Tiểu Luận Phương Pháp Nghiên Cứu Luật Học (3)

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 35

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

***

KHOA LUẬT
HỌC PHẦN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LUẬT HỌC

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

ĐỀ TÀI:

XU HƯỚNG PHẠM TỘI NGÀY CÀNG TRẺ HÓA VÀ QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

GVHD: TS. Lê Nguyễn Gia Thiện


MÃ LỚP HỌC PHẦN: 231BLB403901
HỌC KỲ 2: Năm học 2023 – 2024

TP. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2024


DANH SÁCH THÀNH VIÊN VÀ MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH
Nhóm: Đội Ngũ Pháp Lý

Họ và tên sinh viên MSSV Mức Độ Hoàn Thành


(%)
Trần Quốc Duy K235032306 100%
Bùi Anh Dũng K235032307 100%
Nguyễn Văn Âu K235032298 100%
Nguyễn Minh Hoàng K235032312 100%
Nguyễn Thị Thanh Thúy K235052611 100%

Mức độ hoàn thành: Đánh giá mức độ đóng góp vào tiểu luận của từng thành viên

Trưởng nhóm: Trần Quốc Duy – Email: duytq23503a@st.uel.edu.vn


LỜI CAM ĐOAN

Bài tiểu luận về đề tài “ Xu hướng phạm tội ngày càng trẻ hóa và quy định của pháp
luật về người chưa thành niên phạm tội” là thành quả của cả nhóm sau một khoảng
thời gian tìm tòi, học hỏi và nghiên cứu để lựa chọn ra những nội dung cốt lõi, cơ bản
và chính xác nhất về chủ đề này. Vì vậy, nhóm tác giả xin cam đoan về nội dung báo
cáo, các số liệu thống kê là thực tế, không có bất kỳ gian dối nào. Các tài liệu tham
khảo và trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc. Nhóm tác giả xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm với nội dung đã cam đoan.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Nội dung viết tắt


1 BLDS Bộ luật Dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
2 NCTN Người chưa thành niên
3 VPPL Vi phạm pháp luật
4 BLHS Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
5 TNHS Trách nhiệm hình sự
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
6 BLTTHS
2021
7 LTE Luật Trẻ em năm 2016
8 THPT Trung học phổ thông
DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Tên Bảng Vị Trí


1 Số lượng và tỷ lệ tội phạm theo giới tính Trang 14

Số lượng và tỉ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội bị


2 khởi tố bị can theo trình độ văn hóa Trang 17

STT Tên Biểu Đồ Vị Trí


Tỉ lệ của người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố bị
1 Trang 14
can theo độ tuổi

Tỉ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố bị can


2 Trang 15
của 5 địa phương hàng đầu cả nước

Tỉ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố bị can


3 từ năm 2017 đến năm 2021 theo các tội danh phổ Trang 16
biến nhất
MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN...............................................................
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................................................
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.........................................................................................................
DANH MỤC BẢNG BIỂU........................................................................................................................
MỤC LỤC..................................................................................................................................................
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................................
1. Đặt vấn đề:..........................................................................................................................................
2. Đối tượng nghiên cứu:........................................................................................................................
3. Phạm vi nghiên cứu:...........................................................................................................................
4. Phương pháp nghiên cứu:...................................................................................................................
5. Kết cấu của tiểu luận:.........................................................................................................................
CHƯƠNG 1. Cơ Sở Lý Luận Chung.......................................................................................................1
1. Pháp luật:..........................................................................................................................................1
2. Tội phạm và phân loại tội phạm:......................................................................................................2
2.1. Tội phạm:...................................................................................................................................2
2.2. Phân loại tội phạm:....................................................................................................................2
2.3. Phân biệt thuật ngữ “tội phạm” và “tội nhân”:..........................................................................3
3. Người chưa thành niên:....................................................................................................................3
3.1. Khái niệm và phân loại người chưa thành niên:........................................................................3
3.2. Phân biệt thuật ngữ “từ” và “từ đủ”:..........................................................................................4
4. Người chưa thành niên phạm tội:.....................................................................................................4
CHƯƠNG 2. Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Người Chưa Thành Niên Phạm Tội....................5
1. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội:.............................................................5
1.1. Các nguyên tắc:.........................................................................................................................5
1.1.1. Nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng:....................................................................................5
1.1.2. Nguyên tắc giáo dục, răn đe:..............................................................................................6
1.1.3. Nguyên tắc bảo vệ, giúp đỡ:...............................................................................................6
1.1.4. Nguyên tắc phòng ngừa đặc biệt:.......................................................................................7
1.2. Các tiêu chí được căn cứ để tiến hành xử phạt người chưa thành niên phạm tội:.....................7
1.2.1. Mức độ nhận thức:..............................................................................................................7
1.2.2. Điều kiện gia đình, xã hội:..................................................................................................8
1.2.3. Nguyên nhân, điều kiện phạm tội:......................................................................................8
1.2.4.Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:.........................................8
1.2.5. Yêu cầu phòng ngừa tội phạm:...........................................................................................8
2. Các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội:............................................9
2.1. Hình phạt không tước quyền tự do:...........................................................................................9
2.1.1. Cảnh cáo:............................................................................................................................9
2.1.2. Phạt tiền:.............................................................................................................................9
2.1.3. Cải tạo không giam giữ:.....................................................................................................9
2.1.4.Đưa vào trường giáo dưỡng:................................................................................................9
2.2. Hình phạt tước quyền tự do:....................................................................................................10
CHƯƠNG 3. Nguyên Nhân Và Thực Trạng Phạm Tội Của Người Chưa Thành Niên Ở Việt Nam
Trong Những Năm Gần Đây..................................................................................................................12
1. Nguyên nhân dẫn đến NCTN phạm tội:.........................................................................................12
1.1. Nguyên nhân từ bản thân người chưa thành niên:...................................................................12
1.2. Nguyên nhân từ gia đình:........................................................................................................12
1.3. Nguyên nhân từ nhà trường:....................................................................................................13
1.4. Nguyên nhân từ xã hội:...........................................................................................................13
2. Thực trạng NCTN phạm tội:...........................................................................................................13
2.1. Thực trạng xã hội:....................................................................................................................13
2.2. Thực trạng về chính sách pháp luật đối với NCTN phạm tội:.................................................17
2.2.1.Thành tựu đã đạt được khi xử lý NCTN phạm tội:............................................................17
2.2.2.Những bất cập và hạn chế trong chính sách xử lý NCTN phạm tội:.................................18
CHƯƠNG 4. Giải Pháp Giúp Hạn Chế Tình Trạng Người Chưa Thành Niên Phạm Tội......................20
1. Kiến nghị về hoàn thiện chính sách của pháp luật về trách nhiệm hình sự của NCTN phạm tội:. 20
1.1. Về xác định độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội:......................................................20
1.2. Về việc áp dụng hình phạt:......................................................................................................21
1.3. Về biện pháp bảo vệ người chưa thành niên trong quá trình tham gia tố tụng:.......................22
2. Giải pháp về cơ chế phối hợp, tổ chức giữa các bên liên quan trong công tác hạn chế người chưa
thành niên phạm tội:...........................................................................................................................22
2.1. Về phía gia đình:......................................................................................................................22
2.2. Về phía nhà trường:.................................................................................................................23
2.3. Các tổ chức và bộ ngành liên quan:.........................................................................................23
KẾT LUẬN............................................................................................................................................25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
" Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ
một phần lớn ở công học tập của các em" [1] là lời căn dặn vô cùng quý báu của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đối với thế hệ trẻ của đất nước chúng ta. Những lời ấy như một sự
nhấn mạnh về tầm quan trọng của trẻ em, những mầm non tương lai, sẽ là những
người chủ nhân gánh vác trong mình trọng trách quan trọng trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, làm cho đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh. Từ trước đến
nay, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn được coi là sự nghiệp lớn. Từ
những tư tưởng của Người về vai trò của trẻ em, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
đến chính sách chăm sóc bảo vệ trẻ em, tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều
kiện cho lứa tuổi này được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh; phát triển hài
hoà, toàn diện cả về vật chất, đạo đức, trí tuệ và tinh thần. Bên cạnh đó, Nhà nước ta
luôn chú trọng trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về
bảo vệ quyền trẻ em [2]. Trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với đối tượng trẻ
em vi phạm pháp luật (VPPL) , nhất là hiện tượng vi phạm pháp luật ở người chưa
thành niên (NCTN) bởi đây là lứa tuổi còn non trẻ kinh nghiệm sống; những thay đổi
về tâm sinh lí ảnh hưởng đến khả năng nhận thức, dễ bị tác động từ môi trường sống
không lành mạnh và các hành vi tiêu cực khác làm cho cách suy nghĩ trở nên lệch lạc,
không chín chắn gây ra các hoạt động làm ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của cá
nhân đó và toàn xã hội. Tùy vào mức độ nghiêm trọng của các hành vi VPPL của
người chưa thành niên mà pháp luật sẽ áp dụng các chế tài hành chính và hình sự khác
nhau. Người chưa thành niên ngay cả khi trở thành chủ thể của tội phạm thì việc bảo
vệ quyền và lợi ích của đối tượng này cũng được tôn trọng và đặt lên hàng đầu, lấy
mục đích xử lý giáo dục, phòng ngừa là chính, định hướng các em quay lại trở thành
công dân có ích. Nhận thức được tình trạng NCTN phạm tội đang ở mức đáng báo
động , nhóm tác giả quyết định chọn đề tài “Xu hướng phạm tội ngày càng trẻ hóa và
quy định của pháp luật về người chưa thành niên phạm tội” làm chủ đề nghiên cứu cho
bài tiểu luận kết thúc học phần Phương pháp nghiên cứu Luật học.

Trong quá trình nghiên cứu về nội dung đề tài, do chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế
nên không thể tránh khỏi những sai sót trong quá trình làm bài tiểu luận. Vì vậy, nhóm
tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, sự đánh giá công tâm từ quý thầy
cô để bài tiểu luận trở nên hoàn thiện hơn. Qua đó, nhóm tác giả có thêm cơ hội được
tích lũy những kinh nghiệm quý báu, tạo tiền đề để nghiên cứu nhiều chủ đề hơn trong
tương lai.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu đúng như tên gọi của nó - Xu hướng phạm tội ngày càng trẻ hóa
và quy định của pháp luật về người chưa thành niên phạm tội.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về các hành vi, các biện pháp xử lý và thực trạng VPPL của NCTN
ở Việt Nam. Bên cạnh đó, nhóm tác giả còn làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng pháp luật
đối với NCTN phạm tội ở Việt Nam nói riêng và một số nước trên thế giới nói chung,
từ đó đưa ra những kiến giải nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết tình trạng NCTN phạm tội.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp được sử dụng trong bài tiểu luận bao gồm: phương pháp diễn dịch;
phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp phân tích, tổng hợp; khảo sát thực tế,....
để phân tích các nội dung được đề cập trong tiểu luận.
5. Kết cấu của tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của tiểu
luận gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về NCTN phạm tội
Chương 3: Nguyên nhân, Thực trạng phạm tội của NCTN ở Việt Nam trong những
năm gần đây
Chương 4: Giải pháp khắc phục tình trạng NCTN phạm tội
CHƯƠNG 1. Cơ Sở Lý Luận Chung
1. Pháp luật:

Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự chung, do Nhà Nước đặt ra (hoặc
thừa nhận) và có các thuộc tính sau [3]:

Tính quyền lực Nhà Nước: là thuộc tính riêng chỉ có pháp luật mới có được. Nhà nước
cần pháp luật để thực hiện việc tổ chức và quản lí xã hội, bắt buộc mọi người phải thực
hiện theo. Các quy định pháp luật có thể do Nhà Nước đặt ra hoặc được tạo ra khi Nhà
Nước thừa nhận những quy tắc ứng xử đã có sẵn trong xã hội (đạo đức, tập quán, tín
điều của các tôn giáo, …). Từ đó, Nhà Nước cho phép các chủ thể do mình quản lý
được hoặc không được, nên hoặc không nên, phải làm những gì và làm như thế nào.
Để đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống, Nhà Nước đặt ra
các biện pháp cưỡng chế để bắt buộc người dân thực hiện theo pháp luật.

Tính quy phạm phổ biến: vì pháp luật được tạo ra bằng hệ thống các quy phạm pháp
luật, mà quy phạm được ví như tế bào của pháp luật vì nó là khuôn mẫu, là mô hình xử
sự chung. Trong xã hội, ở mỗi người và mỗi hoàn ảnh, thời điểm khác nhau thì cách
xử sự đối với những vấn đề cụ thể rất khác nhau. Từ đó, pháp luật đưa ra các quy tắc
xử sự phù hợp với đa số. Các quy phạm xã hội cũng có những quy tắc xử sự chung,
tuy nhiên nó chỉ có tác dụng đối với một nhóm người cụ thể. Còn các quy phạm pháp
luật thì có tính quy phạm phổ biến và được áp dụng nhiều lần trên lãnh thổ. Việc áp
dụng các quy phạm này chỉ bị đình chỉ khi cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền bãi bỏ,
bổ sung, sửa đổi bằng các quy định khác hoặc thời hiệu áp dụng các quy phạm đã hết.
Tính quy phạm của pháp luật dựa trên ý chí của Nhà Nước và được đề lên thành luật.
Tùy theo từng thể chế khác nhau mà mà ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội mang
tính chất chủ quan của một nhóm người hay đáp ứng được nguyện vọng, mong muốn
của đa số nhân dân sống trong quốc gia đó.

Tính hệ thống: ngay chính bản thân khái niệm của pháp luật đã là một hệ thống gồm
các quy tắc xử sự chung, hoặc các quy phạm, cũng có thể là các nguyên tắc hoặc khái
niệm pháp lý. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xa hội thông qua việc tác động trực
tiếp lên các cách xử sự của các chủ thể khi tham gia vào mối quan hệ xã hội nào đó,
nhưng những quy định đó lại không tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà giữa chúng
có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó và thống nhất với nhau, tạo nên một chính thể hoàn
chỉnh.

Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: quy phạm có thể hiểu một cách đơn giản là
các khuôn mẫu, chuẩn mực. Các quy định của pháp luật được xem như là các quy
1
phạm trong xã hội và nó được biết đến và sử dụng một cách phổ biến. Từ đó, pháp luật
định hướng cho nhận thức và hành vi của các chủ thể trong xã hội. Khi rơi vào một
tình huống nhất định, dựa vào thuộc tính quy phạm của pháp luật, các chủ thể sẽ được
định hướng hành vi cho bản thân mình để đảm bảo theo quy định của pháp luật.

2. Tội phạm và phân loại tội phạm:

2.1. Tội phạm:

Theo khoản 1 điều 8 BLHS 2015, tội phạm là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sư hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức; xâm phạm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của
BLHS phải xử lý hình sự.

Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã
hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các quy định khác.

2.2. Phân loại tội phạm:

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được
quy định trong BLHS, tội phạm được phân thành 04 loại chính [4]:

Tội phạm ít nghiêm trọng: là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội không lớn. Mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy
là phạt hành chính, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.

Tội phạm nghiêm trọng: là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn. Mức cao nhất của khung hình phạt cao nhất do BLHS quy định đối với tội ấy
là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù.

Tội phạm rất nghiêm trọng: là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất lớn. Mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là
trên 07 năm tù đến 15 năm tù.

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn. Mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với
tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
2
Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện: được phân loại căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cả hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1
điều 9 BLHS và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại điều 76
BLHS.

2.3. Phân biệt thuật ngữ “tội phạm” và “tội nhân”:

Tội phạm và tội nhân đều liên quan đến hành vi phạm pháp, có thể gây ra hậu quả
nghiêm trọng cho xã hội và bị coi là trái pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay, các văn bản
quy phạm pháp luật ở Việt Nam chưa có các định nghĩa cụ thể cho những thuật ngữ
này. Tuy nhiên, nếu xét theo ngữ nghĩa tiếng Việt và tính phù hợp trong các tình huống
trong đời sống, có thể tạm thời định nghĩa như sau:

Tội phạm: là hành vi vi phạm pháp luật, có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã
hội và bị coi là trái pháp luật. Thuật ngữ này được sử dụng để chỉ chung cho hành vi
phạm tội mà không nhấn mạnh đến cá nhân thực hiện hành vi đó. Thuật ngữ này có thể
hiểu là những loại tội ác, hành động phạm pháp nói chung. Ví dụ: tội phạm buôn
người, tội phạm mại dâm,…

Tội nhân (người phạm tội): là người đã thực hiện hành vi phạm tội và bị phát giác, bắt
giữ và xét xử, có bản án kết tội đã có hiệu lực của tòa án (điều 13, BLTTHS). Thuật
ngữ này được sử dụng để chỉ người đã thực hiện hành vi phạm tội và bị pháp luật truy
cứu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình. Ví dụ: tội nhân thực hiện hành vi buôn
bán trái phép chất ma túy, tội nhân thực hiện hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em
dưới 18 tuổi,…

3. Người chưa thành niên:

3.1. Khái niệm và phân loại người chưa thành niên:

Theo quy định tại điều 20 BLDS 2015, người chưa thành niên là người chưa đủ 18
tuổi (tính theo ngày, tháng, năm Dương lịch). Người chưa thành niên được chia thành
03 nhóm [5]:

Người chưa đủ 06 tuổi: giao dịch dân sự của người chưa đủ 06 tuổi do người
đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.

Người từ đủ 06 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi: khi xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi.

3
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi: tự mình xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao
dịch dân sự khác theo quy định của pháp luật phải được người đại diện theo pháp luật
đồng ý.

3.2. Phân biệt thuật ngữ “từ” và “từ đủ”:

Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam không có quy định hướng dẫn cách
xác định độ tuổi để áp dụng pháp luật, mỗi ngành lại có những quy định khác nhau.
Tuy nhiên, các thuật ngữ nhằm xác định độ tuổi của một người khi sự kiện pháp lý xảy
ra gần như giống nhau và được sử dụng phổ biến trong các văn bản quy phạm pháp
luật:

Từ X tuổi được xác định từ 01 ngày sau ngày sinh nhật thứ X của người đó. Ví
dụ: Đ sinh ngày 02/01/2004 thì từ ngày 03/01/2022 trở về sau, Đ được xác định là
người từ 18 tuổi.

Từ đủ X tuổi được xác định từ ngày sinh nhật thứ X của người đó. Ví du: H
sinh ngày 30/9/2005 thì từ ngày 30/9/2023 trở đi, H được xác định là người từ đủ 18
tuổi.

4. Người chưa thành niên phạm tội:

 Khái niệm người chưa thành niên phạm tội:

Người chưa thành niên phạm tội là người thực hiện những hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội khi chưa đủ 18 tuổi, được quy định trong BLHS, do người từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) thực hiện, có lỗi
xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi của mình.

4
CHƯƠNG 2. Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Người Chưa Thành Niên
Phạm Tội

Xử lý tội phạm là một vấn đề phức tạp, đặc biệt khi đối tượng là người chưa thành
niên. NCTN là những cá nhân đang trong giai đoạn phát triển về thể chất và tinh thần,
chưa có đủ nhận thức và kinh nghiệm sống để hiểu rõ về hậu quả của hành vi phạm
tội. Do đó, pháp luật Việt Nam có những quy định riêng biệt và đặc thù để xử lý
NCTN phạm tội, nhằm đảm bảo tính nhân đạo, khoan hồng, đồng thời răn đe và phòng
ngừa tội phạm hiệu quả.

1. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội:

1.1. Các nguyên tắc:

Việc xử lý NCTN phạm tội phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

1.1.1. Nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng:

Ưu tiên giáo dục, cải tạo hơn là trừng phạt, tạo điều kiện cho NCTN sửa chữa sai lầm,
tái hòa nhập cộng đồng.

Cơ sở lý luận: NCTN là đối tượng đặc biệt, đang trong quá trình hoàn thiện về nhân
cách và nhận thức. Do đó, cần ưu tiên các biện pháp giáo dục, cảm hóa để giúp họ
nhận ra lỗi lầm, sửa chữa và trở thành người có ích cho xã hội.

Biểu hiện:

Không áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với NCTN phạm tội: Điều
này thể hiện sự khoan dung của pháp luật đối với NCTN, cho họ cơ hội sửa chữa
sai lầm và làm lại cuộc đời.

Mức hình phạt tù có thời hạn đối với NCTN phạm tội thấp hơn so với người thành
niên phạm tội: Khi xử phạt tù có thời hạn, tòa án cho người chưa thành niên phạm
tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm
tội tương ứng.

Ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý phi hình sự: Thay vì áp dụng các biện pháp
trừng phạt như phạt tù, pháp luật ưu tiên các biện pháp giáo dục, cải tạo như đưa
vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở cai nghiện, cảm hóa giáo dục,...

5
1.1.2. Nguyên tắc giáo dục, răn đe:
Kết hợp xử lý với giáo dục pháp luật, đạo đức, kỹ năng sống để giúp NCTN nhận thức
hành vi sai trái, có ý thức tuân thủ pháp luật.

Cơ sở lý luận: NCTN thường phạm tội do thiếu hiểu biết pháp luật, nhận thức lệch lạc,
hoặc bị lôi kéo, xúi giục. Giáo dục là biện pháp quan trọng để giúp họ thay đổi nhận
thức, hành vi và có lối sống lành mạnh.

Biểu hiện:

Tổ chức các lớp học: Tổ chức các lớp học pháp luật, đạo đức, kỹ năng sống tại các
cơ sở giáo dục, cải tạo để trang bị cho NCTN kiến thức, kỹ năng cần thiết để sống
và làm việc theo pháp luật.

Tạo điều kiện tham gia các hoạt động xã hội: Khuyến khích NCTN tham gia các
hoạt động xã hội, văn hóa, thể thao lành mạnh để giúp họ phát triển toàn diện về
nhân cách, tránh xa các tệ nạn xã hội.

Giao cho gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội có trách nhiệm giám sát, giáo dục
NCTN: Sự phối hợp giữa các bên này là rất quan trọng để đảm bảo NCTN được
giáo dục, định hướng đúng đắn sau khi được xử lý.

1.1.3. Nguyên tắc bảo vệ, giúp đỡ:


Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN, giúp đỡ họ khắc phục khó khăn, hoàn
thiện nhân cách.

Cơ sở lý luận: NCTN là đối tượng dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ đặc biệt về các
quyền và lợi ích hợp pháp như: quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu
(Điều 16 LTE 2016); quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 14 LTE 2016); quyền bí
mật đời sống riêng tư (Điều 21 LTE 2016),...

Biểu hiện:

Bảo mật thông tin cá nhân: Thông tin cá nhân của NCTN phạm tội được bảo mật
để tránh gây ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống và tương lai của họ.

Không phân biệt đối xử: NCTN được đối xử công bằng, bình đẳng trong quá trình
tố tụng, xét xử.

Hỗ trợ về vật chất, tinh thần: Các chính sách hỗ trợ về vật chất, tinh thần giúp
NCTN vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống và hòa nhập cộng đồng.
6
1.1.4. Nguyên tắc phòng ngừa đặc biệt:
Áp dụng các biện pháp phòng ngừa đặc biệt để ngăn chặn NCTN tái phạm tội.

Cơ sở lý luận: NCTN có nguy cơ tái phạm tội cao hơn so với người thành niên do
chưa ổn định về nhân cách, dễ bị tác động bởi môi trường xung quanh. Vì vậy, việc áp
dụng biện pháp phòng ngừa đặc biệt để giúp NCTN tránh xa các yếu tố có tác động
tiêu cực, có điều kiện sống và học tập lành mạnh.

Biểu hiện:

Đưa vào trường giáo dưỡng: Đây là biện pháp giáo dục bắt buộc tại trường giáo
dưỡng, nơi NCTN được học tập, rèn luyện kỹ năng sống, được giáo dục đạo đức,
pháp luật để trở thành người có ích cho xã hội.

Giao cho gia đình, người giám hộ quản lý, giáo dục: Gia đình và người giám hộ có
trách nhiệm giáo dục, quản lý NCTN để giúp họ thay đổi nhận thức, hành vi.

Áp dụng các biện pháp quản chế, cấm đi khỏi nơi cư trú: Các biện pháp này nhằm
hạn chế sự tiếp xúc của NCTN với môi trường xấu, giúp họ ổn định cuộc sống và
tránh tái phạm tội.

1.2. Các tiêu chí được căn cứ để tiến hành xử phạt người chưa thành niên phạm
tội:

Để đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong việc xử lý NCTN phạm tội, pháp luật
quy định các tiêu chí cụ thể để xem xét, đánh giá:

1.2.1. Mức độ nhận thức:


Khả năng nhận thức về hành vi phạm tội của NCTN, bao gồm:

Mức độ hiểu biết về tính chất, ý nghĩa của hành vi: NCTN có hiểu rõ hành vi mình
thực hiện là đúng hay sai, có vi phạm pháp luật hay không? Mức độ nhận thức càng
cao thì trách nhiệm càng lớn.

Khả năng lường trước hậu quả: NCTN có lường trước được hậu quả của hành vi mình
gây ra hay không? Nếu nhận thức được hậu quả mà vẫn cố tình thực hiện thì mức độ
nguy hiểm càng cao.
Khả năng điều khiển hành vi của mình: NCTN có đủ khả năng tự chủ trong việc kiểm
soát hành vi của mình hay không, có bị tác động, lôi kéo bởi người khác hay không.
1.2.2. Điều kiện gia đình, xã hội:
Hoàn cảnh gia đình, môi trường xã hội tác động đến hành vi phạm tội của NCTN, bao
gồm:
7
Hoàn cảnh gia đình: Gia đình khó khăn, thiếu sự quan tâm, giáo dục của cha mẹ,
người giám hộ có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của
NCTN.
Môi trường xã hội: Bạn bè xấu, môi trường sống không lành mạnh, tiếp xúc với các
thông tin, hình ảnh bạo lực, đồi trụy cũng có thể tác động tiêu cực đến NCTN.
1.2.3. Nguyên nhân, điều kiện phạm tội:
Các yếu tố chủ quan và khách quan dẫn đến hành vi phạm tội của NCTN, bao gồm:

Nguyên nhân chủ quan: Do nhận thức lệch lạc, thiếu hiểu biết pháp luật, bị bạn bè lôi
kéo, kích động, thiếu kỹ năng sống, không kiểm soát được hành vi,…
Nguyên nhân khách quan: Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị bạo hành, xâm hại,
thiếu sự quan tâm, giáo dục từ gia đình, nhà trường, xã hội,...
1.2.4.Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Xét đến tính chất (cố ý, vô ý) và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, cũng như
hậu quả gây ra đối với nạn nhân, xã hội. (Cơ sở pháp lý: Điều 09 BLHS 2015, sửa đổi
bổ sung 2017)
Hành vi càng có tính chất côn đồ, tàn bạo, gây hậu quả nghiêm trọng (như chết người,
thiệt hại tài sản lớn...) thì càng nguy hiểm cho xã hội.
1.2.5. Yêu cầu phòng ngừa tội phạm:
Đánh giá nguy cơ tái phạm của NCTN, khả năng cải tạo để áp dụng các biện pháp
phòng ngừa phù hợp.
Nguy cơ tái phạm cao khi NCTN có nhân thân xấu, không ăn năn hối cải, không có
điều kiện gia đình thuận lợi để giáo dục, cải tạo.
Khả năng cải tạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ nhận thức, thái độ hợp tác,
hoàn cảnh gia đình, sự hỗ trợ từ xã hội,...

Lưu Ý:

Thứ nhất, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với NCTN chỉ được áp dụng khi thật
cần thiết và phải căn cứ vào các tiêu chí nêu trên (độ tuổi, nhận thức, hoàn cảnh gia
đình, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi...).
Thứ hai, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ ba, không áp dụng hình phạt “phạt tiền” đối với người chưa thành niên phạm tội ở
độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi.

8
2. Các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội:

2.1. Hình phạt không tước quyền tự do:


2.1.1. Cảnh cáo:
Đây là hình phạt nhẹ nhất và mang tính cưỡng chế thấp. Hiện nay, BLHS không quy
định điều kiện riêng biệt áp dụng cảnh cáo đối với người chưa thành niên phạm tội. Do
vậy, có thể hiểu điều kiện để áp dụng cảnh cáo đối với người chưa thành niên phạm tội
không có sự khác biệt so với người đã thành niên. Cụ thể, điều kiện áp dụng hình phạt
cảnh cáo là khi người phạm tội đã phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm
nhẹ tại Điều 51 BLHS năm 2015 nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.

2.1.2. Phạt tiền:


Hình phạt này buộc NCTN phải nộp một khoản tiền vào ngân sách nhà nước . Mức
phạt tiền sẽ tùy thuộc vào loại tội phạm, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và
khả năng tài chính của gia đình NCTN. Trong trường hợp NCTN từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội mà có thu nhập hoặc có tài sản riêng, phạt tiền được áp dụng là
hình phạt chính.

Mục đích: Vừa mang tính chất trừng phạt, vừa có tác dụng răn đe, giúp NCTN nhận
thức rõ hơn về hậu quả kinh tế của hành vi phạm tội, đồng thời bù đắp một phần thiệt
hại cho xã hội.
Lưu ý: Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá
một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định.
2.1.3. Cải tạo không giam giữ:
Hình phạt này được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít
nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý.

Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, khi được áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ thì không khấu trừ thu nhập của người đó.

Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một
phần hai thời hạn mà điều luật quy định.

2.1.4.Đưa vào trường giáo dưỡng:


Là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với NCTN phạm tội nhưng chưa đến mức
phải xử lý hình sự hoặc được miễn xử lý hình sự.
Mục đích: giáo dục, rèn luyện, giúp NCTN thay đổi nhận thức, hành vi và tái hòa
nhập cộng đồng.

9
Lưu Ý: Việc đưa NCTN phạm tội vào trường giáo dưỡng là trách nhiệm của cơ quan
có thẩm quyền.

2.2. Hình phạt tước quyền tự do:


Phạt tù có thời hạn:

Phạt tù là hình phạt nghiêm khắc nhất, chỉ được áp dụng đối với NCTN trong trường
hợp thật cần thiết, khi các biện pháp xử lý khác không còn phù hợp.

Thời hạn phạt tù: (Cơ sở pháp lý: Điều 101 BLHS 2015)

Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng
quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.

Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng
quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp
dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.

Điều kiện giảm nhẹ, miễn hình phạt tù: Pháp luật quy định một số trường hợp NCTN
phạm tội có thể được giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt tù, bao gồm:
Thứ nhất, người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ:
Ví dụ: phạm tội do bị cưỡng ép, phạm tội do bị đe dọa, phạm tội do thiếu hiểu
biết, ....
Thứ hai, người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải: Tự thú, khai báo thành
khẩn về hành vi phạm tội của mình, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, tỏ ra hối hận
về hành vi của mình.
Thứ ba, người phạm tội tích cực khắc phục hậu quả: Chủ động khắc phục hậu quả do
hành vi phạm tội gây ra, bồi thường thiệt hại cho nạn nhân, gia đình nạn nhân và xã
hội.
Thứ tư, người phạm tội có nhân thân tốt: Có thành tích học tập, lao động tốt, có nhiều
đóng góp cho gia đình, cộng đồng...

Việc xem xét giảm nhẹ, miễn hình phạt tù cho NCTN phải dựa trên sự đánh giá toàn
diện về các yếu tố trên, đảm bảo tính công bằng, nhân đạo và phù hợp với mục tiêu
giáo dục, cải tạo của pháp luật.

10
Pháp luật luôn ưu tiên các biện pháp giáo dục, cải tạo hơn là trừng phạt đối với NCTN.
Tòa án có thể quyết định không áp dụng hình phạt tù mà cân nhắc áp dụng biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng nếu xét thấy cần một môi trường kỷ luật để giáo dục, cải
tạo được người phạm tội. Điều này nhằm giúp NCTN có cơ hội sửa chữa sai lầm, học
tập, rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội. Đặc biệt, trường giáo dưỡng là môi
trường đặc biệt, nơi có các chương trình giáo dục chuyên biệt, giúp NCTN được trang
bị kiến thức, kỹ năng và định hướng nghề nghiệp.

11
CHƯƠNG 3. Nguyên Nhân Và Thực Trạng Phạm Tội Của Người Chưa Thành
Niên Ở Việt Nam Trong Những Năm Gần Đây

1. Nguyên nhân dẫn đến NCTN phạm tội:

1.1. Nguyên nhân từ bản thân người chưa thành niên:


Đặc điểm tâm sinh lý: Do đang trong giai đoạn phát triển, người chưa thành niên
thường có những thay đổi phức tạp về tâm lý, dễ bị tác động bởi môi trường xung
quanh. Họ có thể có hành vi bộc phát, thiếu suy nghĩ chín chắn, chưa lường trước
được hậu quả do hành vi của mình gây ra.
Thiếu hụt kỹ năng sống: Người chưa thành niên có thể thiếu các kỹ năng sống cần
thiết như kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng kiểm soát cảm
xúc, dẫn đến việc xử lý các vấn đề một cách tiêu cực, vi phạm pháp luật.
Yếu tố tâm lý: Một số người chưa thành niên có thể mắc các vấn đề tâm lý như rối
loạn hành vi, trầm cảm, tự kỷ,... khiến họ khó hoặc gần như không thể làm chủ
được bản thân, từ đó dẫn đến những hành vi phạm tội.

1.2. Nguyên nhân từ gia đình:


Bạo lực gia đình: Bạo lực thể chất, tinh thần từ cha mẹ hoặc người thân có thể
khiến người chưa thành niên có những tổn thương tâm lý, dẫn đến hành vi chống
đối xã hội, vi phạm pháp luật.
Thiếu sự quan tâm, giáo dục của cha mẹ: Cha mẹ bận rộn, ít quan tâm đến con cái,
hoặc có phương pháp giáo dục sai lầm, thiếu thống nhất có thể khiến con cái trở
nên hư hỏng, dễ sa ngã vào con đường phạm tội.
Gia đình tan vỡ: Việc cha mẹ ly hôn, mâu thuẫn thường xuyên có thể khiến con cái
không nhận được đầy đủ tình yêu thương cũng như thiếu sự quan tâm, chăm sóc,
giáo dục. Chính vì vậy, trẻ sẽ có nhận thức lệch lạc, không đúng đắn về cuộc sống
và mọi người xung quanh
Điều kiện kinh tế khó khăn: Gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn, thiếu thốn có
thể khiến người chưa thành niên nảy sinh ý định tham gia vào các hoạt động phi
pháp để kiếm tiền nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân.

12
1.3. Nguyên nhân từ nhà trường:
Công tác giáo dục pháp luật chưa hiệu quả: Việc giáo dục pháp luật cho học sinh
trong nhà trường còn nhiều hạn chế, chưa thực sự hiệu quả, chưa lồng ghép pháp luật
vào các hoạt động giáo dục một cách sinh động, hấp dẫn.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ học chưa phong phú: Hoạt động giáo dục ngoài giờ
học cho học sinh chưa phong phú, thiếu sự thu hút, khiến học sinh dễ sa vào các tệ nạn
xã hội như: cờ bạc, cá độ, nghiện các chất kích thích ( rượu bia, ma túy,...)
Quản lý học sinh chưa chặt chẽ: Việc quản lý học sinh trong nhà trường còn nhiều,
tạo điều kiện cho học sinh vi phạm nội quy, quy định của nhà trường, tham gia các
hoạt động phi pháp.

1.4. Nguyên nhân từ xã hội:


Môi trường xã hội: Môi trường sống xung quanh có nhiều tệ nạn xã hội như cờ
bạc, ma túy, mại dâm,... có thể tác động tiêu cực đến người chưa thành niên, khiến
họ dễ vi phạm pháp luật.
Ảnh hưởng của văn hóa phẩm độc hại: Tiếp xúc nhiều với các văn hóa phẩm độc
hại dưới dạng phim ảnh, sách báo có thể khiến người chưa thành niên có những
nhận thức sai lệch về đạo đức và pháp luật, từ đó dẫn đến hành vi vi phạm.
Sự thiếu quan tâm của cộng đồng: Sự thờ ơ, thiếu quan tâm của cộng đồng đối với
vấn đề người chưa thành niên phạm tội cũng là một trong những nguyên nhân
khiến tình trạng này ngày càng gia tăng.
Ảnh hưởng từ bạn bè: Giao lưu với những người bạn có hành vi tiêu cực, vi phạm
pháp luật có thể khiến người chưa thành niên học theo và có những hành vi tiêu
cực tương tự.
2. Thực trạng NCTN phạm tội:

2.1. Thực trạng xã hội:


Từ “Báo cáo tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội và bị hại trong các vụ án hình
sự năm 2021 tại Việt Nam” của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) phối hợp
với Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) [6] , nhóm nghiên cứu đã có được những thông
tin như sau:

13
Biểu đồ 1. Tỉ lệ của người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố bị can theo độ tuổi

Về tỷ lệ người dưới 18 tuổi bị khởi tố bị can theo độ tuổi: nhóm từ 14 đến dưới
16 tuổi là 303 người (chiếm 5,99 %), nhóm từ 16 đến 18 tuổi là 4756 người (chiếm
94,01%.).

Bảng 1. Số lượng và tỷ lệ tội phạm theo giới tính

Về giới tính, NCTN phạm tội mang giới tính nam là 4865 người (chiếm
96,17%), NCTN phạm tội mang giới tính nữ là 194 người (chiếm 3,83%).

14
Biểu đồ 2. Tỉ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố bị can của 5 địa phương

hàng đầu cả nước

Vào năm 2021, trong tổng số 5.059 vụ án hình sự mà người dưới 18 tuổi là bị
can trên toàn quốc (không bao gồm số người dưới 18 tuổi phạm tội do các cơ quan tiến
hành tố tụng ở cấp Trung ương và trong Quân đội mới khởi tố bị can), một số địa
phương có số người dưới 18 tuổi phạm tội mới bị khởi tố cao là:

Thành phố Hồ Chí Minh: 431 bị can, chiếm 8,52%, là địa phương có số NCTN
phạm tội mới bị khởi tố cao nhất toàn quốc.
Hà Nội: 352 bị can, chiếm 6,96%, là địa phương có số NCTN phạm tội mới bị khởi
tố cao thứ hai toàn quốc.
Thanh Hóa: 209 bị can, chiếm 4,13%, là địa phương có số NCTN phạm tội mới bị
khởi tố cao thứ ba toàn quốc.
Khánh Hòa: 165 bị can, chiếm 3,26%, là địa phương có số NCTN phạm tội mới bị
khởi tố cao thứ tư toàn quốc.
Gia Lai: 164 bị can, chiếm 3,24%, là địa phương có số NCTN phạm tội mới bị
khởi tố cao thứ năm toàn quốc.

15
Biểu đồ 3. Tỉ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố bị can từ năm 2017 đến
năm 2021 theo các tội danh phổ biến nhất

Một số tội danh khởi tố đối với số người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố bị can như
trên từ năm 2017 đến năm 2021 có năm tăng, năm giảm. Tuy nhiên, đến năm 2021 có
một số tội có tỉ lệ khởi tố tăng cao so với năm 2020, cụ thể: Tội gây rối trật tự công
cộng (Điều 318) tăng cao nhất so với năm 2020 (tăng 396 bị can, tương đương
103,66%); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác (Điều
134) tăng cao thứ hai (tăng 293 bị can, tức tăng 37,23%).

16
Bảng 2. Số lượng và tỉ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố bị can

theo trình độ văn hóa

Nhìn chung, đa phần NCTN phạm tội bị khởi tố đã có trình độ trung học cơ sở
(THCS), tức là đã tốt nghiệp THCS, chiếm hơn một nửa số người phạm tội (55,33%),
xếp sau là nhóm NCTN có trình độ THPT, chiếm 26,19%. Ngoài ra, số lượng NCTN
phạm tội không biết chữ và đã tốt nghiệp Tiểu học lần lượt là 118, 817 người và tỷ lệ
lần lượt là 2,33% và 16,15%.

2.2. Thực trạng về chính sách pháp luật đối với NCTN phạm tội:
2.2.1.Thành tựu đã đạt được khi xử lý NCTN phạm tội:

Trong những năm qua, công tác xử lý NCTN vi phạm pháp luật tại Việt Nam đã
đạt được một số thành tựu đáng kể, thể hiện qua các điểm sau:

Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện:


Nhiều văn bản pháp luật được ban hành: như Luật Trẻ em (2016), Bộ luật Hình sự
2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), Nghị định 115/2020/NĐ-CP về xử lý vi phạm hành
chính đối với người chưa thành niên, v.v., đã cụ thể hóa các quy định về xử lý
người chưa thành niên VPPL, đảm bảo tính thống nhất và phù hợp với thực tiễn.
Thiết lập cơ chế phối hợp: Quy định về việc thành lập Hội đồng tư pháp người
chưa thành niên tại cấp tỉnh, huyện, xã/phường đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc xử lý người chưa thành niên vi
phạm pháp luật.

Việc tổ chức thực hiện được tăng cường:


17
Mở rộng các cơ sở giáo dục, rèn luyện: Hệ thống các trường giáo dưỡng, cơ sở
giáo dục, rèn luyện cho NCTN vi phạm pháp luật được mở rộng, đáp ứng nhu cầu
giáo dục, rèn luyện cho các em.
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục: Nội dung giáo dục được đổi mới, chú
trọng rèn luyện kỹ năng sống, định hướng nghề nghiệp cho NCTN vi phạm pháp
luật.
Tăng cường công tác tuyên truyền: Việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng
ngừa, xử lý tội phạm NCTN được đẩy mạnh, giúp nâng cao nhận thức của cộng
đồng về vấn đề này.

Hiệu quả công tác xử lý được nâng cao:


Tỷ lệ người chưa thành niên tái phạm giảm: Nhờ các biện pháp giáo dục, rèn luyện
phù hợp, tỷ lệ NCTN tái phạm sau khi ra khỏi các cơ sở giáo dưỡng, rèn luyện có
xu hướng giảm.

Một số thành tựu tiêu biểu khác:


Có nhiều mô hình giáo dục, rèn luyện hiệu quả: Một số mô hình giáo dục, rèn
luyện hiệu quả như: "Giáo dục nhân cách cho thanh thiếu niên vi phạm pháp luật",
"Giáo dục kỹ năng sống cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật", v.v., đã
được triển khai và đạt được kết quả tích cực.
Có nhiều tấm gương điển hình trong việc tái hòa nhập cộng đồng: Nhiều cá nhân
là NCTN phạm tội sau khi được giáo dục, rèn luyện đã trở thành người có ích cho
xã hội.

2.2.2.Những bất cập và hạn chế trong chính sách xử lý NCTN phạm tội:
Quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Tại Việt Nam, người từ 14 tuổi trở
lên phải chịu trách nhiệm đối với một số tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng. Trong khi đó, độ tuổi chịu TNHS của 5 quốc gia trong khối ASEAN là
Singapore, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Indonesia trong pháp luật của các quốc
gia này khá thấp. Cụ thể: độ tuổi tối thiểu phải chịu TNHS của Singapore là từ 7
tuổi trở lên, của Malaysia là từ 10 tuổi trở lên, của Philippines là từ 9 tuổi trở lên,
của Thái Lan là từ 7 tuổi trở lên. Pháp luật hình sự Indonesia mặc dù không quy
định rõ độ tuổi chịu TNHS nhưng có quy định người dưới 15 tuổi mà phạm tội thì
cách xử lý sẽ khác với người từ đủ 15 tuổi trở lên phạm tội. Việc giảm độ tuổi chịu
TNHS đối với người dưới 18 tuổi theo nhóm nghiên cứu là cần thiết trong việc
giáo dục và tăng cường ý thức pháp luật, để pháp luật đủ sức răn đe và điều chỉnh
một cách hợp lý hành vi của các em trong các quan hệ xã hội.

18
Chưa thực sự chú trọng đến tâm lý của NCTN: NCTN thường có những thay đổi
phức tạp, chưa có sự ổn định về tâm lý nên dễ có những hành động bộc phát mà
ngay chính bản thân họ ở thời điểm đó cũng chưa ý thức được hành vi của mình là
sai trái. Bên cạnh đó, trong công tác điều tra, xử lý, cá nhân hay cơ quan có thẩm
quyền cần phải có thái độ tiếp cận hợp lý để tránh làm tổn thương, tạo các cú sốc
tâm lý lớn đối với NCTN, gây hệ lụy xấu đến sự phát triển tâm lý của các em sau
này.

19
CHƯƠNG 4. Giải Pháp Giúp Hạn Chế Tình Trạng Người Chưa Thành Niên
Phạm Tội
Trong những năm gần đây, tình hình vi phạm pháp luật ở người chưa thành niên càng
diễn ra thường xuyên hơn và có nhiều diễn biến phức tạp về mức độ vi phạm. Trong
thời kỳ công nghệ số hiện nay, trẻ em có cơ hội tiếp cận sớm với Internet, đặc biệt là
các trang mạng xã hội (nơi chứa đựng những nguồn thông tin không lành mạnh), đã
tác động lớn đến nhận thức của trẻ, từ đó dẫn đến những hành vi tiêu cực thậm chí là
những hành vi VPPL . Trước tình hình đó đòi hỏi Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể cần
có những biện pháp kịp thời, hiệu quả hơn nữa nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi cũng như răn
đe đối với các đối tượng về tình trạng này. Hành vi phạm tội của người chưa thành
niên thường xảy ra một cách bồng bột, thiếu suy nghĩ, thậm chí không cần suy nghĩ
đến hậu quả mà nó để lại. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp đối với người dưới 18
tuổi phạm tội như thế nào để vừa đảm bảo được quyền và lợi ích của cá nhân vừa đảm
bảo được quyền và lợi ích của cộng đồng, xã hội. Đồng thời phải đảm bảo lấy mục
đích giáo dục, uốn nắn là chính để đưa đối tượng này trở thành công dân có ích cho xã
hội. Đây là một vấn đề quan trọng cần phải được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng.

1. Kiến nghị về hoàn thiện chính sách của pháp luật về trách nhiệm hình sự của
NCTN phạm tội: [7]

1.1. Về xác định độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội:
Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về quy định
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, tuổi chịu trách nhiệm hình sự được tính theo tuổi
tròn. Nhưng vấn đề đặt ra đó là việc xác định thời điểm rõ ràng về thời gian như cách
tính ngày, tháng một cách cụ thể để áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội.
Trường hợp chúng ta có đủ điều kiện chính xác về ngày tháng năm sinh (thường thông
qua giấy khai sinh) thì sẽ không có gì để nói về vấn đề này. Nhưng trong thực tế công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay, có rất nhiều trường hợp chưa có căn cứ
rõ ràng về xác định ngày tháng năm sinh đã gây ảnh hưởng đến việc ban hành các hình
phạt mà đối tượng phạm tội phải gánh chịu.

Quán triệt nội dung này, tại Công văn số 81/2002/TANDTC [8] đã quy định về cách
tính thời gian xác định độ tuổi. Nếu xác định được chính xác tháng sinh nhưng chưa
xác định được ngày sinh trong tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày
sinh của bị can, bị cáo. Nếu xác định được quý cụ thể của năm sinh nhưng không xác
định được ngày nào hay tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối
cùng của quý làm ngày sinh của bị can, bị cáo. Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm
hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong nửa đầu năm hay
nửa cuối năm thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó
làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy ngày 31
20
tháng 12 của năm đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo để xem xét trách nhiệm hình sự
đối với bị can, bị cáo. Tuy nhiên, văn bản hướng dẫn này mới chỉ nêu ra cách xác định
mốc thời gian để tính tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi không có đủ điều kiện xác định
được chính xác ngày sinh, tháng sinh hoặc quý sinh mà chưa đề cập đến trường hợp
người chưa thành niên phạm tội có sự tranh chấp về năm sinh của người đó.

Thông thường đối với những trường hợp như đã nêu ở trên, Tòa án thường sẽ căn cứ
vào kết quả giám định của các cơ quan có thẩm quyền giám định ở Việt Nam. Hầu hết
các trường hợp có thể xác định chính xác năm sinh, những trường hợp phức tạp thì xác
định trong khoảng thời gian và độ sai lệch năm sinh khoảng từ 1 đến 2 năm. Còn việc
giám định để xác định tháng sinh, có trường hợp cho kết quả chính xác tới tháng,
nhưng đa số trường hợp chỉ xác định trong một khoảng thời gian nhất định với mức sai
lệch từ 3 đến 6 tháng. Như vậy, việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong
trường hợp căn cứ vào kết quả giám định với mức sai số như trên chưa được pháp luật
quy định. Trong những trường hợp như vậy, việc vận dụng để giải quyết thường chỉ
mang tính tùy nghi. Do vậy, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể trường hợp không xác
định được chính xác năm sinh mà phải căn cứ vào kết quả giám định theo hướng việc
xác định đó dựa trên nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo.

1.2. Về việc áp dụng hình phạt:


Hình phạt là biện pháp cưỡng chế đối với hành vi phạm tội thuộc thẩm quyền của cơ
quan tư pháp. Tuy vậy, việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên trong
BLHS năm 2015 là chưa thật sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý cũng như giải pháp
giáo dục đối với lứa tuổi này. Một ví dụ cụ thể là hình phạt cảnh cáo (khoản 1, Điều 98
BLHS 2015). Hình phạt này thể hiện sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với
người phạm tội. Khi hội đồng xét xử tuyên án xong, cũng có nghĩa rằng hình phạt
được thi hành xong. Vì vậy không có các cơ chế theo dõi, hỗ trợ người chưa thành
niên phạm tội nhận thức được lỗi lầm mình gây ra, cho nên không phải lúc nào áp
dụng hình phạt cảnh cáo cũng sẽ phát huy được hiệu quả. Cũng như hình phạt tiền
(Khoản 2, Điều 98 BLHS 2015) cũng là vấn đề cần phải suy nghĩ. Hình phạt này đánh
vào lợi ích vật chất của người phạm tội. Nhưng đa số người chưa thành niên phạm tội
đều không có tài sản và chưa nhận thức đầy đủ giá trị đồng tiền, việc chi trả cho hành
vi phạm tội phụ thuộc vào gia đình hoặc người đại diện của người phạm tội. Do vậy,
áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên là không hợp lý.

Mặt khác, ranh giới giữa tội phạm và vi phạm hành chính (bảo kê mại dâm, môi giới
mại dâm người chưa thành niên,...) chưa thực sự rõ ràng. Ngoài ra, BLHS năm 2015
chưa quy định tội danh riêng, cụ thể về hành vi sản xuất, tàng trữ, lưu hành những văn
hoá phẩm đồi trụy trong đó sử dụng hình ảnh của người chưa thành niên để khiêu dâm,
mà chỉ có tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147 BLHS)
và tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 146 BLHS). Do vậy, cần phải ban hành
21
một điều luật riêng về tội phạm cũng như các hình phạt đối với hành vi sản xuất, tàng
trữ, lưu hành những văn hóa phẩm có sử dụng hình ảnh người chưa thành niên để
khiêu dâm vào BLHS năm 2015.

1.3. Về biện pháp bảo vệ người chưa thành niên trong quá trình tham gia tố
tụng:
Mặc dù BLHS năm 2015 đã dành một chương để quy định về NCTN phạm tội, nhưng
các quy định này chưa đáp ứng được nhu cầu về hỗ trợ cũng như bảo vệ NCTN phạm
tội. Trong quá trình tham gia tố tụng của NCTN với tư cách là bị cáo, bị can,.. dù ở
giai đoạn điều tra nào hay ở bất cứ mức độ phạm tội nào thì đối tượng này cũng cần
được sự quan tâm đúng mức. Phải đảm bảo về bí mật đời tư của NCTN, đặc biệt khi
họ là phạm nhân trong các vụ án hình sự chưa được pháp luật quy định đầy đủ, điều
này dễ gây tổn thương cho NCTN trong quá trình tố tụng. Vì vậy, cần phải có những
giải pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích của đối tượng này trong quá trình tham
gia tố tụng.

2. Giải pháp về cơ chế phối hợp, tổ chức giữa các bên liên quan trong công tác
hạn chế người chưa thành niên phạm tội:
Với thực trạng phạm tội ngày càng gia tăng của NCTN hiện nay, nếu chỉ có các giải
pháp được ban hành trong các văn bản vi phạm pháp luật thì thật sự sẽ rất khó để giảm
tình trạng này. Vì vậy, rất cần sự chung tay từ phía gia đình, nhà trường, các cơ quan
đoàn thể và các tổ chức chính trị xã hội, cần có nhiều hơn nữa những giải pháp tuyên
truyền, vận động mọi người, mọi lứa tuổi học tập, chấp hành nghiêm các quy định về
pháp luật nhằm tạo cho các em một môi trường học tập, sinh hoạt lành mạnh, tránh xa
các vấn đề tiêu cực và tệ nạn xã hội, tạo điều kiện tốt nhất cho các em phát triển cả về
vật chất lẫn tinh thần.

2.1. Về phía gia đình:


Gia đình là môi trường giáo dục gần gũi nhất đối với trẻ em, là nơi hình thành nên
nhân cách của mỗi cá nhân. Vì vậy, để hạn chế tình trạng con em mình vi phạm pháp
luật thì mỗi gia đình cần phải đẩy mạnh biện pháp giáo dục, nâng cao vai trò, trách
nhiệm trong việc quản lý và giáo dục trẻ chưa thành niên.
Các bậc cha mẹ nên lựa chọn những phương pháp giáo dục đúng đắn, phù hợp với
từng giai đoạn và đặc điểm tâm sinh lý của con mình. Bởi lẽ, cha mẹ là những nhà
giáo đầu tiên cho sự hình thành nên nhân cách của con trẻ. Vì vậy, về cơ bản, cha mẹ
cần trở thành tấm gương mẫu mực trong mọi lĩnh vực, cần phải xây dựng môi trường
giáo dục dựa trên các nguyên tắc trật tự, kỷ cương, dân chủ, tạo điều kiện cho con em
có thể phát triển kỹ năng tư duy và khả năng lập luận của bản thân. Bên cạnh đó, cha

22
mẹ cần trang bị cho con em mình kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề, đặc biệt là
phải phân biệt được các hành vi tốt xấu để trẻ có thể tự kiềm chế, tự kiểm soát và tự
điều chỉnh hành vi, thái độ của mình sao cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức, xã hội.

Về trách nhiệm của một bậc phụ huynh, cha mẹ cần trang bị cho mình những kiến thức
về pháp luật, tìm hiểu về tình trạng, nguyên nhân dẫn đến các hành vi vi phạm pháp
luật để có thể định hướng, giáo dục cho trẻ. Các bậc cha mẹ phải hướng dẫn, truyền
đạt cho con em mình những kiến thức cơ bản về quy định của pháp luật đối với từng
loại tội phạm, hậu quả pháp lý phải gánh chịu khi phạm tội và ảnh hưởng của hành vi
đó đối với bản thân, gia đình và xã hội.

2.2. Về phía nhà trường:


Nhà trường là môi trường xã hội thu nhỏ, nơi mà các em được tiếp xúc với bạn bè và
thầy cô, được đào tạo, trang bị cho bản thân về kiến thức, ý thức chấp hành kỷ luật,
cách ứng xử với mọi người xung quanh dưới sự quản lý, giám sát của nhà trường. Vì
vậy, nhà trường cần có các biện pháp quản lý một cách khoa học và chặt chẽ đối với
học sinh. Việc làm tốt công tác này sẽ là tiền đề giúp các em có ý thức chấp hành kỷ
luật, hình thành cho các em kỹ năng sống và ý thức chấp hành nội quy của trường lớp.
Bên cạnh đó, thầy cô cần phải nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác
giảng dạy và tuyên truyền, hướng dẫn học sinh chấp hành nghiêm túc nội quy nhà
trường. Đồng thời, thầy cô phải thực sự gần gũi với các em học sinh, dành sự quan
tâm sâu sắc đến các em, đặc biệt là những học sinh có hoàn cảnh khó khăn hay những
học sinh cá biệt trong trường, lớp. Bên cạnh đó, thầy cô cần nâng cao công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, giữ mối liên hệ chặt chẽ với phụ huynh để công tác quản lý
được toàn diện hơn. Có như vậy, các em mới có cơ hội để hoàn thiện bản thân mình.

2.3. Các tổ chức và bộ ngành liên quan:


Cần thành lập cơ quan Tòa án để giải quyết các vụ án cho NCTN và phải có một đội
ngũ cán bộ riêng biệt phụ trách công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với người chưa
thành niên.
Ưu tiên hàng đầu, mang tính cấp thiết trong công tác xét xử hiện nay là thành lập cơ
quan Toà án cho NCTN. Đây là giải pháp hữu hiệu được coi như một công cụ để có
thể phòng, chống tội phạm ở lứa tuổi này một cách hiệu quả. Bởi lẽ, NCTN có tâm
sinh lý chưa hoàn thiện, nhận thức hạn chế, chịu nhiều tác động từ môi trường, điều
kiện, hoàn cảnh và hành vi của người lớn. Trong khi đó, thực tiễn xử lý đối với NCTN
phạm tội hiện nay đang có nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Các quy định về xử lý NCTN

23
phạm tội chưa được hoàn thiện, quy định về trình tự , thủ tục đối với NCTN tham gia
tố tụng với vai trò nạn nhân, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhân chứng,…
chưa được chi tiết và rõ ràng [9].
Cùng với việc thành lập Tòa án cho người chưa thành niên, thì chúng ta cũng cần phải
chú trọng đào tạo đội ngũ những người tiến hành tố tụng cả Điều tra viên, Kiểm sát
viên và Thẩm phán riêng biệt về tư pháp người chưa thành niên được trang bị những
kiến thức cần thiết để nắm bắt và hiểu biết về tâm lý học cũng như về khoa học giáo
dục khi xét xử đối với các bị cáo là người chưa thành niên phạm tội [10].
Bên cạnh đó, cần tiến hành các biện pháp theo từng giai đoạn để hình thành các tổ/
nhóm chuyên trách xử lý các trường hợp vi phạm của người chưa thành niên. Bao gồm
thực hiện quá trình nghiên cứu về mức độ khả thi, sau đó tiến hành thí điểm ở các
thành phố lớn và địa bàn trọng điểm khác [11].
Thực hiện nghiêm túc các trình tự, thủ tục được quy định trong việc xử lý người chưa
thành niên phạm tội, theo các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử tại chương X Bộ luật
tố tụng hình sự 2015, Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự, nghị quyết số
03/2004/NQHĐTP ngày 02/10/2004 của Tòa án nhân dân tối cao và một số văn bản
khác liên quan đến việc bảo đảm quyền cũng như đường lối xử lý đối với người chưa
thành niên phạm tội.
Tòa án nhân dân các cấp đặc biệt là ở cấp huyện, cần chú ý tăng cường xét xử lưu
động các vụ án tại địa phương nơi có người chưa thành niên phạm tội gây ra, chú trọng
hình thức, thủ tục tiến hành mang tính chất vừa tuyên truyền, giáo dục vừa trừng trị
những kẻ chủ mưu, cầm đầu. Bên cạnh đó, cần áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm n
khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 và có mức án nghiêm khắc đối với các đối
tượng đã có hành vi lôi kéo, rủ rê, kích động người chưa thành niên phạm tội.

24
KẾT LUẬN
Trẻ em là tương lai của đất nước, là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, tình trạng người chưa thành niên phạm tội đang có xu hướng ngày càng gia
tăng và diễn biến phức tạp, gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực cho xã hội. Để giải quyết vấn
đề này, cần có sự chung tay của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các tổ chức
xã hội và gia đình, trong đó cần có sự quan tâm đặc biệt đến công tác giáo dục, định
hướng cho trẻ em, giúp các em hiểu biết pháp luật, có kỹ năng sống, tránh xa các tệ
nạn xã hội. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về trẻ em, tăng cường công
tác quản lý, giáo dục đối với trẻ em có nguy cơ phạm tội. Có như vậy, chúng ta mới có
thể bảo vệ được trẻ em, giúp các em phát triển toàn diện và trở thành những công dân
có ích cho xã hội.

25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hồ Chí Minh (1945), "Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa" trong Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia -
Sự thật, 2011.

[2] https://giadinh.bvhttdl.gov.vn/luat-phap-chinh-sach-ve-quyen-cua-tre-em-va-vai-
tro-cua-gia-dinh-cha-me-trong-cham-soc-giao-duc-bao-ve-tre-em/

[3] https://luatminhkhue.vn/thuoc-tinh-cua-phap-luat-la-gi.aspx

[4] https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/phan-loai-toi-pham-theo-bo-luat-hinh-su-
2015-5487

[5] https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/ho-tro-phap-luat/tu-van-
phap-luat/39789/nguoi-thanh-nien-chua-thanh-nien-la-nguoi-bao-nhieu-tuoi

[6] Cục thống kê Tội phạm và Công nghệ thông tin trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân
tối cao (2023), Báo cáo tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội và bị hại trong các vụ
án hình sự năm 2021 tại Việt Nam, Hà Nội.

[7] Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên (pbgdpl.gov.vn)

[8] https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Linh-vuc-khac/Cong-van-81-2002-TANDTC-
giai-dap-van-de-nghiep-vu-49750.aspx

[9] Thủ tục tố tụng đối với trẻ em và người chưa thành niên – Công ty luật TNHH
Chuẩn A (salaw.com.vn)

[10] Phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua hoạt động xét xử của Tòa án –
Hạn chế và kiến nghị (tapchitoaan.vn)

[11] Bộ Tư pháp (2019), Báo cáo pháp luật về phòng ngừa, xử lý, phục hồi, tái hòa
nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật và tình hình người
chưa thành niên vi phạm pháp luật tại Việt Nam, Hà Nội.

You might also like