NHÓM ĐOM ĐÓM CON

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

TRƯỜNG KINH TẾ
---------------------------

TIỂU LUẬN MÔN


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

VỀ VẤN ĐỀ: VAI TRÒ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CON NGƯỜI, CÁ NHÂN VÀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM

Nhóm SVTH:
1. Hồ Quỳnh Minh Châu – 3220
2. Hứa Gia Mẫn – 1324
3. Huỳnh Thị Lệ Hoa – 6625
4. Hồ Gia Huy – 7073
5. Trương Phước – 3826
6. Phạm Xuân Mai – 0319
7. Nguyễn Hùng Khải – 5476
8. Hà Ngọc Anh – 8866
Lớp: POS 351SA

Đà Nẵng, 26 tháng 6 năm 2024


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI, CÁ
NHÂN ................................................................................................................................. 4
1.1. Khái niệm, mục tiêu, chức năng cơ bản của vai trò gia đình đối với sự phát triển
con người cá nhân ........................................................................................................... 4
1.2. Giáo dục gia đình giữ vai trò chủ đạo ........................................................................ 9
1.3. Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò của gia đình trong thời gian tới. ............. 12
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ GIA ĐÌNH TRONG SỰ PHÁT TRIỂN GIA ĐÌNH TRONG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ..................................................................................................... 17
2.1.Khái niệm gia đình. .................................................................................................... 17
2.2.Vị trí của gia đình trong xã hội .................................................................................. 17
2.3.Chức năng cơ bản của gia đình .................................................................................. 19
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 23
MỞ ĐẦU
Gia đình là một nền tảng không thể thiếu đối với sự phát triển của từng cá nhân, con
người. Gia đình là nơi mà ta sinh ra và lớn lên, được nuôi dưỡng, chăm sóc hình thành
nên tính cách, đạo đức, lối sống, lối suy nghĩ, đối nhân xử thế đối mọi người. Mỗi gia đình
được coi là một tế bào của xã hội giúp duy trì nòi giống, cũng như các truyền thống văn
hóa lâu đời mà ông bà, tổ tiên để lại. Vấn đề gia đình ngày càng trở nên phong phú, đa
dạng và cũng phức tạp hơn. Nó có thể đem lại cho con người ta hạnh phúc, yêu thương,
có “nhà” để về và có khi hai chữ “gia đình” lại gieo rắc những bất hạnh, tủi nhục. Chính
vì vậy, gia đình có vai trò rất quan trọng đối với mỗi cá nhân và xã hội. Quá trình xây
dựng gia đình mới xã hội chủ nghĩa cần được thực hiện dựa trên cơ sở kế thừa và tiếp thu
những truyền thống tốt đẹp song song với những tiến bộ của thời đại. Những năm qua
nước ta đã và đang xây dựng gia đình văn hóa đạt được một số thành tựu, bên cạnh những
mặt tích cực vẫn còn tồn tại các mặt hạn chế. Xuất phát từ tình hình thực tế trên, nhóm
em xin được trình bày chủ đề “Vai trò gia đình đối với sự phát triển cá nhân, con người
và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam” để hiểu sâu hơn về chủ đề này.
CHƯƠNG 1:
VAI TRÒ GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI, CÁ NHÂN
1.1. Khái niệm, mục tiêu, chức năng cơ bản của vai trò gia đình đối với sự phát
triển con người cá nhân
1.1.1. Khái niệm
“Gia đình là một tế bào cơ bản và tự nhiên cấu thành nên từng cộng đồng, xã hội.
Gia đình giữ vai trò trung tâm trong đời sống của mỗi con người, là nơi bảo đảm đời sống
vật chất và tinh thần của mỗi cá nhân, là một trong những giá trị xã hội quan trọng bậc
nhất của người Á Đông, trong đó có Việt Nam. Đối với mỗi quốc gia thì gia đình được
coi là ‘một tế bào xã hội có tính sản sinh’. Do vậy sức mạnh trường tồn của quốc gia, dân
tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và phát triển của gia đình”. Đối với sự phát triển của
xã hội trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào, sự vững vàng bền bỉ của nền tảng gia đình
cũng sẽ là yếu tố quyết định đến sự giàu mạnh, thịnh vượng của đất nước. Cho nên, việc
quan tâm coi trọng đến yếu tố gia đình chính là hướng đi đúng đắn cho việc tạo dựng một
xã hội phát triển ổn định và bền vững.
Vì gia đình, nhà trường là nơi có ảnh hưởng trực tiếp tới sự định hình, phát triển nhân
cách của con người và xã hội là nơi thử thách, đánh giá sự trưởng thành của nhân cách đó,
cho nên, mỗi con trẻ/con người nếu có được sự quan tâm đúng mức từ ba môi trường này,
nhất là từ gia đình thì tất yếu sẽ có điều kiện phát triển lành mạnh, hình thành, phát triển
nhân cách tốt.
"Gia đình là kiệt tác của tạo hóa" Trong triết học Mác - Lênin, nhân cách được hiểu
là “những cá nhân con người với tính cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội, chủ thể
của lao động, của sự giao tiếp, của nhận thức, bị quy định bởi những điều kiện lịch sử -
cụ thể của đời sống xã hội”. Nhân cách là bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là
nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân; trong đó, cá nhân là phương thức biểu
hiện của giống loài, còn nhân cách vừa là nội dung vừa là cách thức biểu hiện riêng biệt
của mỗi cá nhân, là đặc trưng xã hội của con người, là “phẩm chất xã hội” của con người.
Do đó, trong môi trường (gia đình, nhà trường, xã hội), thì gia đình và giáo dục gia đình
góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người.
Điều này càng thấy rõ khi chúng ta nhìn nhận đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng của
gia đình trong xã hội hiện nay. Đúng như C.Mác và Ph. Ăngghen, khi đề cập đến gia đình
đã cho rằng: “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử, hàng
ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác,
sinh sôi, nảy nở – đó là quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. Cho
nên yếu tố huyết thống và tình cảm là nét bản chất nhất của gia đình.
Nhưng xét rộng hơn và đầy đủ hơn, gia đình không chỉ là một đơn vị tình cảm – tâm
lý, mà còn là một tổ chức kinh tế – tiêu dùng, một môi trường giáo dục – văn hóa, một cơ
cấu – thiết chế xã hội đặc biệt. Với tất cả những đặc biệt đó, cho thấy gia đình có một vị
trí vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của xã hội nói chung. Gia đình là “tế bào
của xã hội”. Điều này chúng ta luôn luôn khẳng định và dù trong hoàn cảnh nào, xã hội
nào nó vẫn luôn luôn đúng. Nó nói lên mối quan hệ mật thiết giữa gia đình và xã hội, quan
hệ đó giống như sự tương tác hữu cơ của quá trình trao đổi chất, duy trì sự sống của cơ
thể. Xã hội (cơ thể) lành mạnh tạo điều kiện cho các gia đình tiến bộ, gia đình (tế bào)
hạnh phúc góp phần cho sự phát triển hài hòa của xã hội. Trong mối quan hệ ấy, trình độ
phát triển về mọi mặt của xã hội quyết định đến hình thức, tính chất, kết cấu và quy mô
của gia đình.
C.Mác nhiều lần lưu ý rằng: tôn giáo, gia đình, nhà nước, pháp quyền, đạo đức, khoa
học, nghệ thuật…chỉ là những hình thức đặc thù của sản xuất và phục tùng quy luật chung
của sản xuất. Và thực tế cũng cho ta thấy, gia đình lần lượt biến đổi tương ứng với những
giai đoạn phát triển xã hội khác nhau. Gia đình là cầu nối giữa mọi thành viên trong gia
đình với xã hội. Nhiều thông tin về xã hội tác động đến con người thông qua gia đình. Xã
hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về một người khi nhận rõ hoàn cảnh gia đình của
người ấy. Nhiều nội dung quản lý xã hội không chỉ thông qua hoạt động của các thiết chế
xã hội, mà còn thông qua hoạt động của gia đình để tác động đến con người; nghĩa vụ và
quyền lợi xã hội của mỗi người được thực hiện với sự hợp tác chung của các thành viên
trong gia đình. Qua đó ý thức công dân được nâng cao và sự gắn bó giữa gia đình và xã
hội có ý nghĩa thiết thực.
1.1.2. Mục tiêu
Trên tinh thần đó, “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
2030” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 29/5/2012. Chiến lược khẳng định,
gia đình là môi trường quan trọng để hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con
người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, bên cạnh mục tiêu chung: “Xây dựng gia
đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành
mạnh của xã hội”, chiến lược còn đề ra 3 mục tiêu cụ thể, gồm:
+ Mục tiêu 1: Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình và cộng
đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và
gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm
nhập vào gia đình; trong đó, hằng năm, trung bình giảm từ 10 - 15% hộ gia đình có bạo
lực gia đình...
+ Mục tiêu 2: Kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt
Nam; tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển; thực
hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt đối với
trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ; trong đó, phấn đấu đến năm 2020
đạt 95% hộ gia đình dành thời gian chăm sóc, dạy bảo con, cháu, tạo điều kiện cho con,
cháu phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, không phân biệt con,
cháu là trai hay gái...
+ Mục tiêu 3: Nâng cao năng lực của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng phó với
thiên tai và khủng hoảng kinh tế; tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi, đặc biệt đối với
các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận nghèo theo quy định…
Tiếp tục đánh giá vị thế, tầm quan trọng của gia đình với tư cách là nền tảng, tế bào
của xã hội; đồng thời, là môi trường quan trọng trực tiếp giáo dục lối sống con người, hình
thành và phát triển nhân cách con người, giữ vai trò quan trọng trong dân số nước nhà. số
lượng, chất lượng và cơ cấu dân số có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong đó nêu rõ: “Thực
hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp
và xây dựng gia đình giàu có, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Xây dựng mỗi trường học
thực sự là một trung tâm giáo dục văn hóa, đào tạo nhân tài”.
Việc thực hiện chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Ðảng, chiến lược của Chính phủ;
các Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình; Luật Trẻ em ra đời, bổ sung và sửa đổi được thực thi; việc tổ chức thường
niên Ngày hội gia đình 28/6... đã góp phần khắc phục hiện tượng một bộ phận gia đình
“hỏng từ gốc”. Ở những gia đình đó, cha mẹ phạm tội hoặc sa vào tệ nạn; gia đình bỏ mặc,
không quan tâm đến con cái, những gia đình cha mẹ đã mất hoặc bỏ rơi con cái để con trẻ
trở thành trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, lang thang cơ nhỡ; cách giáo dục gia đình không đúng, gây
ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát triển nhân cách, định hướng lối sống của con trẻ, thiết
thực phòng, chống tệ nạn tội phạm, tệ nạn xã hội, lối sống tiêu cực, ích kỷ, thờ ơ vô cảm,
hành xử bạo lực của con người nói chung, con trẻ nói riêng...
1.1.3. Chức năng cơ bản của vai trò gia đình đối với sự phát triển con người cá
nhân
Gia đình là tổ ấm thân yêu đem lại hạnh phúc cho mỗi con người. Trong gia đình,
mỗi cá nhân được đùm bọc về mặt vật chất và giáo dục về tâm hồn; trẻ trong gia đình,
mọi người đều được bảo vệ về vật chất và giáo dục tinh thần; con cái được lớn lên an toàn,
người già được nâng đỡ, người lao động có điều kiện phục hồi sức khỏe và niềm an ủi
thiêng liêng diễn ra hàng ngày giữa vợ chồng và giữa nhau, mối quan hệ cha và con trai.
Anh chị em...cùng chí hướng, đồng cảm, tương trợ nhau và bên nhau suốt cuộc đời. Khi
đó, gia đình chính là ngôi nhà thực sự của mỗi người.
Gia đình là nơi cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày nay đặt ra yêu cầu
ngày càng cao về chất lượng và yêu cầu về nguồn nhân lực phải “giàu lòng yêu nước, có
ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn
hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”. Gia đình chính “là môi trường quan
trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” để hình thành nên những
phẩm chất tốt đẹp của mỗi cá nhân, mỗi con người, góp phần đắc lực vào chiến lược phát
triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Gia đình là nơi nuôi dưỡng, bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Qua sự nỗ lực của nhiều thế hệ, các gia đình Việt Nam đã hình thành và phát
triển những chuẩn mực, giá trị tốt đẹp, góp phần xây dựng bản sắc văn hóa đất nước.
Những giá trị truyền thống quý giá như lòng yêu nước, tình yêu quê hương, tình hữu nghị,
giúp đỡ lẫn nhau, thủy chung, hiếu thảo, hiếu học, cần cù, sáng tạo, kiên trì, vượt qua mọi
khó khăn, thử thách luôn được các gia đình Việt Nam gìn giữ và vun đắp trong suốt quá
trình lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và phát huy trong giai đoạn hiện nay.
Có thể thấy, gia đình luôn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của xã
hội ngày nay. Nếu không xây dựng gia đình giàu có, hạnh phúc, tiến bộ thì không thể có
được một xã hội giàu mạnh, vững mạnh, văn minh. Vì vậy, xây dựng và phát triển gia
đình với những giá trị tốt đẹp trong xã hội hiện đại là một trong những yếu tố cốt lõi trong
mục tiêu chung của xây dựng nền văn hóa mới XHCN.
Hiện nay, hầu hết các gia đình đều được xác định là “gia đình văn hóa”. Mối quan
hệ mật thiết yêu thương, hòa thuận và tận tâm tồn tại giữa cha mẹ và con cái, ông bà và
cháu, anh chị em trong những gia đình này. Trẻ lớn lên trong sự quan tâm, yêu thương
của người thân, được sự quan tâm chăm sóc chân thành, nhận được sự ủng hộ, ghi nhận,
cảm thông... Đây là môi trường lý tưởng để thanh thiếu niên phát triển nhân cách tốt.
Giáo dục gia đình tạo môi trường kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống và tiếp thu,
lựa chọn các giá trị văn hóa hiện đại. Thế hệ tổ tiên trong gia đình có vai trò truyền lại
những giá trị văn hóa truyền thống; gắn kết thế hệ trẻ với cội nguồn. Tuy nhiên, ông bà là
người đi trước, hệ giá trị tư tưởng và lối sống của họ còn lạc hậu hơn ngày nay. Điều này
dẫn đến sự phản đối và xung đột với thế hệ trẻ. Về sự đối lập, mâu thuẫn giữa hai thế hệ:
già – trẻ, cũ – mới nếu không được giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng đến quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ.
Cùng với đó, nền kinh tế thị trường cũng tạo cơ hội cho mỗi gia đình có điều kiện
tích lũy, làm giàu và nâng cao cuộc sống, nhưng ngược lại cũng bị chịu sự chi phối của
quy luật phát triển kinh tế thị trường làm cho các thành viên trong gia đình, đặc biệt là thế
hệ trẻ bị ảnh hưởng.
Vì vậy, vai trò của gia đình ngày nay càng trở lên vô cùng cấp thiết. Trong xu thế hội
nhập hiện nay, các gia đình ngày càng nhận thức cao về tầm quan trọng của trách nhiệm,
chia sẻ trong đời sống gia đình. Đó là việc chia sẻ những mối quan tâm, lắng nghe tâm tư,
suy nghĩ của các thành viên trong gia đình. Các gia đình có mức độ hiện đại hóa càng cao,
mang nhiều đặc điểm hiện đại, như sống ở đô thị, có việc làm, có học vấn cao, mức sống
cao, các khu vực kinh tế phát triển hơn thì các giá trị chia sẻ và trân trọng được hiện rõ
hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, người phụ nữ vẫn chưa bình đẳng thực sự so với nam
giới, chưa được lắng nghe tâm tư và chia sẻ suy nghĩ của mình. Các gia đình ở nông thôn
luôn quan niệm người cha là trụ cột, điểm tựa, là “nóc nhà”, “đàn ông xây nhà, đàn bà xây
tổ ấm”. Do quan niệm truyền thống quá đề cao người cha – đàn ông trong gia đình nên
trong thực tế có không ít người cha phó mặc trách nhiệm công việc gia đình, nuôi dạy,
chăm sóc con cái cho người phụ nữ, gây ra tình trạng áp lực công việc gia đình đè nặng
trên vai người phụ nữ. Con cái thiếu sự quan tâm từ phía cha, mẹ, thiếu kiến thức, kỹ năng
trong cuộc sống.
1.2. Giáo dục gia đình giữ vai trò chủ đạo
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người,
bao gồm giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội. Trong đó:
+ Gia đình là tổ ấm - nơi tràn đầy tình yêu thương ruột thịt, vừa là nơi đáp ứng nhu
cầu riêng tư, thực hiện chức năng phát triển nòi giống vừa là trường học đầu tiên hình
thành, phát triển nhân cách con trẻ và con người.
+ Giáo dục nhà trường (bao gồm cả sinh hoạt tập thể và hoạt động xã hội công ích)
cung cấp cho con người/học sinh những tri thức khoa học cơ bản, hiện đại, hình thành
những năng lực, phẩm chất trí tuệ và phát triển những phẩm chất đạo đức của nhân cách.
+ Giáo dục xã hội qua sách báo, phim ảnh, truyền hình, giao tiếp xã hội, với những
nội dung lành mạnh, góp phần tích cực hỗ trợ giáo dục gia đình và nhà trường trong việc
hình thành và phát triển nhân cách con người.
Muốn có 1 xã hội phát triển lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng tế bào gia đình
tốt, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “… nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội
tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”.
Bởi gia đình là tổ ấm của mỗi người, là tế bào của xã hội; đồng thời, cũng là nơi bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, môi trường quan trọng để hình thành, nuôi
dưỡng và giáo dục nhân cách con người. Gia đình Việt Nam truyền thống được hình thành
và phát triển, gắn kết một cách bền chặt là do tình nghĩa và trách nhiệm giữa các thành
viên; với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp như: Kính trên nhường dưới, hòa thuận, thủy
chung, nghĩa tình, hy sinh cho con, tôn trọng, hiếu đễ với ông bà, cha mẹ, anh em, yêu
thương đùm bọc lẫn nhau, hiếu học, cần cù, sáng tạo trong lao động, v.v.. trở thành cái
nôi, thành nền tảng hình thành và nuôi dưỡng nhân cách con người Việt Nam.
Với ý nghĩa là môi trường văn hóa đầu tiên, nơi mà mỗi cá nhân từ khi chào đời đến
phát triển, trưởng thành liên tục được tiếp nhận những tình cảm tốt đẹp từ các thành viên,
văn hóa gia đình là giá trị cốt lõi của văn hóa xã hội. Vì rằng, đó là khởi nguồn sinh ra con
người, nuôi dưỡng con người từ thuở lọt lòng đến khi trưởng thành. Văn hóa gia đình là
hệ thống những giá trị, chuẩn mực đặc thù điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong
gia đình và mối quan hệ giữa gia đình với xã hội, gắn liền với những điều kiện cụ thể của
tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong những thành tố của văn hóa gia đình, việc tổ chức
cuộc sống có nề nếp, trật tự, gia phong; việc dạy dỗ, ứng xử, giao tiếp giữa cha mẹ và con
cái, giữa các thành viên gia đình thuộc các thế hệ rất quan trọng, bởi thông qua đó, các thế
hệ đi trước truyền thụ cho con trẻ những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, tạo nên
giá trị xã hội và nhân cách văn hóa của mỗi con người. Nhân cách, đạo đức, lối sống của
các thành viên trong gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến con trẻ; trong khi đó, sự giáo dục
ở gia đình không có chương trình, kế hoạch cụ thể và các thành viên không được đào tạo
chính quy về giáo dục, cho nên, giáo dục gia đình không chuẩn mực sẽ dẫn con trẻ đến
suy nghĩ và hành vi lệch chuẩn. Nền tảng của một gia đình hạnh phúc biểu hiện ở mối
quan hệ ứng xử tốt đẹp, hiểu biết, sẻ chia, thông cảm và thương yêu nhau giữa vợ và
chồng; sự thương yêu, chăm sóc, hy sinh của cha mẹ vì con và sự kính trọng, biết ơn, hiếu
thảo của con đối với cha mẹ, ông bà… Cho nên, văn hoá gia đình và giáo dục trong một
gia đình văn hóa tạo ra nền nếp, kỷ cương để mọi người cùng thực hiện và đó cũng chính
là gia lễ, gia phong - cái gốc của gia đình, giữ cho con người Việt Nam và tạo cho gia đình
và xã hội Việt Nam một sức sống mãnh liệt.
Yếu tố gia đình chịu trách nhiệm ban đầu đối với quá trình xã hội hóa của con trẻ/cá
nhân, ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành phẩm chất, nhân cách gốc của con trẻ.
Giáo dục và nuôi dưỡng là hai yếu tố then chốt quyết định tạo nên tài năng và nhân cách
của mỗi con người, mà nhân cách con người bắt đầu hình thành từ lúc còn nằm trong bụng
mẹ cho đến khi trưởng thành vẫn chưa dừng lại… Trong hành trình đó, lứa tuổi ấu thơ
được chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia đình là giai đoạn quan trọng, mặc dù khi đó, nhân cách
chưa được thể hiện rõ ràng, song thông qua hành vi bắt chước hành động của người lớn,
con trẻ bắt đầu thu nhận các tương tác nhân - sinh - quan để hình thành nhân cách của
mình. Để con trẻ trở thành một người có nhân cách tốt, việc giáo dục của mỗi gia đình
đóng vai trò chủ đạo. Theo đó, giáo dục con trẻ không chỉ dừng lại ở lời nói hay mà phải
bằng những cử chỉ, việc làm đẹp, bởi mọi hành vi, thái độ, lối sống của người lớn, nhất là
cha mẹ có tác động trực tiếp tới việc hình thành, phát triển nhân cách của con trẻ. Người
xưa thường nói “dạy con từ thuở còn thơ”, cho nên, việc thường xuyên giáo dục con trẻ
thái độ, cử chỉ, lời nói lễ phép, kính trên nhường dưới, tôn sư trọng đạo… để khi trưởng
thành con trẻ thấu hiểu, biết ơn đấng sinh thành, nuôi dưỡng, chăm sóc ông bà, cha mẹ là
hết sức cần thiết.
Trong mỗi gia đình, kết hợp giữa giáo dục truyền thống với hiện đại, cha mẹ, ông bà
không chỉ giáo dục con trẻ đạo đức và văn hóa gia đình, giáo dục lao động, giáo dục phát
triển trí tuệ, giáo dục thể lực toàn diện, giáo dục thẩm mỹ; trong đó, việc giáo dục, dạy dỗ
về thái độ, cử chỉ, giao tiếp và ứng xử lễ nghĩa, kính trọng người già, chăm lo, nhường
nhịn người nhỏ tuổi; uốn nắn, phê phán, ngăn chặn thái độ, cử chỉ bất nhã, bất hiếu của
con trẻ mà còn rèn tính tự giác trong học tập, suy nghĩ, sinh hoạt đúng giờ, gọn gàng ngăn
nắp, kỹ năng sống… giúp con trẻ hình thành nhân cách, sớm ý thức được trách nhiệm của
mình đối với mọi người và mọi người đối với mình trong gia đình. Văn hóa gia đình chính
là thành lũy kiên cố để bảo vệ và giúp con trẻ duy trì, phát huy được những giá trị chân,
thiện, mỹ từ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; đồng thời, khơi dậy cho con trẻ
những ý tưởng sáng tạo, hình thành lối sống lành mạnh, góp phần vào quá trình giáo dục,
hình thành và phát triển nhân cách con người.
1.3. Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò của gia đình trong thời gian tới.
1.3.1. Thực trạng gia đình hiện nay
Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước ngày càng đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng,
gia đình Việt Nam truyền thống đang có những biến đổi mạnh mẽ trong cấu trúc, hình
thái, quy mô và mối quan hệ giữa các thành viên, thế hệ. Chịu tác động từ xu thế toàn cầu
hóa, những giá trị, chuẩn mực truyền thống cũng đã và đang thay đổi; trong đó, ở không
ít gia đình, mối quan tâm, chăm sóc của một bộ phận cha mẹ dành cho con trẻ suy giảm,
thậm chí có không ít gia đình còn “khoán trắng” cho xã hội và nhà trường việc giáo dục
con trẻ. Bên cạnh đó, một số không ít cha mẹ chưa dành thời gian thích đáng cho con trẻ;
một số khác thiếu kỹ năng và phương pháp giáo dục khoa học…, đã tạo ra những hệ lụy,
ảnh hưởng đến tâm sinh lý, việc học hành, sự hình thành nhân cách, lối sống đúng đắn,
thậm chí sự thành công của con trẻ ở tương lai. Đó cũng chính là một nguyên nhân quan
trọng khiến cho gia đình chưa phát huy được vai trò của nó với tư cách là môi trường góp
phần nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn
nhân lực có chất lượng tốt phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tế cho thấy, ở một bộ phận gia đình hiện nay, nhân cách của con trẻ đang chịu
tác động xấu bởi tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, lối sống thực dụng, trọng tiền tài, vật chất
nói chung, thiếu vắng sự chăm sóc, dạy dỗ, bảo vệ con trẻ nói riêng. Nhận thức sâu sắc
thực trạng này, văn kiện các kỳ Đại hội của Đảng, nhất là những nhiệm kỳ gần đây đã
nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã
hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ”. Đây không chỉ là một trong những
thách thức lớn đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức, lối sống, nuôi
dưỡng sự hình thành và phát triển nhân cách con trẻ trong gia đình nói riêng mà còn ảnh
hưởng đến việc tạo dựng, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều, song không thể không nói đến thực tế là:
vì nhiều lý do khác nhau, một bộ phận gia đình đã không còn thật sự là “tổ ấm” để trao
truyền yêu thương, chăm lo, dạy dỗ, giáo dục và nuôi dưỡng con trẻ. Ở đó, cấu trúc gia
đình lỏng lẻo, liên kết giữa các thành viên gia đình yếu, cha mẹ thiếu gương mẫu, thường
xuyên mâu thuẫn, xung đột, dẫn đến bạo lực gia đình; trong đó, bạo lực của người chồng
đối với người vợ và bạo lực của cha mẹ đối với con cái xảy ra nghiêm trọng. Ở những nơi
con trẻ thường xuyên phải chứng kiến những “hình ảnh”, “sự việc” không đẹp đó, ắt chúng
hoặc bị khủng hoảng tâm lý “đòn roi”, lệch lạc trong suy nghĩ dẫn đến lệch lạc trong hành
động, có xu hướng áp dụng các hành vi bạo lực đối với người khác trong tương lai. Cùng
với các mâu thuẫn, xung đột và bạo lực gia đình là vấn đề ly hôn, nhất là các gia đình cha
mẹ ly hôn khi con còn nhỏ tuổi, thì con trẻ thường thấy: hoặc là dễ bị rơi vào khủng hoảng
tâm sinh lý, hoặc thu mình, rồi dẫn đến có những hành vi lệch chuẩn trong tương lai.
Cùng với việc coi trọng giá trị gia đình, các tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời của người
Việt Nam vẫn giữ được các giá trị truyền thống nhưng đang có xu hướng dịch chuyển
sang các giá trị mang tính cá nhân và hiện đại. Sự phát triển gia đình ở nước ta cũng có
nhiều biến đổi, như: độ tuổi kết hôn thay đổi, xu hướng kết hôn sớm (16 – 20 tuổi) và kết
hôn muộn (trên 30 tuổi) gia tăng, xu hướng không kết hôn, sống độc thân cũng xuất hiện
nhiều. Tình trạng ly hôn ngày một tăng, năm 2019, tỷ lệ ly hôn của các gia đình Việt Nam
tăng từ 1,4% lên 2,1% so với cùng kỳ năm 2009, trung bình hằng năm có 600.000 vụ ly
hôn, trong đó có 70% vụ ly hôn do phụ nữ đệ đơn vì quan niệm về ly hôn có xu hướng
“thoáng”, “mở”. Theo Báo cáo điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam
năm 2019 cho thấy, cứ 3 phụ nữ thì có gần 2 phụ nữ (gần 63%) bị một hoặc hơn một hình
thức bạo lực thể xác, tình dục, tinh thần và kinh tế do chồng gây ra và gần 32% phụ nữ bị
bạo lực hiện thời (trong 12 tháng qua).
Xã hội phát triển cũng làm cho cuộc sống của các gia đình bận rộn hơn. Do đó, sự
quan tâm của cha mẹ tới con cái cũng chưa toàn diện, một số gia đình thường quan tâm
chú trọng tới thành tích học tập, điều kiện vật chất của con hơn là đời sống tâm lý, tình
cảm… Con cái thường sống khép kín, ngại chia sẻ, dẫn tới tình trạng bệnh lý tâm lý – tự
kỷ, nghiện mạng xã hội, smartphone hoặc game… Khi đó, con cái tìm đến “thế giới ảo”
– mạng xã hội, tệ nạn xã hội để “làm bạn” và thể hiện cái “tôi” của bản thân, hình thành
nhân cách lệch lạc. Thống kê của Bộ Công an cho biết, tỷ lệ gây án ở tuổi vị thành niên
trên cả nước là 5,2% đối với người dưới 14 tuổi, 24,5% đối với người từ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi và 70,3% đối với người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
=> Những thực trạng trên dẫn đến nhiều biểu hiện bất thường trong đời sống tinh thần của
trẻ em trong gia đình. Những biểu hiện khiếm khuyết, sai lệch trong tâm hồn trẻ em là
nguyên nhân tác động tới sự phát triển không hoàn thiện về thể chất và tinh thần thế hệ
tương lai của xã hội.
1.3.2. Giải pháp để pháp huy vai trò gia đình đối với phát triển con người cá
nhân
Để xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh và phát huy vai trò của
giáo dục gia đình trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người, cần thiết
phải có sự phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội; trong đó, chú trọng vai
trò nền tảng từ gia đình. Vì thế, cần tập trung vào những vấn đề trọng tâm sau:
+ Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành chức năng về
vấn đề xây dựng gia đình nói chung, giáo dục trong mỗi gia đình nói riêng để giáo dục
đạo đức, lối sống, nâng cao thể chất, trí lực, góp phần quan trọng vào việc hình thành và
phát triển nhân cách của con trẻ nói riêng, con người nói chung. Cùng với đó, phối hợp
chặt chẽ ba môi trường giáo dục là gia đình - nhà trường - xã hội; trong đó, phát huy những
ưu điểm của từng môi trường giáo dục để không chỉ đi đến sự thống nhất trong giáo dục
con trẻ mà còn hỗ trợ và đồng hành cùng mục tiêu chung là tạo dựng nguồn lực con người
Việt Nam chuẩn mực về đạo đức, hoàn thiện về tri thức, kỹ năng. Đi liền cùng đó là phát
huy vai trò của các trung tâm bảo trợ, nuôi dạy trẻ mồ côi, các làng trẻ, trại trẻ mồ côi,
những ngôi chùa, v.v…để những con trẻ bị thiệt thòi vì không thể/thiếu một mái ấm gia
đình được chăm sóc, yêu thương, học tập và vui chơi cùng các bạn đồng hoàn cảnh…
+ Hai là, chú trọng tạo dựng môi trường gia đình tràn ngập tình yêu thương, bình
đẳng và trách nhiệm, tổ chức lối sống gia đình lành mạnh, các thành viên trong gia đình
yêu thương, sẻ chia, gắn kết và cha mẹ, ông bà nêu gương cho con trẻ học theo, làm theo
những điều tốt đẹp, có giá trị nhân văn lớn lao. Đi liền cùng đó, trong mỗi gia đình, các
bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm của mình; xác định mục tiêu giáo dục con trẻ trong
từng giai đoạn và trong cả quá trình, phù hợp tâm sinh lý và lứa tuổi để thống nhất phương
pháp giáo dục; để không chỉ phòng, tránh trường hợp mỗi người một phương pháp mà
còn khắc phục được tâm lý gây áp lực cho con trẻ. Trong giáo dục, việc tạo điều kiện để
con trẻ được nêu chính kiến, quan điểm thậm chí phản biện lại một vấn đề nào đó là vô
cùng cần thiết, bởi đây là năng lực, bản lĩnh cần thiết của mỗi con người được giáo dục
hiện đại khuyến khích, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách
của con người từ khi còn nhỏ.
+ Ba là, lấy con trẻ làm trọng tâm trong quá trình dạy dỗ, giáo dục và nghiêm túc
trong việc dạy bảo con trẻ, giáo dục, rèn luyện con trẻ học hỏi tính kỷ luật, sự tôn trọng
các thành viên, nhất là cha mẹ, ông bà để con trẻ có thời gian luyện tập nhân cách của
mình. Cùng với đó, mỗi bậc cha mẹ không chỉ cần quan tâm, chăm sóc mà còn phải tôn
trọng, hiểu đúng về con trẻ để việc giáo dục đúng, đạt hiệu quả. Cụ thể là, phải tạo được
sự gần gũi, thân mật, tin tưởng ở con trẻ, để con trẻ coi mình là những người bạn lớn mà
chia sẻ tâm tư, tình cảm, diễn biến tâm lý bên trong, từ đó cha mẹ, ông bà có thể hiểu được
các mối quan hệ, khát vọng, cảm xúc, suy nghĩ, nguyện vọng, mong muốn, sở thích, lo
lắng, niềm vui, nỗi buồn của con trẻ..
+ Bốn là, các bậc cha mẹ không ngừng học hỏi, tìm hiểu những tri thức khoa học, xã
hội, trang bị và nâng cao kiến thức, khả năng chăm sóc, dạy dỗ và giáo dục con cái, để
không chỉ góp phần tăng cường, nâng cao và phát huy được vai trò giáo dục gia đình, nhất
là với các bậc cha mẹ ở khu vực nông thôn, miền núi mà còn khắc phục phương pháp giáo
dục chỉ dựa trên kinh nghiệm và cảm tính. Thực tế cho thấy, cha mẹ có quyền và thường
tác động đến sự phát triển và định hướng tương lai của con trẻ, song nếu giáo dục không
đúng và định hướng “không chuẩn”, không sát điều kiện thực tế của chính bản thân con
trẻ và gia đình thì con trẻ không những không phát huy được khả năng của mình mà còn
luôn cảm thấy căng thẳng, dễ dẫn đến suy sụp tinh thần và thể chất.
+ Năm là, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông gắn với tăng cường tuyên
truyền Chiến lược xây dựng gia đình và văn hóa gia đình để nâng cao nhận thức và hành
động, góp phần thực hiện tốt hơn nữa chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về gia đình. Qua đó, giúp cho các gia đình có kiến thức và kỹ năng sống, chủ
động phòng, chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào trong gia đình, phát huy giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và gia đình ngày càng phát triển bền vững theo tinh
thần Chỉ thị số 49 CT/TW ngày 21/2/2005 về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” và “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
2030”.
Nói giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và môi trường xã hội chính là nền tảng
để nuôi dưỡng tâm hồn con trẻ, định hình và phát triển nhân cách, cung cấp tri thức và rèn
luyện con người... cũng có nghĩa là cần phải chú trọng xây dựng gia đình và phát huy vai
trò của giáo dục gia đình trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người.
Tăng cường công tác giáo dục đời sống gia đình. Cung cấp tới từng gia đình các kiến thức,
kỹ năng sống, như: kỹ năng làm cha mẹ, kỹ năng ứng xử giữa các thành viên trong gia
đình với nhau và với cộng đồng. Giáo dục và vận động mọi gia đình tự nguyện, tự giác,
tích cực thực hiện nếp sống văn minh.
Vận động các gia đình tích cực tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước,
quy chế dân chủ cơ sở; phát triển các hình thức tổ hoà giải, các câu lạc bộ gia đình tại
cộng đồng; giữ gìn và phát huy văn hoá gia đình và truyền thống tốt đẹp của dòng họ; xây
dựng tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, nhắc nhở, động viên nhau thực hiện
tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Trong giáo dục, phải kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia
đình Việt Nam gắn với xây dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát
triển. (Chỉ thị số 49 CT/TW ngày 21/2/2005 về “Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá”)
=> Giải quyết tốt các vấn đề của gia đình, là giải quyết tốt các vấn đề xã hội, là cơ sở, điều
kiện để mỗi gia đình – một tế bào bền vững, cũng là “tổ ấm” thật sự của mỗi thành viên
và là môi trường tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, đóng góp cho mục tiêu
xây dựng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
CHƯƠNG 2:
VAI TRÒ GIA ĐÌNH TRONG SỰ PHÁT TRIỂN GIA ĐÌNH TRONG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Khái niệm gia đình.
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội. C.Mác và Ph. Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng: “Quan
hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời
sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó
là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”.
Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của
con người, một thiết chế văn hoá - xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển
trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo
dục...giữa các thành viên.
Gia đình là sự kết hợp ít nhất của hai cá nhân trở lên chủ yếu trên cơ sở quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình. Các
thành viên trong gia đình có chung những giá trị về vật chất và tinh thần; có quyền lợi,
nghĩa vụ và trách nhiệm về tài sản, về người thân và cùng hướng tới mục tiêu cao nhất là
phát triển kinh tế, nuôi dưỡng các thành viên và xây dựng gia đình bền chặt.
2.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
2.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội
Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội.
Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quyết định trong lịch sử, quy
cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất
đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và
những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân
con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của
một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất
quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát
triển của gia đình”.
Gia đình là tế bào của xã hội, là thiết chế cơ sở đầu tiên của xã hội. Muốn có một xã
hội phát triển lành mạnh thì trước hết từng tế bào - tức là mỗi gia đình - phải phát triển
bền vững và hạnh phúc. Nói cách khác, giữa gia đình và xã hội có mối quan hệ gắn bó
khăng khít, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Xã hội tốt đẹp, tiến bộ sẽ là tiền đề cho các
gia đình phát triển lành mạnh.
Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội lại phụ thuộc vào bản chất
của từng chế độ xã hội, vào đường lối, chính sách của giai cấp cầm quyền, và phụ thuộc
vào chính bản thân mô hình, kết cấu, đặc điểm của mỗi hình thức gia đình trong lịch sử.
Vì vậy, trong mỗi giai đoạn của lịch sử, tác động của gia đình đối với xã hội không hoàn
toàn giống nhau.
Chỉ khi con người được yên ấm, hòa thuận trong gia đình, thì mới có thể yên tâm lao
động, sáng tạo và đóng góp sức mình cho xã hội và ngược lại. Chính vì vậy, quan tâm xây
dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2.2.2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên.
Gia đình là tổ ấm của mỗi con người, mà ở đó mỗi người có thể nhận được sự yêu
thương, chăm sóc, chia sẻ những tình cảm đặc biệt, nhận được sự chăm sóc cả về mặt vật
chất và tinh thần. Sự yên ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng
cho sự hình thành, phát triển nhân cách, thể lực, trí lực để trở thành công dân tốt cho xã
hội. Chỉ trong môi trường yên ấm của gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh
phúc, có động lực để phấn đấu trở thành con người xã hội tốt.
2.2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội
Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng rất
lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Tuy nhiên, mỗi cá nhân lại
không thể chỉ sống trong quan hệ gia đình, mà còn có nhu cầu quan hệ xã hội, quan hệ với
những người khác, ngoài các thành viên trong gia đình. Mỗi cá nhân không chỉ là thành
viên của gia đình mà còn là thành viên của xã hội. Ngược lại, gia đình cũng là một trong
những cộng đồng để xã hội tác động đến cá nhân. Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội
thông qua lăng kính gia đình mà tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi
cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách.
Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn khi xem xét cá nhân trong quan hệ với gia
đình. Có những vấn đề quản lý xã hội phải thông qua hoạt động của gia đình để tác động
đến cá nhân. Nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi cá nhân được thực hiện với sự hợp tác của
các thành viên trong gia đình. Chính vì vậy, ở bất cứ xã hội nào, giai cấp cầm quyền muốn
quản lý xã hội theo yêu cầu của mình, cũng đều coi trọng việc xây dựng và củng cố gia
đình.
Vậy nên, đặc điểm của gia đình trong mỗi chế độ xã hội có khác nhau. Trong xã hội
phong kiến, để củng cố, duy trì chế độ bóc lột, với quan hệ gia trưởng, độc đoán, chuyên
quyền đã có những quy định rất khắt khe đối với phụ nữ, đòi hỏi người phụ nữ phải tuyệt
đối trung thành với người chồng, người cha - những người đàn ông trong gia đình. Trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, để xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng, con người
được giải phóng, giai cấp công nhân chủ trương bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một
chồng, thực hiện sự bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nữa”.
Vì vậy, quan hệ gia đình có đặc điểm khác về chất so với các xã hội trước đó.
2.3. Chức năng cơ bản của gia đình
2.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào có thể thay thế.
Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người, đáp ứng
nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng nhu cầu về sức lao động
và duy trì sự trường tồn của xã hội.
Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia đình, nhưng
nó không chỉ là việc việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì, nó quyết định
đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động của một quốc gia và quốc tế, một yếu tố cấu
thành của tồn tại xã hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi
mặt đời sống của xã hội. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội,
chức năng này được thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích.
2.3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
Chức năng này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo
đức, lối sống của mỗi người. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và lâu dài trong
cuộc đời của mỗi con người. Giáo dục gia đình có nội dung toàn diện, bao gồm: giáo dục
tri thức, giáo dục lao động, giáo dục phẩm chất đạo đức, lối sống, nhân cách, ý thức cộng
đồng… Phương pháp giáo dục của gia đình chủ yếu là nêu gương, thuyết phục.
Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đối với mỗi cá
nhân trong suốt cuộc đời, từ lúc còn bé cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành
viên trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong
việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây là chức năng hết sức quan trọng, mặc dù,
trong xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà trường, các đoàn thể, chính quyền v.v..) cũng
thực hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế chức năng giáo dục của gia đình. Thực
hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha, làm mẹ phải có kiến
thức cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt văn hóa, học vấn, đặc biệt là phương pháp
giáo dục.
2.3.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Đây là chức năng cơ bản quan trọng của gia đình nhằm tạo ra của cải vật chất, là
chức năng đảm bảo sự sống còn của gia đình. Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào
quá trình sản xuất ra của cải vật chất và sức lao động cho xã hội, mà còn là một đơn vị
tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy
trì đời sống của gia đình về lao động sản xuất cũng như sinh hoạt gia đình. Đó là việc sử
dụng hợp lý các khoản thu nhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời
sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn
rỗi để tạo ra một môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe,
đồng thời để duy trỉ sở thích, sắc thái riêng của mỗi người. Thực hiện chức năng này, gia
đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần của các thành viên
trong gia đình.
Hiệu quả hoạt động kinh tế của gia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và
tinh thần của mỗi thành viên gia đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào quá trình sản
xuất và tái sản xuất ra của cải, sự giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách
có hiệu quả mọi tiềm năng của mình về vốn, về sức lao động, tay nghề của người lao động,
tăng nguồn của cải vật chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này, không
những tạo cho gia đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi dạy con cái, mà còn đóng
góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
2.3.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình.
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình
cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ chăm sóc
sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành
viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi
người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi người, là nơi nương tựa về mặt tinh
thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con người. Với việc duy trì tình cảm
giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã
hội. Khi các quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có
nguy cơ bị phá vỡ.
2.3.5. Chức năng khác
 Chức năng văn hóa:
Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân tộc
cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng được
thực hiện trong gia đình. Gia đình không chỉ là nơi lưu giữ mà còn là nơi sáng tạo và thực
hiện những giá trị đạo đức, văn hóa.
 Chức năng chính trị:
Với chức năng chính trị, gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước và quy chế của làng xã và hưởng lợi từ hệ
thống pháp luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình cũng là cầu nối của mối quan hệ giữa
nhà nước với công dân.
KẾT LUẬN
Sau khi hoàn thành bài luận về vai trò của gia đình đối với sự phát triển của con
người và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã mang lại cho nhóm chúng
em nhiều cảm xúc tích cực và ý nghĩa. Nhóm chúng em rất vui mừng và tự hào khi nhìn
thấy kết quả của những nỗ lực chung. Quá trình nghiên cứu và thảo luận đã giúp chúng
em khám phá sâu hơn về ý nghĩa quan trọng của gia đình, gia đình không chỉ là nơi nuôi
dưỡng tình cảm mà còn là nền tảng vững chắc cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá
nhân. Qua việc tìm hiểu, chúng em nhận thức rõ hơn về vai trò to lớn của gia đình trong
việc giáo dục những giá trị đạo đức, tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm xã hội, từ
đó góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
Trong suốt quá trình làm việc nhóm, chúng em đã có cơ hội nâng cao kỹ năng giao
tiếp, hợp tác và giải quyết vấn đề. Mỗi thành viên đều được lắng nghe và tôn trọng ý kiến,
tạo nên sự đoàn kết và phối hợp hiệu quả trong công việc. Đồng thời, chúng em càng thêm
trân trọng và yêu thương gia đình sau khi hiểu rõ hơn về vai trò quan trọng của gia đình
trong việc hình thành nhân cách và thúc đẩy sự phát triển xã hội.Điều này không chỉ giúp
chúng em mở rộng kiến thức mà còn khơi dậy ý thức mạnh mẽ về trách nhiệm và khát
vọng được góp phần vào sự phát triển của đất nước. Chúng em nhận ra rằng việc xây
dựng và duy trì các gia đình hạnh phúc, vững mạnh không chỉ là trách nhiệm của mỗi cá
nhân mà còn là mục tiêu chung của toàn xã hội và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Vụ Gia đình. (2024). Gia đình và vị trí, vai trò
của gia đình trong xã hội hiện đại. https://giadinh.bvhttdl.gov.vn/gia-dinh-va-vi-
tri-vai-tro-cua-gia-dinh-trong-xa-hoi-hien-dai/
2. TS. Văn Thị Thanh Mai, TS. Đinh Quang Thành. (2020). Giáo dục gia đình góp
phần quan trọng hình thành và phát triển nhân cách con người.
https://tuyengiao.vn/giao-duc-gia-dinh-gop-phan-quan-trong-hinh-thanh-va-phat-
trien-nhan-cach-con-nguoi-132319
3. Ôn thi sinh viên. (2023). Tóm tắt kiến thức Chương 7 Chủ nghĩa xã hội khoa học.
https://onthisinhvien.com/tom-tat-kien-thuc-chuong-7-chu-nghia-xa-hoi-khoa-hoc

You might also like