Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

I.

Các giả thiết sử dụng trong bài báo

1.Phát triển giả thuyết

Các nghiên cứu của Dickason và Ferreira (2018) đã chỉ ra rằng các nhà đầu tư có Mức chịu rủi ro
(RT) thấp thường phải đối mặt với Kế toán nhận thức(MA), và nghiên cứu của Rehan và Umer
(2017) xác định rằng MA có tác động lớn đến Quyết định đầu tư (ID). Hơn nữa, họ cho biết rằng
MA đóng vai trò quan trọng trong ID. Gupta và Ahmad (2016) chỉ ra rằng Quyết định đầu tư(ID)
của các nhà đầu tư có kỹ năng cao có mối liên hệ mạnh mẽ với MA. Anolam và đồng nghiệp
(2015) cho biết MA có ảnh hưởng lớn đến hiệu suất doanh nghiệp. Road và đồng nghiệp (2013)
phát hiện rằng MA có mối liên hệ tiêu cực với ID. Ngoài ra, Nada (2013) phát hiện rằng MA có
ảnh hưởng đáng kể đến ID. Shams và đồng nghiệp (2012) dựa trên lợi nhuận và lỗ, đã điều tra
việc bán cổ phiếu của các nhà đầu tư. Masomi và Ghayekhloo (2012) cho rằng ID được ảnh
hưởng đáng kể bởi MA.

Ishfaq và đồng nghiệp (2017) nghiên cứu rằng sự khả năng chấp nhận rủi ro có mối liên hệ đáng
kể với các yếu tố nhận thức, trong khi Wong và Carducci (2015) khám phá rằng RT có mối quan
hệ trực tiếp và quan trọng với tìm kiếm cảm giác, cũng như mối liên hệ giữa RT. Cavalheiro và
đồng nghiệp (2012) phát hiện ra rằng các heuristics không có mối tương quan đáng kể với RT.
Ngoài ra, các kết quả cho thấy rằng RT liên quan chặt chẽ đến các khía cạnh nhận thức, cảm xúc
và hành vi của ID.

Rasheed và đồng nghiệp (2018) cho biết ELC có mối quan hệ đáng kể với IDM và Ikram (2016)
cho rằng ID có xu hướng bị chi phối bởi sự kiểm soát bên ngoài (ELC). Coleman và Deleire
(2003) tiết lộ rằng quyết định đầu tư (ID) bị ảnh hưởng bởi sự kiểm soát bên trong (ILC).

2.Vai trò trung gian của khả năng chấp nhận rủi ro

Theo Kanagasabai & Aggarwal (2020), họ chỉ ra rằng mối liên hệ giữa học vấn tài chính và hiệu
suất đầu tư được trung gian bởi khả năng chấp nhận rủi ro (RT). Gill và đồng nghiệp (2018) phát
hiện ra rằng mối liên hệ giữa MA và ID được phần nào trung gian bởi phân tích thông tin.
Nguyen và đồng nghiệp (2017) đã thảo luận rằng sự khả năng chấp nhận rủi ro có tác động trực
tiếp đến phân bổ tài sản rủi ro cũng như tác động gián tiếp đến nhận thức về rủi ro. Ngoài ra,
Kannadhasan và đồng nghiệp (2016) đã chỉ ra rằng lòng tự trọng vai trò trung gian đáng kể của
sự khả năng chấp nhận rủi ro

Theo Tavor và Garyn (2016), sự khả năng chấp nhận rủi ro có mối liên hệ đáng kể với các quyết
định đầu tư từ tiết kiệm hưu trí. Wong & Carducci (2015) cho biết nhận thức về sự khả năng
chấp nhận rủi ro đang được cải thiện từng ngày ở các nước phát triển và đang phát triển, bao
gồm cả Úc và Mỹ. Nguyen và đồng nghiệp (2016) cho rằng sự khả năng chấp nhận rủi ro là yếu
tố trung gian giữa phân bổ tài sản rủi ro và kỳ vọng về rủi ro. Chavali và Mohanraj (2016) đã
phát hiện rằng các biến số nhân khẩu học ảnh hưởng đến khả năng chấp nhận rủi ro (RT) và
Quyết định đầu tư(ID). Wasiuzzaman và Edalat (2015) khám phá rằng mạng lưới xã hội có mối
liên hệ đáng kể với sự khả năng chấp nhận rủi ro tài chính thấp. Mahat và đồng nghiệp (2010) đã
nghiên cứu các đặc điểm của các quản lý quỹ và kết quả của họ. RT hiển thị vai trò trung gian
trong mối liên hệ giữa các đặc điểm cá nhân của quản lý quỹ và hiệu quả quỹ.

3. Vai trò điều tiết của kiểm soát bên ngoài

Reknes và đồng nghiệp (2019) báo cáo rằng mối liên hệ giữa tiếp xúc với hành vi bắt nạt và căng
thẳng tâm lý được điều hành đáng kể bởi sự kiểm soát. Rasheed và đồng nghiệp (2018) cho biết
rằng Sự kiểm soát Nội bộ (ILC) không điều hòa một cách đáng kể mối liên hệ giữa các yếu tố
hành vi và Quyết định đầu tư(IDM). Agarwal (2016) phát hiện rằng Sự kiểm soát (LC) là yếu tố
điều hòa quan trọng trong mối quan hệ giữa chính trị tổ chức, cam kết và hành vi sáng tạo. Lee
(2013) báo cáo rằng LC có mối liên hệ đáng kể với xã hội hóa tổ chức và nhận diện tổ chức.
Ozbek và đồng nghiệp (2013) tiết lộ rằng LC điều hòa một cách đáng kể mối quan hệ giữa các
vấn đề đạo đức được nhận thức và ý định đạo đức. Chiuet và đồng nghiệp (2005) cho biết rằng
mối quan hệ giữa căng thẳng công việc của nhân viên bệnh viện và ý định ra đi được điều hòa
một cách đáng kể bởi LC. Lin và Ding (2005) cho thấy các thái độ của nhân viên và ý định tăng
cường sự hòa nhập tổ chức và giảm tỷ lệ ra đi được điều hòa bởi LC.

Dựa trên kết quả của tài liệu hiện tại, được cho là Sự kiểm soát Bên ngoài (ELC) dự kiến sẽ có
tác động điều hòa trong mối quan hệ giữa Kế toán nhận thức(MA) và Quyết định đầu tư(IDM)
thông qua sự khả năng chấp nhận rủi ro (RT).

Do đó, dự kiến rằng: H1: Mối quan hệ giữa Kế toán nhận thức(MA) và Quyết định đầu tư(ID)
được trung gian bởi sự khả năng chấp nhận rủi ro (RT).

Và mối quan hệ với IDM đang thiếu, do đó chúng tôi đưa ra giả thuyết sau: H2: Tác động của
MA đến IDM thông qua RT được điều hòa bởi ELC. Khung nghiên cứu Chúng tôi đã phát triển
khung nghiên cứu khái niệm sau liên quan đến các biến trong nghiên cứu này bao gồm MA,
ELC, RT và IDM.

II. Các phương pháp nghiên cứu trong bài báo

Trong nghiên cứu hiện tại, IDM được sử dụng làm Biến phụ thuộc (DV), MA được sử dụng làm
Biến độc lập (IV), ELC được sử dụng làm biến điều hành, và RT được sử dụng làm biến trung
gian. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là xem xét tác động của MA lên IDM, cũng như vai trò
điều hòa và trung gian của ELC và RT. Chúng tôi đã nhờ sự hỗ trợ của các nhà đầu tư trên Sở
giao dịch chứng khoán Pakistan để đạt được các mục tiêu của nghiên cứu. Chúng tôi phân phối
432 bảng câu hỏi cho các nhà đầu tư PSX, và nhận lại 385 câu trả lời, đều đầy đủ và hoàn thiện
mọi mặt.
Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng ELC là yếu tố cần thiết trong IDM, đặt ra mục tiêu cá nhân
và thúc đẩy người khác. Cụ thể hơn, theo như Kesavayuth và các cộng sự (2018), các nhà đầu tư
có một Sự kiểm soát (LC) phức tạp có xu hướng chấp nhận rủi ro phức tạp khi liên kết với những
nhà đầu tư có LC thấp hơn, bởi vì họ tin tưởng vào hành động của mình và sẵn sàng hơn về
những kết quả trong tương lai. Chúng tôi khẳng định lại rằng ELC đóng vai trò gián tiếp trong
các quyết định của nhà đầu tư PSX dựa trên tuyên bố trên. Do đó, trong nghiên cứu của chúng
tôi, chúng tôi áp dụng quy trình có điều kiện của mô hình điều hòa và trung gian, được định
nghĩa và phát triển bởi Preacher và Hayes (2008).

Dữ liệu nghiên cứu được thu thập thông qua bảng câu hỏi điều chỉnh và sử dụng thang đo Likert
5 điểm.

2.1. Các đo lường

Như đã đề cập trước đó, các đo lường được sử dụng trong phân tích này dựa trên nghiên cứu
trước đó. Chúng tôi đã điều chỉnh sáu mục đo lường MA từ nghiên cứu của Anolam và các cộng
sự (2015), trong khi nghiên cứu của Rotter (1966) được sử dụng để điều chỉnh các mục của ELC,
gồm bảy mục. Kannadhasan và đồng nghiệp (2016) điều chỉnh năm mục để tính toán RT như
một biến trung gian. Ngoài ra, sáu mục của IDM cũng được điều chỉnh từ nghiên cứu của Hunjra
và các cộng sự (2016).

2.2. Mẫu và Thu thập dữ liệu

Đối tượng mẫu của nghiên cứu này là các nhà đầu tư cá nhân tại Sở giao dịch chứng khoán
Pakistan (PSX). Bảng câu hỏi nghiên cứu đã được phân phối với sự trợ giúp của các công ty môi
giới và giao tiếp trực tiếp với các nhà đầu tư cá nhân. Kỹ thuật lấy mẫu thuận tiện được sử dụng
để thu thập dữ liệu từ toàn bộ Pakistan. Tổng cỡ mẫu của nghiên cứu này là 385 nhà đầu tư PSX.
Cỡ mẫu này được lựa chọn dựa trên phương pháp của Cochran, W. G. (1977) và được xác nhận
thông qua việc xem xét các nghiên cứu khác nhau về các chủ đề liên quan trong các tình huống
khác nhau, chẳng hạn như nghiên cứu của Rasheed và các cộng sự (2018) về các phương pháp
định lượng. Trong nghiên cứu này, dữ liệu thu thập về các yếu tố dự báo và điều hành đã được
phân tích một cách định lượng để kiểm tra các giả thuyết nghiên cứu.

You might also like