Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 16

1.

Lý Bạch nhà thơ lãng mạn:


Trong lịch sử Trung Quốc, triều đại nhà Đường có một vai trò quan trọng và là xã hội phong kiến hưng thịnh
nhất đồng thời cũng là đỉnh cao văn hóa của văn minh nhân loại. Đây cũng là thời kì phục hưng của thơ ca,
mở đường cho sự phát triển với hai hình thức thơ phổ biến là cổ thể và cận thể với những sự cách tân quan
trọng. Về mặt thơ Đường, xét trên phương diện nội dung và phong cách biểu hiên gồm bốn phái:
- Phái biên tái: lấy đề tài chủ yếu của cuộc sống, nơi biên ải, gắn liền với các tướng sĩ binh sĩ, đang làm
nhiệm vụ nơi biên cương phía Bắc.
- Phái điền viên-sơn thủy hưu tình: ca ngợi cuộc sống ẩn dật nơi thôn xa xóm vắng, ca ngợi cảnh sắc thiên
nhiên thanh tịnh êm đềm
- Phái hiên thực:lấy hiện thực cuộc sống trong thời loạn An Sử phản ánh sự bất công của chiến tranh tranh
giành quyền lực khiến cuộc bình yên của những dân lành bị đảo lộn.
- Phái lãng mạn :nổi bật lên với khất vọng và ước mơ táo bạo đối lập với hiện thưc đen tối của thời đại,
phong cách bay bổng hào phóng.
Và Lý Bạch là người tiêu biểu nhất cho phái thơ lãng mạn. Trong thơ ông ta cảm nhận được một tâm hồn
bay bổng, một sức mạnh tinh thần phản kháng, mang đâm sắc thái lãng mạn.
Ông hấp thu văn hóa tinh thần dân gian và các nhà thơ cổ diển đương thời khác tạo nên phong cách riêng
cho mình. Ông là một nhà lãng mạn yêu đất nước, yêu nhân dân tiếp sau khuất nguyên. Chẳng thế mà nhà
nghiên cứu Hồ Ứng Lân, đời Minh nhận xét: thơ Lý Bạch “không có ý làm cho tinh vi mà không bài nào
không tinh vi”. Hay “ tứ tuyệt của lý Bạch có thể nói buột miệng mà thành, quả không có ý khéo mà bài nào
cũng khéo”
Lý Bạch sống vào thời suy thoái của nhà Đường, song với tinh thần lạc quan tiến, ông hướng tới hoạt động
chính trị mong muốn cứu trợ dân kiến công lập nghiệp, khiến thiên hạ yên ổn, bốn bề thanh bình. Bất mãn
với bọn gian thần thời đại, ông lấy thi ca là phương tiện phản ánh, tố cáo các mặt của đời sống xã hội đương
thời. Trong thơ ông ta thường thấy: ông ca ngợi những nhân vật kiệt xuất có khả năng thúc đẩy xã hội đổi
mới và phát triển. Ông đả kích và phát triển; ông đả kích các thế lực phong kiến đen tối, bộc lộ tư tưởng
chính trị tiến bộ và nỗi niềm day dứt bản thân, hoặc ca ngợi thiên nhiên hùng vĩ.Những điều ông phản ánh
trong thơ ở trên trước hết, do tinh thần du hiệp kết hợp với tư tưởng giận đời ghét tục, trở về với thiên nhiên
đạo gia là tư tưởng quán xuyến trong thơ Lí Bạch. Đó là cơ sở tư tưởng của thái độ bất mãn với hiện thực
đen tối, xem thường bọn quyền quý chống đối xã hộ phong kiến và lễ giáo nặng nề. Do cơ sở tư tưởng đó
mà lí tưởng và nguyên vọng đẹp đẽ về tự do và sự giải phóng cá tính trong thơ ông phù hợp với yêu cầu cảu
tầng lớp trí thức tiến bộ đương thời, trên một mức độ nhất định cũng phù hợp với yêu cầu của nhân dân nói
chung, những vần thơ của ông phóng túng, của ông sảng khoái lòng người là vậy.
Thơ ông đề cập rất nhiều đề tài khác nhau: phong cảnh non sông hùng vĩ, tráng lệ, thưởng hoa, chí giúp
nước cứu đời, tình bạn, tình yêu, đả kích bọn quyền quý xa hoa dâm đãng. Cảm thông với nỗi khô đau trong
chiến tranh: nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), nỗi khổ đau của người dân,
của người cung nữ nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được
dùng..., Đề tài trong thơ ông không tập trung, tư tưởng cũng khá phức tạp không thuần nhất bởi ngoài tư
tưởng đạo giáo và nho gia, trong ông còn có tinh thần hiệp khách luôn muốn phản kháng vì nghĩa hiệp, dù
thế nhưng đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác.

2. Nội dung thơ Lý Bạch


Thơ ông viết về mọi đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi cay
đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của người cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ
trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng... Đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác.
Đất nước Trung Hoa hiện lên tráng lệ dưới ngòi bút của ông. Sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy ra biển đông
như một lực sĩ:
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi
(Tương Tiến Tửu)
(Há chẳng thấy nước Hoàng Hà từ trời đổ xuống
Chảy tuột biển Đông chẳng quay về)
(Hãy cạn chén)
Sông Dương Tử (tức Trường Giang) đi vào thơ ông như giải lụa thắt ngang trời:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa giang nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng)
Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
(Tại lầu Hoàng Hạc tiễn bạn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng)
Thác Hương Lô được miêu tả như sông Ngân Hà tuột khỏi mây:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Vọng Lư Sơn Bộc Bố)
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này :
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Xa ngắm thác Hương Lô)
Tả cảnh thiên nhiên mà tráng lệ như thế, rõ ràng tác giả đã yêu quê hương, đất nước biết nhường nào. Lòng
yêu nước ở Lý Bạch chính là bắt nguồn từ lòng yêu sông núi quê hương vậy.
Bài tứ tuyệt thể hiện nỗi lòng nhớ quê hương da diết của ông là bài Tĩnh dạ tư (Trăn trở trong đêm thanh
vắng), một bài thơ mà không người Trung Quốc tha phương cầu thực nào không thuộc lòng:
“Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sơn.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.”
Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Tương Như dịch)
Chính vì lòng yêu quê hương, đất nước mà Lý Bạch có lòng đồng cảm sâu sắc với số phận của nhân dân –
những người chăm bón vun trồng cho vườn hoa đất nước. Nếu Đỗ Phủ do cuộc đời chìm ngập trong khói lửa
loạn ly, do cảm hứng trách nhiệm của một nhà Nho mà chủ yếu nói đến số phận đẫm máu và nước mắt của
nhân dân thì Lý Bạch do sống chủ yếu trong thời thịnh vượng của nhà Đường, lại do khát khao cái đẹp, cái
bay bổng diệu kỳ của một nhà thơ lãng mạn mà ca ng75i vẻ đẹp của người phụ nữ và nói đến những trăn trở
thầm kín của họ. Bất kể đối tượng xã hội nào, nếu là người đẹp, một vẻ đẹp đầy nữ tính đều tạo nên nguồn
cảm hứng mạnh cho nhà thơ. Bài Thái liên khúc (khúc hát hái sen) miêu tả cô gái hái sen thoắt ẩn thoắt hiện
giữa một không gian đầy hoa, hoa trên đầm sen, hoa dưới nước. Mấy cô thôn nữ đã hiện về như những nàng
tiên giáng trần. Ba bài Thanh bình điệu tả vẻ đẹp của nàng Dương quý phi thật mê hồn. Nhưng điều cần nói
là trong mắt Lý Bạch, Dương quý phi không hiện lên với vẻ đẹp kiêu sa của một cung phi mà chỉ là một
người đẹp trong suốt và ẻo lả. Ta nhớ lời thơ của ông:
Nước trong sẽ nở hoa sen
Thiên nhiên là đẹp chớ nên vẽ vời
Bởi vậy, lòng đồng cảm của ông dành cho phụ nữ là lòng đồng cảm với phái đẹp và cũng là phái yếu. Ông
hiểu thấu nỗi trăn trở đầy nữ tính của họ. Bài Xuân tứ nói đến nỗi tê tái của người vợ trẻ có chồng tiễn biệt
nơi biên cương:
Cỏ Yên vừa nhú tơ xanh
Dâu Tần đã rũ lá cành xum xuê
Khi chàng tưởng nhớ ngày về,
Chính là lúc thiếp tái tê cõi lòng
Gió xuân đâu biết cho cùng,
Cớ chi len lỏi vào trong màn là?
(Cảm xúc mùa xuân)
Cái cảm xúc “gió động màn” của người vợ trẻ phòng không gối chiếc ấy, chỉ có người trong cuộc mới có.
Chứng tỏ nhà thơ am hiểu sâu sắc nhân vật trữ tình của mình. Cũng như vậy, Tý dạ Ngô Ca nói đến nỗi niềm
của người phụ nữ giặt áo bông khi gió heo may về để kịp gửi cho người chinh chiến phương xa. Trường can
hành nói đến nỗi sầu bi của người thương phụ, chồng đi xa, lại vì đồng tiền lời mà coi khinh ly biệt (Thương
nhân trọng lợi khinh ly biệt). Ngọc giai oán, Vương Chiêu Quân... lại bày tỏ nỗi lòng đồng cảm với cung
nữ...
Tóm lại chủ nghĩa nhân đạo ở mỗi nhà thơ lại có biểu hiện khác nhau. Ở Lý Bạch, một nhà thơ phóng
khoáng bay bổng, ít chịu ảnh hưởng cho Nho gia mà nhiều hơn là Đạo gia và Du hiệp, thì lòng đồng cảm với
cái đẹp, sự xót xa trước cái đẹp bị vùi dập, bị chà đạp lại là biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa nhân đạo của
nhà thơ.
Nhưng trong xã hội xưa, chò dù vào thời kỳ thịnh vượng nhất của nhà Đường, bất công ngang trái vẫn là
hiện tượng phổ biến. Bất công ấy đổ lên đầu nhà thơ. Ông ôm ấp chí lớn, muốn làm “con cá vắt ngang biển”
(hoành hải ngư), muốn “chém sạch cá kình cá nghê, khơi trong dòng Lạc Thủy (Tặng Trương Tương Cảo),
nhưng ông không khỏi thất vọng. Ông nói: “Tôi vốn không bỏ đời mà đời bỏ tôi). Có tài mà không được
dùng, có chí mà không nơi thi thố, tâm hồn đa cảm mà bất lực trước xã hội. Điều đó tạo nên những vần thơ u
uẩn bất đắc chí của ông. Hàng loạt bài như Hành lộ nan (Đường đời khó khăn),Tương tiến tửu (Hãy cạn
chén), Nguyệt hạ độc chước 2 bài (Một mình uống rượu dưới trăng) đã bộc bạch tâm sự ấy. Có lúc ông
mượn rượu để giải sầu:
Đời người đắc ý cứ say đi
Trăng suông chén trống để mà chi
Nhưng rồi cái buồn vẫn đeo đẳng, biến thành phẫn uất:
Rút dao chém nước, nước vẫn chảy
Cất chén tiêu sầu, sầu vẫn sầu
Trăng và rượu, tiên và kiếm kết hợp trong tâm tư đầy mâu thuẫn của nhà thơ. Thực trạng ấy khiến có lúc ông
buông thả, hành lạc, nhưng chung quy vẫn là tinh thần tiến thủ, vì cái đẹp, vì cuộc sống vẫn quán xuyến tư
tưởng nhà thơ.
3. THIÊN NHIÊN TRONG THƠ LÝ BẠCH
THIÊN NHIÊN TRONG THƠ LÍ BẠCH LÀ TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜI NGHỆ SĨ LÃNG MẠN, LUÔN ĐI
TÌM CÁI ĐẸP.
Lí Bạch là nhà thơ lãng mạn, một con người có tính cách phóng túng, luôn khao khát đi tìm cái đẹp, hóa
thân vào cái đẹp để thể hiện tâm hồn mình, đặc biệt là hóa thân vào những cảnh thiên nhiên đẹp, hùng vĩ, vì
vậy, thiên nhiên trong thơ ông là những hình ảnh thiên nhiên hết sức tươi đẹp, hùng vĩ, phóng khoáng, là hóa
thân của bản thể trữ tình trong tâm hồn tác giả. Là một vị “trích Tiên”, hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông
cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ của tư tưởng Đạo giáo.
THỨ NHẤT LÀ: THIÊN NHIÊN TRONG THƠ LÍ BẠCH CHỦ YẾU LÀ THIÊN NHIÊN TƯƠI ĐẸP.
Điều này thể hiện trong sáng tác của ông ở tất cả các giai đoạn sáng tác khác nhau. Nhà thơ thường chú ý
miêu tả, khắc họa một cách tinh tế cái đẹp của cảnh thiên nhiên. Cảnh thiên nhiên trong thơ ông luôn tươi
sáng, đẹp rạng ngời, ngay cả những bài thơ thuộc đề tài tiễn biệt vốn là đề tài không mấy vui vẻ trong thơ
Đường.
Các bài thơ: “Tảo phát Bạch Đế thành”, “Thu phố ca”, “Thái liên khúc”, “Vọng Thiên Môn sơn”, “Vọng
Hán Dương liễu sắc kí Vương Tể”… cũng là những bài thơ xây dựng được những hình ảnh thiên nhiên hết
sức tươi đẹp, thể hiện rõ phong cách thơ Lí Bạch.
Xưa nay, đề tài chia li trong thơ ca thường buồn, thơ Đường cũng không ngoại lệ, những sáng tác của Lí
Bạch cũng vậy nhưng có điều là nó có cách thể hiện khác so với những nhà thơ khác, dù chia lí nhưng
khung cảnh chia li trong thơ ông không buồn rầu, ảo não quá như những nhà thơ khác mà trái lại, dù viết về
đề tài tống biệt, chia li nhưng tác giả thường dùng những hình ảnh thiên nhiên đẹp để làm nền cho buổi tiễn
đưa, ví dụ các bài: “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”, “Tống Trương xá nhân cho
Giang Đông”, “Tống hữu nhân”, “Tống hữu nhân nhập Thục”, “Tống khách qui Ngô”, “Lao Lao đình”,
“Tống Dương Sơn Nhân qui Tung Sơn”…
Trong bài “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”, tác giả đã vẽ lên một bức tranh xuân
đẹp làm nền cho cuộc chia li:
“Cố nhân tây tự Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam nguyệt Há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”
Dịch thơ:
Bạn từ lầu hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng
Cánh buốm đã hút bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
Trong bài “Tống khách qui Ngô” (Tiễn khách đi về Ngô), ta cũng thấy một bức tranh khung cảnh chia li thật
đẹp:
“Giang thôn thu vũ yết
Tửu tận nhất phàm phi
Lộ lịch ba đào khứ
Gia duy tọa ngọa quy
Đảo hoa khai chước chước
Đinh liễu tế y y
Biệt lậu vô dư sự
Hoàn ưng tảo điếu ki”
Dịch thơ:
Sông thu ngớt hạt mưa tuôn
Rượu vừa cạn chén, cánh buồm xa bay
Đường đi trải mấy nước mây
Ngồi nằm ai chẳng khó thay đến nhà
Cây đồi hớn hở ra hoa
Lăn tăn lá liễu thướt tha bên ngàn
Xa nhau rồi những thanh nhàn
Thú chơi quét tấm thạch bàn ngồi câu.
Tóm lại, có thể thấy cảnh thiên nhiên trong thơ Lí Bạch chủ yếu là những khung cảnh đẹp được dựng lên để
thể hiện rõ phong cách lãng mạn của ông.
THỨ HAI LÀ: THIÊN NHIÊN TRONG THƠ LÍ BẠCH LÀ HÓA THÂN CỦA CHỦ THỂ TRỮ TÌNH.
Thơ là tiếng nói của tâm hồn, biểu lộ những tình cảm, tâm tư của chủ thể trữ tình qua những hình tượng
nghệ thuật được xây dựng trong mỗi bài. Và khi chủ thể trữ tình và khách thể thẩm mĩ có những điểm tương
đống với nhau về phẩm chất, tính cách thì chúng có thể chuyển hóa cho nhau, cùng làm sáng tỏ cho nhau.
Thơ Lí Bạch cũng có hiện tượng này, là một nhà thơ lãng mạn vào bậc nhất của thi ca đương thời, đọc thơ
ông, ta thấy có nhiều bài tả cảnh thiên nhiên hết sức phóng khoáng, kì vĩ, mang đậm tính lãng mạn của chính
chủ thể tạo ra nó.
Tính phóng khoáng nên ông thích chọn những khách thể thẩm mĩ trong mỗi bài thơ của mình là những hình
ảnh, bức tranh thiên nhiên kì vĩ, khoáng đạt, cao rộng và không bị ràng buộc, gò bó trong bất kì khuôn khổ
nào.
Vì tính phóng khoáng nên ông thích hình ảnh thác nước hùng vĩ chảy mạnh mẽ từ độ cao rất cao xuống tạo
nên những âm thanh sôi động, những khung cảnh hùng tráng:
“Nhật chiếu Hương lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên”
(Nắng chiếu Hương lô, sinh khói tía
Xa trông thác treo trước sông này
Dòng chảy phi xuống từ trên cao ba nghìn thước
Ngỡ là Ngân Hà tuột khỏi chín tầng mây). Ông cũng rất thích miêu tả trăng và có rất nhiều bài thơ viết về
trăng, bởi lẽ, trăng chính là biểu tượng của cái đẹp kiêu xa, vĩnh hằng mà bụi trần không thể làm đục, người
trần không thể với tới được, và chỉ có ông, một vị “trích Tiên” về sau cuối chết vì trăng mới xứng đáng là
vầng quế sáng trong giữa trần đời, làm bạn với trăng giữa thế tục. Ta có thể thấy điều đó qua các bài: “Tĩnh
dạ tư”, “Nguyệt hạ độc chước”, “Nga mi sơn nguyệt ca”, “Bả tửu vấn nguyệt”, “Quan san nguyệt”, “Nguyệt
hạ giang hành”,… Trong bài “Nga Mi sơn nguyệt ca”, ông viết:
“Nga Mi sơn nguyệt bán luân thu
Ảnh nhập Bình Khương giang thủy lưu
Dạ phát Thanh Khê hướng Tam Giáp
Tư quân bất kiến há Du Châu”
Dịch thơ là:
“Nga Mi trăng núi nửa vành thâu
Ánh rọi Bình Khương nước cuốn làu
Tối ở Thanh Khê trảy Tam Giáp
Nhớ nhau chẳng thấy xuống Du Châu”. Đọc bài thơ này, ta nhận thấy rõ trăng và người có sự hòa hợp với
nhau, đã trở thành tri kỉ nên đi đâu cũng nhớ nhau, cũng theo nhau, cố nhân chẳng thấy cố nhân nên nhớ
nhung và trách cứ nhẹ nhàng: Đang đêm đi từ Thanh Khê ra Tam Giáp, Nhớ trăng chẳng thấy (trăng) xuống
Du Châu.

Cảnh thiên nhiên khoáng đạt cũng chính là những khách thể hay xuất hiện trong thơ Lí Bạch. Ta có thể thấy
điều này qua rất nhiều bài thơ: “Vọng Thiên Môn sơn”, “Tảo phát Bạch Đế thành”, “Hoành giang từ”,…
Trong bài “Tảo phát Bạch Đế thành” – Sáng ra đi từ thành Bạch Đế, tác giả đã tái hiện lại khung cảnh thiên
nhiên rất tươi đẹp với con thuyền nhẹ nhàng không vướng bận như tâm hồn khoáng đạt không bận sự đời
của ông – “khinh chu” – lướt trên sông mà đôi bờ vượn hót không dứt và con thuyền đi qua “vạn trùng san”
– muôn trùng núi non – một cách hết sức thư thái:
“Triêu từ Bạch Đế thái vân gian
Thiên lí Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san”
Dịch thơ:
Sớm từ Bạch Đế rực ngàn mây
Muôn dặm Giang Lăng tới một ngày
Vượn hót ven sông nghe rỉ rả
Thuyền qua muôn núi nhẹ như bay.
CUỐI CÙNG, THIÊN NHIÊN TRONG THƠ LÍ BẠCH MANG ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO
GIÁO.
Tư tưởng Đạo giáo thấp thoáng ẩn hiện trong nhiều bài thơ của Lí Bạch. Điều này thể hiện rõ nhất qua việc
những hình ảnh thiên nhiên được miêu tả trong thơ ông có sự lung linh, huyền ảo, chập chờn giữa ranh giới
của cái thực và cái ảo. Thực mà ngỡ là hư, hư mà ngỡ là thực, nghi nghi hoặc hoặc giữa thực và ảo giống
như trong kinh của Đạo gia có kể tích “Trang Chu mộng điệp” (Trang Chu không biết mình đã hóa thành
bướm hay bướm đã hóa thành mình trong giấc mộng của chính mình). Ta sẽ nói về điều này qua hai bài thơ
tiêu biểu là bài “Vọng Lư sơn bộc bố” và “Tĩnh dạ tư”.
Ở bài “Vọng Lư sơn bộc bố”, cái thực thực hư hư được thể hiện rõ qua hai câu cuối của bài:
“Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên”
Dịch là:
Dòng chảy phi thẳng xuống từ (trên cao) ba ngàn thước
Ngờ là dải Ngân Hà rơi (xuống) từ chín tầng mây.
Cái thực và cái hư ở đây chính là hình ảnh dòng chảy của thác nước từ trên cao xuống, cái hư ở đây chính là
hình ảnh dải Ngân Hà tuột khỏi mây rơi xuống. Cảnh ở đây chính là cảnh thực nhưng được kì ảo hóa qua cái
hư, sự ảnh hưởng của Đạo giáo thể hiện ở điểm này: nghi hoặc cái đang nhìn thấy (thác nước) để rồi tưởng
đó là cái hư cấu (dải Ngân Hà), và biết đâu nó lại là cái hư hiện hình (Ngân Hà) thực còn cái đang thấy trước
mặt lại chỉ là cái hư ? Tương tự như vậy, ở bài “Tĩnh dạ tư” sự nghi hoặc giữa cái thực và ảo được hiện thực
hóa qua hình ảnh ánh trăng sáng trên đầu giường và sương trên mặt đất. Không biết là sương hay ánh trăng
sáng trên đầu giường mình đang nằm:
“Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương”
Dịch là:
Trước giường trăng sáng tỏ
Ngờ là sương trên đất. Biết đâu đó là ánh trăng soi thật, hay biết đâu đó lại là sương gieo trên mặt đất, thật
khó mà biết được. Chính sự nghi hoặc, hư hư thực thực này đã tạo nên nét đặc sắc phong cách thơ Lí Bạch.

4. Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của bài thơ “ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ
Đỗ Phủ là cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa, ông sống vào giai đoạn cực thịnh sau đó là suy
vong của đời Đường, nên đã chứng kiến tận mắt chiến tranh liên miên, thiên tai địch hoạ, bao cảnh thương
tâm, khổ cực của dân chúng dưới chế độ phong kiến đương thời. Tất cả những cảnh ngộ éo le ấy trong đó có
bản thân nhà thơ đều được ghi lại đầy đủ và rõ nét trong hầu hết thơ của ông. Ngoài giá trị hiện thực lịch sử
to lớn, còn thể hiện cái nhìn yêu thương đối với nhân dân lao động. Bài Bài ca nhà tranh bị gió thu phá đã
phản ánh được điều này.
Bài thơ này được xếp vào những bài thơ hay nhất của ông. Vào những năm cuối đời sau khi đã nếm trải đủ
những tủi cực, đắng cay của cuộc đời bôn ba thiên hạ. Ông trở về sống ở Thành Đô, gia cảnh của ông vẫn
cực khổ bần hàn, nghèo túng. Được bạn bè giúp đỡ, ông đã có một căn nhà tranh bên cạnh Khe Cán Hoa
phía Tây Thành Đô.
Căn nhà tranh ấy là đối tượng miêu tả trong sự chống đỡ, vật lộn với trận thu phong.
Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương xa.
Đoạn thơ là bức tranh về một trận thu phong vào tháng tám Gió thét già. Qua cách kể của tác giả ta hình
dung trận gió thu rất mạnh, trong phút chốc những tấm tranh kia bị lật tung bay khắp mọi nơi. Có mảnh tốc
bay cao, bay thấp, bay xa, bay gần rải khắp bờ, treo tót ngọn cành cây, quay lộn vào mương... Thật là trớ
trêu cho cảnh ngộ của ông già Đỗ Phủ, ngước mắt nhìn theo những tấm tranh bị gió cuốn mà lòng xót xa và
bất lực. Vậy là thiên nhiên vô tình cũng chẳng buông tha cho người áo vải bao năm tháng bôn ba mưu sinh
giờ đây mới có được ngôi nhà tranh trú mưa trú nắng.
Những năm đó loạn An Sử vẫn còn rất khốc liệt, đời sống nhân dân vô cùng cơ cực, li tán, chết đói đẫy rẫy.
Nhà nhà, người người bị ném vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Có những gia đình mà đến hơn một nửa bị
chết trong khói lửa sa trường.
Van rằng: có ba trai
Nghiệp thành đều đi thứ
Một đứa gửi thư nhắn
Hai đứa vừa chết trận
Đứa chết đành thôi rồi
Đứa còn đâu chắc chắn.
(Viên Lại ở Thạch Hào)
Có ba trai phải tòng quân, hai đứa chết trận, đứa còn biết sống chết ra sao. Rồi cả bà lão đã gần đất xa trời
cũng phải ra chốn Hà Dương. Nghèo khổ, túng bấn cả con dâu không còn quần áo lành lặn. Hiện thực xã hội
là như vậy. Một xã hội mà đảo điên, loạn li như vậy thì chắc chắn đạo đức suy đồi xuống cấp nghiêm trọng.
Căn nhà đã bị gió thu phá sạch, lũ trẻ thôn Nam nghịch ngợm quá mức kéo nhau đến cướp tranh đi mất. Nhà
thơ già yếu, chân chậm mắt kém làm sao đuổi được.
Môi khô, miệng cháy gào chẳng được
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!
Cảnh ngộ cười ra nước mắt, chống gậy quay về ngôi nhà tuềnh toàng mà lòng đau đớn, xót xa. Những bước
chân mỏi mệt, đắng cay và bất lực, tràn lên tận cuống họng mà không nói thành lời.
Trong lòng tác giả đang oán hận và trách móc, có chăng lũ trẻ tinh nghịch, đói nghèo thất học tràn lan. Lấy
ai nuôi dạy chúng khi:
Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ,
Mở cõi nhà Vua ý chưa bỏ...!
Hay:
... Cửa son rượu thịt ôi,
Ngoài đường, xương chết buốt!
Sự trớ trêu trong cảnh ngộ của Đỗ Phủ không chỉ là thu phong tốc mái căn nhà tranh mà về đêm thêm một
tai hoạ mới. Mưa thu dầm dề, sùi sụt, dai dẳng kéo dài suốt đêm, kéo theo cái lạnh càng thêm lạnh. Nhà dột
lung tung khác chi ở ngoài trời. Chăn, mền cũ, bị con quẫy đạp rách. Mãi chưa sáng... mưa mãi không tạnh...
làm sao nhà thơ có thể ngủ được. Ông trằn trọc suốt đêm trong mệt nhọc, đói rét, lo lắng, buồn rầu, thương
vợ, thương con.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,
Đêm dài ướt át sao cho trót.
Đêm dài như dài thêm, ông già cũng chỉ đành cay đắng, ấm ức và bất lực ngồi đếm từng nhịp trống canh.
Ta thấy hiện lên trên khuôn mặt nhà thơ sự đau khổ, cay đắng. Một kẻ sĩ có học thức mà công danh thì lận
đận, cuộc đời thì long đong, túng bấn khổ cực. Ông trách mình đã chẳng giúp gì cho vợ con và gia đình
trong cảnh nghèo khổ ấy. Băn khoăn trăn trở hơn là kẻ sĩ mà chẳng giúp gì được cho đời, chiến tranh liên
miên, dân chúng loạn lạc cực khổ. Càng nghĩ ông càng phê phán và lên án chiến tranh, lên án xã hội phong
kiến gây bao cảnh đời vất vả như chính gia đình tác giả. Nỗi khổ về vật chất và tinh thần của Đỗ Phủ cũng là
cái khổ chung của nhân dân lao động, của các nhà nho, trí thức thời đó. Sự khốn cùng của gia đình tác giả là
chứng tích cho một thời kỳ lịch sử xã hội Trung Quốc hay đó chính là xã hội thời Đường thu nhỏ lại. Chỉ
đơn thuần là nhà bị gió phá, mưa dột nghèo túng nhưng bài thơ có giá trị hiện thực to lớn, phản ánh nhiều
mặt đang nóng bỏng của xã hội Trung Quốc lúc đó. Những nỗi đau của dân đen ông cũng đã từng chứng
kiến nếm trải để rồi từ hiện thực của gia đình, xã hội, nhà thơ thể hiện khát vọng hoà bình, dân chúng ấm no:
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
Cùng với giá trị hiện thực sâu sắc của bài thơ, khổ thơ cuối thể hiện sâu sắc khát vọng cao đẹp, ước mơ cao
cả, vị tha. Nhà mình thì dột nát, sắp đổ đến nơi, biết bao giờ dựng lại được? Vậy mà ông luôn nghĩ tới tương
lai, không hề nghĩ cho mình, gia đình, lại nghĩ đến ngôi nhà chung, to cao, rộng rãi, vững chắc muôn nghìn
gian, bất chấp mưa nắng, vững như thạch bàn dành cho muôn nghìn dân đang đói rách, cơ cực bần hàn trú
ngụ. Dù đau khổ chất chồng, nhưng không dập tắt được nhân tính, không làm mất được niềm tin, con người
không bị hoàn cảnh đè bẹp mà ngạo nghễ vượt lên trên hoàn cảnh. Thương người là nhân, yêu người là ái.
Lòng nhân ái của Đỗ Phủ thật cảm động và thiết thực cụ thể. Điều cao cả và đáng kính trọng hơn nữa là ở
chỗ mơ ước ấy mang tinh thần vị tha tới mức xả thân vì người khác. Ông vui lòng chịu chết cóng, chết rét để
có được ngôi nhà trong mơ ấy.
Thực tế xưa nay không có ngôi nhà rộng muôn ngàn gian như thế. Khổ thơ được sáng tạo bằng biện pháp tu
từ so sánh và thậm xưng đế diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dạt dào, làm sáng bừng lòng nhân
ái bao la của một con người từng trải qua bao bất hạnh giữa thời loạn lạc. Vì vậy nhà thơ mong mỏi ai ai
cũng được sống cuộc sống yên ấm hạnh phúc.
Dù đã qua đi hơn mười hai thế kỷ nhưng bài thơ này vẫn giữ được cho mình chỗ đứng trong trái tim mỗi
chúng ta bởi vì giá trị hiện thực và tính nhân đạo bao la luôn toả sáng trong đó.

5. Vẻ đẹp thơ Hai cư của ba-sô


Hai-cư là thể thơ truyền thống có vị trí quan trọng trong văn học Nhật Bản. Thơ hai-cư thường biểu hiện
những rung cảm của con người trước thiên nhiên bằng những hình ảnh trong sáng, bình dị, đậm tính tượng
trưng. Mỗi bài thơ được cấu tứ quanh một phát hiện mang tính chất “bừng ngộ” về mối quan hệ giữa các sự
vật, hiện tượng, về sự tương thông đầy bí ẩn giữa thế giới và con người. Thơ thiên về khơi gợi hơn là miêu
tả và diễn giải. Sức sống và sự hấp dẫn của thơ hai-cư nằm ở sự kiệm lời, khả năng gợi cảm xúc và suy
tưởng. Các tác giả thơ hai-cư nổi tiếng nhất của Nhật Bản hầu hết là thiền sư. Mát-chư-ô Ba-sô (1644 –
1694) là nhà thơ có công lớn trong việc hoàn thiện thơ hai-cư, đưa nó trở thành thể thơ độc đáo nhất của
Nhật Bản. Chi-ô (1703 – 1775) là người đánh dấu sự hiện diện của các tác giả nữ trong truyền thống thơ hai-
cư. Trước bà, thơ hai-cư của tác giả nữ thường bị coi thường và quên lãng. Cô-ba-y-a-si Ít-sa (1763 – 1828)
là họa sĩ tài ba, nổi tiếng với những bức tranh có đề các bài thơ hai-cư do chính ông sáng tác. Những tác giả
trên đều là các thiền giả, tu sĩ Phật giáo nên thơ hai-cư của họ đều thấm đẫm tinh thần thiền và tinh thần thi
ca truyền thống Nhật Bản.
Một số bìa sách về thơ hai-cư
Cũng như các thể thơ khác, đọc thơ hai-cư ta cần khám phá được mạch vận động của ý thơ. Dõi theo mạch
vận động của ý thơ ta sẽ nắm bắt được tứ thơ – linh hồn của tác phẩm. Mạch ý trong mỗi bài thơ hai-cư đều
như một dòng chảy tự nhiên, nương theo tự nhiên mà hình thành – một kiểu vận động theo lối quy nạp.
Trong bài thơ của Ba-sô:
“Trên cành khô
Con quạ đậu
Chiều thu”
Hình ảnh “cành khô” và “con quạ đậu” ở hai dòng thơ đầu giúp ta nhận ra “chiều thu”. Dòng thơ thứ ba là
khoảnh khắc tâm trí nhận biết được sự việc trong thời gian hiện tại (chiều thu). Ý thơ đi từ hiện tượng thiên
nhiên cụ thể đến khái quát về mùa. Đây là tinh thần thiền trong thơ hai-cư. Nếu đảo trật tự (“Chiều thu/Con
quạ đậu/Trên cành khô”), hình ảnh thơ không thay đổi nhưng mạch ý sẽ đi từ nhận thức khái quát đến minh
họa bằng chi tiết cụ thể. Mạch ý đó có tính luận lí, sắp đặt, thiên về lí trí. Cách diễn ý đó xa lạ với thơ hai-
cư.
Tương tự, trong bài hai-cư của Chi-y-ô:
“Ôi hoa triêu nhan
Dây gàu vương hoa bên giếng
Đành xin nước nhà bên”.
Mạch ý thơ vận động theo quan hệ nguyên nhân – kết quả. Dòng thơ đầu là khoảnh khắc nhân vật trữ tình
phát hiện ra hoa triêu nhan. Lời thơ nhấn vào hình ảnh trung tâm, đồng thời bộc lộ sự ngỡ ngàng, hân hoan
trước phát hiện đó. Dòng thơ thứ hai miêu tả sự quấn quýt của dây gàu và hoa triêu nhan, gợi ra một chút bối
rối, ngập ngừng trong tâm trạng nhân vật trữ tình. Từ phát hiện đó, nhân vật trữ tình quyết định “xin nước
nhà bên”. Quan hệ nguyên nhân – kết quả trên đây chịu ảnh hưởng của quan niệm về duyên sinh, duyên
khởi trong thiền tông. Cuộc sống vốn dĩ không định trước được điều gì, tất cả đều là nhân và là quả tạo nên
dòng chảy liên tục. Vạn vật cũng như con người luôn vận động theo quy luật đó.
Bài thơ của Ít-sa dưới đây cũng có mạch vận động đặc trưng nói trên:
“Chậm rì, chậm rì
Kìa con ốc nhỏ
Trèo núi Phu-gi”.
Dòng thơ thứ nhất là câu đặc biệt, ghi nhận một đặc điểm: “chậm”. Dòng thơ thứ hai không chỉ gọi tên mà
còn miêu tả đặc điểm của con ốc: “nhỏ” (đây là một phá cách so với đặc điểm hình ảnh thơ hai-cư. Trong ba
bài thơ, đây là bài duy nhất miêu tả cụ thể đối tượng. Như vậy, bài thơ không chỉ tập trung vào khoảnh khắc
mà còn có những đặc điểm xuất hiện vào khoảnh khắc đó). Dòng thơ cuối cùng quy nạp các thông tin ở hai
câu thơ đầu về điểm kết tụ: hành động của con ốc. Mạch vận động của ý thơ đi từ phát hiện đến nhận định.
Phát hiện đầu tiên là tốc độ chậm rì, tiếp theo là hình ảnh con ốc nhỏ, nhận định cuối cùng là việc con ốc bò
lên núi Phu-gi.
Có thể nhận thấy, mạch vận động của thơ hai-cư không chỉ phản ánh kiểu nhận thức thực tại mà còn bộc lộ
quan niệm về đời sống của các nhà thơ hai-cư. Họ không bao giờ tìm cách tác động vào thực tại bởi họ biết
thực tại vận động không theo ý chí của con người. Thuận theo tự nhiên, tôn trọng lẽ tự nhiên là cách sống
phù hợp nhất mà các nhà thơ hai-cư hướng đến.
Thơ hai-cư được xem là một trong những hình thức hàm súc, cô đọng nhất của thơ ca thế giới. Bài thơ hai-
cư trong tiếng Nhật chỉ gồm 3 dòng (dòng 1 và dòng 3 có năm âm tiết; dòng 2 có bảy âm tiết). Cấu trúc bài
thơ hai-cư tối giản, có nhiều khoảng trống cho người đọc suy ngẫm, phát triển nghĩa. Bài thơ hai-cư thường
không có các từ ngữ trực tiếp chỉ tâm trạng nên tác động vào cảm xúc của người đọc rất tự do, phong phú,
tùy vào khả năng cảm nhận của mỗi người.
Yếu tố quan trọng nhất, làm nên sức hấp dẫn của thơ hai-cư là hình ảnh thơ. Mỗi bài thơ hai-cư đều có một
hình ảnh trung tâm. Thường, đó là một cảnh quan hoặc một khoảnh khắc trong tự nhiên như được “chộp”
lấy để ghi nhận sự hiện diện của thế giới xung quanh. Các hình ảnh chỉ được gọi tên nhưng không được
miêu tả với các thuộc tính cụ thể như màu sắc, hình dạng, đường nét, hương vị… Hình ảnh trung tâm trong
thơ hai-cư thường tạo ra một cảm giác thị giác mạnh mẽ, thể hiện tinh thần tự nhiên một cách tinh tế và đơn
giản.
Trong bài thơ của Ba-sô: “Trên cành khô/Con quạ đậu/Chiều thu”, hình ảnh trung tâm là “con quạ”. Tác giả
không miêu tả nhưng hình ảnh thơ gợi ra ấn tượng về màu sắc đặc trưng của buổi chiều tối: màu đen của con
quạ, không gian chuyển màu đen vì buổi chiều thu đang buông xuống. Nhà thơ viết về không gian nhưng
thực chất để nói về thời gian. Đây là sự liên tưởng hợp lí góp phần làm nên tính hàm súc của thơ. Hình ảnh
con quạ tương hợp với không gian nhưng không chìm lẫn vào nhau. Con quạ bé nhỏ, đơn độc mà chiều thu
thì mênh mông, u huyền. Sự tương phản giữa cái bé nhỏ, đơn độc, sắc nét với cái lớn lao, toàn thể, u huyền
là một đặc điểm quan trọng trong nguyên tắc nghệ thuật của thơ hai-cư: luôn chú trọng mối quan hệ giữa các
sự vật hiện tượng.
Hình ảnh trong bài thơ là khoảnh khắc của đời sống được ghi lại. Để nhận thấy một khoảnh khắc cực nhỏ
của đời sống như thế cần sự tinh tế cao độ, khả năng sống trọn vẹn với hiện tại (không lạc về quá khứ hay
tương lai), năng lực định tâm rất mạnh của thi nhân.
Ba dòng thơ, mỗi dòng gợi một hình ảnh. Các hình ảnh xuất hiện có vẻ ngẫu nhiên, thiếu sự kết nối. Nhưng
thực chất chúng lại là một thế giới nghệ thuật thống nhất, cái này làm nên cái kia, có cái này thì sẽ có cái kia
(“cành cây khô”, “con quạ” làm nên “chiều thu”. “Chiều thu” là bối cảnh nền đồng thời là thần thái của toàn
bộ bài thơ). Một thoáng của mùa thu tịch lặng, u huyền, đưa tâm trí con người đi vào sự tĩnh tại tuyệt đối để
có thể nắm bắt trọn vẹn một khoảnh khắc hiện tại. Sống trọn vẹn, đủ đầy với thời gian hiện tại chính là điều
tuyệt vời nhất mà con người cần hướng tới.

6. Phân tích bài thơ tình số 28 của Tagore


Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941) là nhà thơ, nhà viết kịch, nhà văn hoá thiên tài của An Độ. Ta-go đã để
lại cho kho tàng văn học Ấn Độ và thế giới một di sản lớn lao : 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 cuốn tiểu
thuyết…, đặc biệt là tập Thơ Dâng được Giải thưởng Nô-ben năm 1913.
Cống hiến vĩ đại nhất của Ta-go là ở chỗ ông đã phát huy được truyền thống đấu tranh yêu nước và nhân đạo
chủ nghĩa của dân tộc Ấn Độ, kết hợp với tinh hoa văn hoá phương Tây. Ta-go ca ngợi tình yêu thương cao
cả giữa con người một cách chân thành, rộng mở với lòng từ bi và đức tin của truyền thống tôn giáo Ấn Độ.
Ông tiếp thu những nét tích cực trong chủ nghĩa nhân đạo phương Tây, như đòi giải phóng cá tính, đề cao
tinh thần tự giác đấu tranh cho tự do, đòi công bằng bác ái, tin ở sức mạnh con người.
Theo Ta-go, con người là đáng tôn thờ nhất, do đó, ông đề xướng “tôn giáo Con Người”. Tầng lớp nhân dân
lao động cùng khổ cũng được Ta-go luôn quan tâm. Mặc dù chủ nghĩa nhân đạo của Ta-go có màu sắc duy
tâm, huyền bí, nhưng nội dung cơ bản của nó vẫn là yêu đất nước, yêu con người, yêu sự sống.
Yêu thiên nhiên là một đặc điểm nổi bật trong cá tính Ta-go. Ông chủ trương con người cần hoà đồng với
thiên nhiên, coi thiên nhiôn như người bạn tâm tình và là đối tượng của thơ ca. Trong các tác phẩm của Ta-
go, thiên nhiên xuất hiện không chỉ như mồi trường sống, hoạt động của con người mà là một thế giới mĩ lệ,
một thế giới của cái đẹp, của nghệ thuật, của thơ ca.
Tính đa cảm, tính trầm tư là một đặc điểm khác trong cá tính đã ảnh hưởng rất rõ trong các tác phẩm của Ta-
go. Ông rung động trước tất cả mọi điều, dù là nhỏ nhặt của cuộc sống, đặc biệt là vẻ đẹp thiên nhiên, con
người và nỗi đau khổ của con người. Nét trầm tư, suy nghĩ đã tạo nên chất triết lí với các cung bậc ý nghĩa,
chiều sâu tình cảm trong thơ ông. Tác phẩm của Ta-go tràn ngập tinh thần dân tộc, yêu nước, chống thực
dân, thức tỉnh niềm khát khao giải phóng, độc lập, tự do của nhân dân Ấn Độ. Bên cạnh đó, văn thơ Ta-go
còn chứa chan một tình yêu thiên nhiên, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống và con người.
Bút pháp nghệ thuật Ta-go vừa mang tính hiện thực vừa giàu chất biểu tượng. Dưới cái vỏ thần bí, cao siêu
vẫn cháy bỏng một lòng tin yêu cuộc sống và những vấn đề của cuộc đời trần tục hằng ngày. Thơ trữ tình
Ta-go là những bản tình ca say đắm, là bức tranh thiên nhiên mĩ lệ muôn màu với những hình ảnh lung linh,
huyền diệu.
Bài thơ sô 28 được in trong tập Người làm vườn, là một trong những bài thơ tình hay nhất thế giới. Bài thơ
khẳng định: tình yêu là sự đồng điệu, hoà hợp, dâng hiến tâm hồn, tin yêu và hiểu biết, chia sẻ lẫn nhau.
Nhưng trái tim con người, thế giới tâm hồn con người lại mãi là một cõi bí mật lớn lao. Chính vì vậy, việc
tìm tới sự đồng điệu, chan hoà vào thế giới tâm hồn của người yêu luôn là những khát khao không bao giờ
vươn tới nổi.
Điều đó tạo nên vẻ hấp dẫn muôn đời của tình yêu. Chất triết lí được trình bày qua những lập luận chặt chẽ
với hộ thống hình ảnh rực rỡ, sinh động. Với cách đặt vấn đề, phản đề, nghi vấn, giải thích để đi tới chân lí,
bài thơ rất đặc trưng cho tư duy người Ấn : tìm tới chất triết lí trong muôn vàn hiện tượng dời sống. Những
nghịch lí muôn đời của trái tim:
Nghĩa bài thơ được diễn giải theo tầng bậc từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ nghĩa thực đến nghĩa
triết lí, và cảm xúc trong bài cũng dược nâng dần. Bài thơ được kết cấu theo tầng bậc. Ý một : Anh xin dâng
hiến trọn vẹn cuộc đời anh cho em. Ý hai : Nhưng không bao giờ em có thể chiếm lĩnh trọn vẹn trái tim anh.
Hai ý này ngày càng được bổ sung ở mức độ cao hơn trong những lập luận của toàn bài.
Sự đối lập giữa khát vọng giãi bày, dâng hiến, chan hoà vào tâm hồn người yêu và cái bí ẩn không gì khám
phá nổi của trái tim là những đối lập tồn tại mãi mãi trong tình yêu. Sự hoà hợp trọn vẹn trong tình yêu là
điều không thể, nhưng tình yêu luôn là niềm khao khát cái trọn vẹn ấy. Nếu mỗi người tình đều biết hướng
vé cái trọn vẹn để nắm bắt, dựng xây, điều đó sẽ đem đến hạnh phúc trong tình yêu. Phải chăng đây là triết lí
tiềm ẩn của thơ tình Ta-go?
Bài thơ là một hệ thống tầng tầng lớp lớp những hình ảnh tượng trưng và so sánh : đôi mắt em muốn nhìn…
như trăng kia muốn vào sâu biển cả (sự khao khát hoà hợp, thấu hiểu tâm hồn); đời anh là viên ngọc, đoá
hoa (những gì đẹp đẽ nhất, quý giá nhất của đời anh); em là nữ hoàng của vương quốc đó (em là người làm
chủ trái tim anh),…
Hệ thống những hình ảnh tượng trưng, so sánh này làm cho những hình ảnh của tình yêu, của tâm hồn, của
trái tim người đang yêu được mĩ lệ hoá, lung linh những sắc màu huyền diệu. Bài thơ mang tính chất mê
hoặc vì lẽ đó. Đây là một bài thơ trữ tình giàu chất triết lí. Chất triết lí của bài thơ thể hiện trên nhiều bình
diện : Đó là những lập luận, đưa ra giả thiết rồi phản bác lại với những mẫu câu lặp lại : Nếu… chỉ là…
nhưng. Sự vật của đời sống không chỉ được nhìn nhận theo một chiều mà luôn đặt trong sự nghi vấn để tìm
sự thật cuối cùng.
Nhà thơ hướng về cái vô hạn của vũ trụ (biển cả, vương quốc) để xác định giới hạn, bản chất của thế giới
tâm linh – phần bí ẩn, sâu xa nhất của tâm hồn con người – và nêu lên những đối lập, mâu thuẫn muôn đời
như là những quy luật vĩnh cửu của tình yêu.
Ta-go muốn nói điều gì về tình yêu? Có lẽ ông muốn nói lên một chân lí: Tình yêu là một cuộc dâng hiến
trọn vẹn và là một quá trình khám phá, tìm tòi. Nhưng trái tim tình yêu mãi mãi vẫn là những điều bí ẩn.
Chiếm lĩnh cái bí ẩn, vô bờ, không giới hạn của tâm hồn người yêu sẽ luôn là những khát khao vĩnh cửu của
con người.

7. Vẻ đẹp tình yêu trong thơ tagore


Rabindranath Tagore (1861-1941) được xem là nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại của văn học Ấn Độ. Suốt cuộc
đời, Rabindranath Tagore đã cất lên những bài đạo ca để tôn vinh, tỏ lòng sùng kính đối với con người.
Những sáng tác của ông luôn xuất phát từ lòng yêu thương con người, bằng tình yêu con người nồng nàn
ông đã cố gắng hiểu và bày tỏ những quan niệm của mình về con người. Rabindranath Tagore không chỉ là
đại diện văn hóa tiêu biểu của Ấn Độ, ông còn là nhà thơ châu Á đầu tiên được trao giải Nobel Văn học vào
năm 1913, là bậc kỳ tài đã để lại cho nhân loại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và phong phú.
Rabindranath Tagore là ngôi sao sáng của nền phục hưng Ấn Độ, được coi như mặt trời của Ấn Độ, là nhà
khai sáng vĩ đại và “đỉnh cao của văn hóa nhân loại”. Qua sáng tác của mình, ông lên án xã hội với những
quan niệm lạc hậu, sự phân biệt đẳng cấp, sự bất công và áp bức, bóc lột của thực dân đã khiến cho nhân dân
Ấn Độ phải chịu nhiều đau khổ. Đồng thời, thể hiện rõ tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, lòng yêu thiên nhiên,
đất nước và con người Ấn Độ, lòng yêu nhân loại, yêu hòa bình và tinh thần chống phong kiến thực dân đế
quốc, chống chiến tranh.
Trong suốt cuộc đời mình, Tagore luôn dành tình yêu thương cho con người, phụng sự con người. Tagore
thường nhìn sâu vào thế giới nội tâm con người bằng đôi mắt của tình yêu thương con người và ngợi ca tình
yêu thương cao cả giữa con người với con người một cách chân thành với lòng thiện, với đức tin và với lòng
từ bi. Rabinđranath Tagore là người rất quan tâm đến số phận người phụ nữ Ấn Độ và có tình yêu thương
sâu sắc dành cho người phụ nữ. Tagore đã dành nhiều tình cảm và sự tôn vinh đặc biệt khi ca vẻ đẹp của
người phụ nữ Ấn Độ ở nhiều góc độ khác nhau, từ vẻ đẹp hình thức đến tính cách và thế giới nội tâm phong
phú. Tagore nhìn thấy vẻ đẹp như ngai vàng trong thế giới nội tâm của người phụ nữ. Tác giả không chỉ
miêu tả vẻ đẹp hình dáng bên ngoài của người phụ nữ mà còn tập trung ngợi ca thế giới nội tâm, vẻ đẹp tâm
hồn, tính cách của người phụ nữ được toát lên từ tình yêu thương và đức hy sinh, “phụ nữ là những người
giản dị và chân thực, có sức chịu đựng rất lớn, họ gắn bó và thực hiện bổn phận của mình trong những cam
kết rất can đảm với xã hội và gia đình”.[1] Với tình yêu trong sáng nhưng sâu sắc, đằm thắm, người phụ nữ
chỉ biết yêu thương mà không dám thể hiện hay đòi hỏi một sự đáp đền cho mình. Họ tha thiết mong chờ
người mình yêu thương nhưng không dùng tình yêu để trói buộc bất cứ ai, ngược lại họ quan tâm, chăm sóc
một cách tận tụy và vô điều kiện.
Tagore miêu tả vẻ đẹp người phụ nữ, ca ngợi tình yêu thương và xót thương cho những người phụ nữ bị sự
ràng buộc của những lễ giáo khắc nghiệt. “Cuộc đời người phụ nữ Ấn Độ thường bị cái vòng xiềng xích ở
chân quanh quẩn xó bếp, lao động quần quật suốt ngày, ra khỏi nhà cái khăn chùm mặt lại ngăn cách với
mọi người, không dám ngẩng mặt lên nhìn trời. Nhiều sợi dây của lễ giáo buộc quanh người.”[2] Ông phê
phán những tham vọng, tư tưởng quá khích của con người, những hủ tục lạc hậu trong xã hội, luật tục tôn
giáo đã gây ra biết bao nỗi đau khổ, làm tổn thương người phụ nữ, khiến cho người phụ nữ không được sống
với hạnh phúc của mình. Trong nhiều tác phẩm, tác giả tố cáo những hành động, cử chỉ biểu hiện sự nhẫn
tâm, mù quáng, quan niệm xã hội, tôn giáo, đẳng cấp, dư luận, danh vọng, địa vị, tiền bạc, quyền lực, sự ích
kỷ, ghen ghét đố kị đã khiến cho người phụ nữ phải chịu nhiều bất công, đau khổ và thiệt thòi. Tạo hóa ban
tặng cho con người phần thưởng cao nhất trong cuộc đời của mỗi người là tình yêu, con người phải được tự
do trong tình yêu, hôn nhân và làm chủ cuộc đời mình. Thông qua sáng tạo nghệ thuật, Tagore kêu gọi, động
viên người phụ nữ đấu tranh để tự giải thoát mình, đấu tranh cho tình yêu chiến thắng khổ hạnh, vượt qua
những giáo lý bảo thủ đã bóp nghẹt tình cảm thiêng liêng mà tạo hóa ban tặng cho con người. Tagore đấu
tranh cho người phụ nữ được giải phóng khỏi những ràng buộc của lễ giáo lạc hậu, bảo thủ:
“Em thế nào thì cứ thế mà đến
Chớ có loay hoay sửa soạn áo quần.”[3]
Thế giới nhân vật phụ nữ trong sáng tác của Tagore đa dạng, phong phú với nhiều nét tính cách khác nhau.
Những nét tính cách ấy không chỉ được bộc lộ qua ngoại hình, ngôn ngữ mà còn bộc lộ rất rõ qua cử chỉ,
hành động của nhân vật. Tác giả miêu tả hình ảnh những người phụ nữ Ấn Độ thông minh, sắc sảo, có hiểu
biết xã hội và tự tin trong giao tiếp và có khát vọng được làm chủ cuộc sống của mình. Đó là những người
phụ nữ chủ động, dám đấu tranh để giành lấy tình yêu và bảo vệ tình yêu cho riêng mình. Qua các tác phẩm,
“Tagore đã phản kháng mạnh mẽ một thực tế đáng buồn là những phẩm chất và tài năng quý báu của người
phụ nữ Bengal đã bị bỏ phí và bóp nghẹt qua nhiều thế hệ. Thật đáng ngạc nhiên là nếu như chúng ta có thể
tìm được một đặc điểm chung của các nhân vật nữ trong các tác phẩm của Tagore thì chính là đặc điểm rằng
họ có tính cách mạnh hơn nam giới.”[4] Trong nhiều sáng tác, Tagore đề cập đến những người phụ nữ đã
mạnh mẽ dám đối diện với tình cảm của mình, chủ động khẳng định và thổ lộ tình yêu với người mình yêu.
Tác giả ngợi ca những người phụ nữ dám vượt lên trên những quan niệm lạc hậu của xã hội để chủ động tìm
hạnh phúc cho mình và sự chiến thắng của tình yêu trước những hà khắc của tôn giáo. Tagore phê phán xã
hội khắc nghiệt đối với người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nông thôn, đòi xoá bỏ chế độ phân biệt đẳng cấp,
đòi tự do trong hôn nhân. Tagore đã tích cực đóng góp tiếng nói của nghệ thuật vào sự nghiệp đấu tranh giải
phóng phụ nữ, giành tự do, giành nữ quyền bằng cả trái tim, tình yêu thương nhân đạo của mình.
Tagore sáng tác cho trẻ em xuất phát từ tình cảm chân thành của người ông, người cha, người thầy yếu mến
trẻ thơ, tin tưởng vào tương lai của trẻ em và mong muốn giáo dục cho mọi người hãy giữ lấy những giá trị
tốt đẹp cho trẻ em. R.Tagore là người am hiểu tâm lí, tình cảm và những ước mơ của trẻ em nên ông đã miêu
tả sự đa dạng, phong phú về tính cách của trẻ em. Trong những sáng tác viết cho trẻ em, ông luôn dùng ngôn
ngữ, hình ảnh, những câu chuyện phù hợp với trẻ em. Trẻ em luôn thích được hoà mình với thiên nhiên,
được vui vẻ đùa giỡn giữa thế giới vô biên đó. Tagore đã chú ý ca ngợi tính cách hồn nhiên, chân thực và vô
tư của trẻ em.
“Bọn trẻ gặp nhau trên bờ biển những thế giới vô biên
Cười reo nhảy múa
Các em xây những ngôi nhà bằng cát
Và chơi với những vỏ sò rỗng không.
Các em dùng lá khô đan những chiếc thuyền
Và vui cười thả chúng trên biển sâu vô tận.
Bọn trẻ đùa chơi trên bờ những thế giới vô biên.”[5]
Tagore ngợi cá tính trung thực, thật thà của trẻ em và những sáng tác của Tagore viết cho trẻ em đều kể về
những câu chuyện cảm động, mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Đây là tư tưởng chủ đạo trong các sáng tác của
ông viết cho trẻ em. Ông muốn đem tâm hồn trong sáng, thánh thiện tồn tại trong tâm hồn trẻ thơ để đối lập
với bản chất xấu xa, đáng khinh của xã hội bị đồng tiền, quyền lực và sắc đẹp cám dỗ.
“Ánh mặt trời long lanh trên cát
Và sóng vỗ rì rào
Một cậu bé ngồi chơi với dăm vỏ ốc
Cậu ngẩng đầu lên và dường như cậu nhận ra tôi rồi nói:
“Tôi thuê anh với hai bàn tay trắng”
Và từ khi bản hợp đồng được kí chơi với cậu bé, tôi đã thành người tự do”.[6]
Ragore là người am hiểu tâm lý trẻ thơ nên khi viết cho trẻ thơ ông thường quan sát, trân trọng và quan tâm
đến trẻ em từ giấc ngủ bình thường hay những ước mơ nhỏ bé của trẻ thơ. Giọng điệu trong mỗi bài thơ rất
ngộ nghĩnh, hình ảnh sinh động phù hợp với tâm lý trẻ thơ. Tagore sáng tác nhiều bài thơ về tình cảm gia
đình, mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ. Tagore am hiểu tình cảm của trẻ thơ đối với cha mẹ, đặc biệt là
tình cảm của trẻ thơ đối với người mẹ. Trẻ em luôn quấn quýt bên mẹ, nũng nịu với mẹ và đòi hỏi ở người
mẹ một tình yêu bao la và biết quý trọng tình thương ấy hơn cả vàng ngọc. Tình cảm yêu thương giữa cha
mẹ và con cái là tình cảm thiêng liêng liêng trong mỗi gia đình. Tagore cho rằng, trẻ em khi phạm sai lầm
cũng có phần trách nhiệm của cha mẹ. Do đó, để giáo dục trẻ em thì cha mẹ phải dùng tình yêu thương của
mình và tình yêu thương của các thành viên trong gia đình.
Tagore thường đặt nhân vật trẻ em trong những mối tương quan ở nhiều bình diện để các em bộc lộ những
cung bậc, dáng vẻ tính cách khác nhau nhưng đều bộc lộ những vẻ đẹp ngây thơ, tâm hồn trong sáng, giàu
tình yêu thương, tinh nghịch, ham hiểu biết, thích khám phá thế giới của trẻ em. Tính cách hồn nhiên và tâm
hồn thánh thiện của trẻ em đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến thế giới tâm hồn của người lớn, là sợi dây
kỳ diệu của tình yêu nối liền những những trái tim và sưởi ấm những tâm hồn cằn cỗi.
Tagore thành công trong miêu tả trực tiếp tâm lý nhân vật qua việc nắm bắt những nét tâm lý riêng biệt của
từng nhân vật và quá trình diễn biến tâm lý của nhân vật qua những nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Trong đó, trẻ em là đối tượng được Tagore khắc họa có chiều sâu, được nhìn từ phương diện trong sáng, thơ
ngây và tốt đẹp. Để người đọc hiểu rõ hơn về thế giới tâm hồn trẻ thơ, Tagore sử dụng phương thức miêu tả
trực tiếp tâm lí nhân vật. Sự miêu tả này thường nằm ở những lời bình luận của người kể chuyện hay những
lời nửa trực tiếp xuất hiện cùng với những lời miêu tả ngôn ngữ, hành động, cử chỉ của nhân vật. Những cử
chỉ, hành động biểu hiện tình yêu thương, nhân ái chiếm số lượng nhiều nhất trong toàn tác phẩm. Biểu hiện
của tình yêu thương là sự quan tâm, chăm sóc của nhân vật dành cho người mình yêu thương. Bằng tình yêu
trẻ thơ, R.Tagore quan sát quá trình trưởng thành của các em từ khi còn thơ dại với những thay đổi trong tính
cách và số phận, luôn cố gắng nhìn sâu vào thế giới tâm hồn của các em bằng còn mắt của tình yêu thương
để từ đó tác giả khắc họa nên thế giới trẻ thơ trong sáng, hồn nhiên, đáng yêu hoàn toàn đối lập với thế giới
người lớn với những toan tính xấu xa, xô bồ, bon chen, thực dụng.
Tagore được nhắc đến như một nhà thơ tình nổi tiếng với nhiều tập thơ xoay quanh chủ đề về tình yêu như
Người làm vườn, Tặng phẩm của người yêu,… Ông quan niệm tình yêu là nhân tính thiêng liêng của con
người và thuộc về con người một cách tự nhiên. Con người sinh ra trên cõi đời này ai cũng phải yêu và đó là
một nhu cầu của sự sống. Trong những sáng tác của Tagore, chủ đề về tình yêu chiếm luôn chiếm một vị trí
quan trọng. Tagore cho rằng tình yêu là hạnh phúc:
“Tình yêu ơi: Khi người đến
Với ngọn đèn đau khổ bừng sáng trong tay
Thì ta có thể nhìn thấy mặt người
Và biết người là tuyệt vời hạnh phúc.”[7]
Tagore luôn ca ngợi tình yêu tự do, ca ngợi tình yêu của con người và những đòi hỏi vô cùng, vô tận không
ngừng nghỉ của con người trước tình yêu. Tagore ngợi ca sự hoà hợp giữa hai tâm hồn đang yêu, tìm tự do
trong tình yêu và ông lý giải những cung bậc cảm xúc trong tình yêu:
“Trái tim anh là con chim quen sống cảnh hoang vu
Đã tìm được nơi mắt em khung trời của nó
…Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu.”[8]
Những vần thơ của Tagore luôn hướng vào tâm hồn con người, đi sâu vào thế giới nội tâm để khám phá
những rung động tinh tế của con người khi yêu với những khát khao hòa hợp của hai tâm hồn. Tìm thấy
được ý nghĩa của mình trong tình yêu là con người đã tìm đến được với thiên đường ngay trên cõi nhân sinh.
Tình yêu là sự hòa hợp giữa hai tâm hồn, là nhân tính thiêng liêng mà con người cần đến nó như “cần khí
trời để hít thở”. Một trong những hình thức mãnh liệt nhất trong tình yêu là sự dâng hiến và sự sáng tạo
trong tình yêu. R.Tagore luôn đề cao hành động hy sinh, dâng hiến tất cả cho tình yêu và tình yêu thầm lặng
là biểu hiện cao nhất của tình yêu, là tình yêu cao cả nhất, đáng trân trọng nhất: “Tình yêu thầm lặng là tình
yêu thiêng liêng, trong bóng mờ trái tim ẩn kín tình yêu rực sáng như trân châu. Trong ánh sáng ban ngày kỳ
lạ, tình yêu lại lu mờ một cách thảm thương.”[9] Con người trong tình yêu luôn khao khát không ngừng
được hiến dâng mãi mãi cho tình yêu, hiến dâng hết mình không đòi hỏi và sự sáng tạo là biểu hiện cao nhất
của sự dâng hiến. Theo Tagore, trong tình yêu thì sự hiến dâng chưa đủ mà cần có sự sáng tạo trong tình yêu
để đem lại sự mới mẻ và sự hấp dẫn trường tồn. Tagore cho rằng trong tình yêu luôn tràn đầy hy vọng, hạnh
phúc, những khát khao cháy bóng và cũng có những lúc trải qua đau khổ, buồn chán, hy sinh và mất mát.
Nhưng trải qua đau khổ Tagore luôn rút ra bài học và vẫn mang một niềm tin tưởng: “Tôi biết rằng cuộc đời
này không chín rộ trong tình yêu, cũng không phải đã mất đi tất cả.”[10]
Rabindranath Tagore luôn khao khát và tin tưởng vào sự hiện diện của một thiên đường trên mặt đất. Trong
niềm tin của ông, thiên đường ấy có sự hài hoà giữa niềm vui, tình yêu, sự hoà hợp và tự do. Suốt cuộc đời
Tagore đã cất lên những bài đạo ca để tôn vinh, tỏ lòng sùng kính đối với con người. Những sáng tác của
ông luôn xuất phát từ lòng yêu thương con người và bằng tình yêu con người nồng nàn ông đã cố gắng hiểu,
bày tỏ những quan niệm của mình về con người và đề cao giá trị con người.

8. Thiên nhiên trong thơ Rabindranat Tagore


Rabindranat Tagore (1861 – 1941), thiên tài thơ ca Ấn Độ TK XX, giải Nobel 1913 cho tập Thơ Dâng. Hình
tượng thơ thiên nhiên trong thi phẩm R. Tagore là sự tiếp biến quan niệm thiên nhiên từ văn hóa văn học
truyền thống Ấn Độ. Bà mẹ thiên nhiên vĩ đại tròn đầy viên mãn trong thơ R. Tagore. Mối quan hệ Thiên
nhiên – Con người trong thơ ông đã diễn tả tinh tế sự kỳ diệu, biến ảo của tâm hồn Ấn Độ mộ đạo.
Mượn cảnh tả tình, qua thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng là nét đặc thù của văn hóa, văn học phương Đông.
Ở đó, thiên nhiên là một tấm gương, nếu soi vào, ta sẽ thấy được tâm hồn của mình. Với văn hóa Ấn Độ, từ
truyền thống đến hiện đại, thiên nhiên mang dáng vẻ riêng, đặc biệt hơn. Thiên nhiên Ấn Độ được thể hiện
như một yếu tố có nhân tính, được tôn thờ như thần, là bà mẹ thiên nhiên vĩ đại, biểu tượng của sự im lặng
giản đơn, trong trắng.
Vì thế, thiên nhiên trong văn hóa, văn học Ấn Độ là phương tiện quan trọng để biểu cảm, là một nhân vật
trữ tình, được nhân hóa như một người bạn tâm tình. Cảnh vật không còn là đối tượng vô tri, vô giác mà
cùng đồng cảm, chia sẻ buồn vui với con người. Ngoại cảnh trở thành tâm cảnh một cách có ý thức. Kinh
Upanishad đã luận giải về cuộc sống hữu hạn, mối tương quan Con người – Thiên nhiên; về sự hòa đồng
giữa con người với các thực thể tự nhiên. Mối tương quan, sự hòa đồng này sẽ đưa con người đến sự giải
thoát: “Đời sống của loài người là một cuộc sáng tạo, là ý nguyện vươn tới chiến thắng sức kháng cự của
chất liệu chết, là ước mong khám phá ra được tất cả những điều bí ẩn của vật chất của nó phải tuân theo ý
muốn của con người, để phục vụ cho hạnh phúc của con người” (1).
Tình yêu thiên nhiên, sự hòa hợp thiên nhiên – con người là bản sắc văn hóa, là cội nguồn cảm hứng trữ
tình, duyên cớ của những xúc cảm trong thơ trữ tình Ấn Độ. Đó cũng chính là điểm khởi đầu cho sự sáng
tạo thơ ca Ấn Độ từ truyền thống đến hiện đại. Kế thừa văn hóa truyền thống, thiên nhiên hiện diện trong
thơ R. Tagore như một người bạn tri kỷ. Tâm hồn nghệ sĩ tài hoa của nhà thơ rất mẫn cảm với vẻ đẹp thiên
nhiên. Ông gọi khả năng cảm nhận đặc biệt này là tài sản lớn nhất của mình: “Thật là một diễm phúc cho tôi
là khi nào cũng ý thức được các sự kiện của thế giới quanh mình. Rằng mây là mây, hoa là hoa, thế là đủ vì
chúng trực tiếp ngỏ lời với tôi, vì tôi không thể hờ hững với chúng” (2).
Một trong những nguyên nhân để tác tạo thành thứ khả năng đặc biệt ấy chính là những chuyến du lịch,
những buổi hội thảo, các cuộc meeting, nhiều chuyến đi thực tế ở Hymalaya cùng với cha. Cậu bé Tagore đã
khắc sâu ảnh hưởng của cha mình đối với việc hoàn thiện nhân cách, năng lực sáng tạo của bản thân. Có lẽ
vì thế mà tình yêu thủy chung, sự gắn bó thâm tình với thiên nhiên đã trở thành nét nổi trội trong cá tính
sáng tạo văn học nghệ thuật của ông. Nhà thơ không chỉ ngắm nhìn, thưởng ngoạn thiên nhiên mà còn nồng
ấm một tình yêu đối với vạn vật trong vũ trụ. Bởi với ông, thiên nhiên là hiện thực trong sạch, là đối tượng
lý tưởng, người bạn dịu dàng tình tứ để gửi gắm, bày tỏ những cảm xúc trữ tình: “Nhà nghệ sĩ là người tình
của thiên nhiên. Tuy vậy anh ta cũng vừa là nô lệ, lại vừa là chủ nhân của thiên nhiên nữa” (3). Về điều này,
nhà Ấn Độ học D.Sarma cũng đã khẳng định: “Không một thi sĩ Ấn Độ nào từ thời Veda lại nhiệt thành cảm
thấy sự hiện diện của thiên nhiên bằng Tagore”.
Hầu hết tên các tập thơ của R. Tagore là những hình ảnh tượng trưng, ẩn dụ rất đặc biệt như: Người làm
vườn, Tặng phẩm của người yêu, Cánh thiên nga, Những con chim bay lạc, Mùa hái quả, Trăng non, Con
thuyền vàng, Tiếng hát buổi chiều…; còn trong từng bài thơ thì tràn ngập một không gian rừng núi, sông hồ,
làng quê, đồng ruộng… thoáng đãng, huyền ảo, một bầu thi quyển vô cùng trữ tình. Nhà thơ trân trọng, đồng
thời tỏ rõ tham vọng của mình trước vẻ đẹp huyền ảo, quyến rũ của thiên nhiên. Thông qua hình tượng thơ
thiên nhiên, Tagore mong muốn độc giả cảm nhận sâu sắc hơn, toàn diện hơn vẻ đẹp ấy. Đây cũng chính là
tặng phẩm tình yêu của ông gửi đến cho muôn người.
Thơ Tagore thể hiện một cảm thức sâu xa về vẻ đẹp, về sự giao hòa của thiên nhiên đối với con người.
Nhà thơ nhận biết sự biến chuyển tinh tế của vạn vật để rồi diễn tả xác thực các trạng thái tâm trạng của cái
tôi trữ tình, nhân vật trữ tình: “Chúng tôi có một khu vườn nhỏ tiếp liền với nhà chúng tôi; đối với tôi nó là
mảnh đất thần tiên, hằng ngày hiện ra không biết bao nhiêu vẻ đẹp kỳ diệu. Hầu như buổi sáng nào tôi cũng
dậy thật sớm, chạy ra khỏi giường để vội vàng chào đón cả một mảng hồng đầu tiên của bình minh… Tôi lo
lắng không bao giờ để quên mất một buổi sáng nào, vì mỗi buổi sáng đều quý cho tôi, còn quý hơn vàng của
đối với một kẻ cùng khổ” (4).
Ở hai tập thơ Người làm vườn, Tặng phẩm của người yêu, thiên nhiên tròn đầy viên mãn, thực hiện chủ
đích của nhà thơ là trở thành một loại ngôn ngữ của nhân vật trữ tình. Đời sống nội tâm nhân vật bộc lộ tinh
tế trong không gian tự nhiên, đôi lúc mang tính chọn lọc biểu trưng. Kinh Veda cũng đã khẳng định từ xa
xưa: “Tình yêu là mầm mống ban sơ của tinh thần”. Như vậy, thiên nhiên đã trở thành nhân tố quan trọng
trong hai tập thơ tình này, nó hòa vào triết lý nhân sinh của ông, vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp có chủ đề tình
yêu cao cả, thánh thiện của con người.
Với Tagore, vạn vật trong vũ trụ là nhất thiết bình đẳng, không phân loại hình ảnh cao quý hay hèn hạ,
không có sự ám chỉ hay khinh thị khi gọi tên chúng. Quan hệ con người – thiên nhiên hài hòa, bình ổn. Điểm
nhìn của nhà thơ phải đạt đến vô ngã thì mới có thể đồng nhất với tự nhiên:
Bãi sa mạc hùng vĩ
Đang cháy lên bởi tình yêu của một ngọn cỏ
Đầu lắc lư, vừa cười, vừa vỗ cánh bay xa (5)
Tagore đã lý giải minh bạch cho tư tưởng triết lý, quan điểm thơ ca của ông, đạt đến sự hòa đồng giữa
con người với thiên nhiên là thoát ra được mọi ràng buộc, đau khổ, đạt tới sự giải thoát, đạt tới chân lý tuyệt
đối: “Đối với chúng tôi, điều cần thiết là phải hòa đồng với thiên nhiên ấy; con người sở dĩ tư duy được là vì
tư tưởng của mình phù hợp với các sự vật. Con người sở dĩ được các hiện tượng thiên nhiên theo ý mình,
chính chỉ vì sức mạnh của mình phù hợp với sức mạnh của vũ trụ” (6).
Thiên nhiên trong thơ R.Tagore đã minh chứng mối tương quan giữa con người và tự nhiên là vô cùng bí
mật. Và cũng chính ông đã giải mã sự bí ẩn đó. Theo nhà thơ, sự hòa hợp tiểu ngã – đại ngã là đạt đến nhất
tính trong tình yêu. Một khi được soi mình trong thiên nhiên, được yêu thiên nhiên bằng một tình yêu mãnh
liệt thì con người sẽ ý thức sâu sắc hơn niềm vui và nỗi đau khổ của mình:
Giọt sương nói với mặt hồ
Ngươi là giọt sương to nằm dưới lá sen
Ta là giọt nhỏ nằm trên lá (7)
Qua hình tượng thơ, Tagore lý giải phạm trù Cá nhân – Vũ trụ (Atma – Brahman) trên bình diện triết học.
Thiên nhiên – Con người được đặt trong sự thống nhất hòa đồng. Tinh thần Ấn Độ, công nhận mối quan hệ
bất biến, đặc biệt này, được nhà thơ diễn giải triệt để: nếu mỗi chúng ta không ý thức được sự liên hệ giữa
bản thân mình với thế giới tự nhiên thì chẳng khác gì cuộc sống tù ngục, giữa bốn bức tường đá lạnh lẽo, thù
nghịch. Chỉ trong sự thống nhất, hòa đồng với vạn vật, con người mới khám phá trọn vẹn ý nghĩa của trần
thế hữu hạn, của quy luật sinh tồn.
R.Tagore tiếp nhận triết lí veda, upanishad bằng một tư duy sắc bén, sự sáng tạo đặc biệt, để khẳng định
mối quan hệ biện chứng giữa con người với thiên nhiên. Ở bất kỳ thể loại nào, không chỉ riêng thơ ca, mối
quan hệ này đều được nhà thơ thể hiện bằng một tư tưởng chủ đạo: sự nhất thiết bình đẳng. R.Tagore nói về
sự hòa hợp giữa cái bình thường với cái cao cả của vạn vật trong vũ trụ bằng các hình ảnh tượng trưng:
“Trong sân chầu vũ trụ” – nơi toàn vẹn của chân lý thì: “Chiếc lá cỏ, cùng ngồi chung một thảm với ánh mặt
trời và sao sáng trong đêm” (8).
Như vậy, thơ R.Tagore là sự liên thông sâu sắc giữa con người với vạn vật vũ trụ, là sự hòa nhập vào
những rung động tuyệt vời của thiên nhiên. Nhà thơ quan niệm, tự nhiên nằm trong chính con người, nếu
dùng trí tuệ trộn lẫn với tự nhiên thì ở đó, con người sẽ tìm thấy sự tồn tại của mình.
Thơ ca R.Tagore là sự giao tiếp thâm tình, hằng cửu giữa linh hồn cá thể với linh hồn vũ trụ. Con người –
thiên nhiên hòa làm một trong niềm vui của sự vận động, biến đổi, vũ điệu kỳ ảo của cuộc sống. Trong thiên
nhiên, con người tìm thấy thực chất của tình yêu, sẽ không tìm thấy dù chỉ một mảnh vỡ nhỏ sự đối kháng
con người – thiên nhiên trong thơ ông. Được sống, được yêu trong cuộc đời đan dệt bằng những sợi tơ của
niềm vui, đau khổ là hạnh phúc vô tận đối với R.Tagore. Ông không muốn giã từ mặt đất rạng rỡ nắng, ước
ao được sống mãi giữa khu rừng nở rộ hoa:
Cõi trần vỗ vào đời tôi như một dòng nước lũ
Và hoa, trong người tôi, nở rộ
Tất cả sức trẻ tươi của đất và của nước đã bốc lên như hương khói trong tim ta…(9)
R.Tagore thừa nhận, và trên thực tế, ông đã chịu ảnh hưởng rất lớn của văn chương châu Âu với các nhà
văn nhà thơ tên tuổi như Dante, Heine, Goethe, Milton, Shakespeare… Nhưng dường như cách nhìn nhận,
miêu tả thiên nhiên của văn chương phương Tây không làm thay đổi quy tắc đặc trưng của thơ ca phương
Đông và Ấn Độ trong thi phẩm của R.Tagore. Nhà thơ nói về mức độ ảnh hưởng này với một thái độ rõ
ràng, chúng ta sử dụng văn học phương Tây như một món ăn chứ không phải như một gánh nặng. Sự ảnh
hưởng này không làm nhà thơ đánh mất mình, mà giúp ông khẳng định thêm cá tính sáng tạo trong việc thể
hiện bản sắc văn hóa dân tộc: “Chúng ta sẽ học được rằng, chúng ta có thể vươn tới thế giới lớn lao của loài
người không phải bằng cách tự xóa mình đi mà bằng cách mở rộng bản sắc của chính mình”

You might also like