sáng tạo, tự làm chủ được kiến thức và biết vận dụng các
kiến thức đã được học vào cuộc sống, công việc. Đồng thời giúp cho sinh viên biết
được bản thân mình đang ở đâu, vị trí nào để tiếp tục học tập và phấn đấu.

Để phục vụ cho việc đánh giá kết quả học tập, nhà giáo dục phải tiến hành thu
thập thông tin, dữ liệu về mức độ đạt được thực tế của người học (kiến thức, kĩ năng,
thái độ) theo các mục tiêu của môn học hoặc chương trình đào tạo. Hoạt động kiểm tra
kết quả học tập của người học chính là phương thức nhằm thu thập những thông tin,
dữ liệu phục vụ cho việc đánh giá mức độ đạt được của người học so với mục tiêu đề
ra.

Trong giáo dục học, đánh giá được hiểu cơ bản chính là quá trình hình thành lên
những nhận định, phán đoán cụ thể về kết quả công việc, căn cứ cụ thể vào sự phân
tích những thông tin thu được thông qua quá trình đối chiếu với mục tiêu, tiêu chuẩn
đã đề ra, nhằm mục đích để đề xuất những quyết định thích hợp để thực hiện việc cải
thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả đối với công tác giáo dục.
Trong lớp học, giáo viên có thể tiến hành kiểm tra nhiều lần, việc kiểm tra có thể được
thực hiện thường xuyên hoặc định kì. Người bị kiểm tra không nhất thiết là phải biết
19
trước về hoạt động kiểm tra của giáo viên. Kết quả của kiểm tra có thể dùng làm công
cụ đánh giá xếp loại người học, làm báo cáo, tư vấn giáo dục.

Kiểm tra là bộ phận hợp thành của quá trình hoạt động dạy – học nhằm nắm
được thông tin về trạng thái và kết quả học tập của sinh viên về những nguyên nhân cơ
bản của thực trạng đó để tìm ra những biện pháp khắc phục lỗ hổng, đồng thời củng cố
và tiếp tục nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy – học. Như vậy, trong lĩnh vực giáo
dục, kiểm tra là một thuật ngữ chỉ sự đo lường, thu thập thông tin để có được những
phán đoán, xác định xem mỗi người học sau khi học đạt được kiến thức, kỹ năng, thái
độ hay năng lực như thế nào, đồng thời có những thông tin phản hồi để hoàn thiện quá
trình dạy và học.

Đánh giá là quá trình thu thập thông tin, chứng cứ về đối tượng được đánh giá
và đưa ra những phán xét, nhận định về mức độ đạt được theo các tiêu chí đã được đưa
ra trong các tiêu chuẩn hay kết quả học tập. Đánh giá có thể là đánh giá định lượng
hoặc đánh giá định tính. Như vậy, ta có thể hiểu kiểm tra đánh giá kết quả học tập là
sự so sánh, đối chiếu kiến thức, kỹ năng, thái độ thực tế đạt được ở người học để tìm
hiểu và chẩn đoán trước, trong hoặc sau quá trình học tập với các kết quả mong đợi đã
xác định trong mục tiêu dạy học.

Để có thể góp phần thực hiện tốt các chức năng của mình, công tác kiểm tra,
đánh giá học sinh phải tuân theo các nguyên tắc cụ thể sau đây:

– Công tác kiểm tra, đánh giá học sinh phải đảm bảo tính khách quan:

+ Công tác kiểm tra, đánh giá học sinh cần tạo điều kiện để mỗi học sinh bộc lộ
thực chất khả năng và trình độ của mình.

+ Công tác kiểm tra, đánh giá học sinh cần ngăn ngừa được tình trạng thiếu
trung thực khi làm bài kiểm tra…

+ Công tác kiểm tra, đánh giá học sinh cần tránh đánh giá chung chung về sự
tiến bộ của toàn lớp hay của một nhóm thực hành, một tổ thực tập.

+ Việc đánh giá sẽ cần phải sát với hoàn cảnh và điều kiện dạy học.
20
+ Việc đánh giá cần phải tránh những nhận định chủ quan, áp đặt, thiếu căn cứ.

– Công tác kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo tính toàn diện cụ thể như sau:

Việc kiểm tra, đánh giá cần phải đảm bảo yêu cầu đánh giá toàn diện, thể hiện:
số lượng; chất lượng; kiến thức; kĩ năng, kĩ xảo; thái độ của từng cá nhân.

– Công tác kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo tính hệ thống cụ thể như sau:

+ Thực hiện đánh giá trước, trong và sau khi học xong một phần, một chương,
môn học.

+ Cần phải kết hợp kiểm tra đánh giá thường xuyên, kiểm tra đánh giá định kỳ,
tổng kết cuối năm, cuối khóa học.

+ Số lần kiểm tra phải đủ mức để các chủ thể có thể đánh giá được chính xác.

– Công tác kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo tính công khai cụ thể như sau:

+ Những kết quả kiểm tra, đánh giá phải được công bố kịp thời để mỗi sinh
viên có thể thông qua đó: Tự xếp hạng trong tập thể; Tập thể học sinh hiểu biết, học
tập và sẽ có thể giúp đỡ lẫn nhau.

+ Những kết quả kiểm tra, đánh giá sẽ cần phải được ghi vào hồ sơ, sổ sách để
lưu trữ lại.

1.3.2. Nhân tô chu quan:

1.3.2.1 Động cơ học tập:

Động cơ học tập của sinh viên: “Là cái mà việc học của họ cần đạt được để thỏa
mãn nhu cầu của mình. Nói ngắn gọn, học viên học vì cái gì thì cái đó chính là "động
cơ học tập”. Hoạt động học tập của sinh viên có tính độc lập cao và mang đậm tính cá
nhân, điều này khẳng định nó phải được thúc đẩy bởi một hệ thống động cơ học tập
nói chung, động cơ tự học nói riêng. Động cơ học tập có nhiều cấp độ khác nhau, bắt
đầu từ sự thỏa mãn nhu cầu của bản thân phải hoàn thành nhiệm vụ học tập, đạt được
điểm cao đối với môn học đó,… cho tới cấp độ cao hơn là trau dồi, chiếm lĩnh tri thức.
21
Xác định động cơ học tập đúng đắn sẽ giúp sinh viên có thái độ học tập tích cực
không chỉ đối với các học phần tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn đối với các môn học
khác. Nhà trường và giáo viên cần tạo những động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên,
tìm hiểu nhu cầu và nguyện vọng của các em trong quá trình học để có biện pháp
khuyến khích, giúp đỡ các em đạt được mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, nhà trường cần
có chế độ khen thưởng, khuyến khích kịp thời với những thành tích đạt được của sinh
viên; đảm bảo tính công bằng, nghiêm túc trong quá trình thi cử để đánh giá đúng năng
lực và sự cố gắng của các em trong học tập và nghiên cứu.

1.3.2.2 Năng lực bản thân:

Năng lực tự học, tự nghiên cứu: Có vai trò rất quan trọng trong môi trường đại
học. Với phương thức đào tạo theo học phần tín chỉ, chú trọng vai trò trung tâm của
sinh viên, tạo cho các em năng lực chủ động, sáng tạo theo phương pháp học của mình.
Do đó, tự học, tự nghiên cứu giúp sinh viên nâng cao khả năng tư duy, sáng tạo, tìm
tòi khám phá ra những vấn đề mới, hiểu rõ bản chất của vấn đề dưới sự hướng dẫn của
giáo viên. Quá trình tự học giúp sinh viên từng bước chiếm lĩnh tri thức một cách tự
giác, tích cực và độc lập.

Hoạt động tự học của sinh viên là một hoạt động không thể thiếu và đóng vai
trò quan trọng trong quá trình dạy học ở bậc đại học. Để nâng cao năng lực tự học cho
sinh viên, trước hết các em cần rèn luyện khả năng tự học. Sinh viên cần xác định
được thời gian học tập một cách hợp lý, khoa học, có ý chí hoàn thành kế hoạch đã đề
ra, có phương pháp học tập khoa học trên lớp, biết cách trao đổi những vấn đề còn thắc
mắc với bạn, với giáo viên. Giáo viên có thể hướng dẫn sinh viên cách lập kế hoạch
học tập trên cơ sở lập đề cương môn học, có phương pháp tự học ở nhà phù hợp với
năng lực, sở trường của các em. Ngoài ra, giáo viên cần quan tâm, khuyến khích sinh
viên phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu của mình.

1.4. Yêu cầu đối với phương pháp hoc tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
theo định hướng phát triên năng lực người hoc

22
1.4.1. Phương phap hoc tâp đôi vơi dạng đề trắc nghiệm khach quan:

Việc kiểm tra trắc nghiệm khách quan giúp giảng viên kiểm tra nhanh kiến thức,
kỹ năng của sinh viên qua các câu hỏi đúng sai, câu hỏi lựa chọn đáp án A, B, C, D.
Dạng đề trắc nghiệm khách quan nhằm kiểm tra đánh giá sinh viên có nắm được
những kiến thức cơ bản của môn học, cho sinh viên ôn tập bao quát nội dung môn học.
Đây là dạng thức kiểm tra đánh giá bao phủ kiến thức, không đi theo chiều sâu, mà chỉ
là kiểm tra những kiến thức cơ bản. Đối với dạng đề này, yêu cầu sinh viên phải hệ
thống được nội dung bài học, nắm được những kiến thức cơ bản. Sau đây là một số
phương pháp học tập tốt đối với dạng đề trắc nghiệm khách quan mà nhóm nghiên cứu
đã khảo sát được ý kiến sinh viên trường Đại học Sài Gòn.

Đối với dạng đề trắc nghiệm, để học tốt và kiểm tra tốt môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh, trước hết sinh viên phải đọc trước, đọc kỹ giáo trình ở nhà. Việc đọc trước giáo
trình giúp người học có một hình dung sơ lược về môn học, khi lên lớp nghe giảng sẽ
bớt bỡ ngỡ với những kiến thức mới. Kỹ năng tự học dựa trên khả năng tư duy phân
tích và phản biện, từ đó hình thành kiến thức mới. Mỗi sinh viên cần lập cho bản thân
một thời gian biểu học tập mỗi ngày, mỗi tuần để thường xuyên liên tục thay đổi và
lên kế hoạch cho các môn học. Cần đề ra mục tiêu cần hoàn thành của bản thân sau đó
cố gắng thực hiện đúng theo kế hoạch từ đó sẽ tạo ra tính kỷ luật cho bản thân sẽ giúp
sinh viên đạt được kết quả học tập như mong muốn. Tuy nhiên, sinh viên cũng không
được quá cứng nhắc theo kế hoạch đó mà đôi khi có thể thay đổi tùy vào từng hoàn
cảnh cụ thể. Một trong những cách khắc phục điểm yếu cá nhân, tăng hiệu suất học tập
đó là học theo nhóm. Thực chất việc học nhóm để những bạn học tốt giúp đỡ những
bạn học yếu hơn, mỗi thành viên đóng góp và giúp đỡ nhau cùng đạt một mục đích
chung. Việc học nhóm giúp phát huy được mặt mạnh và cải thiện mặt còn chưa mạnh.
Học nhóm mang tính chất hỗ trợ, hợp tác nhưng đôi khi cần có sự tranh luận về một
vấn đề bất đồng, qua sự bất đồng ý kiến, các thành viên trong nhóm sẽ lập luận, phân
tích và thuyết phục các thành viên khác tin vào ý kiến của mình. Việc thường xuyên
tra cứu, tìm kiếm tài liệu là một phương pháp không thể thiếu đối với sinh viên thời
đại hiện nay. Đối với việc tìm kiếm tài liệu trên những công cụ tìm kiếm trực tuyến
như Google, sinh viên đã quá quen thuộc và hầu như không gặp bất kỳ khó khăn nào

23
khi thực hiện các thao tác. Tuy vậy, để tìm kiếm hiệu quả hơn và tiết kiệm được thời
gian, sinh viên phải biết cách sử dụng những từ khóa quan trọng của môn học. Phải
nắm rõ các nội dung, khái niệm và tìm ra những từ khóa quan trọng của môn tư tưởng
Hồ Chí Minh. Qua đó, dễ dàng tiếp cận với những tài liệu cần thiết cho môn học.

Khi đến lớp, sinh viên cần tập trung nghe giảng viên giảng bài, phải hoạt động
tư duy hết sức tích cực, khẩn trương để có thể nắm được những vấn đề giảng viên
hướng dẫn, gợi mở, đánh dấu những ý chính dễ nhớ để áp dụng cho bài kiểm tra. Với
sinh viên nghe giảng được coi là một công việc nhẹ nhàng nhất trong mỗi giờ học, khi
đó giảng viên phải làm việc còn sinh viên chỉ cần nghe. Tuy nhiên, sẽ có rất nhiều bạn
nghe thầy cô giảng nhưng không hiểu bài, không nắm bắt được thông tin bài học dẫn
tới việc học tập kém hiệu quả. Để có một giờ học chất lượng thì người nghe phải đồng
cảm với những thông tin của người nói, phản xạ kịp thời những thông tin mà người nói
đưa ra khi đó mới là “nghe” thực sự. Với lượng kiến thức lớn như Đại học thì việc chỉ
lắng nghe giảng viên giảng bài thì sẽ không thể nhớ hết được kiến thức mà sẽ chủ yếu
vào việc sinh viên tự học tập chính vì thế sinh viên cần có lối suy nghĩ tích cực tránh
việc tự ti, đánh giá thấp bản thân mà không cố gắng vào việc học. Sinh viên nên chuẩn
bị cho mình một quyển sổ tay, để ghi lại những từ khóa cần thiết, những dấu mốc quan
trọng, những ý chính mà thầy cô nhấn mạnh, tạo điều kiện giúp tư duy nhanh hơn, ghi
nhớ lâu hơn và hỗ trợ cho việc kiểm tra dạng trắc nghiệm.

Hầu hết sinh viên đại học đều giữ cho mình thói quen “nước tới chân mới nhảy”
tức là chờ tới gần ngày thi mới bắt đầu gấp rút học ngày học đêm, tuy nhiên nếu phải
thi nhiều môn trong một tuần thì thời gian ôn thi sẽ không xuể. Chính vì thế giải pháp
tốt nhất là nên ôn tập trước một tháng, sử dụng các cách ghi chép của bản thân để ôn
tập, chuẩn bị đầy đủ tài liệu học tập cần thiết, sưu tầm các tài liệu có liên quan trên
mọi phương tiện. Tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng, các tài liệu của môn học quy định,
nghiên cứu, học tập, thường xuyên, tìm tòi kiến thức bài học và tự khai thác tri thức.
Sinh viên phải hệ thống lại nội dung bài đã được học, thường xuyên củng cố thêm
thông tin bên ngoài để bồi dưỡng thêm kiến thức, luyện đề cho quen tay, giải những đề
kiểm tra năm trước để làm quen với những dạng câu hỏi, biết được mình phải học chú
tâm vào phần nào và giới hạn được thời gian làm bài, vì là dạng đề dạng đề thi không
24
đi vào chi tiết chuyên sâu nên chỉ yêu cầu sinh viên nhớ được những khái niệm, vai trò,
ý nghĩa cơ bản liên quan đến môn tư tưởng Hồ Chí Minh, nhớ những điểm nổi bật gắn
với từng sự kiện, luyện tập kĩ năng làm bài trắc nghiệm, có phương pháp ôn tập hiệu
quả để củng cố kiến thức, hệ thống lại nội dung bài học một cách trình tự, rõ ràng.

Trên đây là một số phương pháp học tập dành cho sinh viên đối với dạng đề
trắc nghiệm khách quan. Việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp
cận năng lực người học, dạng thức trắc nghiệm khách quan nhằm kiểm tra đánh giá
sinh viên có nắm được những kiến thức cơ bản của môn học đối với dạng đề trắc
nghiệm khách quan giúp cho sinh viên có thể nắm vững được kiến thức môn tư tưởng
Hồ Chí Minh một cách chính xác và nhớ lâu nhất. Ngoài ra trắc nghiệm khách quan
còn đảm bảo cho việc chấm bài của giảng viên một cách khoa học và tránh tình trạng
học tủ, học lệch của sinh viên. Tuy nhiên, việc đổi mới cũng khiến cho tâm lí của sinh
viên hoang mang, vì để có thể chọn được phương án đúng nhất thí sinh phải nắm vững
được hệ thống kiến thức cơ bản của học phần tư tưởng Hồ Chí Minh. Như vậy, việc
đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá bằng cách xây dựng bài thi kết thúc học phần
kết hợp nhiều dạng câu hỏi để đánh giá đầy đủ các năng lực của người học giúp cho
sinh viên học tập tích cực hơn, đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình học.

1.4.2. Phương phap hoc tâp vơi dạng đề trắc nghiệm (đoc-hiểu):

Kiểm tra bằng dạng đề trắc nghiệm đọc hiểu là loại kiểm tra câu trắc nghiệm
nhiều lựa chọn có hai phần, phần đầu được gọi là phần dẫn, nêu ra vấn đề, cung cấp
thông tin cần thiết hoặc nêu một câu hỏi; phần sau là phương án để chọn, thường được
đánh dấu bằng các chữ cái A, B, C,D... hoặc các con số 1, 2, 3, 4, …và chỉ được chọn
1 phương án đúng duy nhất trong các đáp án gây nhiễu giúp giảng viên đánh giá được
năng lực, khả năng phân tích bài đọc, kỹ năng đọc hiểu kiến thức của môn tư tưởng Hồ
Chí Minh. Để đạt được điểm tối đa của dạng đề này thì người học cần phải có những
phương pháp, kỹ năng học tập thích hợp hiệu quả như các phương pháp sau đây mà
nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát và thu được ý kiến của sinh viên Trường Đại
học Sài Gòn.

25
Đối với dạng đề kiểm tra trắc nghiệm đọc hiểu này, phương pháp học tập của
sinh viên khi trên lớp trước hết, phải đọc kỹ, hiểu, nắm rõ nội dung trong giáo trình,
phải khai thác tối đa nội dung trong giáo trình vì đó là những kiến thức cơ bản nhất,
khái quát nhất về hệ thống của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh. Là một môn học khó
hiểu đối với các sinh viên vậy nên việc luôn có sẵn một quyển sổ để tóm tắt, cô đọng
thông tin bài học không bao giờ thừa thãi. Để thực hiện được việc làm này điều quan
trọng là sinh viên phải tập trung khi nghe giáo viên nói. Thực hành lắng nghe tích cực
bằng việc nghe và hiểu theo cách hiểu của bản thân và ghi chúng vào trong quyển sổ
ghi chú hoặc một tờ giấy rồi kẹp chúng vào sau phần bài học.

Ngoài những phương pháp học tập trên lớp đạt hiệu quả thì sinh viên vẫn cần
phải kết hợp với việc học tập ở ngoài trường lớp. Theo như cử nhân Phạm Thị Hiền đã
chia sẻ về phương pháp học tập tốt môn tư tưởng Hồ Chí minh thì: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự kết tinh văn hóa cổ kim, Đông - Tây; do đó để hiểu sâu sắc hơn về môn học
này, ngoài giáo trình trên lớp các sinh viên phải tìm hiểu thêm thông tin thông qua các
tài liệu tham khảo khác về Hồ Chí Minh, như qua các kênh thông tin: sách, báo chí,
các nền tảng mạng xã hội…và cả trong các lĩnh vực khác: văn hóa học, Việt Nam học,
tư tưởng văn hóa Việt Nam, Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo… ( Phạm Thị Hiền,
phương pháp học tập tốt môn học tư tưởng Hồ Chí Minh).

Ở cấp bậc đại học chương trình học bài và kiến thức đa dạng nhiều, sinh viên
nên chia nhỏ bài học theo các chương, cạnh đó người học hãy cố gắng liên kết những
thông tin thu thập từ bên ngoài giáo trình sao cho phù hợp bằng cách sơ đồ hóa bài học
ở mỗi cuối bài học. Với hình thức thi trắc nghiệm, những người ra đề thường làm đáp
án nhiễu để “đánh lừa” thí sinh học vẹt, chưa nắm rõ kiến thức. Vì vậy, người học nên
học theo cách hiểu của bản thân mà không nên quan tâm đến những đáp án còn lại để
tránh sao lãng, phân tâm.

Mỗi môn thi trắc nghiệm thường có cấu trúc và dạng đề khác nhau. Nhiệm vụ
của thí sinh trong suốt quá trình ôn thi chính là nghiên cứu và tìm chiến lược cho bài
thi trắc nghiệm phù hợp với từng môn thi bằng cách luyện tập va chạm với đề thi của
các khóa trước. Khi nắm chắc chiến lược đó, người học sẽ tự tin hơn vào lúc tham gia

26
các kỳ thi trắc nghiệm chính thức. Ngoài ra việc chú thích, luyện tập tập phần viết luận
ở cuối mỗi chương của bài học cũng vô cùng cần thiết để người học chuyển phần tài
liệu học được được từ bộ nhớ ngắn hạn sang bộ nhớ dài hạn. Điều này sẽ giúp ích rất
nhiều cho lần kiểm tra tiếp theo hoặc đơn giản là việc lưu trữ thông tin lâu hơn các
kiến thức đã học để không phải nước đến chân mới nhảy với lượng kiến thức khổng lồ.
Không những thế việc rèn luyện kỹ năng trình bày một bài luận, lập dàn ý trước các
dạng đề nằm trong khả năng để khi trình bày không bị lệch ra khỏi yêu cầu mà dạng đề
trắc nghiệm đọc hiểu đưa ra.

Trên đây là tổng hợp một số ý kiến những phương pháp học tập dành cho sinh
viên đối với dạng đề trắc nghiệm đọc hiểu. Từ đó có thể nói, việc đổi mới kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh là cần thiết bởi kỹ năng đọc và
hiểu được quá trình hình thành và phát triển môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền
với dấu mốc quan trọng của lịch sử dân tộc ta. Điều này vừa giúp cho người học nắm
vững được kiến thức cơ bản, vừa đánh giá và vận dụng được kiến thức trong việc làm
thi đánh giá của kỳ kiểm tra.

1.4.3. Phương phap hoc tâp vơi dạng đề tự luân:

Việc kiểm tra với dạng đề tự luận sẽ giúp giảng viên đánh giá được năng lực,
khả năng lĩnh hội tri thức của sinh viên trong quá trình học. Đối với dạng đề này yêu
cầu sinh viên phải ghi nhớ các kiến thức của môn học, tư duy sáng tạo, phân tích câu
hỏi, nắm vững kỹ năng viết bài luận và tư duy phân tích, và liên hệ trách nhiệm của
bản thân. Sinh viên muốn được điểm tối đa của dạng đề này thì cần phải có thái độ học
tập tích cực và phương pháp học tập tốt. Sau đây là một số phương pháp học tập tốt
mà nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát và thu được số lượng lớn ý kiến đồng ý của
sinh viên Trường Đại học Sài Gòn.

Đối với dạng đề kiểm tra tự luận, phương pháp học tập của sinh viên khi trên
lớp là cần phải đi học đầy đủ, lắng nghe giảng viên giảng bài để nắm chắc các kiến
thức cơ bản, trao đổi xây dựng bài với giảng viên, tích cực trong hoạt động nhóm, trau
dồi vốn hiểu biết thông qua những ví dụ minh hoạ, cập nhật các vấn đề trong cuộc
sống để có thể liên hệ, vận dụng kiến thức của môn học để trả lời các câu hỏi về thực

27
tiễn chẳng hạn như "nêu trách nhiệm của bản thân trong xây dựng văn hóa, đạo đức,
con người Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh". Vì nội dung của môn học
rất nhiều, để nhớ hết được kiến thức, sinh viên cần chia nhỏ thông tin bài học để tránh
việc bị nhầm lẫn. Cũng như cần tự rèn luyện cho bản thân kỹ năng trình bày một bài
luận, tư duy lập luận cao. Với đặc thù của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh là những
đường lối, chính sách của Đảng, chính vì thế không chỉ dựa vào giáo trình mà sinh
viên cần phải liên tục trau dồi thêm vốn hiểu biết, nắm bắt nhiều thông tin thực tiễn.

Bên cạnh những phương pháp học tập trên lớp thì sinh viên cần kết hợp với
việc học tập ở nhà như: Chuẩn bị bài trước khi đến lớp, việc sinh viên chủ động đọc
giáo trình trước khi đến lớp mang lại hiệu quả cao trong quá trình học, giúp sinh viên
vừa hệ thống lại những kiến thức, vừa biết được nội dung nào chưa hiểu để có thể trao
đổi với giảng viên. Dành thời gian ôn tập nhiều hơn cho môn, đọc nhiều tài liệu liên
quan đến môn học, cập nhật những tin tức xoay quanh nội dung bài học. Bên cạnh đó,
sinh viên cần rèn luyện các kỹ năng làm bài luận, không viết lang mang, tránh viết lạc
đề.

Trên đây là những phương pháp học tập dành cho sinh viên đối với dạng đề tự
luận. Từ đó có thể nói, việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Tư tưởng
Hồ Chí Minh theo hướng tiếp cận năng lực là tập trung vào đánh giá năng lực vận
dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, tư duy sáng tạo của sinh viên. Quá trình
thay đổi hình thức kiểm tra, đánh giá từ hình thức tự luận sang hình thức kết hợp nhiều
dạng bài thi khác nhau theo hướng tiếp cận năng lực người học như trên đã góp phần
thúc đẩy sinh viên điều chỉnh phương pháp dạy hiệu quả và phát triển được các năng
lực, tạo động cơ học tập tích cực cho sinh viên, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, từng bước
xóa bỏ lối học thụ động, không còn tình trạng không cần học tốt vẫn thi đạt kết quả
cao do yêu cầu của đề thi đơn giản như trước đây. Nhưng việc đổi mới cũng khiến cho
tâm lý của phần lớn sinh viên lo lắng khi làm bài kiểm tra. Dù đã ôn bài rất kĩ nhưng
vẫn có một số sinh viên không làm được bài vì tâm lý lo lắng, sợ hãi vẫn không làm
được. Chính vì thế, sinh viên cần phải phân chia thời gian hợp lý giữa ba dạng đề.
Tránh dành quá nhiều thời gian cho các câu hỏi dạng trắc nghiệm, đọc-hiểu, sẽ không
đủ thời gian để hoàn thành bài thi.
28
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ĐỔI MỚI KIỂM TRA
ĐÁNH GIÁ ĐỐI VỚI THÁI ĐỘ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
2.1. Kiêm tra, đánh giá hoc phần tư tưởng Hồ Chí Minh của trường Đại
hoc Sài Gòn
2.1.1. Giai đoạn trươc đổi mơi kiểm tra đanh gia

Trong giai đoạn từ học kì 1 năm học 2016 - 2017 đến hết học kì 2 năm học
2019 - 2020, đối với kì thi kết thúc học phần môn học tư tưởng Hồ Chí Minh phương
thức kiểm tra tự luận (đề mở) tức bài thi viết theo hình thức tự luận, được tham khảo
tài liệu đã được trường Đại học Sài Gòn áp dụng theo đúng quy định tại đề cương học
phần đã được phê duyệt. Cụ thể theo quy định tại Điều 9 của Quy chế đào tạo trình độ
đại học được Ban hành theo Thông tư số 08/2021/TT-BGDĐT, ngày 18 tháng 3 năm
2021 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định như sau: “Đối với mỗi học phần,
sinh viên được đánh giá qua tối thiểu hai điểm thành phần, đối với các học phần có
khối lượng nhỏ hơn 02 tín chỉ có thể chỉ có một điểm đánh giá. Các điểm thành phần
được đánh giá theo thang điểm 10. Phương pháp đánh giá, hình thức đánh giá và trọng
số của mỗi điểm thành phần được quy định trong đề cương chi tiết của 40 mỗi học
phần. Hình thức đánh giá trực tuyến được áp dụng khi đảm bảo trung thực, công bằng
và khách quan như đánh giá trực tiếp, đồng thời đóng góp không quá 50% trọng số
điểm học phần” [Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2021].

Đối với phương thức kiểm tra bằng hình thức tự luận đề mở môn tư tưởng Hồ
Chí Minh yêu cầu đặt ra cho sinh viên chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhớ hoặc chép lại
những gì đã có trong giáo trình, yêu cầu người học tái hiện lại kiến thức, nhắc lại và
nhớ lại về những thông tin hoặc sự kiện đơn thuần mà không nhất thiết phải hiểu về
chúng. Phần vận dụng chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ và chưa thực sự đo lường được năng lực của
sinh viên. Từ đó hình thức kiểm tra, đánh giá này vô tình gây tâm lý chung là chủ quan,
ỷ lại trong sinh viên khi làm bài, hình thành lối tư duy "không học cũng có điểm" ở đa
số sinh viên.

29
Nhìn sâu vào thực tiễn kiểm tra, đánh giá với dạng tự luận (đề mở) ở học phần
tư tưởng Hồ Chí Minh sinh viên có biểu hiện coi nhẹ các môn lý luận chính trị, coi các
môn lý luận chính trị không thiết thực mặc dù trong các trường đại học, việc học tập
các môn lý luận chính trị giữ vai trò trọng yếu trong việc học tập của sinh viên. Ngoài
ra, mức độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
quan điểm của Đảng của một số sinh viên còn hạn chế, thiếu tính sáng tạo, thụ động,
chưa có sự kiên định lập trường trong cuộc đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái,
xuyên tạc của các thế lực thù địch. Dẫn đến việc kiểm tra đánh giá bằng phương thức
tự luận đề mở đã góp phần hình thành lối tư duy “không học cũng có điểm”, thái độ
học tập của sinh viên cũng có phần lơ là, ỷ lại, không nghiêm túc, thiếu trách nhiệm.
Thêm vào đó, vô hình chung người học sẽ bị hổng các kiến thức quan trọng và không
đảm bảo được đủ lượng kiến thức đọng lại như yêu cầu của chương trình học, không
hiểu được ý nghĩa của việc học và vận dụng môn học vào đời sống cần thiết như thế
nào. Lối sống hời hợt ở thanh niên đang là nền tảng dẫn đến thái độ học tập tiêu cực
của sinh viên, thông qua các biểu hiện như đi học trễ, cúp học, làm việc riêng, không
chú ý nghe giảng, ngủ gật trên lớp, thiếu trách nhiệm trong làm việc nhóm. Từ đó dẫn
đến hoạt động học tập trên lớp của giảng viên và sinh viên chưa đạt được hiệu quả cao,
sinh viên không thể hiện được tính tích cực dẫn đến đa số hoạt động học tập của môn
tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng và các học phần môn chung nói chung luôn có chiều
hướng hoạt động một chiều xuất phát từ giáo viên khi áp dụng hình thức kiểm tra tự
luận (đề mở).

Như vậy, có thể thấy phương thức kiểm tra tự luận (Đề mở) ảnh hưởng đến thái
độ sinh viên, từ đó dẫn đến việc không đáp ứng được yêu cầu hiện nay của môn học.
Chính vì vậy, việc đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá là cần thiết trong giai đoạn
hiện nay, nhằm thay đổi thái độ của sinh viên cho phù hợp với yêu cầu môn học tư
tưởng Hồ Chí Minh hiện nay. Từ những yêu cầu trên của môn học, từ đó xác định và
đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá cho học phần tư tưởng Hồ Chí Minh bám sát
với tiêu chí đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người học.

30
2.1.2. Giai đoạn sau đổi mơi kiểm tra đanh gia

Giai đoạn từ năm học 2020 - 2021, trường Đại học Sài Gòn đã có sự đổi mới
hình thức kiểm tra, đánh giá đối với học phần tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể nhà
trường phê duyệt việc thay đổi hình thức kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng
lực người học từ xuất phát từ đề tài “Đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học môn tư
tưởng Hồ Chí Minh theo hướng tiếp cận năng lực người học” của T.S Phạm Phúc
Vĩnh, Th.S Huỳnh Thị Kim Quyên - Khoa Giáo dục Chính trị. Đề tài đã chỉ ra được
những ưu điểm và hạn chế của hoạt động kiểm tra, đánh giá hiện hành đồng thời đã đặt
ra một số vấn đề về đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo
hướng tiếp cận năng lực người học. Từ đó xác định và đổi mới phương thức kiểm tra,
đánh giá cho học phần tư tưởng Hồ Chí Minh bám sát với tiêu chí đánh giá theo hướng
tiếp cận năng lực người học.

Cụ thể việc kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người học sẽ không
chỉ tập trung vào đánh giá tổng kết ở bài thi cuối kỳ mà còn đánh giá ở quá trình học
tập của sinh viên nói chung với các hình thức phổ biến như: thảo luận nhóm, bài tập cá
nhân hay các sản phẩm dự án cá nhân, bài thực tế thu hoạch môn học. Việc đổi mới
phương pháp kiểm tra đánh giá đã đặt ra những yêu cầu sát sao hơn trong quá trình
học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên. Mục tiêu của việc xây dựng đề thi là
kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người học để từ đó đặt ra phương pháp
giảng dạy theo hướng phát triển năng lực người học.

Đề thi kết thúc học phần môn tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xây dựng mới với
ba phần chính: trắc nghiệm, đọc hiểu và tự luận. Mỗi phần đều có những mục tiêu
riêng để từ đó đánh giá được toàn diện năng lực của sinh viên trong quá trình học tập.
Dạng đề trắc nghiệm sẽ đánh giá được năng lực nhận biết của sinh viên, đánh giá được
mức độ nắm vững những kiến thức cơ bản của sinh viên. Do đó trong quá trình học tập,
để đáp ứng được yêu cầu của phương pháp kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng
lực người học đòi hỏi sinh viên trong quá trình học phải nắm được những nội dung cơ
bản, có khả năng nhắc lại các thông tin đã được tiếp nhận trong quá trình học của học
phần môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với dạng đề đọc hiểu, việc xây dựng một bài
đọc với nội dung liên quan đến bài học sẽ đánh giá được năng lực hiểu và vận dụng
31
kiến thức của sinh viên khi vận dụng kiến thức đã học và các năng lực được hình thành
trong quá trình học tập và hoạt động thực tiễn để trả lời. Dạng đề tự luận được xây
dựng với mục tiêu nhằm đánh giá năng lực vận dụng, phân tích những kiến thức đã
học vào việc giải quyết những vấn đề thực tiễn được đặt ra, nhằm gắn liền kiến thức
giữa môn học với thực tế. Do đó đòi hỏi sinh viên từ những kiến thức cơ bản đó sinh
viên phải biết cách nhìn nhận những vấn đề được đặt ra với nhiều góc nhìn khác nhau,
đồng thời cũng cần trau dồi khả năng phân tích, diễn giải, suy luận. Từ lý thuyết sinh
viên cần vận dụng được vào thực tiễn chính trị xã hội, vận dụng những kiến thức đã
học vào nhận thức hoặc nghiên cứu các các hiện tượng, tình huống phát sinh trong
thực tiễn.

Nhằm lấy ý kiến của sinh viên về đề thi đánh giá năng lực theo hướng tiếp cận
năng lực người học ở học phần môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhóm nghiên cứu đã tiến
hành khảo sát 120 sinh viên đánh giá về độ khó của dạng thức đề thi đánh giá năng lực
môn tư tưởng Hồ Chí Minh.

Biểu đồ 1. Biểu đồ về đánh giá độ khó của dạng thức đề thi đánh giá năng lực môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh.

Thông qua khảo sát, đối với dạng thức trắc nghiệm khách quan, hầu hết sinh
viên đánh giá mức độ ở dạng thức này là mức độ trung bình với hơn 60 sinh viên, dưới

32
40 sinh viên đánh giá là khó và rất khó, và chỉ khoảng 10 sinh viên còn lại thấy dễ. Từ
những số liệu trên cho thấy đối với dạng đề này, sinh viên cảm thấy vẫn có độ khó
nhất định dù đáp án của bài thi là chọn 1 trong 4 đáp án A, B, C, D. Thời gian thi ít
hơn trong khi lượng kiến thức bao quát cao và rộng, thí sinh nào không nắm chắc kiến
thức sẽ không làm được, qua đó thể hiện được sinh viên đánh giá đây là một dạng thức
không quá khó và đánh giá đúng năng lực người học. Tuy nhiên, đối với một số sinh
viên vẫn thấy đây là một dạng thức dễ làm và dễ kiếm điểm vì dựa vào yếu tố may rủi
đánh bừa đáp án có thể là đáp án đúng.

Đối với dạng thức đọc hiểu, hầu hết sinh viên đánh giá mức độ ở dạng thức này
là mức độ trung bình với hơn 50 sinh viên, gần 50 sinh viên đánh giá là khó và rất
khó, và chỉ một số ít còn lại thấy dễ. Từ những số liệu trên cho thấy đối với dạng đề
này, tỷ lệ sinh viên cảm thấy dạng đề có độ khó cao hơn so với dạng thức trắc nghiệm
khách quan bởi dạng đề này không gợi ý sẵn đáp án ở trên đề mà là tự bản thân thí
sinh phải hiểu được nội dung và câu hỏi do đề yêu cầu. Chính vì vậy, sinh viên đánh
giá đây là một dạng thức khó và đánh giá được năng lực hiểu bài của sinh viên. Tuy
nhiên, đối với một số sinh viên vẫn thấy đây là một dạng thức dễ và tỷ lệ có sự thấp
hơn so với dạng thức trắc nghiệm khách quan.

Đối với dạng thức tự luận, hầu hết sinh viên đánh giá mức độ ở dạng thức này
là mức độ trung bình với gần 50 sinh viên, hơn 40 sinh viên đánh giá là khó và rất
khó, và chỉ một số ít còn lại thấy dễ hoặc rất dễ. Từ những số liệu trên cho thấy đối với
dạng đề này, sinh viên cảm thấy khá khó vì ở dạng thức này đòi hỏi sinh viên phải viết
luận và không được xem tài liệu. Thông qua số liệu có thể thấy, đối với dạng tự luận
(đề đóng) sinh viên nhận định được đây là dạng thức có mức độ khó hơn so với hai
dạng thức còn lại, song vẫn có một bộ phận sinh viên cảm thấy rất dễ do việc thi đề
đóng không quá khó ở việc ghi nhớ và viết lại kiến thức đã học.

Từ những kết quả của khảo sát thực tiễn quản lý cho thấy, trong cuộc thăm dò ý
kiến của sinh viên trường Đại học Sài Gòn đối với việc " đánh giá về độ khó của dạng
thức đề thi đánh giá năng lực đối với môn học tư tưởng Hồ Chí Minh" thấy được rằng
mức độ trung bình giảm dần từ trắc nghiệm khách quan đến tự luận, cũng đã thấy được

33
mức độ phân hóa của đề thi đối với sinh viên. Trắc nghiệm khách quan có nhiều sinh
viên cảm thấy đề ở mức độ trung bình chiếm tỉ lệ lớn nhưng về dạng thức đọc hiểu và
tự luận thì giảm dần. Điều này cũng cho thấy độ khó của các dạng thức từ thấp đến cao.
Dạng đề thi đánh giá năng lực theo hướng tiếp cận năng lực người học ở học phần
môn tư tưởng Hồ Chí Minh được sinh viên đánh giá có độ khó trung bình, phù hợp với
năng lực người học và có độ phân hóa cao.

2.2. Nhưng yêu cầu đặt ra cho sinh viên đối với việc đổi mới kiêm tra đánh
giá:
2.2.1 Yêu cầu đặt ra cho sinh viên đôi vơi dạng đề thi Trắc nghiệm:

Trắc nghiệm là phương pháp dùng để kiểm tra nhanh kiến thức, kỹ năng của
người nào đó qua các câu hỏi đúng sai, câu hỏi lựa chọn đáp án A, B, C, D để đánh giá.
Trong giáo dục thì dạng đề thi trắc nghiệm được tiến hành thường xuyên ở các kỳ thi,
kiểm tra để đánh giá kết quả học tập, giảng dạy đối với một phần của môn học, toàn bộ
môn học, đối với cả một cấp học; hoặc để tuyển chọn một số người có năng lực nhất
vào học một khoá học.

Trong đề thi đánh giá năng lực theo hướng tiếp cận năng lực người học, dạng
thức trắc nghiệm khách quan nhằm kiểm tra đánh giá sinh viên ở mức độ nhận biết,
giúp sinh viên nắm được những kiến thức cơ bản, ôn tập bao quát nội dung môn học tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đây là dạng thức kiểm tra đánh giá bao phủ kiến thức, không đi
theo chiều sâu, mà chỉ là kiểm tra những kiến thức cơ bản.

Đánh giá năng lực nhận biết, việc sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan là
phù hợp nhất, do đó yêu cầu sinh viên phải hệ thống được nội dung bài học, nắm được
những kiến thức cơ bản. Để nắm vững các kiến thức cơ bản của học phần, sinh viên
phải có thói quen tự học, tự nghiên cứu. Việc hình thành thói quen học tập tích cực là
rất quan trọng, nó giúp cho quá trình học tập, đặc biệt là tự học diễn ra liên tục và lâu
dài. Để có được một thói quen tự học tốt, sinh viên cần: học có chọn lọc, học có đam
mê và học có quá trình. Kho tàng kiến thức là vô tận, nguồn tài liệu tham khảo cho
môn học cũng rất phong phú, sinh viên khi đọc tài liệu phải biết chọn lọc, cần tìm hiểu
kĩ, lựa chọn đúng những tri thức và kỹ năng cần được trang bị, tránh cách học dàn trải,
34
hời hợt, cái gì cũng biết nhưng chỉ loáng thoáng, không hiểu rõ bản chất của vấn đề.
D6ssssxssạng đề thi này không đi vào chi tiết chuyên sâu nên chỉ yêu cầu sinh viên
nhớ được những khái niệm, vai trò, ý nghĩa cơ bản của học phần. Do đó, đối với
những câu hỏi quen thuộc sinh viên có thể chọn đáp án ngay lập tức mà không cần mất
thời gian đọc hết toàn bộ các lựa chọn khác. Với đề thi trắc nghiệm nhiều lựa chọn yêu
cầu sinh viên phải có mức độ nhận biết, trong các phương án chỉ được chọn duy nhất
một phương án đúng nhất trong các phương án khác có tác dụng gây nhiễu đối với thí
sinh. Để có thể chọn được phương án đúng nhất thí sinh phải nắm vững được hệ thống
kiến thức cơ bản bằng sơ đồ tư duy. Do đề kiểm tra bao quát nội dung môn học nên
sinh viên không thể học tủ, học lệch. Đối với dạng đề này, yêu cầu sinh viên phải hoàn
thành tất cả các câu hỏi, không được bỏ trống một đáp án nào, dù không chắc chắn câu
trả lời có chính xác hay không. Do số lượng câu hỏi nhiều và khoảng thời gian làm bài
có hạn nên sinh viên phải tập trung làm bài với tốc độ cao. Về dạng câu hỏi trắc
nghiệm để làm bài được đúng nhất thì sinh viên phải đọc kĩ đề để biết yêu cầu của câu
hỏi là lựa chọn phương án đúng hay phương án sai, lựa chọn một hay nhiều phương án
trong bài, chắc chắn hiểu rõ câu hỏi để từ kiến thức cơ bản sinh viên có thể tìm ra từ
khóa chính để nhanh chóng hoàn thành đáp án.

2.2.2. Yêu cầu đặt ra cho sinh viên đôi vơi dạng đề thi Đoc-hiểu:

Kiểm tra đánh giá đối với dạng đề đọc hiểu là đọc kết hợp với sự hình thành
năng lực giải thích, phân tích, khái quát, biện luận đúng - sai về logic, nghĩa là kết hợp
với năng lực, tư duy và biểu đạt. “Đọc” là một hoạt động của con người, dùng mắt để
nhận biết các ký hiệu và chữ viết, sử dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm
truyền đạt đến người nghe, và dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà
mình đã đọc. “Hiểu” là trả lời được các câu hỏi Cái gì? Như thế nào? Làm thế nào?,
tức là phát hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng nào đó và ý
nghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu còn là sự bao quát được nội dung và có thể vận dụng
vào đời sống.

Việc ra đề cho phần thi trắc nghiệm đọc hiểu cần phải dựa trên điều kiện phát
triển năng lực trí tuệ của người học từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Vì vậy

35
trong quá trình học tập, trước tiên người học phải thuộc những kiến thức cơ bản, đó là
nền tảng vững vàng để có thể phát triển năng lực đọc hiểu một cách linh hoạt hơn.

Thực tiễn cho thấy nếu người học chưa nắm vững kiến thức trong quá trình quá
trình học dễ bị nhầm lẫn, mất điểm ở dạng câu hỏi này. Mỗi đoạn văn có thể tương
ứng với 3 câu hỏi trắc nghiệm nhằm phân hóa sinh viên với các mức độ nhận thức như
phải nhớ, hiểu, phân tích và vận dụng mới có thể trả lời các câu hỏi dạng này. Câu hỏi
dễ nhất điểm có thể đạt được là 0.5 điểm, câu khó hơn điểm là 0.75 điểm, câu khó nhất
là 1.0 điểm. Để có thể tiết kiệm được thời gian làm bài, người học nên đọc lướt qua hết
các đề bài để xác định câu dễ, câu khó. Câu nào dễ hoặc quen thuộc thì làm trước, câu
nào khó thì suy nghĩ sau nếu còn thời gian. Tuyệt đối không bỏ trống câu hỏi nào vì
mỗi câu hỏi có 4 đáp án chúng ta đều có 25% xác suất trả lời đúng cho mỗi câu.

Đối với đề thi đọc hiểu, những câu hỏi khó, yêu cầu sinh viên cần sử dụng
phương pháp loại trừ đáp án. Nếu được phép thì hãy đánh dấu chỗ sai hay bổ sung
những phần cần thiết vào phương án đó để chỉ rõ vì sao nó sai. Hãy kiểm tra tính đúng
sai của mỗi phương án bằng cách này, nó có thể giảm bớt các lựa chọn và tiến đến lựa
chọn chính xác nhất. Nếu như cả hai đáp án cuối đều có vẻ đúng thì hãy so sánh xem
chúng khác nhau ở điểm gì, rồi dựa vào câu gốc ở đề bài để xem phương án nào phù
hợp nhất.

Dạng đề đọc hiểu yêu cầu sinh viên cần đọc kĩ đề, chia nhỏ từng đoạn để phân
tích nội dung nhưng tuyệt đối phải đọc cho hết để tránh bị bởi các câu hỏi gây nhiễu để
chọn đáp án không đúng.

Trong dạng đề thi đọc hiểu này thì việc luyện đề rất quan trọng, giúp sinh viên
có thể kiểm tra lại được kiến thức của mình. Từ đó, sẽ thấy được mình chắc kiến thức
đến đâu, còn hổng chỗ nào, có kế hoạch ôn tập để bổ sung kiến thức kịp thời giúp rèn
luyện kĩ năng, tốc độ làm bài. Luyện đề cũng là một cách để tái hiện, hệ thống lại tất
cả các kiến thức mình có, sinh viên được “va chạm” với nhiều đề thi cũng như các câu
hỏi có trong đề, một trong những nền tảng giúp sinh viên tự tin hơn khi làm bài thi
thật.

36
Quan trọng hơn cả, sinh viên sẽ thấy được những lỗi sai mà mình hay mắc phải
để kịp thời sửa chữa. Trong trường hợp tiêu đề chính là phần nói lên thông tin cốt lõi
của toàn văn bản. Vì vậy, sinh viên nên chú ý đọc kỹ và phân tích tiêu đề để hiểu được
thông điệp, mục đích chính mà văn bản đang đề cập tới, xác định chính xác trọng tâm
của đề để tiết kiệm thời gian và định hướng cho toàn bộ nhận thức của bạn cho các
đoạn trong bài.

Trong hầu hết các bài thi đọc hiểu, sinh viên thường được yêu cầu đọc một
đoạn văn hay trích đoạn mà đề cho để xác định được ý chính của đề, đây là kỹ năng
cần rèn luyện trong khi đọc để đảm bảo sinh viên có thể suy luận, sâu chuỗi thông tin
từ những đặc điểm có trong văn bản sau đó chọn chính xác câu trả lời đề cho để có
điểm.

2.2.3 Yêu cầu đặt ra cho sinh viên đôi vơi dạng đề thi Tự luân:

Kiểm tra đánh giá với dạng đề tự luận là phương pháp giảng viên thiết kế các
dạng câu hỏi vận dụng, phân tích, liên hệ trách nhiệm bản thân người học. Để làm
được dạng đề kiểm tra này, sinh viên cần nắm vững các kiến thức trong sách và thực
tiễn cuộc sống, đưa ra quan điểm, trách nhiệm của bản thân để trả lời câu câu hỏi. Bởi
dạng đề này giúp cho giảng viên dễ dàng đánh giá năng lực vận dụng, phân tích những
kiến thức đã học vào việc giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội của sinh viên,
thông qua việc trả lời câu hỏi tự luận gắn liền giữa kiến thức môn học với thực tế.

Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh từ giảng viên, sách vở chưa đủ mà phải
luôn gắn với quá trình tự học, tự nghiên cứu. Chính vì thế, năm học 2020 - 2021,
trường Đại học Sài Gòn đã có sự đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá đối với học
phần tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể là đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá theo định
hướng tiếp cận năng lực người học, với ba dạng đề gồm: Trắc nghiệm, đọc-hiểu, tự
luận. Riêng với dạng đề tự luận đặt ra những yêu cầu sinh viên phải liên hệ bản thân
gắn liền với thực tiễn cuộc sống, điều đó sẽ giúp sinh viên có nhận thức sâu sắc hơn
những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội theo đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước.

37
Ví dụ về dạng đề thi tự luận của học phần tư tưởng Hồ Chí Minh: Trả lời ngắn
gọn (khoảng 250 từ) câu hỏi dưới đây:

Câu 1: "Anh/chị hãy chỉ ra một biểu hiện trong thực tế của tình trạng suy thoái
về đạo đức của cán bộ (thông qua tư liệu báo chí trong nước). nêu nguyên nhân của
tình trạng đó.

Câu 2: Vì sao trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải
nhấn mạnh nguồn lực con người. Hãy phân tích những hạn chế của nguồn nhân lực
nước ta hiện nay. Liên hệ thực tế nguồn nhân lực của ngành Anh/Chị đang theo học.

Đối với dạng này sinh viên cần đảm bảo đúng yêu cầu về hình thức và bố cục
gồm ba phần: mở bài, thân bài và kết luận.

Trong đó, Mở bài là phần mà sinh viên cần phải dẫn dắt vào vấn đề một cách tự
nhiên, tránh gò bó, tạo cảm giác khó hiểu cho người đọc, mở bài sáng tạo, tự nhiên,
dẫn dắt người đọc vào vấn đề được đặt ra, sẽ giúp sinh viên chiếm được điểm tối đa
của phần này.

Thân bài, đây là phần yêu cầu sinh viên trình bày nội dung của vấn đề có thể là
nhắc lại nội dung đã học và phân tích, đưa ra quan điểm của bản thân, chứng minh về
vấn đề đó. Đây là “xương sống” của bài luận trong dạng đề kiểm tra tự luận, chính vì
thế sinh viên cần chú trọng trong việc làm bài, phải biết cách vận dụng kiến thức để
giải quyết những vấn đề của đề bài đặt ra.

Kết bài, phần khép lại một bài luận. Yêu cầu của phần là những kiến
thức ngoài giáo trình như: Đưa ra biện pháp, nhận xét, đánh giá từ đó rút ra bài học.

Để chuẩn bị tốt cho bài kiểm tra, sinh viên cần chuẩn bị tâm lý sẵn sàng, tự tin.
Khi làm bài cần cố gắng phân loại yêu cầu của câu hỏi. Sau đó phân tích, diễn giải và
lập luận một cách rõ ràng ngắn gọn nhất. Trước tiên sinh viên lập dàn ý, ý chính cần
phần tích để tránh lạc đề, lan man, dài dòng không đúng trọng tâm câu hỏi. Vạch ra
những ý chính trong đầu, nếu không thể nhớ hết thì viết ra giấy trước khi viết vào bài.
Sinh viên phải phân bổ thời gian hợp lý để trả lời đầy đủ ý mở bài, thân bài, kết bài.

38
Sinh viên viết đúng trọng tâm, không dài dòng, ngắn gọn xúc tích. Nếu trả lời dài dòng
thì vừa thiếu chính xác, lan man, lạc đề và sẽ không kịp thời gian để hoàn thành các
câu khác.

Việc đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá phần nào làm thay đổi thái độ học tập
của sinh viên từ không cần học cũng qua môn vì đề mở chỉ cần chép trong giáo trình
sang thái độ học tập tích cực hơn với môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh. Dạng đề kiểm
tra tự luận đã đặt ra những yêu cầu mà sinh viên muốn hoàn thành tốt bài kiểm tra phải
tự tìm kiếm, trau dồi vốn hiểu biết để liên hệ thực tiễn. Tóm tắt các thông tin phù hợp
với năng lực học bài của bản thân. Tránh viết nhiều nhưng không hiểu, không học
thuộc nỗi. Nắm bắt được nhiều thông tin thực chính xác nhất để có ví dụ liên hệ thực
tiễn.

2.3. Tác động của việc đổi mới kiêm tra đánh giá đối với thái độ hoc tập
môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.3.1. Tac đông tích cực:

Đánh giá kết quả học tập của sinh viên và nội dung, phương pháp dạy - học có
mối quan hệ thống nhất hữu cơ với nhau của quá trình dạy học. Trong đó, đổi mới nội
dung, phương pháp dạy - học và phương thức đánh giá kết quả học tập cũng có mối
quan hệ thống nhất, biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát
triển. Thông qua hoạt động đổi mới kiểm tra đánh giá đã có những tác động tích cực
đối với thái độ học tập của sinh viên Trường Đại học Sài Gòn.

Việc đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá học phần tư tưởng Hồ Chí Minh
đã tác động đến thái độ học tập của sinh viên một cách rõ nét hơn. Cụ thể: hiện tượng
sinh viên lơ là, học đối phó đã giảm đi đáng kể. Sinh viên đã có sự chú tâm hơn vào
học phần tư tưởng Hồ Chí Minh mà trước đây được coi là học phần phụ, học qua loa
cũng có thể qua môn. Hiện tượng sinh viên không theo dõi bài học, ngồi bấm điện
thoại hoặc làm việc riêng trong giờ học hầu như không còn phổ biến như trước. Hiện
tượng đi trễ, bỏ học đã giảm đi đáng kể. Thay vào đó, sinh viên đã biết lắng nghe vào
bài giảng hơn, ghi chép đầy đủ nội dung bài học và tích cực thảo luận, trao đổi với
giáo viên cũng như với các bạn trong lớp. Sinh viên đã tận dụng vào mạng internet để
39
trao đổi, tìm kiếm thông tin, trau dồi thêm vốn hiểu biết liên quan đến môn học. Việc
kiểm tra, đánh giá theo phương pháp mới, vừa kiểm tra được kiến thức, vừa kiểm tra
kĩ năng vận dụng, thực hành của sinh viên và đặc biệt quan tâm đến khả năng độc lập,
tư duy, sáng tạo của sinh viên. Việc đổi mới kiểm tra, đánh giá không chỉ tác động tích
cực cho việc đổi mới phương pháp dạy học mà còn khiến sinh viên phải đổi mới cả
cách học. Sinh viên chủ động, tích cực, sáng tạo trong lĩnh hội tri thức. Việc đổi mới
kiểm tra, đánh giá đã kích thích sự tìm tòi, sáng tạo, độc lập, hứng thú của sinh viên
trong học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh.

Sinh viên tuân thủ việc nghiên cứu giáo trình và soạn bài trước khi đến lớp. Đối với
những vấn đề thảo luận mà giảng viên yêu cầu, sinh viên soạn dưới dạng một đề
cương. Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên có cách cảm nhận
tinh tế và độc lập mà không bị áp đặt bởi giảng viên hay giáo trình. Qua đó, sinh viên
có được vốn kiến thức phong phú về tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời rèn luyện được
kỹ năng phân tích và nắm bắt tư tưởng. Sinh viên tự biểu hiện, tự đánh giá, khuyến
khích sự hợp tác cộng đồng trong học tập, tạo nên tinh thần thi đua trong học tập, tăng
tình cảm yêu thích môn học tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước khi đến lớp, sinh viên đã
biết đọc giáo trình, nghiên cứu tài liệu để xác định mục tiêu của bài học đó, tóm tắt
được nội dung cơ bản, biết đặt ra các câu hỏi, rút ra ý nghĩa và giá trị của các tư tưởng,
luận điểm của Người. Cùng với đó, giảng viên cũng tập trung vào bài giảng, không
còn tình trạng tập trung vào việc trình chiếu mà chuyển sang quá trình tổ chức dạy học
tích cực, phát huy tính năng động, sáng tạo của sinh viên.

Chính vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh đã tạo
ra sự năng động, tích cực, chủ động, sáng tạo cho người học, để học có thể dễ dàng,
nhanh chóng tiếp thu nội dung, tạo nên sự hào hứng, phấn khởi trong học tập. Việc đổi
mới dạy học trong các trường đại học nói chung và đối với bộ môn tư tưởng Hồ Chí
Minh nói riêng đóng vai trò rất quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo, giúp người
học chuyển từ cách học bị động sang cách học chủ động.

40
2.3.2. Tac đông tiêu cực:

Bên cạnh những tác động tích cực, việc đổi mới kiểm tra, đánh giá đối học phần
tư tưởng Hồ Chí Minh còn tồn đọng những ảnh hưởng tiêu cực đến sinh viên như:

Vẫn còn hiện trạng một số sinh viên chưa có thái độ học tập thật sự nghiêm túc.
Các sinh viên trong lớp đa số sẽ làm việc riêng như chơi điện thoại hay nói chuyện với
các bạn học khác thậm chí là cúp học hay đi học trễ vẫn còn thường xuyên diễn ra vì
trên giảng đường đại học thì môn học tư tưởng Hồ Chí Minh được gọi là môn chung
nên các lớp đều rất đông sinh viên. Dựa vào điều đó giảng viên sẽ không thể chú ý đến
tất cả sinh viên khi đang thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và truyền đạt kiến thức của
mình cho sinh viên.

Việc đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá đặt cho sinh viên nhiều yêu cầu
không chỉ về mặt kiến thức mà còn cả kĩ năng trong quá trình học tập. Sinh viên cần
phải nắm rõ toàn bộ những kiến thức của cả học phần để từ đó làm tư liệu cho các câu
hỏi thực tiễn. Do đó sẽ hình thành cho sinh viên thái độ lo lắng, căng thẳng trước kì thi
khi khối lượng kiến thức quá lớn đối với các sinh viên chưa có kĩ năng học tập. Khi
sinh viên cảm thấy lo lắng trong thời gian ôn tập và trong lúc thi, khiến cho sinh viên
về mặt tâm lý không vững vàng trong phòng thi. Mặt tiêu cực này ảnh hưởng đến
những sinh viên không nắm vững những lý thuyết cơ bản, kĩ năng về phân tích, đánh
giá, sáng tạo có nhiều thiếu sót, hoạt động ôn tập không kỹ càng, không đáp ứng được
những yêu cầu mà đề thi đặt ra, dẫn đến thái độ không lo lắng trước dạng đề thi này.
Nếu trước đây kiểm tra đánh giá bằng hình thức đề mở tạo cho sinh viên cảm giác an
tâm, chắc chắn khi được mang tài liệu vào phòng thi, đòi hỏi sinh viên chỉ cần ghi chú
những nội dung được giảng dạy sẽ dễ kiếm được điểm cao ở bài thi. Thì sau khi đổi
mới, đề thi kiểm tra, đánh giá là dạng đề đóng kết hợp trắc nghiệm thì cũng tạo cho
sinh viên tâm thế lo lắng, bất an khi không được đem tài liệu vào phòng thi. Có thể
thấy, thông qua việc đổi mới kiểm tra đánh giá có tác động không nhỏ đến tâm lý của
sinh viên.

Trong đề thi kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người học, dạng
câu hỏi trắc nghiệm khách quan và dạng câu hỏi đọc hiểu có bốn câu trả lời để sinh
41
viên lựa chọn. Từ việc có sẵn những câu trả lời làm dễ hình thành cho sinh viên thói
quen đánh lụi, do có đến 25% cơ hội khoanh được đáp án đúng, vì vậy mà sinh viên
không có thái độ ôn tập nghiêm túc khi học những kiến thức cơ bản của môn học. Từ
đó, sinh viên cũng hình thành tư tưởng nhớ mặt chữ ở các kiến thức cơ bản mà không
hiểu ý nghĩa của câu trả lời đó. mà không tìm hiểu sâu hơn, mở rộng ở các kiến thức
đó bởi chỉ cần nhớ những từ ngữ cốt lõi có liên quan với nhau thì sẽ dễ dàng tìm ra
được đáp án. Có thể thấy ở dạng thức trắc nghiệm khách quan và đọc hiểu làm thái độ
học tập của sinh viên trở nên tiêu cực đi khi ôn tập những kiến thức môn học.

Đối với dạng câu hỏi tự luận, các loại câu hỏi theo chủ đề sẽ được các thầy cô
giảng trong quá trình dạy học, sinh viên dễ hình thành thói quen học tủ, hoặc viết theo
cảm nhận chủ quan mà không bám sát vào nội dung đã học và không áp dụng những
nội dung đó vào thực tiễn. Ngoài ra việc kiểm tra, đánh giá đề đóng cũng gây trong
một bộ phận sinh viên thực trạng mang tài liệu vào phòng thi. Mặc dù việc đổi mới về
cơ bản đánh giá được năng lực của sinh viên nhưng nhìn chung những thực trạng như:
lơ là trong giờ học, lối suy nghĩ “môn chung không cần học”, thụ động của phương
thức kiểm tra cũ vẫn còn tồn đọng tàn dư trong quá trình học tập của sinh viên nói
chung.

Chính vì điều đó đã tạo ra sự chênh lệch giữa các đối tượng sinh viên, đi ngược
với bản chất của hoạt động kiểm tra, đánh giá. Đối với các sinh viên hiểu được tầm
quan trọng của môn học sẽ hình thành thái độ học tập tích cực bằng việc xác định đúng
mục đích học tập, nắm vững các kiến thức cơ bản về học phần môn tư tưởng Hồ Chí
Minh đồng thời áp dụng được vào thực tiễn, song song đó là tự hoàn thiện, trau dồi các
kỹ năng của bản thân về kỹ năng phân tích, đánh giá, kết luận, sáng tạo,... trong quá
trình học tập. Bên cạnh đó là các sinh viên với mục đích học tập chưa cao, chưa thực
sự chú tâm vào môn học, còn tồn tại lối suy nghĩ “học môn chung không cần thiết” sẽ
có thái độ học tập không tốt thể hiện qua việc không chú tâm trong giờ học, không tập
trung trau dồi, bổ sung các kĩ năng cần có trong quá trình học tập,... Thực tiễn thái độ
học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên trường Đại học Sài Gòn sau đổi mới
kiểm tra, đánh giá sẽ được nhóm nghiên cứu làm rõ hơn ở chương tiếp theo.

42
2.4. Tổng quan mức độ quan trong của hoc phần tư tưởng Hồ Chí Minh
đối với sinh viên trường Đại hoc Sài Gòn
2.4.1. Tổng quan mức đô quan trong cua hoc phần tư tương Hồ Chí Minh
đôi vơi sinh viên ơ cac nhóm nganh

Nhằm đánh giá khách quan về thái độ học tập của sinh viên đã và đang học
môn tư tưởng Hồ Chí Minh, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 120 sinh viên
thuộc tất cả các nhóm ngành của trường đại học Sài Gòn. Cụ thể nhóm nghiên cứu đã
tiến hành bao quát ở 4 nhóm ngành chính bao gồm nhóm ngành sư phạm; nhóm ngành
khoa học tự nhiên và kĩ thuật công nghệ; nhóm ngành kinh tế - Quản trị kinh doanh;
nhóm ngành khoa học xã hội nhân văn và du lịch.

Từ những nhóm ngành trên, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng sinh viên có
những góc nhìn khác nhau về mức độ quan trọng của môn học đối với bản thân sinh
viên. Cụ thể như sau:

Biểu đồ 2. Biểu đồ tỉ lệ số lượng sinh viên thực hiện khảo sát ở các nhóm ngành

Đối với học phần tư tưởng Hồ Chí Minh vì đây là môn học bắt buộc ở tất cả các
nhóm ngành, vì vậy mà sinh viên ở tất cả các nhóm ngành đều chiếm tỉ lệ khá đồng
đều. Tỉ lệ khảo sát ý kiến của sinh viên đã và đang học tập học phần tư tưởng Hồ Chí
Minh ở nhóm ngành kinh tế - Quản trị kinh doanh chiếm tỷ lệ cao nhất trong khảo sát
đạt 34,3%; nhóm ngành sư phạm chiếm 21.2%, nhóm ngành khoa học tự nhiên và kỹ
thuật công nghệ chiếm 28.3%; nhóm ngành khoa học xã hội nhân văn và du lịch chiếm

43
16.2%. Từ những số liệu trên, có thể nói môn tư tưởng Hồ Chí Minh là môn học đều
được các sinh viên từ các nhóm ngành khác nhau tiếp cận và học tập.

Căn cứ vào khảo sát, nhóm nhận thấy đối với sinh viên tùy thuộc vào mỗi nhóm
ngành khác nhau thì sẽ có những góc nhìn khác nhau về môn học. Từ đó nhóm nghiên
cứu đã tiến hành lấy ý kiến quan điểm của sinh viên về tầm quan trọng của môn tư
tưởng Hồ Chí Minh ở 5 mức độ bao gồm hoàn toàn không quan trọng; không quan
trọng; bình thường; quan trọng; rất quan trọng. Sau đây là biểu đồ về mức độ quan
trọng của môn tư tưởng Hồ Chí Minh nhóm nghiên cứu đã thu thập được.

Bi
ểu đồ 3. Biểu đồ về việc đánh giá mức độ quan trọng học phần tư tưởng Hồ Chí Minh
của sinh viên.

Đối với sinh viên trường đại học Sài Gòn, học phần tư tưởng Hồ Chí Minh
được sinh viên chú trọng, điều này được thể hiện qua khảo sát nhóm thu thập được từ
120 sinh viên đã và đang học môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ khảo sát, có tới 21.4%
sinh viên nhận thấy môn tư tưởng Hồ Chí Minh rất quan trọng, và 55,3 % tỷ lệ sinh
viên nhận thấy môn học quan trọng đối với họ. Số lượng sinh viên nhận thức được tầm
quan trọng của môn học này chiếm hơn một nửa số lượng sinh viên mà chúng tôi khảo
sát. Từ đó thấy được, đây là tín hiệu tích cực sau đổi mới phương thức kiểm tra, đánh
giá trong thái độ học tập của sinh viên đối với môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, môn
học có một vị trí nhất định trong tư tưởng của sinh viên. Đa phần sinh viên thấy môn
học rất quan trọng hoặc rất quan trọng đến từ sinh viên thuộc nhóm ngành sư phạm,
nhóm ngành khoa học xã hội nhân văn và du lịch do tính chất ngành học liên quan đến

44
các khoa học xã hội nên việc hiểu được tầm quan trọng của môn tư tưởng Hồ Chí
Minh nói riêng và các môn lí luận nói chung ở trường Đại học Sài Gòn.

Tuy là chiếm vị trí cao, nhưng vẫn có tới 22.3% sinh viên nhận thấy đây chỉ là
môn học bình thường, không chiếm vị trí quan trọng. Đa phần sinh viên nhận thấy
môn học bình thường thuộc nhóm ngành khoa học tự nhiên và nhóm ngành kinh tế do
đặc thù về tính chất của ngành ít liên quan đến những vấn đề về lý luận chính trị, tư
tưởng xã hội còn hạn chế, do đó sinh viên thuộc các nhóm ngành này ít nhận thấy
được tầm quan trọng của học phần tư tưởng Hồ Chí Minh và các học phần môn chung
khác nói chung. Ngoài ra, có 1% sinh viên cảm thấy môn học không quan trọng, đây là
một biểu hiện tiêu cực trong thái độ học tập của sinh viên. Nhìn chung về việc đánh
giá mức độ quan trọng của học phần tư tưởng Hồ Chí Minh sau kiểm tra, đánh giá
ngoài những sinh viên cảm thấy môn học quan trọng thì vẫn có một số ít bộ phận sinh
viên không xem trọng môn học. Đây cũng là một thực tiễn của sinh viên ở Trường Đại
học Sài Gòn đối với môn tư tưởng Hồ Chí Minh.

Từ khảo sát trên cho thấy mỗi sinh viên từ những ngành khác nhau đều có quan
điểm khác nhau về tầm quan trọng của môn học, từ đó có thể thấy tùy từng nhóm
ngành mà sinh viên có mức độ lo lắng khác nhau. Nắm bắt được điều đó, nhóm nghiên
cứu đã tiến hành khảo sát ý kiến của sinh viên về mức độ lo lắng đối với việc đáp ứng
bài thi môn Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm 5 mức độ: hoàn toàn không lo lắng;
không lo lắng; bình thường; khá lo lắng; rất lo lắng. Dưới đây là biểu đồ thể hiện mức
độ lo lắng của sinh viên đối với việc đáp ứng bài thi môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
thông qua khảo sát thực tế.

45
Biểu đồ 4. Biểu đồ về mức độ lo lắng của sinh viên đối với việc đáp ứng bài thi
môn tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đối với đa số những sinh viên Trường Đại học Sài Gòn từ các nhóm ngành
khác nhau được khảo sát, có thể nhận thấy được hơn một nửa số phần trăm trong tổng
121 sinh viên từng nhóm ngành khác nhau làm khảo sát đánh giá mức độ lo lắng đối
với việc đáp ứng bài thi môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở mức độ khá lo lắng, từ đó thấy
được hơn một nửa những sinh viên làm khảo sát đều cảm thấy chưa tự tin về khả năng
làm bài thi của mình dưới tác động của việc đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá
chuyển từ tự luận đề mở sang tự luận đề đóng kết hợp trắc nghiệm khách quan.

Từ khảo sát, nhóm nghiên cứu nhận thấy được tổng quan sinh viên có sự lo lắng
khi hình thức kiểm tra được đổi mới theo hướng tiếp cận năng lực người học đòi hỏi
sinh viên ở mức độ học tập cao hơn. Tỉ lệ sinh viên cảm thấy khá lo lắng trong việc
đáp ứng bài thi môn tư tưởng Hồ Chí Minh có tỉ lệ cao nhất, tỉ lệ chiếm đến gần nửa số
sinh viên được khảo sát là 48,5% và có 10,7% là rất lo lắng khi đánh giá mức độ lo
lắng của bạn đối với việc đáp ứng bài thi môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Gần nửa số sinh
viên cảm thấy bình thường việc kiểm tra đánh giá mới là 35,9%, điều này cho thấy
sinh viên có thái độ học tập tích cực để đáp ứng được bài thi môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh. và một số ít là 4,9% tổng số sinh viên không cảm thấy lo lắng về việc này, có
thể thấy những sinh viên không lo lắng về phương thức kiểm tra đánh giá mới này một
phần là vì môn học không quan trọng và ảnh hưởng nhiều tới điểm số như các khối có
môn học là môn chuyên ngành

46
Kết quả khảo sát ở bảng trên cho thấy dường như số sinh viên để ý đến kết quả
học tập của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh là khá cao, còn nhiều lo lắng về việc đáp
ứng được yêu cầu của bài thi. Điều đó cũng chỉ ra được sinh viên có thái độ học tập
khá tích cực và coi trọng môn học này so với các môn học đề mở khác.

2.4.2. Tổng quan mức đô quan trong cua hoc phần tư tương Hồ Chí Minh
đôi vơi sinh viên thuôc cac nhóm đôi tượng

Sinh viên các Trường Đại học nói chung và sinh viên đại học Sài Gòn nói riêng,
thông thường có nhận thức tốt về tầm quan trọng của môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhằm đánh giá khách quan về thái độ học tập của sinh viên đã và đang học môn tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 120 sinh viên thuộc nhóm
đối tượng đã và đang học môn tư tưởng Hồ Chí Minh tại trường Đại học Sài Gòn. Từ
những nhóm đối tượng khác nhau, sinh viên có những góc nhìn khác nhau về mức độ
quan trọng của môn học đối với bản thân sinh viên. Cụ thể như sau:

Biểu đồ 5. Biểu đồ về tỉ lệ nhóm đối tượng tham gia khảo sát

Theo như khảo sát, Phần trăm đã học xong môn tư tưởng Hồ Chí Minh chiếm tỉ
lệ 56.9%, cho thấy thực tiễn tại trường đại học Sài Gòn thì sinh viên đã được học qua
học phần tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, tỷ lệ sinh viên đang học môn tư tưởng Hồ
Chí Minh cũng chiếm tỉ lệ phần trăm đáng kể là 43.1%. Từ những số liệu trên, thấy
được sinh viên quan tâm đến môn học này, và thông thường thì sinh viên năm 2,3 đa
phần đã và đang học môn tư tưởng Hồ Chí Minh tại trường đại học Sài Gòn. Từ đó,
thấy được tầm quan trọng của môn học đối với sinh viên của trường đại học Sài Gòn.
47
Sinh viên từ những nhóm đối tượng khác nhau, có những góc nhìn khác nhau
về phương thức kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực người học. Cụ thể như
sau:

Thứ nhất, các nhóm đối tượng đánh giá độ khó của dạng thức trắc nghiệm
khách quan trong đề thi đánh giá năng lực môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Rất Dễ Bình Khó Rất


dễ thường khó

Nhóm đối tượng đã học xong môn tư 0% 13.4% 65.6% 17.9% 2.9%
tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm đối tượng đang học môn Tư 0% 3.7% 61.2% 29.6% 5.5%
tưởng Hồ Chí Minh

Bảng 1. Bảng so sánh đánh giá của sinh viên thuộc nhóm đối tượng đã và đang học
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dạng thức trắc nghiệm khách quan

Đối với dạng thức trắc nghiệm khách quan, nhóm đối tượng đã học xong môn
tư tưởng Hồ Chí Minh đánh giá trắc nghiệm khách quan ở mức độ dễ chiếm 13.4% từ
đó thấy được một bộ phận sinh viên cảm thấy dạng thức này tương tương đối phù hợp
với năng lực người học. Trong khi nhóm đối tượng đang học môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh đánh giá dạng thức này ở mức độ dễ chỉ chiếm 3.7%. Từ đó cho thấy nhóm đối
tượng đang học đánh giá cao dạng thức này vì phải ôn tập bao quát kiến thức ở phạm
vi rộng, khối lượng kiến thức lớn. Ở cả hai nhóm đối tượng, phần lớn sinh viên đều
đánh giá dạng thức này ở mức bình thường, điều đó cho thấy được ở dạng thức trắc
nghiệm khách quan phù hợp với năng lực ghi nhớ, nhận biết của sinh viên, đánh giá
đúng năng lực của sinh viên. Có khoảng 17.9% ở nhóm đối tượng đã học xong môn tư
tưởng Hồ Chí Minh đánh giá mức độ khó và 2.9% đánh giá ở mức độ rất khó. Cho
thấy được sinh viên vẫn thấy được ở trắc nghiệm khách quan có độ khó nhất định
nhằm phân hóa sinh viên.

48
Đối với nhóm đối tượng đang học môn tư tưởng Hồ Chí Minh có 29.6% đánh
giá dạng thứ ở mức độ khó và 5.5% đánh giá ở mức độ rất khó. Từ số liệu nêu trên, có
thể thấy sự chênh lệch so với nhóm đối tượng đã học xong môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh. Từ đó thấy được nhóm đối tượng đang học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh khi
chưa trải qua dạng thức trắc nghiệm khác quan ở kì thi cuối kì, nhưng đã được trải qua
ở kiểm tra giữa kì, thì phần trăm đánh giá dạng thức này khá khó khi phải ôn tập bao
quát kiến thức của chương trình học.

Đối với sinh viên đã học xong môn tư tưởng thấy được dạng đề này không quá
khó để ôn tập và làm bài. Từ hai nhóm đối tượng khác nhau cũng đã thấy được góc
nhìn của hai nhóm đối tượng này có sự khác nhau đồng thời cũng có những nét tương
đồng.

Thứ hai, các nhóm đối tượng đánh giá độ khó của dạng thức trắc nghiệm đọc
hiểu trong đề thi đánh giá năng lực môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Rất Dễ Bình Khó Rất


dễ thường khó

Nhóm đối tượng đã học xong môn tư 0% 4.4% 37.7% 38.5% 8.9%
tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm đối tượng đang học môn Tư tưởng 0% 3.7% 53.7% 33.3% 9.2%
Hồ Chí Minh

Bảng 2. Bảng so sánh đánh giá của sinh viên thuộc nhóm đối tượng đã và đang học
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dạng thức đọc hiểu

Đối với dạng thức trắc nghiệm đọc hiểu, nhóm đối tượng đã học xong môn tư
tưởng Hồ Chí Minh đánh giá trắc nghiệm đọc hiểu ở mức độ dễ chỉ chiếm 4.4% từ đó
thấy được một bộ phận sinh viên cảm thấy dạng thức này không quá khó đối với năng
lực người học. Trong khi nhóm đối tượng đang học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đánh
giá dạng thức này ở mức độ dễ chỉ chiếm 3.7%. Từ đó cho thấy nhóm đối tượng đang
học cũng cảm thấy khó với dạng thức này vì phải ôn tập bao quát kiến thức ở phạm vi
49
rộng, khối lượng kiến thức lớn, không riêng đó ở dạng thức đọc hiểu người học phải
tìm ra được từ khóa và suy ra được câu trả lời.

Xét theo nhóm đối tượng đã học xong môn tư tưởng Hồ Chí Minh nhiều hơn
nhóm đối tượng đang học môn tư tưởng Hồ Chí Minh thì bảng khảo sát mức độ cảm
thấy bình thường của người học đối với dạng thức đọc hiểu gần như bằng nhau, điều
này thể hiện được dạng thức trắc nghiệm đọc hiểu khá phù hợp với sự tiếp thu và phân
tích đề của thí sinh. Còn lại là nhóm đối tượng được khảo sát cảm thấy khó hoặc rất
khó ở hai nhóm đối tượng chiếm gần một nửa. Từ kết quả số liệu được thu thập trên
bảng khảo sát, ta thấy được nhóm đối tượng đang học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh khi
chưa trải qua dạng thức trắc nghiệm khác quan ở kì thi cuối kì, nhưng đã được trải qua
ở kiểm tra giữa kì, thì phần trăm đánh giá dạng thức này khá khó khi phải ôn tập bao
quát kiến thức của chương trình học và đối với sinh viên đã học xong môn tư tưởng
thấy được dạng đề này quá khó để ôn tập và làm bài. Từ hai nhóm đối tượng khác
nhau cũng đã thấy được góc nhìn của hai nhóm đối tượng này đều cảm thấy khó khăn
đối với dạng đề vừa phải học và suy luận thêm các kiến thức chuyên sâu hơn.

Nhóm nghiên cứu tiến hành mã hóa và phân tích thu được kết quả đánh giá độ
khó của dạng thức đọc hiểu ở nhóm đối tượng đã học xong môn tư tưởng. Bình quân ở
nhóm đối tưởng này là 2.8, đối chiếu ở bảng trên thì tổng thể giữ ở mức độ trung bình
đa số sinh viên đánh giá dạng thức này phù hợp với năng lực người học.

Thứ ba, các nhóm đối tượng đánh giá độ khó của dạng thức trắc nghiệm đọc
hiểu trong đề thi đánh giá năng lực môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Rất Dễ Bình Khó Rất


dễ thường khó

Nhóm đối tượng đã học xong môn tư 1.4% 17.3% 49.2% 30.5% 1.6%
tưởng Hồ Chí Minh

Nhóm đối tượng đang học môn Tư 0% 18.5% 44.4% 33.3% 5.8%
tưởng Hồ Chí Minh

50
Bảng 3. Bảng so sánh đánh giá của sinh viên thuộc nhóm đối tượng đã và đang học
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dạng thức tự luận

Đối với dạng thức trắc nghiệm tự luận, nhóm đối tượng đã học xong môn tư
tưởng Hồ Chí Minh đánh giá tự luận ở mức độ rất dễ chiếm 1.4% và dễ chiếm 17.3%
từ đó thấy được một bộ phận sinh viên cảm thấy dạng thức này tương đối phù hợp với
năng lực người học. Trong khi nhóm đối tượng đang học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
đánh giá dạng thức này ở mức độ dễ chỉ chiếm 18.5%. Đối với ở dạng đề thức này,
được sinh viên đánh giá dễ hơn so với hai dạng thức trên.

Ở cả hai nhóm đối tượng, phần lớn sinh viên đều đánh giá dạng thức này ở mức
bình thường, điều đó cho thấy được ở dạng thức tự luận phù hợp với năng lực vận
dụng, sáng tạo, nhận thức của sinh viên, đánh giá đúng năng lực của sinh viên. Có
30.5% ở nhóm đối tượng đã học xong môn tư tưởng Hồ Chí Minh đánh giá mức độ
khó và 1.6% đánh giá ở mức độ rất khó. Cho thấy được một phần không nhỏ sinh viên
đánh giá độ khó của câu tự luận có mức độ phân hóa cao, từ đó làm thay đổi tích cực
thái độ học tập của sinh viên đối với môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đối với nhóm đối tượng đang học môn tư tưởng Hồ Chí Minh có 33.3% đánh
giá dạng thức ở mức độ khó và 5.8% đánh giá ở mức độ rất khó. Từ số liệu nêu trên,
có thể thấy đối với nhóm đối tượng đang môn tư tưởng Hồ Chí Minh không có sự
chênh lệch quá nhiều so với nhóm đối tượng đã học xong môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ đó thấy được hai nhóm đối tượng đang học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đều đánh
giá độ khó của dạng thức này ở mức độ khi chưa trải qua dạng thức trắc nghiệm ở kì
thi cuối kì, nhưng đã được trải qua ở kiểm tra giữa kì, thì phần trăm đánh giá dạng
thức này khá khó khi phải ôn tập bao quát kiến thức của chương trình học.

Đối với sinh viên đã học xong môn tư tưởng thấy được dạng đề này không quá
khó để ôn tập và làm bài. Từ hai nhóm đối tượng khác nhau cũng đã thấy được góc
nhìn của hai nhóm đối tượng này có sự khác nhau đồng thời cũng có những nét tương
đồng. Từ đó cho thấy nhóm đối tượng đang học đánh giá cao dạng thức này vì không
được đem tài liệu vào phòng thi mà phải học thuộc ở nhà từ đó gây ra khó khăn cho
sinh viên.
51
Tổng quan đánh giá về ba dạng thức đề thi của môn tư tưởng Hồ Chí Minh, phù
hợp với năng lực của sinh viên. Sinh viên đã học xong môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
khi được trải qua ôn tập và thi cuối kì, nên có cảm nhận phương thức kiểm tra đánh giá
có độ phân hóa cao, vừa sức với năng lực của sinh viên, nhìn nhận tích cực hơn đối với
từng dạng thức trong đề thi. Đối với nhóm sinh viên đang học tập môn tư tưởng Hồ
Chí Minh vì chưa được trải qua thi cuối kì nên có tâm trạng lo lắng nên cảm thấy
phương thức kiểm tra đánh giá khá khó đối với năng lực của sinh viên.

2.5. Thái độ hoc tập của sinh viên giưa môn tư tưởng Hồ Chí Minh so với
nhưng môn đề mở khác.

Mỗi sinh viên hiện nay đều có những quan điểm riêng đối với từng môn học và
từng dạng đề thi khác nhau. Nhằm để đánh giá về độ khó của dạng đề thi của môn tư
tưởng Hồ Chí Minh sau đổi mới phương thức kiểm tra so với các dạng đề thi của các
môn chung có hình thức thi đề mở khác. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát sinh
viên thuộc các nhóm ngành khác nhau của Trường đại học Sài Gòn đánh giá về độ khó
của môn tư tưởng Hồ Chí Minh sau đổi mới với dạng đề thi các môn lí luận khác như
Triết học Mác Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Cụ
thể ở 3 mức độ bao gồm: khó hơn; tương đương và dễ hơn.

Biểu đồ 6. Biểu đồ so sánh độ khó của dạng đề thi môn tư tưởng Hồ Chí Minh
so với dạng đề thi của các môn Triết học Mác Lênin, Kinh tế chính trị Mác – Lênin và
Chủ nghĩa xã hội khoa học

52
Thông qua biểu đồ đã khảo sát, có tới 45.1% tỉ lệ sinh viên nhận thấy dạng đề thi
môn tư tưởng Hồ Chí Minh khó hơn các môn Triết học Mác Lênin, Kinh tế Chính trị
Mác Lênin. Điều này cho thấy sinh viên đánh giá phương thức kiểm tra mới của môn
Tư tưởng Hồ Chí Minh có độ phân hóa cao, không cao bằng như những môn khác là
đề mở, từ đó điểm số phản ánh đúng năng lực người học. Điều này làm thúc đẩy nhận
thức của sinh viên về việc đáp ứng các yêu cầu của dạng đề đổi mới qua đó hình thành
thái độ học tập tốt hơn. Ngoài ra, vẫn còn 43.1% tỉ lệ sinh viên nhận thấy dạng đề thi
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh tương đương các môn khác. Có thể thấy ngoài đa số các
bạn sinh viên nhận thấy dạng đề mới khó hơn thì vẫn có những sinh viên cảm thấy độ
khó của 2 đề tương đương nhau. Như vậy thể hiện việc đổi mới phương thức kiểm tra,
đánh giá về tổng quan vẫn phù hợp với năng lực của sinh viên trong quá trình học tập.

Những số liệu thu thập được qua khảo sát, nhóm nghiên cứu quy ước cụ thể
như sau: Rất thường xuyên = 1, thường xuyên = 2, Trung bình = 3, Không thường
xuyên = 4, Rất không thường xuyên = 5. Tính theo thang điểm từ 1 đến 5 trong đó 5 là
điểm cao nhất và 1 là điểm thấp nhất. Tiến hành mã hóa và phân tích thu được kết quả
đánh giá giữa hoạt động học tập của sinh viên đối với môn tư tưởng Hồ Chí Minh so
với các môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học
xã hội được thể hiện thông qua biểu đồ dưới đây:

53
Biểu đồ 7. Biểu đồ tương quan mức độ trong hoạt động học tập của sinh viên ở môn tư
tưởng Hồ Chí Minh với môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ
nghĩa khoa học xã hội.

Trong quá trình học tập, sinh viên nghỉ học ở môn Tư tưởng Hồ Chí Minh có
giá trị trung bình là 4.6, môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin,
Chủ nghĩa khoa học xã hội là 4. Từ giá trị trung bình nêu trên, có thể thấy môn tư
tưởng Hồ Chí Minh tỉ lệ nghiêng về mức độ nghỉ học rất không thường xuyên, sinh
viên ít nghĩ học hơn , từ đó thấy được sinh viên thay đổi được chuyên cần, đến lớp đều,
ít xảy ra tình trạng nghỉ học nhiều. Còn đối với môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế
chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội tình trạng nghỉ học dễ ra ở mức
không thường xuyên. Từ những phân tích trên, có thể nói phương pháp kiểm tra đánh
giá đã một phần thay đổi thái độ học tập của sinh viên.

Trong quá trình học tập, tập trung nghe bài giảng của môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh có giá trị trung bình là 2.4, môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác -
Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội là 2.7. Từ giá trị trung bình nêu trên, có thể thấy
môn tư tưởng Hồ Chí Minh tỉ lệ nghiêng về mức độ tập trung nghe bài giảng thường
xuyên, sinh viên lắng nghe giảng viên, từ đó thấy được sinh viên thay đổi được khả
năng tích cực, tư duy sáng tạo, kĩ năng lắng nghe, tượng tưởng. Còn đối với môn Triết
học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội tình trạng
tập trung nghe bài giảng dễ ra ở mức độ bình thường, sinh viên vẫn lắng nghe thầy cô
giảng nhưng thường không tập trung vào nội dung bài học. Từ những phân tích trên,
có thể nói phương pháp kiểm tra đánh giá đã một phần thay đổi thái độ học tập của
sinh viên từ tính thụ động sang tính tư duy tích cực.

Trong quá trình học tập, ghi chép cẩn thận kiến thức do giảng viên trình bày
trên bảng của môn tư tưởng hồ chí minh có giá trị trung bình là 2.3, môn Triết học
Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội là 3.8. Từ giá
trị trung bình nêu trên, có thể thấy môn tư tưởng Hồ Chí Minh tỉ lệ nghiêng về mức độ
ghi chép cẩn thận kiến thức do giảng viên trình bày ở mức bình thường, sinh viên ghi
chép cẩn thận kiến thức do giảng viên trình bày, từ đó thấy được sinh viên thay đổi

54
được khả năng ghi chép, đọc hiểu, hình thành cho sinh viên hệ thống nội dung bài học,
nắm được những ý chính của môn học, kĩ năng lắng nghe, sơ đồ tư duy, tượng tưởng.

Còn đối với môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ
nghĩa khoa học xã hội ghi chép cẩn thận kiến thức do giảng viên trình bày ở mức độ
không thường xuyên, sinh viên thông thường ở các môn đề mở, sinh viên với tâm lí đề
mở nên thường sẽ không ghi chép lại bài giảng mà sẽ gạch những ý chính trong giáo
trình. Vì vậy mà tổng quan sinh viên ở những môn học này không thường xuyên ghi
chép hoặc ghi chép sơ qua những kiến thức mà giảng viên trình bày. Từ những phân
tích trên, có thể nói phương pháp kiểm tra đánh giá đã một phần thay đổi thái độ học
tập của sinh viên từ hướng thụ động tiếp thu hoặc không tiếp thu kiến thu sang hướng
tập trung ghi chép tăng kĩ năng hệ thống bài học, kĩ năng trình bày, sơ đồ hóa kiến
thức đã học.

Trong quá trình học tập, tham gia phát biểu, trao đổi với giảng viên của môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh có giá trị trung bình là 4.1, môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế
chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội là 4. Từ giá trị trung bình nêu trên,
có thể thấy môn tư tưởng Hồ Chí Minh và môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính
trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội đều có tỉ lệ nghiêng về mức độ tham gia
phát biểu, trao đổi với giảng viên không thường xuyên. Từ những giá trị trên cho thấy
rằng, tuy đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá nhưng tỉ lệ sinh viên không trao đổi
và phát biểu vẫn chiếm đa số trong tổng số sinh viên tham gia khảo sát. Có thể thấy,
phương pháp kiểm tra đánh giá theo hướng pháp triển năng lực người học vẫn chưa
khắc phục được hoạt động học tập tham gia phát biểu, trao đổi với giảng viên. Những
phân tích trên, có thể nói phương pháp kiểm tra đánh giá vẫn chưa thay đổi được nhiều
thái độ học tập của sinh viên ở hoạt động học tập này, từ đó cho thầy vẫn còn một bộ
phận sinh viên vẫn còn thụ động tiếp thu kiến thức.

Nhìn vào dữ liệu trong quá trình học tập thì hoạt động tìm tư liệu để làm bài tập
thảo luận do giáo viên giao ở học phần tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị trung bình là
4.2 tức ở mức độ không thường xuyên và ở các môn học khác là 3.9 tức ở mức độ bình
thường. Như vậy khi so sánh đối chiếu có thể thấy mặc dù sự chênh lệch tỷ lệ không

55
quá lớn, tuy nhiên việc đổi mới kiểm tra đánh giá đặt ra yêu cầu cho sinh viên cần hoạt
động tích cực trong quá trình học tập song đối với môn tư tưởng Hồ Chí Minh sinh
viên vẫn không thường xuyên tìm nguồn tư liệu. Nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch
do việc môn học tư tưởng Hồ Chí Minh sau đổi mới là tự luận đề đóng dẫn đến sinh
viên có tư duy chỉ học các kiến thức giáo trình thầy cô đưa ra mà hạn chế chủ động tìm
các nguồn tài liệu khác khi làm các bài tập thảo luận do giáo viên giao.

Đối với các môn lí luận khác thì sinh viên tìm tư liệu có tỉ lệ cao hơn do các
môn vẫn đang áp dụng hình thức tự luận đề mở dẫn đến sinh viên cần phải tìm nhiều
nguồn tài liệu để làm tư liệu mang theo khi đi thi và làm bài tập thảo luận.

Đối với hoạt động sử dụng điện thoại, nói chuyện riêng ở học phần Tư tưởng
Hồ Chí Minh có giá trị trung bình là 4.1 tức ở mức độ không thường xuyên và các
môn học khác là 2.3 thuộc mức độ thường xuyên. Từ giá trị trung bình nêu trên, có thể
thấy môn tư tưởng Hồ Chí Minh tỉ lệ nghiêng về mức độ sử dụng điện thoại, nói
chuyện riêng không thường xuyên, sinh viên lắng nghe giảng viên, không làm việc
riêng trong giờ học từ đó thấy được sinh viên thay đổi được khả năng tích cực, tập
trung, kĩ năng lắng nghe. Còn đối với môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị
Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội tình trạng tập trung nghe bài giảng dễ ra ở
mức độ thường xuyên, có thể thấy đa phần sinh viên không tập trung vào nội dung bài
học mà giảng viên trình bày, nguyên nhân dẫn đến là do đề mở đã có sẵn trong giáo
trình. Từ những phân tích trên, có thể nói phương pháp kiểm tra đánh giá đã một phần
thay đổi thái độ học tập của sinh viên từ không tập trung theo dõi nội dung bài học
thay đổi thành tập trung theo dõi nội dung bài học, hệ thống kiến thức.

Đối với hoạt động học bài của môn học khác, của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
có giá trị trung bình là 4.4, môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin,
Chủ nghĩa khoa học xã hội là 4.6. Từ giá trị trung bình nêu trên, có thể thấy môn tư
tưởng Hồ Chí Minh và môn Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ
nghĩa khoa học xã hội đều có tỉ lệ nghiêng về mức độ học bài của môn học khác không
thường xuyên. Từ những giá trị trên cho thấy rằng, dù ở phương thức kiểm tra đánh
giá nào thì tỉ lệ sinh viên không học bài của môn học khác vẫn chiếm đa số trong tổng

56
số sinh viên tham gia khảo sát. Có thể thấy, phương pháp kiểm tra đánh giá theo
hướng pháp triển năng lực người học vẫn duy trì và phát huy những ưu điểm của
phương thức kiểm tra cũ. Những phân tích trên, có thể nói phương pháp kiểm tra đánh
giá vẫn giữ được những ưu điểm mà phương pháp kiểm tra cũ sẵn có, tiếp tục kế thừa
và phát huy những ưu điểm của phương thức kiểm tra đánh giá cũ.

Đối với hoạt động đọc sách tra cứu tài liệu liên quan đến môn học ở nhà, của
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị trung bình là 4.1, môn Triết học Mác - Lênin,
Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội là 3.6. Từ giá trị trung bình
nêu trên, có thể thấy môn tư tưởng Hồ Chí Minh và môn Triết học Mác - Lênin, Kinh
tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội đều có tỉ lệ nghiêng về mức độ
đọc sách tra cứu tài liệu liên quan đến môn học ở nhà không thường xuyên. Từ những
giá trị trên cho thấy rằng, tùy đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá nhưng tỉ lệ sinh
viên không đọc sách tra cứu tài liệu liên quan đến môn học ở nhà vẫn chiếm đa số
trong tổng số sinh viên tham gia khảo sát. Có thể thấy, phương pháp kiểm tra đánh giá
theo hướng pháp triển năng lực người học vẫn chưa khắc phục được hoạt động học tập
đọc sách tra cứu tài liệu liên quan đến môn học ở nhà. Những phân tích trên, có thể nói
phương pháp kiểm tra đánh giá vẫn chưa thay đổi được nhiều thái độ học tập của sinh
viên ở hoạt động học tập này, từ đó cho thầy vẫn còn một bộ phận sinh viên vẫn còn
thụ động tiếp thu kiến thức.

Từ phân tích kết quả khảo sát có thể thấy hoạt động học tập của sinh viên đối ở
môn học tư tưởng Hồ Chí Minh so với các môn học lí luận khác như Triết học Mác -
Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội có chiều hướng tích
cực hơn. Qua đó có thể thấy được khi các môn lí luận khác còn áp dụng phương thức
kiểm tra, đánh giá theo hướng tự luận đề mở thì tình trạng sinh viên có thái độ học tập
chưa tích cực còn chiếm tỷ lệ cao bởi tâm lý chung “không học cũng có điểm” đã hình
thành từ rất lâu. Tuy nhiên khi so sánh với hoạt động học tập của môn tư tưởng Hồ Chí
Minh sau đổi mới thì thái độ của sinh viên đã có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực
hơn, các hoạt động học tập tích cực như nghe giảng, ghi chép cẩn thận, tham gia phát
biểu, tìm tư liệu, đọc sách, tra cứu tài liệu đã được diễn ra với tần số thường xuyên hơn,

57
các hoạt động như nghỉ học, sử dụng điện thoại trong lớp, học bài môn khác đã có
chiều hướng giảm hơn.

Nhìn chung hoạt động học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh sau đổi mới đã có
chiều hướng tích cực hơn so với các môn lí luận chính trị như Triết học Mác - Lênin,
Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa khoa học xã hội khi hiện vẫn còn giữ phương
thức kiểm tra đánh giá cũ, đây chính là dấu hiệu tích cực khi áp dụng phương thức
kiểm tra, đánh giá mới ở học phần tư tưởng Hồ Chí Minh với định hướng tiếp cận
năng lực người học.

58
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua khảo sát cho thấy, các môn lí luận chính trị nói chung, học phần tư tưởng
Hồ Chí Minh nói riêng đều là những môn học bắt buộc, có ý nghĩa quan trọng đối với
việc nâng cao năng lực nhận thức, năng lực tư duy, hình thành các phẩm chất đạo đức
cách mạng, việc học tập lý luận chính trị không những giúp cho sinh viên có sự hiểu
biết sâu sắc, đầy đủ, toàn diện hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước mà còn củng cố
tinh thần yêu nước, bản lĩnh chính trị, ý thức giai cấp và có niềm tin vững chắc vào sự
lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Mặc dù qua quá trình khảo sát nhiều sinh viên trả lời cho biết là môn học này quan
trọng, nhưng trên thực tế cho thấy, việc học tập của sinh viên vẫn còn nhiều vấn đề cần
phải xem xét nghiêm túc. Cụ thể như: vẫn còn một số ít sinh viên chưa nhận thức đầy
đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học lý luận chính trị; chưa coi trọng việc đầu tư
thời gian công sức học tập, nghiên cứu; chưa xác định tốt động cơ, mục đích học tập;
tinh thần ý thức học tập chưa cao; chấp hành nội quy, quy chế học tập chưa thật
nghiêm túc, đặc thù các môn lý luận chính trị có tính trừu tượng, lại nặng về lý thuyết
hàn lâm, làm cho sinh viên ngại học càng trở nên “nản” các môn lí luận chính trị.
Chính vì vậy, mỗi sinh viên cần phải nâng cao ý thức và có phương pháp tốt trong học
tập các học phần lí luận chính trị nói chung, học phần tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng
một cách hiệu quả.
Mỗi sinh viên cần có nhận thức đúng về ý nghĩa và tầm quan trọng của các môn
lí luận chính trị, nhận thức sâu sắc lời giáo huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: do “kém
về lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông, nhiều cán bộ, đảng viên của ta mắc
phải bệnh chủ quan, gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử lý
cho khéo, không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào
làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”(Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 6, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, trang 208), Từ đó có ý thức, tinh thần động cơ thái độ học tập đúng
đắn.
Kiểm tra đánh giá bằng dạng thức đề thi tự luận, đề mở là người học trong kì thì
được phép mang tài liệu vào phòng thi để chép mà không bị giám thị đánh dấu bài.
59
Đối với dạng kiểm tra đánh giá đề mở này đã không còn xa lạ gì đối với sinh viên ở
các trường đại học hay trung cấp, nhất là đối với các môn về lý luận chính trị có lượng
kiến thức sâu rộng và trừu tượng. Để đạt được điểm tối đa của phần thi này người học
khi làm bài thì phải có khả năng tư duy, phát triển trí thông minh là giúp lập luận được
logic và sắc bén nhưng dù không làm được điều đó người học chỉ cần nêu được các ý
chính hay khái niệm cơ bản thì vẫn đạt đủ điểm qua môn. Với đề thi dạng thức tự luận
mở thì bất cứ người học nào cũng có thể làm được bài dù có học bài hay không, điều
quan trọng ở đây chỉ là phần bài thi được điểm cao hay thấp.
Ngoài ra với tâm lý chung khi đi thì mà người học được phép sử dụng tài liệu thì
vô tình đã tạo ra sự ỷ lại vào giáo trình vì trong đó đã tổng hợp đủ lượng kiến thức.
Chính lối suy nghĩ không có trách nhiệm, thái độ thiếu nghiêm túc và không cố gắng
trong quá trình học tập như vậy người học đã tự tạo cho mình những lỗ hổng kiến thức
và không đảm bảo được lượng kiến thức đọng lại như yêu cầu của chương trình học vì
người học đã không nghe giảng khi lên lớp hoặc không ghi chép đầy đủ, do đó có thể
bỏ qua rất nhiều điểm quan trọng mà trong quá trình giảng giáo viên thường nhấn
mạnh, đòi hỏi sinh viên cần lưu ý.
Việc đổi mới kiểm tra, đánh giá đã đem lại những tác động tích cực đến sinh
viên trong quá trình học tập, đồng thời cũng là một trong những biện pháp giúp sinh
viên cải thiện hơn trong hoạt động hoạt động. Đầu tiên khi nhắc đến môn học Tư
Tưởng Hồ Chí Minh, thì đa phần sinh viên sẽ quan niệm là khô khan, trừu tượng, khó
hiểu và phần lớn gây ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên đối với môn học này là kiểm
tra tự luận đề mở, vì là đề mở nên sinh viên không cần học quá nhiều, đến kì kiểm tra
chỉ cần mở giáo trình ra chép thì cũng có điểm. Và yêu cầu đặt ra, để thay đổi thái độ
học tập của sinh viên thì cần phải đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá. Năm học
2020-2021 nhà Trường đã bắt đầu áp dụng hình thức kiểm tra mới đối với học phần
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kiểm tra dạng tự luận ( đề đóng) kết hợp trắc nghiệm.
Qua khảo sát trên, chúng ta có thể khẳng định “ Việc đổi mới kiểm tra, đánh giá
đem lại thái độ học tập tích cực cho sinh viên”. Điều đó được thể hiện qua thái độ học
tập của sinh viên khi đến lớp đúng giờ, hạn chế việc nghĩ học, trong giờ học thì lắng
nghe giảng viên giảng bài, sinh viên ghi chép bài một cách khoa học, tích cực hơn
trong hoạt động trao đổi, thảo luận nhóm. Bên cạnh đó, cũng tác động đến thái độ học

60
tập của sinh viên khi ở nhà như: Chủ động làm bài, soạn bài trước khi đến lớp, có
phương pháp học tập phù hợp với năng lực của bản thân. Đặc biệt sau khi đổi mới,
phần lớn sinh viên đều ôn bài trước khi kiểm tra, lập sơ đồ tư duy để thuận tiện cho
việc ôn bài, chủ động cập nhật tin tức về chính trị, xã hội để nâng cao trình độ nhận
thức của bản thân
Qua khảo sát, phần lớn sinh viên đều có thái độ tích cực về hình thức kiểm tra,
đánh giá mới. Phần lớn làm thay đổi quan niệm của sinh viên về môn học là không còn
khô khan, khó hiểu nữa mà chính là do chưa tìm được phương pháp học tập phù hợp
và chưa chú tâm tìm hiểu nội dung của môn học này. Sau khi đổi mới, kiểm tra sinh
viên có chú tâm trong quá trình học cũng như đặt nhiều kỳ vọng về điểm số của môn
này so với trước khi đổi mới là “Chỉ cần qua môn”. Dù chỉ đổi mới về mặt hình thức
kiểm tra nhưng giúp sinh viên thay đổi nhận thức về quá trình xây dựng Tư tưởng Hồ
Chí Minh, cũng như những đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vê xây dựng
và bảo vệ đất nước.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đôi vơi nha trường
Căn cứ vào kết quả thu được từ khảo sát của đề tài có thể thấy việc đổi mới
phương thức kiểm tra, đánh giá học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có sự tác động
đến thái độ học tập của sinh viên theo chiều hướng tích cực. Sinh viên có sự nhìn nhận
khách quan hơn về ý nghĩa của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng và các môn
lý luận chính trị nói chung từ đó hình thành tư duy cải thiện hoạt động học tập để đáp
ứng được các yêu cầu của phương thức bài thi mới. Do đó việc áp dụng phương thức
bài thi mới của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh là điều vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng
được yêu cầu dạy học theo hướng phát triển năng lực người học và kiểm tra, đánh giá
theo hướng tiếp cận năng lực người học. Bởi đề kiểm tra theo hướng tiếp cận năng lực
người học đã khắc phục được những hạn chế của các dạng bài thi trước, đòi hỏi sinh
viên trong quá trình học tập phải tham gia học tập tích cực, chủ động, hình thành được
động cơ học tập tích cực cho sinh viên.
Có thể nói phương thức kiểm tra, đánh giá mới ở học phần môn tư tưởng Hồ
Chí Minh là bước phát triển quan trọng, có tác động không nhỏ đến quá trình giảng
dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và các môn lí luận khác nói riêng như Triết
61
học Mác - Lênin; Kinh tế chính trị Mác - Lênin; Chủ nghĩa khoa học xã hội. Việc giữ
vững và hoàn thiện, đa dạng hóa bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan, câu hỏi trắc
nghiệm đọc hiểu và câu hỏi bám sát các vấn đề thực tiễn hiện nay là điều vô cùng cần
thiết trong quá trình áp dụng bài thi mới. Bởi đây sẽ là nền tảng đầu tiên cho việc đổi
mới phương thức kiểm tra, đánh giá ở các môn lí luận chính trị khác và các môn học
chuyên ngành.
Nhóm nghiên cứu đề xuất về ý tưởng trong việc áp dụng mở rộng dạng kiểm tra,
đánh giá mới vào các môn học lí luận chính trị còn lại và các môn học chuyên ngành
khoa học xã hội. Bởi các môn thuộc khối khoa học xã hội đều có lượng kiến thức rất
lớn, lý thuyết hàn lâm nên việc áp dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá mới giúp sinh
viên hình thành khả năng vận dụng kiến thức, áp dụng các kiến thức đã học vào những
tình huống phát sinh trong thực tiễn. Điều này có ý nghĩa lớn đối với việc nâng cao
chất lượng các môn lí luận chính trị nói riêng và chất lượng đào tạo của trường Đại
học Sài Gòn nói chung.
3.2.2. Đôi vơi giảng viên
Đổi mới lớn nhất của nền giáo dục Việt Nam những năm gần đây là việc tập
trung dạy học theo hướng phát triển năng lực cho người học. Thay vì việc đặt trọng
tâm vào việc “người học sẽ tiếp thu được những kiến thức gì”, thì hiện nay đã đổi
thành cần đặt trọng tâm vào việc “người học sẽ vận dụng những kiến thức thức như thế
nào vào thực tiễn”. Vì đặt trọng tâm vào việc người học được đặt trong vai trò làm chủ
buổi học giúp người học tự giải quyết vấn đề thực tế từ các tình huống nên giảng viên
chỉ cần thể hiện vai trò cố vấn, hỗ trợ khi người học gặp khó khăn. Tuy có nhiều ưu
điểm đối với người học và các giảng viên trẻ khi được tiếp cận với phương pháp này
từ sớm nhưng đối với các giáo viên lâu năm cũng như có nhiều kinh nghiệm thì sự
thay đổi cách tiếp cận nội dung giảng dạy khiến giáo viên gặp nhiều khó khăn vì đã
quen với phương pháp truyền thống. Và vẫn còn nhiều giáo viên chưa hiểu rõ các
phương pháp, mô hình dạy học hiện đại, gặp khó khăn trong lúc triển khai. Nhưng
không vì thế mà phương pháp đổi mới cách dạy học bị bác bỏ mà từ những khó khăn
đó thì người giảng dạy càng phải nỗ lực hơn, có động lực đổi mới, nhiệt tình, tâm
huyết với nghề để người học tiếp thu kiến thức một cách toàn diện nhất. Ngoài việc
học tập, trau dồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, GV phải nắm chắc các kĩ thuật dạy

62
học tích cực. Ví dụ như Trường Tiểu học Kim Đồng, xã Thượng Yên Công là trường
học vùng sâu của TP Uông Bí với 58.7% HS dân tộc thiểu số. Nhà trường còn nhiều
khó khăn về đội ngũ khi thừa, thiếu GV cục bộ, không đồng đều về cơ cấu chuyên
môn. Để khắc phục những hạn chế đó, nhiều GV trong trường đã chủ động, sáng tạo
trong sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát triển năng lực cho HS. Bên
cạnh đó, thầy cô nên học thêm và biết cách sử dụng các thiết bị công nghệ, tận dụng
tối đa thiết bị dạy học đa phương tiện, dành nhiều thời gian cho việc soạn bài và chuẩn
bị giáo án trước khi đến lớp.
Tiếp tục đẩy mạnh nâng cao năng lực tự học của sinh viên. Để nâng cao năng lực tự
học cho sinh viên, trước hết sinh viên cần rèn luyện khả năng tự học. Sinh viên cần xác định
được thời gian học tập một cách hợp lý, khoa học, có ý chí hoàn thành kế hoạch đã đề ra, có
phương pháp học tập khoa học trên lớp, biết cách trao đổi những vấn đề còn thắc mắc với bạn,
với giáo viên. Giảng viên có thể hướng dẫn sinh viên cách lập kế hoạch học tập trên cơ sở lập
đề cương môn học, có phương pháp tự học ở nhà phù hợp với năng lực, sở trường của các em.
Ngoài ra, giảng viên cần quan tâm, khuyến khích sinh viên phát huy năng lực tự học, tự
nghiên cứu của mình. Xác định động cơ học tập đúng đắn sẽ giúp sinh viên có thái độ học tập
tích cực đối với các học phần tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng và các học phần lí luận chính
trị nói chung.
Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh từ giảng viên, sách vở chưa đủ mà phải luôn gắn
với quá trình tự học, tự nghiên cứu thực tiễn. Với đặc thù của môn học Tư tưởng Hồ Chí
Minh là những đường lối, chính sách của Đảng, chính vì thế không chỉ dựa vào giáo trình mà
giảng viên cần phải liên tục trau dồi thêm vốn hiểu biết, nắm bắt nhiều thông tin thực tiễn để
truyền đạt cho sinh viên. Để kiểm tra đánh giá tiếp cận năng lực người học, giảng viên cần
phải yêu cầu sinh viên vận dụng, phân tích những kiến thức đã học vào việc giải quyết những
vấn đề thực tiễn xã hội của sinh viên, gắn liền giữa kiến thức môn học với thực tế. Điều đó sẽ
giúp sinh viên vừa phát huy được tính chủ động sáng tạo, tạo môi trường học tập thoải mái,
vừa có nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội theo đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
3.2.3. Đôi vơi sinh viên
Với hình thức kiểm tra mới, những yêu cầu đặt ra cho sinh viên như: hạn chế
việc đi trể, nghĩ học, sinh viên cần hoàn thành các bài tập về nhà cũng như là tích cực
trong hoạt động thảo luận nhóm, nắm được những kiến thức cơ bản của môn học Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Rèn luyện các kỹ năng lập luận, phân tích vấn đề. Có kiến thức
63
về các vấn đề, biết cách vận dụng, sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn.
Sinh viên cần có phương pháp tư duy mới trong học tập, nghiên cứu, đồng thời nhận
diện các tình huống thực tiễn.
Để đạt được kết quả học tập tốt. Sinh viên cần có thái độ tích cực khi tham gia
hoạt động trên lớp chẳng hạn như: Sinh viên xây dựng, phát biểu trao đổi bài trên lớp
với giảng viên, chép bài một cách hệ thống sẽ giúp sinh viên dễ nắm bài hơn so với
việc chỉ chép tràn lan, không có mục đích. Quá trình dạy giảng viên thường sẽ đặt ra
các câu hỏi để sinh viên thảo luận, đây là lúc sinh viên cần tập trung tìm kiếm câu trả
lời để có thể nắm rõ bài ngay khi trên lớp. Khi về nhà, sinh viên chỉ cần đọc lại những
ý chính để tổng hợp lại nội dung kiến thức đã học trên lớp.
Với hình thức kiểm tra mới là dạng kiểm tra tự luận ( đề đóng ) kết hợp trắc
nghiệm thì khi vào phòng kiểm tra. Sinh viên không được mang bất kì tài liệu ôn tập
vào phòng thi. Cả quá trình làm bài sinh viên cần hệ thống lại các kiến thức đã học kết
hợp với những vấn đề thực tiễn để làm bài. Khi làm bài sinh viên nên đọc kĩ đề bài,
yêu cầu của câu hỏi, trả lời đúng trọng tâm, không viết lan man sẽ dễ bị mất điểm. Đối
với các câu hỏi tự luận, sinh viên cần đảm bảo đủ bố cục 3 phần và lấy những ví dụ
minh hoạ có thật, được đăng trên các tin, báo thời sự, không nên lấy những ví dụ minh
hoạ không có thật.
Để học tập tốt, không phải chỉ cần đi học đầy đủ và lắng nghe giảng viên giảng
bài mà còn phụ thuộc rất nhiều vào tinh thần tự học, tự tìm tòi, nổ lực của bản thân
trong quá học tập. Khi đọc giáo trình, không phải chỉ đọc suông, đọc cho có, mà sinh
viên cần chọn lọc, vận dụng để hiểu rõ hơn. Kiến thức của môn học không chỉ nằm
trong giáo trình mà có rất nhiều ở bên ngoài xã hội, chính vì thế bản thân sinh viên
phải luôn tự nổ lực học hỏi, tìm tòi các kiến thức bên trong lẫn bên ngoài giáo trình để
đạt được kết quả học tập mong muốn.

64
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Thị Như Quỳnh (2007), “Nghiên cứu thái độ và các yếu tố ảnh hưởng đến
thái độ đối với môn Tâm lý học đại cương của sinh viên trường Đại học Sư
phạm Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học, Khoa Tâm lý học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

2. Nguyễn Đức Hưởng, (1998)“Nghiên cứu thái độ học tập của sinh viên Đại học
An ninh Nhân dân” Luận văn thạc sĩ, tâm lý học, viện KHGD, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Mai Lan, “Thái độ của sinh viên trường cao đẳng sư Phạm Tuyên
Quang đối với tự học”, Tạp chí Tâm lý học. Số 1-2005. Trang 40

4. Lê Ngọc Phương (2005), “Thái độ học tập của sinh viên trường Đại học Sư
phạm kỹ thuật Hưng Yên.

5. Trần Thị Phương Thảo, (2016), “Một số lý luận về thái độ học tập môn Giáo
dục thể chất của sinh viên và các yếu tố ảnh hưởng”.

6. Trần Ngọc Ánh, (2020), “Đánh giá nhận thức, thái độ, hành động về học chế
tín chỉ của sinh viên Trường Đại học Hải Phòng”.

7. Đào Lan Hương, (1998) “Tự đánh giá thái độ học tập môn Toán của sinh viên”,
Tạp chí nghiên cứu giáo dục, Số 3

8. Hoàng Thị Hiền – Hoàng Thị Phương Lan (2021), “Tổng quan các nghiên cứu
về nhân tố ảnh hưởng đến động lực học tập của sinh viên”, Tạp chí Kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương,

9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.10,
tr,377

10. Phạm Thị Hiền - Bộ môn Mác- Lênin, “ Phương pháp học tập tốt học tư
tưởng Hồ Chí Minh”

65
11.Richard Gross (2010), “Psychology: The Science of Mind and Beh
aviour 6th Edition”, Hachette UK,
[https://books.google.com.vn/books?id=Cle1Fcr_6_QC&pg=PT335&redir_
esc=y#v=onepage&q&f=false].

12. Quỳnh Anh (2008), “Niên Luận Thái độ học tập của sinh viên”, Khoa Tâm lý
học, Trường Đại Học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, 01 - 2008.

13. Bùi Thị Thu Phương - Trần Đức Hiếu - Trần Anh Quân (2020), “Những yếu
tố ảnh hưởng đến thái độ học tập của sinh viên trường Đại học Giáo dục -
ĐHQG Hà Nội”, Trường Đại học Giáo dục - ĐHQG Hà Nội, tr.286.

14. Dương Như Xuyên, “Một vài cơ sở tâm lý của việc đào tạo tay nghề sư phạm
trong quy trình đào tạo mới”, Kỷ yếu hội thảo nhân dịp kỉ niệm 30 năm
thành lập Khoa Tâm lý - Giáo dục ĐHSPHN.

15. ThS. Huỳnh Thị Kim Quyên, TS. Phạm Phúc Vĩnh, đề tài “Đổi mới kiểm tra
đánh giá trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng tiếp cận
năng lực người học”, Khoa Giáo dục Chính trị, trường Đại học Sài Gòn.

66
PHỤ LỤC

BẢNG KHẢO SÁT VỀ THÁI ĐỘ HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAU ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ

Câu 1: Bạn là sinh viên thuộc nhóm ngành nào?


Nhóm ngành sư phạm
Nhóm ngành khoa học tự nhiên và kĩ thuật công nghệ
Nhóm ngành kinh tế - Quản trị kinh doanh
Nhóm ngành khoa học xã hội nhân văn và du lịch
Câu 2: Bạn thuộc nhóm đối tượng nào dưới đây
Đang học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đã học xong môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu 3: Quan điêm của bạn về tầm quan trong của môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh
Hoàn toàn không quan trọng
Không quan trọng
Bình thường
Quan trọng
Rất quan trọng
Câu 4: Đánh giá của bạn về độ khó của dạng thức đề thi đánh giá năng lực
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
STT Dạng câu hỏi Rất dễ Dễ Trung Khó Rất khó
bình
1 Trắc nghiệm
khách quan
2 Đọc hiểu
3 Tự luận
Câu 5: Đánh giá của bạn về độ khó của dạng đề thi của môn tư tưởng Hồ
Chí Minh so với dạng đề thi của các môn Triết hoc Mác Lênin, Kinh tế chính trị
Mác – Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa hoc.
Dạng đề thi môn tư tưởng Hồ Chí Minh khó hơn

67
Dạng đề thi môn tư tưởng Hồ Chí Minh tương đương các môn khác
Dạng đề thi môn tư tưởng Hồ Chí Minh dễ hơn
Câu 6: Mức độ lo lắng của bạn đối với việc đáp ứng bài thi môn Tư tưởng
Hồ Chí Minh
Hoàn toàn không lo lắng
Không lo lắng
Bình thường
Khá lo lắng
Rất lo lắng
Câu 7: Trong quá trình học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh, bạn đã thực hiện
các hoạt động dưới đây như thế nào?
Rất
Rất Không
Thường Thỉnh không
STT Hoạt động thường thường
xuyên thoảng thường
xuyên xuyên
xuyên
1 Nghỉ học
2 Tập trung nghe bài giảng
Ghi chép cẩn thận kiến
3 thức do giảng viên trình
bày trên bảng
Tham gia phát biểu, trao
4
đổi với giảng viên
Tìm tư liệu để làm bài
5 tập thảo luận do giảng
viên giao
Sử dụng điện thoại, nói
6
chuyện riêng
Học bài của môn học
7
khác
8 Đọc sách, tra cứu tài liệu

68
liên quan đến môn ở nhà
Câu 8: Trong quá trình học tập các môn Triết hoc Mác Lênin, Kinh tế chính
trị Mác – Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa hoc, bạn đã thực hiện các hoạt động dưới
đây như thế nào?
Rất
Rất Không
Thường Thỉnh không
STT Hoạt động thường thường
xuyên thoảng thường
xuyên xuyên
xuyên
1 Nghỉ học
2 Tập trung nghe bài giảng
Ghi chép cẩn thận kiến
3 thức do giảng viên trình
bày trên bảng
Tham gia phát biểu, trao
4
đổi với giảng viên
Tìm tư liệu để làm bài
5 tập thảo luận do giảng
viên giao
Sử dụng điện thoại, nói
6
chuyện riêng
Học bài của môn học
7
khác
Đọc sách, tra cứu tài liệu
8 liên quan đến môn học ở
nhà

69

You might also like