Professional Documents
Culture Documents
Soạn VH Châu Á
Soạn VH Châu Á
Cảnh thiên nhiên khoáng đạt cũng chính là những khách thể hay xuất hiện trong thơ Lí Bạch. Ta có thể thấy
điều này qua rất nhiều bài thơ: “Vọng Thiên Môn sơn”, “Tảo phát Bạch Đế thành”, “Hoành giang từ”,…
Trong bài “Tảo phát Bạch Đế thành” – Sáng ra đi từ thành Bạch Đế, tác giả đã tái hiện lại khung cảnh thiên
nhiên rất tươi đẹp với con thuyền nhẹ nhàng không vướng bận như tâm hồn khoáng đạt không bận sự đời
của ông – “khinh chu” – lướt trên sông mà đôi bờ vượn hót không dứt và con thuyền đi qua “vạn trùng san”
– muôn trùng núi non – một cách hết sức thư thái:
“Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lí Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san”
Dịch thơ:
Sớm từ Bạch Đế rực ngàn mây
Muôn dặm Giang Lăng tới một ngày
Vượn hót ven sông nghe rỉ rả
Thuyền qua muôn núi nhẹ như bay.
CUỐI CÙNG, THIÊN NHIÊN TRONG THƠ LÍ BẠCH MANG ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO
GIÁO.
Tư tưởng Đạo giáo thấp thoáng ẩn hiện trong nhiều bài thơ của Lí Bạch. Điều này thể hiện rõ nhất qua việc
những hình ảnh thiên nhiên được miêu tả trong thơ ông có sự lung linh, huyền ảo, chập chờn giữa ranh giới
của cái thực và cái ảo. Thực mà ngỡ là hư, hư mà ngỡ là thực, nghi nghi hoặc hoặc giữa thực và ảo giống
như trong kinh của Đạo gia có kể tích “Trang Chu mộng điệp” (Trang Chu không biết mình đã hóa thành
bướm hay bướm đã hóa thành mình trong giấc mộng của chính mình). Ta sẽ nói về điều này qua hai bài thơ
tiêu biểu là bài “Vọng Lư sơn bộc bố” và “Tĩnh dạ tư”.
Ở bài “Vọng Lư sơn bộc bố”, cái thực thực hư hư được thể hiện rõ qua hai câu cuối của bài:
“Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên”
Dịch là:
Dòng chảy phi thẳng xuống từ (trên cao) ba ngàn thước
Ngờ là dải Ngân Hà rơi (xuống) từ chín tầng mây.
Cái thực và cái hư ở đây chính là hình ảnh dòng chảy của thác nước từ trên cao xuống, cái hư ở đây chính là
hình ảnh dải Ngân Hà tuột khỏi mây rơi xuống. Cảnh ở đây chính là cảnh thực nhưng được kì ảo hóa qua cái
hư, sự ảnh hưởng của Đạo giáo thể hiện ở điểm này: nghi hoặc cái đang nhìn thấy (thác nước) để rồi tưởng
đó là cái hư cấu (dải Ngân Hà), và biết đâu nó lại là cái hư hiện hình (Ngân Hà) thực còn cái đang thấy trước
mặt lại chỉ là cái hư ? Tương tự như vậy, ở bài “Tĩnh dạ tư” sự nghi hoặc giữa cái thực và ảo được hiện thực
hóa qua hình ảnh ánh trăng sáng trên đầu giường và sương trên mặt đất. Không biết là sương hay ánh trăng
sáng trên đầu giường mình đang nằm:
“Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương”
Dịch là:
Trước giường trăng sáng tỏ
Ngờ là sương trên đất. Biết đâu đó là ánh trăng soi thật, hay biết đâu đó lại là sương gieo trên mặt đất, thật
khó mà biết được. Chính sự nghi hoặc, hư hư thực thực này đã tạo nên nét đặc sắc phong cách thơ Lí Bạch.
4. Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của bài thơ “ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ
Đỗ Phủ là cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa, ông sống vào giai đoạn cực thịnh sau đó là suy
vong của đời Đường, nên đã chứng kiến tận mắt chiến tranh liên miên, thiên tai địch hoạ, bao cảnh thương
tâm, khổ cực của dân chúng dưới chế độ phong kiến đương thời. Tất cả những cảnh ngộ éo le ấy trong đó có
bản thân nhà thơ đều được ghi lại đầy đủ và rõ nét trong hầu hết thơ của ông. Ngoài giá trị hiện thực lịch sử
to lớn, còn thể hiện cái nhìn yêu thương đối với nhân dân lao động. Bài Bài ca nhà tranh bị gió thu phá đã
phản ánh được điều này.
Bài thơ này được xếp vào những bài thơ hay nhất của ông. Vào những năm cuối đời sau khi đã nếm trải đủ
những tủi cực, đắng cay của cuộc đời bôn ba thiên hạ. Ông trở về sống ở Thành Đô, gia cảnh của ông vẫn
cực khổ bần hàn, nghèo túng. Được bạn bè giúp đỡ, ông đã có một căn nhà tranh bên cạnh Khe Cán Hoa
phía Tây Thành Đô.
Căn nhà tranh ấy là đối tượng miêu tả trong sự chống đỡ, vật lộn với trận thu phong.
Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương xa.
Đoạn thơ là bức tranh về một trận thu phong vào tháng tám Gió thét già. Qua cách kể của tác giả ta hình
dung trận gió thu rất mạnh, trong phút chốc những tấm tranh kia bị lật tung bay khắp mọi nơi. Có mảnh tốc
bay cao, bay thấp, bay xa, bay gần rải khắp bờ, treo tót ngọn cành cây, quay lộn vào mương... Thật là trớ
trêu cho cảnh ngộ của ông già Đỗ Phủ, ngước mắt nhìn theo những tấm tranh bị gió cuốn mà lòng xót xa và
bất lực. Vậy là thiên nhiên vô tình cũng chẳng buông tha cho người áo vải bao năm tháng bôn ba mưu sinh
giờ đây mới có được ngôi nhà tranh trú mưa trú nắng.
Những năm đó loạn An Sử vẫn còn rất khốc liệt, đời sống nhân dân vô cùng cơ cực, li tán, chết đói đẫy rẫy.
Nhà nhà, người người bị ném vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Có những gia đình mà đến hơn một nửa bị
chết trong khói lửa sa trường.
Van rằng: có ba trai
Nghiệp thành đều đi thứ
Một đứa gửi thư nhắn
Hai đứa vừa chết trận
Đứa chết đành thôi rồi
Đứa còn đâu chắc chắn.
(Viên Lại ở Thạch Hào)
Có ba trai phải tòng quân, hai đứa chết trận, đứa còn biết sống chết ra sao. Rồi cả bà lão đã gần đất xa trời
cũng phải ra chốn Hà Dương. Nghèo khổ, túng bấn cả con dâu không còn quần áo lành lặn. Hiện thực xã hội
là như vậy. Một xã hội mà đảo điên, loạn li như vậy thì chắc chắn đạo đức suy đồi xuống cấp nghiêm trọng.
Căn nhà đã bị gió thu phá sạch, lũ trẻ thôn Nam nghịch ngợm quá mức kéo nhau đến cướp tranh đi mất. Nhà
thơ già yếu, chân chậm mắt kém làm sao đuổi được.
Môi khô, miệng cháy gào chẳng được
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!
Cảnh ngộ cười ra nước mắt, chống gậy quay về ngôi nhà tuềnh toàng mà lòng đau đớn, xót xa. Những bước
chân mỏi mệt, đắng cay và bất lực, tràn lên tận cuống họng mà không nói thành lời.
Trong lòng tác giả đang oán hận và trách móc, có chăng lũ trẻ tinh nghịch, đói nghèo thất học tràn lan. Lấy
ai nuôi dạy chúng khi:
Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ,
Mở cõi nhà Vua ý chưa bỏ...!
Hay:
... Cửa son rượu thịt ôi,
Ngoài đường, xương chết buốt!
Sự trớ trêu trong cảnh ngộ của Đỗ Phủ không chỉ là thu phong tốc mái căn nhà tranh mà về đêm thêm một
tai hoạ mới. Mưa thu dầm dề, sùi sụt, dai dẳng kéo dài suốt đêm, kéo theo cái lạnh càng thêm lạnh. Nhà dột
lung tung khác chi ở ngoài trời. Chăn, mền cũ, bị con quẫy đạp rách. Mãi chưa sáng... mưa mãi không tạnh...
làm sao nhà thơ có thể ngủ được. Ông trằn trọc suốt đêm trong mệt nhọc, đói rét, lo lắng, buồn rầu, thương
vợ, thương con.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,
Đêm dài ướt át sao cho trót.
Đêm dài như dài thêm, ông già cũng chỉ đành cay đắng, ấm ức và bất lực ngồi đếm từng nhịp trống canh.
Ta thấy hiện lên trên khuôn mặt nhà thơ sự đau khổ, cay đắng. Một kẻ sĩ có học thức mà công danh thì lận
đận, cuộc đời thì long đong, túng bấn khổ cực. Ông trách mình đã chẳng giúp gì cho vợ con và gia đình
trong cảnh nghèo khổ ấy. Băn khoăn trăn trở hơn là kẻ sĩ mà chẳng giúp gì được cho đời, chiến tranh liên
miên, dân chúng loạn lạc cực khổ. Càng nghĩ ông càng phê phán và lên án chiến tranh, lên án xã hội phong
kiến gây bao cảnh đời vất vả như chính gia đình tác giả. Nỗi khổ về vật chất và tinh thần của Đỗ Phủ cũng là
cái khổ chung của nhân dân lao động, của các nhà nho, trí thức thời đó. Sự khốn cùng của gia đình tác giả là
chứng tích cho một thời kỳ lịch sử xã hội Trung Quốc hay đó chính là xã hội thời Đường thu nhỏ lại. Chỉ
đơn thuần là nhà bị gió phá, mưa dột nghèo túng nhưng bài thơ có giá trị hiện thực to lớn, phản ánh nhiều
mặt đang nóng bỏng của xã hội Trung Quốc lúc đó. Những nỗi đau của dân đen ông cũng đã từng chứng
kiến nếm trải để rồi từ hiện thực của gia đình, xã hội, nhà thơ thể hiện khát vọng hoà bình, dân chúng ấm no:
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
Cùng với giá trị hiện thực sâu sắc của bài thơ, khổ thơ cuối thể hiện sâu sắc khát vọng cao đẹp, ước mơ cao
cả, vị tha. Nhà mình thì dột nát, sắp đổ đến nơi, biết bao giờ dựng lại được? Vậy mà ông luôn nghĩ tới tương
lai, không hề nghĩ cho mình, gia đình, lại nghĩ đến ngôi nhà chung, to cao, rộng rãi, vững chắc muôn nghìn
gian, bất chấp mưa nắng, vững như thạch bàn dành cho muôn nghìn dân đang đói rách, cơ cực bần hàn trú
ngụ. Dù đau khổ chất chồng, nhưng không dập tắt được nhân tính, không làm mất được niềm tin, con người
không bị hoàn cảnh đè bẹp mà ngạo nghễ vượt lên trên hoàn cảnh. Thương người là nhân, yêu người là ái.
Lòng nhân ái của Đỗ Phủ thật cảm động và thiết thực cụ thể. Điều cao cả và đáng kính trọng hơn nữa là ở
chỗ mơ ước ấy mang tinh thần vị tha tới mức xả thân vì người khác. Ông vui lòng chịu chết cóng, chết rét để
có được ngôi nhà trong mơ ấy.
Thực tế xưa nay không có ngôi nhà rộng muôn ngàn gian như thế. Khổ thơ được sáng tạo bằng biện pháp tu
từ so sánh và thậm xưng đế diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dạt dào, làm sáng bừng lòng nhân
ái bao la của một con người từng trải qua bao bất hạnh giữa thời loạn lạc. Vì vậy nhà thơ mong mỏi ai ai
cũng được sống cuộc sống yên ấm hạnh phúc.
Dù đã qua đi hơn mười hai thế kỷ nhưng bài thơ này vẫn giữ được cho mình chỗ đứng trong trái tim mỗi
chúng ta bởi vì giá trị hiện thực và tính nhân đạo bao la luôn toả sáng trong đó.