Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 40

ÔN TẬP TRIẾT HỌC MÁC -LÊNIN

Câu 1. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về vận động và rút ra ý nghĩa của
nó đối với sự phát triển của khoa học?
1. Định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan niệm của Ăng-ghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí
trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, vận
động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại
cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và sự tồn tại của vật
chất luôn gắn liền với vật chất.
VD: Sự di chuyển từ nơi này sang nơi khác, tăng chiều cao, sự tăng trưởng về kinh
tế, sự giảm sút trong học tập, giảm cân,…
2. Phân tích 5 hình thức cơ bản của vận động và cho ví dụ. Chỉ ra mối liên hệ
biện chứng giữa 5 hình thức vận động:
a) Vận động cơ học: sự dịch chuyển trong không gian của các vật thể. VD: di
chuyển
b) Vận động vật lý: vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, quá trình
nhiệt, điện,... VD: thanh sắt nóng sinh ra nhiệt.
c) Vận động hóa học: sự biến đổi các chất hữu cơ, vô cơ trong quá trình hóa hợp và
phân giải. VD: quá trình tạo ra nước (2H2 + O2 → 2H2O)
d) Vận động sinh học: sự biến đổi của các cơ thể sống, biến thái cấu trúc gen, v.v…
VD: sự hít thở, quang hợp, quá trình trao đổi chất.
e) Vận động xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v…
của đời sống xã hội. VD: xã hội loài người đi từ mông muội đến văn minh nhưng
chưa có giai cấp, sau đó xuất hiện giai cấp nhưng chưa có nhà nước, cuối cùng là
hình thành nhà nước.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương
ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất
song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó:
hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao
hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi
sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng
được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Câu 2: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc
của ý thức và rút ra ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này?
Ý thức là gì? Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, ý thức là một phạm
trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần phản ánh thế giới vật chất diễn
ra trong não người, hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ ngôn
ngữ.
a. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (yếu tố cần)
1) Não người là sản phẩm quá trình tiến hoá lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ
tới hữu cơ, chất sống (thực vật và động vật) rồi đến con người - sinh vật - xã hội.
Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động của thần kinh não bộ;
bộ não càng hoàn thiện hoạt động thần kinh càng hiệu quả, ý thức của con người
càng phong phú và sâu sắc.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên
ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
VD: Khi mới xuất hiện loài người, con người chưa có ý thức sâu sắc vì chưa có
kiến thức về thế giới tự nhiên. Trải qua các quá trình từ thời nguyên thủy đến nay,
con người dần phát triển nhờ việc quan sát tự nhiên, trong quá trình ấy, não người
hoàn thiện dần, ghi lại những kiến thức, kinh nghiệm, làm cho ý thức con người
phong phú, văn minh. Từ đó, con người làm chủ được thiên nhiên, bắt thiên nhiên
phục vụ mình.
2) Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng VC này ở dạng VC khác trong
quá trình tác động qua lại lẫn nhau. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi
đối tượng vật chất. Phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài và từ hình
thức thấp lên hình thức cao, tùy thuộc vào kết cấu của tổ chức vật chất.
VD: Sự phản ánh của quá trình nỗ lực nghiên cứu, học tập chăm chỉ là kết quả cao
trong các kì thi
Các hình thức phản ánh. a) Phản ánh của giới vô cơ (gồm phản ánh vật lý (nước
đông đá) và phản ánh hoá học (hình thành hố vôi) ) là những phản ánh thụ động,
không định hướng và không lựa chọn. b) Phản ánh của thực vật là tính kích thích
(cây cối vươn ra ánh sáng) c) Phản ánh của động vật đã có định hướng, lựa chọn
để nhờ đó mà động vật thích nghi với môi trường sống (ngủ đông, di cư). Như vậy,
bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc - đó là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức (yếu tố đủ)
1) Lao động là hoạt động có mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm
tạo ra của cải để tồn tại và phát triển. Lao động làm cho ý thức không ngừng phát
triển (bằng cách tích lũy kinh nghiệm), tạo cơ sở cho con người nhận thức những
tính chất mới (được suy ra từ những kinh nghiệm đã có) của giới tự nhiên; dẫn đến
năng lực tư duy trừu tượng, khả năng phán đoán, suy luận dần được hình thành và
phát triển.
VD: Kinh nghiệm trồng trọt: Khoai đất lạ, mạ đất quen; kinh nghiệm về thiên
nhiên: Ráng mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/Ngày tháng
mười chưa cười đã tối.
2) Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết). Trong quá trình lao động con người liên kết với
nhau, tạo thành các mối quan hệ xã hội tất yếu, dẫn đến nhu cầu cần thiết “phải trao
đổi với nhau điều gì đấy” nên ngôn ngữ xuất hiện. Ngôn ngữ trở thành “cái vỏ vật
chất của ý thức”. Nhờ ngôn ngữ, con người khái quát hoá, trừu tượng hoá những
kinh nghiệm để truyền lại cho nhau.
Ngôn ngữ là sản phẩm của lao động, lại thúc đẩy lao động phát triển.
VD: Ghi lại các giai đoạn, diễn biến lịch sử thông qua các tư liệu, câu chuyện lịch
sử,…
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
Câu 3. Bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức thể hiện ở sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ não người; là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan bởi hình ảnh ấy tuy bị thế giới
khách quan quy định cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện; nhưng thế giới ấy
không còn y nguyên như nó vốn có, mà đã bị cái chủ quan của con người cải biến
thông qua tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, nhu cầu v.v… Có thể nói, ý thức phản
ánh hiện thực, còn ngôn ngữ thì diễn đạt hiện thực và nói lên tư tưởng. Các tư
tưởng đó được tín hiệu hoá trong một dạng cụ thể của vật chất - là ngôn ngữ- cái
mà con người có thể cảm giác được. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình
thành và tồn tại được. VD: Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi
xanh tươi.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, thể hiện ở chỗ, ý thức phản ánh thế giới
có chọn lọc - tùy thuộc vào mục đích của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó nhằm
nắm bắt bản chất, quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khả năng
vượt trước (dự báo) của ý thức tạo nên sự lường trước những tình huống sẽ gây tác
động tốt, xấu lên kết quả của hoạt động mà con người đang hướng tới. Có dự báo
đó, con người điều chỉnh chương trình của mình sao cho phù hợp với dự kiến xu
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng (dự báo thời tiết, khí hậu…); xây dựng các
mô hình lý tưởng, đề ra phương pháp thực hiện phù hợp nhằm đạt kết quả tối ưu.
Như vậy, ý thức không chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới
khách quan

VD: Con người sử dụng máy móc thay cho sức kéo, thể hiện sự năng động trong
việc đáp ứng những nhu cầu thực tiễn, hay những nhà tiên tri dự báo trước về tương
lai thể hiện sự sáng tạo.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn; chịu sự chi phối của các quy luật sinh học và
các quy luật xã hội; do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực
của xã hội quy định. Với tính năng động của mình, ý thức sáng tạo lại hiện thực
theo nhu cầu của bản thân và thực tiễn xã hội. Ở các thời đại khác nhau, thậm chí ở
cùng một thời đại, sự phản ánh (ý thức) về cùng một sự vật, hiện tượng có sự khác
nhau - theo các điều kiện vật chất và tinh thần mà chủ thể nhận thức phụ thuộc.
VD: Ý thức pháp luật nảy sinh từ việc giải quyết các hiện tượng xã hội, gìn giữ xã
hội phát triển. Mỗi thời đại, pháp luật lại có những quy định khác nhau, thể hiện sự
phát triển của xã hội (Thời kì bao cấp: tem phiếu, sau Đổi mới: tự do buôn bán)
Quá trình ý thức gồm các giai đoạn:
1) Trao đổi thông tin hai chiều giữa chủ thể với khách thể phản ánh; định hướng và
chọn lọc các thông tin cần thiết.
2) Mô hình hoá đối tượng trong tư duy ở dạng hình ảnh tinh thần, tức là sáng tạo
lại khách thể phản ánh theo cách mã hoá sự vật, hiện tượng vật chất thành ý tưởng
tinh thần phi vật chất.
3) Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực, tức là quá trình hiện thực hoá tư tưởng.
Con người lựa chọn phương pháp, công cụ tác động vào hiện thực khách quan để
thực hiện mục đích.
VD: Giải 1 bài toán: đọc đề, nắm lấy số liệu cần thiết và yêu cầu đề bài -> suy nghĩ
cách làm, hình dung đề bài theo ý hiểu của mình -> tiến hành giải bài toán, biến suy
nghĩ thành kết quả.

Câu 4: Kết cấu của ý thức:


- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại
ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu
hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại
của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo đó
ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về
tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của
nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri
thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
VD: Các kiến thức về tự nhiên: các loài động vật, thực vật, các hiện tượng tự nhiên,

Các kiến thức về xã hội: thể chế chính trị, giai cấp,…
Các kiến thức về nhân văn: sự sẻ chia, thương người như thể thương thân,…
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ.
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ
sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại
cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người;
là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể
có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những
người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách
mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó
trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm đạo
đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
VD: lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết một lòng giúp nhân dân và quân
đội Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
- Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong
quá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của ý
thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục
đích của hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích đã
lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó điều khiển,
điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác; cho phép
con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân
và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân
chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở
nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một
trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc
đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
VD: Dù gặp vô vàn thiếu thốn, khó khăn về vật chất trong suốt giai đoạn kháng
chiến nhưng ý chí chiến đấu và chiến thắng đã thôi thúc quân và dân ta vượt qua trở
ngại, tiến đến thắng lợi.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri thức
là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố
định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố
khác.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải khách quan trong nhận thức và hành động; nhận thức và hành động phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Không xuất phát
từ ý muốn chủ quan, lấy ý muốn chủ quan làm cơ sở định ra chính sách, lấy ý chí
áp đặt cho thực tế.
VD: Khi chỉnh sửa và ban hành các bộ luật, chính sách pháp luật phải dựa trên hiện
thực cuộc sống theo thời đại. Sau chiến tranh, cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiệt
hại về người và của vô cùng lớn nên chưa thể bắt người dân xây dựng kinh tế mà
phải làm lành các vết thương chiến tranh cả về vật chất lần tinh thần cho nhân dân
trước.
- Phát huy tính năng động chủ quan, sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con
người: giáo dục nâng cao trình độ tri thức khoa học cho nhân dân, cán bộ, đảng
viên; bồi dưỡng nhiệt tình cách mạng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ,
đảng viên; vận dụng đúng đắn các quan hệ lợi ích, động cơ trong sáng, thái độ
khách quan khoa học không vụ lợi; chống thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. VD:
Muốn thay đổi tình hình giao thông, phải xuất phát từ ý thức người dân nên việc
tuyên truyền và nâng cao dân trí về tham gia giao thông là cần thiết.
- Khắc phục, ngăn chặn bệnh chủ quan, duy ý chí: khuynh hướng tuyệt đối hoá của
nhân tố chủ quan, của ý chí, xa rời hiện thực, bất chấp quy luật khách quan, lấy
nhiệt tình thay cho sự yếu kém của tri thức; bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ
hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan; định ra chủ trương
chính sách xa rời hiện thực khách quan; phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng
lực trí tuệ của toàn Đảng.
Đại hội VII Đảng ta khảng định: Mọi đường lối của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động đúng theo quy luật khách quan.
Câu 5. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?
1. Định nghĩa vật chất? Ý thức là gì? Cho ví dụ?
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
- Xuất phát từ quan điểm cho rằng vật chất có trước quyết định ý thức, ý thức,
tinh thần là cái có sau, cái phụ thuộc vật chất. Vì vậy, toàn bộ hoạt động tinh thần
của con người xét cho cùng đều là sự phản ánh hiện thực khách quan vao trong bộ
não người và bị quy định bởi hoạt động thực tiễn của xã hội.
Ví dụ: nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các học thuyết chính trị,
pháp quyền, đạo đức nào đó, thì chúng ta phải căn cứ vào những điều kiện kinh tế -
xã hội tương ứng của nó trên cơ sở quan điểm lịch sử cụ thể. Có thực mới vực được
đạo, Phú quý sinh lễ nghĩa

- Mọi sự biến đổi của nhân tố vật chất tất yếu dẫn đến sự thay đổi của ý thức, của
nhân tố tinh thần. Trong hoạt động tinh thần của con người nói chung, kể cả ý thức
cá nhân hay ý thức xã hội hoặc đường lối chủ trương chính sách của một nhà nước
hay sự phát triển của khoa học cũng dựa trên cơ sở hiện thực khách quan, thì mới
có thể làm cho khả năng khách quan trở thành hiện thực. Điều đó, cũng sẽ đúng nếu
như chúng ta cho rằng đường lối phát triển kinh tế - xã hội của một chính đảng, một
nhà nước đều phụ thuộc vào điều kiện khách quan nhất định.
VD: Nhu cầu phục vụ cuộc sống khiến công nghệ khoa học phát triển: máy hơi
nước ra đời thay thế sức kéo khi con người không muốn phải xách nước xa và nặng,
điện thoại di động ra đời thay thế thư từ truyền thống khi nhu cầu liên lạc của con
người tăng lên,…
- Tự thân nó, ý thức tư tưởng của con người không thể thực hiện được sự biến đổi
nào trong hiện thực, nếu nó không thông qua các nhân tố vật chất. C.Mác từng
nhấn mạnh rằng: chỉ có lực lượng vật chất đánh bại bởi một lực lượng vật chất. Vì
vậy, mọi sự biến đổi của đời sống xã hội, xét cho cùng đều phụ thuộc vật chất, nhân
tố vật chất.
VD: Điều kiện sống thay đổi thì ý thức thay đổi: Ngày xưa người con gái phải tam
tòng tứ đức, công dung ngôn hạnh, xã hội trọng nam khinh nữ, ngày nay giữa nam
và nữ đã có sự bình đẳng.
Tính độc lập tương đối của ý thức:
- Xuất phát từ quan điểm cho rằng ý thức là tính thứ hai phụ thuộc vào vật
chất và con người có khả năng nhận thức được hiện thực khách quan. Sự phản ánh
của ý thức về hiện thực khách quan, không phải là sự phản ánh thụ động, đơn giản
mà nó có tính năng động và sáng tạo. Vì vậy, ý thức, nhân tố tinh thần có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định mục đích, phương pháp hoạt động nói chung của
con người. VD: Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, luôn có những
bài thơ, bài hát khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho nhân dân, củng cố niềm tin
chiến thắng để nhân dân vững lòng chiến đấu. Đó chính là một trong những nhân tố
tạo nên chiến thắng.
- Trong các nhân tố tinh thần, sự phát triển của khoa học có tính vượt trước tồn tại
xã hội, khẳng định vai trò của khoa học đối với sự phát triển của xã hội. Theo
C.Mác: một khi lý luận xâm nhập vào hoạt động của quần chúng sẽ trở thành lực
lượng vật chất trực tiếp. Về vấn đề này, V.I.Lênin cũng đã nhấn mạnh: không có lý
luận cách mạng sẽ không có phong trào cách mạng . VD: Tất cả các vị tướng,
những người cầm đầu, nhà lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa đều có cơ sở và lí luận
cách mạng trước khi làm cách mạng hay mở ra cuộc khởi nghĩa mới: bác Hồ tìm
hiểu về Cách mạng Nga và các nước châu Âu.
- Trong những điều kiện khách quan nhất định, ý thức của con người có thể giữ vai
trò quyết định đến kết quả của hoạt động thực tiễn. Điều này có nghĩa là ý thức, tư
tưởng của con người với sự nhận biết đúng đắn và ý chí của mình, con nguời có thể
phát huy được năng lực tối ưu của các nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần trong
những điều kiện khách quan nhất định để đạt được kết quả cao nhất trong hoạt động
thực tiễn. VD: Hẳn trong chúng ta cũng thường đặt ra những câu hỏi là tại sao trong
những điều kiện khách quan nhất định nào đó mà ranh giới giữa cái chết và cái
sống… có những con người có thể vượt lên chính mình bằng sức mạnh của lý trí,
của niềm tin với nghị lực và bản lĩnh để làm một việc gì đó mà mọi người cho là
không tưởng, nhưng lại thành công. Nhưng xét về quá trình lâu dài thì nhân tố vật
chất bao gìơ cũng giữ vai trò quyết định đối với nhân tố tinh thần.
- Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ có ý thức con người nhận thức được quy
luật vận động, phát triển của thế giới khách quan.
Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+ Tích cực: ý thức có thể trở thành động lực phát triển của vật chất. VD: Tư tưởng
khoán 10 của Bí thư Nguyên Ngọc tỉnh Vĩnh Phú, thơ văn thời kháng chiến chống
Pháp-Mĩ,...
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất
khi ý thức phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của
vật chất. VD:Tư tưởng trọng nam khinh nữ, Hợp tác xã trước 1986 của Đảng,...
Câu 6. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm mối liên hệ; mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế
giới.
VD: Trồng cây xanh thì con người có không khí sạch để thở. MLH phổ biến là một
phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật và hiện tượng
của thế giới. VD: Trong tư duy con người có những mối liên hệ giữa kiến thức cũ
và kiến thức mới; cây tơ hồng, cây tầm gửi sống nhờ; nếu chung mục đích thì phải
chung tay với nhau.
b. Tính chất của các mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan. Các mối liên hệ thể hiện mình trong sự tác động giữa các sự vật,
hiện tượng vật chất với nhau, giữa sự vật, hiện tượng với cái tinh thần, giữa những
hiện tượng tinh thần với nhau, như mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của
quá trình nhận thức. Các mối liên hệ, tác động đó đều là sự phản ánh mối liên hệ
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. VD: Mối liên hệ cây
xanh – cơ thể sống con người, “Oan gia ngõ hẹp”
Tính phổ biến. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những
diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn
diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng. VD:
gói hút ẩm trong các gói bánh có MLH với môi trường bên ngoài; hiện tượng hô
hấp của loài ếch trên cạn và dưới nước.
Tính đa dạng, phong phú. Có rất nhiều kiểu MLH. Nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các
sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự
vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ
biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau. VD:
Cô A vừa là mẹ trong MLH gia đình, là giáo viên trong MLH công việc, là người
cùng câu lạc bộ trong MLH xã hội,...

Câu 7. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí mỗi liên hệ phổ biến
Nguyên tắc toàn diện yêu cầu xem xét sự vật hiện tượng:
1) trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc
tính cùng các mối liên hệ của chúng.
2) trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với
môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
3) trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận
động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của
nó.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này mà không
thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều,
không thấy mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật nguỵ biện (cố ý đánh
tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết
trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ
phổ biến).
VD: Để đánh giá phẩm chất năng lực của một con người ta cần xem xét người đó
trong mọi MQH khác nhau, trong các hoàn cảnh tình huống khác nhau, trong sự
thay đổi của cả một quá trình. Công dân A từng đi tù vì trộm cắp tài sản, mọi người
cho là người không đàng hoàng, có nhiều chỉ trích định kiến về A nhưng sau khi ra
tù, A đã thay đổi, ta cần có cái nhìn khác. A biết yêu thương gia đình, tử tế giúp đỡ
mọi người xung quanh, làm ăn lương thiện,...
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối liên
hệ cụ thể, có tính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự
vật hiện tượng. Cơ sở lý luận của nguyên tắc này là không gian, thời gian với vận
động của vật chất, là quan niệm chân lý là cụ thể và chính nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến.
VD: Khi TGGT, đèn đỏ phải dừng lại nhưng khi đi cấp cứu, CSGT phải cho ta đi;
kinh tế nước ta thời kì trước Đổi mới là lạc hậu, yếu kém nhưng đặt trong hoàn
cảnh lịch sử lúc bấy giờ: vừa bước ra khỏi chiến tranh, thiệt hại về người và của thì
phương thức kinh tế ấy là hợp lí, chưa thể ép người dân làm kinh tế chủ nghĩa hay
kinh tế tư bản,..

Câu 8. Nguyên lý về sự phát triển


a. Khái niệm phát triển
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu
cơ với nguyên lý về sự phát triển, bởi liên hệ cũng là vận động, không có vận động
sẽ không có sự phát triển nào. Phát triển xuất hiện trong quá trình giải quyết mâu
thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất giữa phủ định
những yếu tố không còn phù hợp và kế thừa có chọn lọc, cải tạo cho phù hợp của
sự vật, hiện tượng cũ trong sự vật, hiện tượng mới.
Khái niệm PT: quá trình vận động tiến lên của sự vật hiện tượng theo chiều từ thấp
đến cao từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
VD: Sự phát triển của nhận thức do quá trình đấu tranh giữa cái đã biết và cái chưa
biết của con người về TGKQ.
Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất
đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ở mâu
thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng; động lực của sự phát triển là việc giải quyết
mâu thuẫn đó.
b. Tính chất của sự phát triển.
1) Tính khách quan. Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm trong bản thân
sự vật, hiện tượng. VD: Sự phát triển của xã hội loài người: Công xã nguyên thủy -
> Chiếm hữu nô lệ -> Phong kiến -> Tư bản -> Xã hội chủ nghĩa => Xã hội đi lên
dần dần, con người không thể quay về được dù có muốn hay không.
2) Tính phổ biến. Sự phát triển diễn ra trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
VD: Tự nhiên: sự thích nghi của động vật dưới nước khi tự nhiên thay đổi.
Xã hội: sự thay thế của các nền văn minh: VMNN -> VNCN -> VM tri thức.
Tư duy: năng lực nhận thức của con người về TGTN ngày càng sâu sắc.
3) Tính kế thừa. Cái mới ra đời từ sự phủ định có tính kế thừa cái cũ; cái mới còn
giữ lại, có chọn lọc và cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ.
VD: Nền văn hóa VN hiện đại có sự thay đổi từng ngày, du nhập thêm những nét
văn hóa mới (haloween, valentine, noel,... ) nhưng vẫn gìn giữ nét văn hóa truyền
thống (ca trù, quan họ, tục ăn trầu,... )
4) Tính đa dạng, phong phú. Sự phát triển còn phụ thuộc vào không gian và thời
gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
VD: Cách mạng VN những năm 1930 – 1975 có bước tiến nhưng 1933 – 1935 thì
đi xuống. Tuy nhiên tất cả đều dẫn đến thành công

Câu 9. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về sự phát triển với hoạt động
nhận thức và thực tiễn
(Thực tiễn) Nguyên tắc phát triển yêu cầu:
1) Đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động; phát hiện được các xu hướng biến đổi,
phát triển của nó để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng ở trạng thái hiện tại, mà
còn dự báo được khuynh hướng phát triển của nó. VD: Dự báo thời tiết, dự báo giá
vàng,...
2) Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát
triển có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm ra những hình
thức, phương pháp tác động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển
đó.
VD: Việt Nam luôn kịp thời đưa ra những chính sách phát triển khác nhau ở mỗi
thời kì để thúc đẩy mọi mặt phát triển, đồng thời, khắc phục và hạn chế cái yếu
kém.
3) Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm, sớm phát hiện
và ủng hộ sự vật, hiện tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển; phải
chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v bởi nhiều khi sự vật, hiện tượng
mới thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp.
VD: Chủ trương làm cách mạng của Phan Bội Châu có điểm yếu kém, khiến cách
mạng không thành công, Bác Hồ đã nhìn nhận ra và thay đổi.
4) Trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới phải
biết kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ và phát triển sáng tạo
chúng trong điều kiện mới. VD: Thời trang áo dài cách tân.
(Nhận thức) Phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn; nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng: muốn nắm
được bản chất của sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát triển của
chúng thì phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động trong sự biến
đổi của nó

Câu 10: Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng? Ý nghĩa phương
pháp luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn?
1. Các khái niệm
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những
mối quan hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
VD: Người dân Việt Nam đều sử dụng tiếng nói và chữ viết tiếng Việt.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định. VD: Mỗi vùng khác nhau ở Việt Nam có một cách nói,
cách phát âm khác nhau hay cách gọi tên các sự vật hiện tượng khác nhau. Miền
Bắc – bố, miền Trung – tía, miền Nam – ba.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính… chỉ
có ở một sự vật, một kết cấu vật chất. Những mặt, những thuộc tính ấy không được
lặp lại ở bất kỳ sự vật, hiện tượng hay kết cấu vật chất nào khác. VD: Chỉ có Hà
Nội có Hồ Gươm.
2. Mối quan hệ biện chứng
Phép biện chứng duy vật cho rằng, cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan và
giữa chúng có sự thống nhất biện chứng. Cụ thể:
1. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là
không có cái chung thuần tuý, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.
VD: Thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động. Vận động lại tồn tại dưới các hình
thức riêng biệt như vận động vậy lý, vận động hoá học, vận động xã hội v.v..
2. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Điều đó có nghĩa là
không có cái riêng độc lập thuần tuý không có cái chung với những cái riêng khác.
VD: Các chế độ kinh tế – chính trị riêng biệt đều bị chi phối với các quy luật chung
của xã hội như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
3. Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái
chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào
cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có. Cái
chung là cái sâu sắc hơn cái riêng bởi vì nó phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại trong cái riêng
cùng loại.
VD: Người nông dân Việt Nam ngoài đặc điểm chung giống với những người nông
dân trên thế giới là tư hữu nhỏ, sản xuất lẻ tẻ, sống ở nông thôn, còn có những đặc
điểm riêng là chịu ảnh hưởng của làng xã, có tập quán lâu đời, mỗi vùng miền lại
có những đặc điểm khác nhau. Cái chung sâu sắc hơn vì dù ở đâu, nông dân Việt
Nam cũng đều cần cù lao động, chịu thương chịu khó.
4. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau; có thể coi đây là sự
chuyển hoá giữa hai mặt đối lập. Sự chuyển hoá giữa cái đơn nhất và cái chung
diễn ra theo hai hướng: cái đơn nhất biến thành cái chung, làm sự vật phát triển và
ngược lại, cái chung biến thành cái đơn nhất làm cho sự vật dần dần mất đi.
VD: Một sáng kiến của một anh hùng lúc đầu là cái đơn nhất được nhiều người học
tập trở thành cái phổ biến; Khoán sản phẩm tới người lao động lúc đầu chỉ ở một
vài tỉnh sau trở thành cái phổ biến; Vận động cơ chế thị trường ở Việt Nam lúc đầu
mới là tư tưởng chỉ đạo thực hiện ở một số ngành kinh tế - sau trở thành chung.
3. Ý nghĩa:
– Cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng. Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng
chứ không thể ở ngoài cái riêng.
– Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá
biệt hoá. Nếu đem áp dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung dễ dẫn đến
sai lầm tả khuynh giáo điều. VD: Tập thể dục 30 phút mỗi ngày được cho là tốt
nhưng đối với những người thể lực yếu hay khuyết tật, ... thì nên có những lộ trình
tập luyện khác phù hợp với thể chất họ.
Nếu xem thường cái chung, chỉ chú ý đến cái đơn nhất dễ dẫn đến sai lầm hữu
khuynh xét lạ – Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất
định cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể biến
thành cái đơn nhất. Trong hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái
đơn nhất chuyển thành cái chung nếu cái đơn nhất có lợi cho con người. Và ngược
lại biến cái chung thành cái đơn nhất nếu cái chung tồn tại bất lợi cho con người
4. Hoạt động thực tiễn
Vân dụng cặp phạm trù này vào trong quá trình nhận thức và đánh giá các sự vật
hiện tượng một cách khách quan và khoa học
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại
của mình; cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái riêng
nào cũng bao hàm cái chung nên trong hoạt động thực tiễn không nên nhấn mạnh,
tuyệt đối hóa cái chung, phủ nhận cái riêng.
Để phát hiện ra cái chung, quy luật chung chúng ta phải xuất phát từ cái riêng, phải
xuất phát từ việc phân tích các sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Cái chung sau khi đã
được rút ra từ cái riêng, khi đem áp dụng vào cái riêng lại phải căn cứ vào đặc điểm
của cái riêng để làm cho nó phù hợp. Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối
cái riêng. Cái riêng là cái phong phú hơn cái chung, cho nên trong nhận thức và
trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào cái chung sâu sắc làm cơ sở, đồng thời
chú ý đến cái riêng phong phú để bổ sung cho nó hoàn thiện.
Trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và
ngược lại. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn muốn xác định được đâu là cái chung
đâu là cái đơn nhất phải đặt nó trong một quan hệ xác định. Có thể và cần phải tạo
điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho con người trở thành cái chung và cái
chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
VD1: Muốn nhận thức được một quy luật phát triển nào đó của nền sản xuất của
một nước nào đó phải nghiên cứu phân tích so sánh quá tình sản xuất thực tế ở một
giai đoạn khác nhau, ở những khu vực khác nhau mới tìm ra được mối liên hệ
chung.
VD2: Xem xét một phong trào nào đó của một đơn vị nào đó phải xem xét tinh thần
thi đua đó ở từng tổ, từng người sau đó liên hệ lại với nhau, từ đó rút ra những quy
định chung để phát huy tối đa tinh thần cạnh tranh thi đua và giảm thiểu tối đa
những hạn chế.

Câu 11. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả? Ý nghĩa
phương pháp luận của việc nắm vững mối quan hệ này trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn?
1. Các khái niệm
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động
lẫn
nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
VD: Trời mưa là nguyên nhân, sinh ra kết quả là đường trơn và ướt.
– Khác với nguyên nhân, nguyên cớ cũng là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra
trước kết quả, nhưng không sinh ra kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng là mối liên
hệ bên ngoài không bản chất.
VD: “Sự kiện Vinh Bắc Bộ”, vào tháng 8/1964, từ đó Mỹ ném bom miền Bắc là
nguyên cớ, còn nguyên nhân thực sự là do bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ.
– Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân,
nhưng có tác dụng đối với sự nảy sinh kết quả.
VD: Nhiệt độ, áp suất, chất xúc tác là những điều kiện không thể thiếu của một số
phản ứng hoá học.
2. Mối quan hệ biện chứng
1. Nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả.
Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Chỉ những mối liên hệ trước
sau về mặt thời gian có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả.
VD: + Không có lửa làm sao có khói.
+ Cuộc đấu tranh giai cấp vô sản mâu thuẫn giai cấp tư sản (là nguyên nhân bao giờ
cũng có trước để dẫn đến cuộc cách mạng vô sản với tính chất là kết quả bao giờ
cũng xuất hiện sau)
+ Sự biến đổi của mầm mống trong hạt lúa bao giờ cũng phải xuất hiện trước còn
cây lúa là kết quả nó xuất hiện sau.
+ Bão (nguyên nhân) xuất hiện trước, sự thiệt hại của hoa màu, mùa màng do bão
gây ra thì phải xuất hiện sau.
+ Người bị ô tô chèn chết đấy là kết quả xấu nhất nguyên nhân của nó là do việc
thực hiện luật lệ giao thông không đúng (không nghiêm chỉnh thực hiện luật lệ giao
thông).
2. Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có thể
do nhiều nguyên nhân và một số nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
– Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh
hơn.
– Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết
quả chậm hơn, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.
VD: + Công cuộc cách mạng của chúng ta thắng lợi, giải phóng miền nam thống
nhất đất nước nó là kết quả của nhiều nguyên nhân: dân tộc ta “thà quyết hy sinh tất
cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” và được sự ủng hộ của các
nước, các dân tộc xã hội chủ nghĩa và các nước, các dân tộc yêu chuộng hòa bình
trên toàn thế giới.
+ Thầy giáo truyền đạt kiến thức cho học sinh (một nguyên nhân) là nguyên nhân
dẫn đến nhiều kết quả học tập đạt được của họ. Cùng một nguyên nhân như vậy
nhưng lại dẫn đến nhiều kết quả khác nhau đối với từng học sinh: học sinh đạt kết
quả học tập giỏi, khá, trung bình, yếu kém.
+ Đốt lửa vào ngọn đèn dầu (Nguyên nhân) sinh ra kết quả: thứ nhất: có ánh sáng
để cho mọi người học tập và làm việc, thứ hai: Bấc ngắn, dầu cạn đi, thứ ba: làm
tăng nhiệt độ môi trường.
3. Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển hoá, tác động qua
lại tạo thành chuỗi liên hệ nhân – quả vô cùng vô tận.
VD: Sự phát triển của vật chất là nguyên nhân sinh ra tinh thần, nhưng tinh thần lại
trở thành nguyên nhân làm biến đổi vật chất.
Con gà – quả trứng – con gà - ...
3. Ý nghĩa
– Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của mối
liên hệ nhân quả.
– Muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân cùng những điều
kiện cho nguyên nhân đó phát huy tác dụng. Ngược lại, muốn hiện tượng nào đó
mất đi thì phải làm mất nguyên nhân tồn tại của nó. VD: Để học tập tốt thì cần tạo
điều kiện như nào, làm mất cái gì xấu?
– Phải biết xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên
nhân có vai trò không như nhau. VD: Đau bụng do nhiều nguyên nhân: ngộ độc
thực phẩm, nhiễm giun, đau bụng lạnh,... cần xác định đúng nguyên nhân để có
phương án điều trị phù hợp,...
– Kết quả có thể tác động trở lại nguyên nhân. Do đó, trong hoạt động thực tiễn cần
khai thác, tận dụng những kết quả đã đạt được để thúc đẩy nguyên nhân tác động
theo hướng tích cực.
VD: Học tập tốt thì đạt được kết quả cao khiến người ta phấn khích, càng muốn đạt
nhiều kết quả cao hơn nữa – phấn đấu học tập tốt hơn.

Câu 12. Trình bày khái niệm lượng chất


a. Vị trí, vai trò của quy luật
Quy luật lượng đổi-chất đổi là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật. Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi
về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ được những thay đổi về lượng
đã đạt đến giới hạn - đến độ. Quy luật lượng đổi chất đổi cũng chỉ ra tính chất của
sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ
từ, vừa có bước nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng có thể vừa có những bước tiến
tuần tự, vừa có thể có những bước tiến vượt bậc.
b. Khái niệm chất, lượng
- Chất là tên gọi tắt của chất lượng (là chất của sự vật, hiện tượng khách quan)
dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống
nhất hữu cơ của các thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng làm cho
chúng là chúng mà không phải là cái khác (thể hiện sự vật, hiện tượng đó là gì và
phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác).
VD: Nước không màu không mùi không vị; Con người được phân biệt với con vật
ở tính có ý thức.
Phân biệt chất với thuộc tính
- Chất là sự thống nhất các thuộc tính, còn thuộc tính là những trạng thái, tính chất
cơ cấu nên sự vật. VD: Thuộc tính của viên phấn là dùng để viết, còn chất của viên
phấn là được làm bằng thạch cao.
- Chất và thuộc tính có MQH chặt chẽ, không có chất nằm ngoài sự vật.
Thuộc tính: cơ bản và không cơ bản. Khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất thay
đổi, thuộc tính không cơ bản thay đổi thì chất chưa thay đổi.
Đặc điểm cơ bản của chất
1) Có tính ổn định tương đối, nghĩa là khi sự vật, hiện tượng chưa chuyển hoá thì
chất của nó chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát
triển qua nhiều giai đoạn; trong mỗi giai đoạn đó, chúng lại có chất riêng của mình.
VD: Quá trình từ nòng nọc thành ếch: Giai đoạn nòng nọc: có đuôi, sống dưới
nước. Giai đoạn thành ếch: mất đuôi, mọc 4 chân, sống trên cạn.
2) Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.
VD: Sắt là một nguyên tố hóa học, Fe, số hiệu nguyên tử 26, thuộc nhóm VIIIB,
chu kỳ 4.
- Lượng dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về các yếu tố biểu
hiện ở số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, đại lượng; ở trình độ quy mô
và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, …
Đặc điểm cơ bản của lượng
1) tính khách quan vì lượng là lượng của chất, là một dạng vật chất nên chiếm
một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong một thời gian nhất định.
VD: Lớp A có 50 sinh viên, học ở phòng 1 từ 8h đến 11h.
2) Có nhiều loại lượng khác nhau trong các sự vật, hiện tượng; có lượng là yếu
tố quy định bên trong, có lượng chỉ thể hiện những yếu tố bên ngoài; sự vật, hiện
tượng càng phức tạp thì lượng cũng phức tạp theo. VD: trình độ phát triển của xã
hội là yếu tố bên trong, số dân cư trong một xã là yếu tố bên ngoài.
3) Trong tự nhiên và xã hội, có lượng có thể đo, đếm được; nhưng trong xã hội và
tư duy lại có những lượng khó đo lường bằng những số liệu cụ thể mà chỉ có thể
nhận biết được bằng tư duy trừu tượng. VD: Ta có thể đếm được 1 gói kẹo có 20
cái nhưng không thể đếm được lượng kiến thức ta tích lũy được.

Câu 13. Nội dung quy luật chuyển hóa lượng – chất
- Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuỳ theo từng mối
quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; có cái là lượng ở trong mối quan
hệ này, lại có thể là chất ở trong mối quan hệ khác.
VD: Lớp A và B có cùng sĩ số, lớp A có 20 HSG, lớp B có 30 HSG. Khi xét về
trình độ học tập của 2 lớp thì lớp B tốt hơn, 30 HSG là chất. Khi so sánh số HSG 2
lớp thì 30 HSG lớp B là lượng.
- Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai
mặt này tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng đang tồn
tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
+ Độ là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay
đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá. Sự thay đổi về
lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả là cái cũ mất đi, cái mới ra đời. VD: 0 <
t < 100oC nước vẫn ở thể lỏng.Lượng thay đổi đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho
chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới - thời điểm, mà tại đó
bắt đầu xảy ra bước nhảy - được gọi là điểm nút.
VD: 0 và 1000C là điểm nút
+ Bước nhảy dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá cơ bản về chất của sự vật, hiện
tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây nên; là sự thay đổi về chất khi đã
tích lũy đủ về lượng. Sự vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi
tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo ra một đường nút vô tận, làm cho sự
vật mới ra đời thay thế sự vật cũ.
Các hình thức của bước nhảy.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, người ta chia bước nhảy thành
bước nhảy toàn bộ - là những bước nhảy làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các
yếu tố của sự vật, hiện tượng thay đổi. VD: chiến thắng mùa xuân 1975, giải phóng
hoàn toàn, đất nước bước sang thời kì mới. Bước nhảy cục bộ - là loại bước nhảy
chỉ làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận của sự vật, hiện tượng
đó. VD: Dù xã hội đã hiện đại, bình đẳng nhưng 1 phần nhỏ vẫn chưa thay đổi, tồn
tại tư tưởng trọng nam khinh nữ,…
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi
đó, người ta chia bước nhảy thành bước nhảy đột biến - khi chất của sự vật, hiện
tượng biến đổi mau chóng ở tất cả mọi bộ phận cơ bản của nó. VD: Phóng xạ
(radium biến đổi), núi lửa phun trào. Bước nhảy dần dần - là quá trình thay đổi về
chất diễn ra do sự tích luỹ dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố
của chất cũ, làm cho sự vật, hiện tượng biến đổi chậm. VD: tích lũy tư duy từ cấp 1
– cấp 2 – cấp 3 – đại học - …
Quy luật lượng đổi-chất đổi không chỉ nói lên một chiều là lượng đổi dẫn đến
chất đổi mà còn có chiều ngược lại, là khi chất mới đã ra đời, nó lại tạo ra một
lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất với lượng, thể hiện ở
chỗ sự tác động của chất mới về quy mô, trình độ, nhịp điệu v.v… đối với lượng
mới tạo nên tính thống nhất giữa chất mới với lượng mới.
VD: Sinh viên vượt qua kì thi tốt nghiệp (điểm nút), trở thành cử nhân (bước nhảy)
có tấm bằng tốt và tìm được việc làm tốt (chất mới thay đổi quy mô tồn tại của
SVHT). Sau đó,sinh viên có nhu cầu học tập cao hơn – thạc sĩ (chất mới thay đổi sự
vận động và phát triển)
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa chất
với lượng. Sự thống nhất đó thể hiện ở
1) những thay đổi dần về lượng tới điểm nút chuyển thành những thay đổi về chất
thông qua bước nhảy
2) chất mới ra đời sẽ tác động tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới; lượng
mới lại tiếp tục biến đổi, đến một mức độ nào đó lại phá vỡ chất cũ kìm hãm nó.
3) quá trình tác động qua lại giữa lượng và chất tạo nên con đường vận động liên
tục trong đứt đoạn, đứt đoạn trong liên tục; từ sự biến đổi dần dần về lượng tiến tới
nhảy vọt về chất; rồi lại biến đổi dần dần về lượng để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp
theo của chất, cứ thế làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động, biến đổi và
phát triển.
Câu 14. ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa lượng - chất
1) sự phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần
về lượng. Vì vậy, phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất.
VD: XHPK –XHCN – CSVN
2) quy luật xã hội diễn ra thông qua các hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy,
khi đã tích luỹ đầy đủ về lượng phải tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những
thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất; chuyển những thay đổi mang tính
tiến hoá sang bước thay đổi mang tính cách mạng. Chỉ có như vậy chúng ta mới
khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh thường được biểu hiện ở chỗ
coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn thuần về lượng. VD: tình bạn – tình yêu – hôn
nhân.
3) sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo
thành sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào
cấu trúc và phương thức liên kết trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo
thành sự vật, hiện tượng đó. VD: muốn duy trì nước ở thể lỏng phải để nước trong
giới hạn 0 < t < 100oC
Câu 15. Phân tích khái niệm quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập
a. Vị trí, vai trò của quy luật. Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản
của phép biện chứng duy vật; nó chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận
động, phát triển.
b. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
Khái niệm mâu thuẫn. là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tương tác, tác động lẫn
nhau của các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập - những mặt,
thuộc tính, khuynh hướng vận động trái ngược nhau; cùng tồn tại trong một sự vật,
hiện tượng, trong cùng một thời gian, một mối liên hệ; thường xuyên thống nhất,
đấu tranh, chuyển hóa, triển khai lẫn nhau.
VD: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng
hoá và dị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền.
Mâu thuẫn có một số tính chất chung là tính khách quan, phổ biến; tính đa dạng,
phong phú. thể hiện ở chỗ, trong tự nhiên, xã hội và tư duy đều có mâu thuẫn tồn tại
không phụ thuộc vào ý thức con người.Một số loại mâu thuẫn: bên trong - bên
ngoài, cơ bản - không cơ bản, chủ yếu - thứ yếu, đối kháng- không đối kháng.
Khái niệm sự thống nhất: là các mặt đối lập nương tựa nhau, làm điều kiện tồn tại
cho nhau, không có mặt này thì không có mặt kia. VD: Đồng hóa, dị hóa; Hấp thụ
và bài tiết trong con người, xã hội vô sản và tư bản: người bán, người mua. Xét 1
phương diện nào đó, giữa 2 mặt đối lập có những nét giống nhau, gọi là đồng nhất.
Nhờ có nó mà các mặt đối lập chuyển hóa cho nhau. VD: có nam có nữ đều là con
người mới thành vợ chồng; Cái thiện và cái ác trong con người: trong cái ác có cái
thiện, làm sao để lương tâm thức tỉnh.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập: là sự tác động, bài trừ phủ định nhau, là sự triển
khai của các mặt đối lập. VD: Tư sản - vô sản, nông dân - địa chủ. Nông dân tìm
cách để thoát khỏi địa chủ, địa chủ tìm cách để bóc lột.
Vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển: tạo nên nguồn gốc của sự
vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng. Có hai loại tác động lẫn nhau dẫn
đến vận động. Đó là sự tác động lẫn một sự vật nhau giữa các sự vật, hiện tượng và
sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong, hiện tượng. Cả hai loại tác động
này tạo nên sự vận động; nhưng chỉ loại tác động thứ hai- loại tác động lẫn nhau
giữa các cặp mặt đối lập do mâu thuẫn giữa chúng tạo nên mới làm cho sự vật, hiện
tượng phát triển.

Câu 16. Trình bày nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập
Trong mỗi mâu thuẫn, các cặp mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh
lẫn nhau tạo nên tình trạng ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng. Thống nhất
giữa các cặp mặt đối lập:
1) các cặp mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn
tại; không có mặt này thì không có mặt kia. VD: Phải có giai cấp tư sản thì mới có
giai cấp vô sản.
2) các cặp mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh
giữa cái mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn. VD: Trong mội xã hội đối
kháng giai cấp luôn có thống trị và bị trị. Hai giai cấp này là hai mặt đối lập và luôn
đấu tranh với nhau để giành quyền lợi
3) giữa các cặp mặt đối lập tương đồng nhau, đồng nhất với nhau (do trong các mặt
đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau) thể hiện sự chung nhau đối với một số
yếu tố,thuộc tính v.v. VD: nóng và lạnh là 2 mặt đối lập nhưng đều chỉ trạng thái
nhiệt độ của nước.
Đấu tranh lẫn nhau giữa các cặp mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ khuynh
hướng bài trừ, phủ định nhau giữa các cặp mặt đối lập dẫn đến sự triển khai mâu
thuẫn và sau đó đến sự chuyển hóa (do sự đồng nhất trên, trong những điều kiện
nào đó, tạo nên) giữa các cặp mặt đối lập.
VD: Nước đang lạnh, dưới điều kiện nhiệt độ - đun sôi, chuyển hóa thành nóng –
đối lập.
Tính chất của sự thống nhất và đấu tranh
1) sự thống nhất có tính tạm thời, tương đối, là có điều kiện, thoáng qua, vì sự
thống tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng.
2) sự đấu tranh có tính tuyệt đối, phá vỡ sự ổn định tương đối của sự vật, hiện
tượng dẫn đến sự chuyển hoá về chất của chúng. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh
gắn liền với sự tự thân vận động.
VD: Quá trình giải quyết mâu thuẫn cơ bản của nước ta là quá trình vừa tuân theo
sự tiến hóa dần dần về lượng, vừa tranh thủ những bước phát triển có tính cách
mạng, nhảy vọt về chất; vừa kế thừa tất cả những mặt cần thiết, hợp lí của chủ
nghĩa tư bản để phát triển lực lượng sản xuất, lại vừa phải đấu tranh để loại bỏ
những mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản; vừa tích lũy nội dung vừa cải tạo hình
thức cho phù hợp.
Tóm lại, quá trình vận động của mâu thuẫn trải qua các giai đoạn:
1) khi cái mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác nhau giữa các cặp mặt đối
lập
2) trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng và của chính các cặp
mặt đối lập, sự khác nhau giữa chúng trở thành xung đột, chuyển hóa thành mâu
thuẫn
3) khi điều kiện chín muồi, các cặp mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau (theo các
hướng hoặc bài trừ, phủ định lẫn nhau, hoặc mặt này triệt tiêu mặt kia, hoặc cả hai
mặt đều bị triệt tiêu). Mâu thuẫn được giải quyết làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra
đời; sự khác nhau, xung đột, mâu thuẫn lại được tái lập và giải quyết mâu thuẫn dẫn
đến sự chuyển hóa.

Câu 17. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập (Lấy VD trong quá trình học tập)
1) Nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho
hoạt động thực tiễn bằng con đường phát hiện mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng.
Muốn phát hiện ra mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các cặp đối lập trong sự
vật, hiện tượng.
2) Phân tích mâu thuẫn phải bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát triển
của từng mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau giữa các cặp
mặt mâu thuẫn và điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng.
3) Để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển phải tìm cách giải quyết mâu thuẫn,
không được điều hoà mâu thuẫn. Mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều
kiện chín muồi; không nóng vội hay bảo thủ, trì trệ khi giải quyết mâu thuẫn.
Câu 18: Phân tích khái niệm cơ bản của quy luật phủ định của phủ định
Sự phủ định là sự thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của sự
vật, hiện tượng trong quá trình vận động, phát triển của nó. VD: Phá bỏ luống rau
cũ để gieo luống rau mới.
Sự phủ định biện chứng là sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng. VD: tre già măng mọc.
Tính khách quan: Nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện
tượng, nó là quá trình đấu tranh, giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự
vật, tạo khả năng ra đời cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển
của chính bản thân sự vật.
Ví dụ: Chủ nghĩa xã hội phủ định chủ nghĩa tư bản là kết quả của việc giải quyết
mâu thuẫn cơ bản, khách quan, vốn có trong lòng xã hội tư bản; mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Tính kế thừa: cái mới hình thành và phát triển tự thân thông qua quá trình chọn
lọc, loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực. Ví dụ:
Trong sinh vật, các giống loài đều phát triển theo quy luật di truyền, các thế hệ con
cái đều kế thừa các yếu tố tích cực của các thế hệ bố mẹ, học thuyết “gen” đã
chứng minh điều đó. Trong lĩnh vực nhận thức, triết học Mác ra đời giữa thế kỷ
XIX, đã kế thừa mọi giá trị tư tưởng của quá khứ, mà trực tiếp là các giá trị của nền
triết học cổ điển Đức
Phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản
thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa
các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ
định lần thứ nhất diễn ra là sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (cái phủ
định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề, cái phủ định là cái mới
xuất hiện. Cái phủ định sau khi phủ định cái bị phủ định, tiếp tục biến đổi và tạo ra
phủ định lần thứ hai). Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra
đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất.
Nó dường như lập lại cái ban đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao
hơn, tích cực hơn.
VD: Hạt thóc - Cây mạ - Cây lúa
Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1 hạt mà
là nhiều hạt)
Câu 19.Nội dung quy luật Phủ định của phủ định (Lấy VD hạt thóc)
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một quá
trình vô tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng từ trình độ
thấp đến cao,có tính chất chu kỳ theo hình thức "xoáy ốc": mỗi chu kỳ phát triển
của sự vật, hiện tượng thường trải qua hai lần phủ định cơ bản với hình thái tồn tại
chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại những đặc trưng cơ bản
của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát triển nhờ
kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực qua
hai lần phủ định biện chứng.
Theo V.I.Lênin: "Từ khẳng định đến phủ định, - từ sự phủ định đến "sự thống nhất"
với cái bị khẳng định, không có cái đó, phép biện chứng trở thành một sự phủ định
sạch trơn,một trò chơi hay là chủ nghĩa hoài nghi".
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát
triển. V.I.Lênin đã khái quát con đường đó như sau: "Sự phát triển hình như diễn lại
những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn
("phủ định của phủ định"); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không
theo đường thẳng...".
Khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự
phát triển, đó là tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng mới của đường
xoáy ốc cũng như lặp lại, nhưng với một trình độ cao hơn. Sự tiếp nối của các vòng
trong đường xoáy ổc phản ánh quá trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của sự
vật, hiện tượng trong thế giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng phủ
định biện chứng đã đóng vai trò là những "vòng khâu" của quá trình đó.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện
chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng
định trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Phủ định biện chứng là điều
kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích
cực từ trong sự vật, hiện tượng cũ,phát huy nó trong sự vật, hiện tượng mới và tạo
nên tính chu kỳ của sự phát triển. Nhận xét về vai trò của quy luật này, Ph.Ăngghen
đã viết: " .. phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến vả chính
vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của
tự nhiên, của lịch sử và của tư duy".
Câu 20.Ý nghĩa phương pháp luận quy luật phủ định của phủ định
- Là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu hướng vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng mà là con
đường quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau. Tuy
nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát triển chỉ là sự biểu hiện của
khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật. Cần phải nắm được đặc
điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động tới sự phát triến,
phù hợp với yêu cầu hoạt động, nhận thức, biểu hiện của thế giới quan khoa học và
nhân sinh quan cách mạng trong mọi hoạt động của chúng tavà trong thực tiễn.
Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát trển tiến lên của cái tiến bộ.

Vận dụng quy luật này của VN trong việc lựa chọn con đường đi lên CNXH
– Quy luật này chỉ ra cách thức của sự phát triển là sau các lần phủ định sự vật
dường như quay trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Lịch sử XH loài
người tất yếu sẽ phủ định các chế độ tư hữu xây dựng chế độ công hữu, giải phóng
con người khỏi áp bức bất công…
– Quy luật này chỉ ra sự phát triển theo đường xoáy ốc, quá trình phát triển có bước
quanh co phức tạp thậm chí có bước thụt lùi tam thời nên khi CNXH ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ nhưng Đảng và Nhà nước ta không do dự mà lựa chọn lại con
đường đi lên CNXH. ..
– Hiện nay CNXH hiện thực đang đứng trước những khó khăn không nhỏ, nhưng
những khó khăn đó chỉ là tạm thời, nhất định theo quy luật tất yếu của nhân loại
tiến bộ sẽ xây dựng thành công CNXH…

Câu 21: Bản chất và trình độ của nhận thức?


1. Khái niệm
Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách
quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về
thế giới khách quan đó. VD: Tàu ngầm được sáng chế dựa trên hình dáng cá heo,
máy bay dựa trên chim.
2. Các nguyên tắc xuất phát là cơ sở lý luận của quan niệm về nhận thức:
- Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
- Thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan vào bộ óc
của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận không có cái
gì là không thể nhận thức được mà chỉ có những cái mà con người chưa nhận thức
được.
- Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng
tạo. Quá trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến
nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn,…
- Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động lực, mục
đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như vậy, theo quan điểm duy vật biện chứng thì nhận thức thuộc phạm vi hoạt
động phản ánh của con người (với tư cách chủ thể nhận thức) đối với thế giới khách
quan (với tư cách khách thể nhận thức) được tiến hành thông qua hoạt động thực
tiễn và nhằm sáng tạo tri thức phục vụ hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng lấy thực
tiễn là tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của những tri thức đó.
VD: Trong lá cây có chứa chất diệp lục – điều hiển nhiên đúng trong tự nhiên, con
người phát hiện, nghiên cứu và tìm hiểu kĩ càng, sâu sắc và dựa trên chính thực tế
lá cây để kiểm nghiệm.
3. Các trình độ của nhận thức: nhận thức kinh nghiệm, nhận thức lý luận; nhận
thức thông thường và nhận thức khoa học.
Với quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức nhất định phải là một quá trình, đó
cũng là quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý
luận; từ trình độ nhận thức thông thường đến trình độ nhận thức khoa học…
Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các
sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học.
Kết quả là những tri thức kinh nghiệm gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và
những tri thức kinh nghiệm khoa học. Hai loại tri thức này có thể bổ sung cho nhau,
làm phong phú lẫn nhau.
VD: các kinh nghiệm dân gian về thời tiết: Ráng mỡ gà có nhà thì giữ, Đêm tháng
năm …
Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong
việc khái quát bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng. VD: những kiến thức lí
luận như Bác Hồ dạy nông dân xóa mù chữ, dạy các chiến sĩ làm cách mạng,…
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau
nhưng có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của
nhận thức lý luận; cung cấp cho nhận thức lý luận tư liệu phong phú, cụ thể; là cơ
sở hiện thực để kiểm tra, hoàn thiện lý luận đã có và khái quát thành lý luận mới.
Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm chỉ dừng lại ở sự mô tả, phân loại các sự kiện,
các dữ kiện thu được từ quan sát và thực nghiệm trực tiếp. Do đó nó chỉ đem lại
những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài rời rạc, chưa phản ánh được cái bản
chất, những mối liên hệ mang tính qui luật của các sự vật, hiện tượng. Ngược lại,
mặc dù được hình thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức lý
luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập
tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự
hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp
lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, thông qua đó mà nâng cao những tri thức
kinh nghiệm từ chỗ cụ thể, đơn nhất thành cái khái quát, phổ biến.

Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực
tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng
xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự
vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, gắn liền với những quan
niệm sống thực tế hàng ngày, chi phối hoạt động của con người trong xã hội. VD:
Nhìn một người khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, ta biết được họ có chế độ ăn uống
khoa học, tập luyện hợp lí, đời sống lành mạnh,…

Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp
từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu,
diễn ra dưới dạng trừu tượng logic. Đó là các khái niệm, phạm trù và các qui luật
khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại
vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. VD: các sáng kiến, phát minh:
bóng đèn điện, máy tính, trí tuệ nhân tạo AI,…, các định luật khoa học: 3 đluật
Newton, Pytago,…

Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất
của quá trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước
nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học.
Mặc dù đã chứa đựng những mầm móng của những tri thức khoa học, song nhận
thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, ngẫu nhiên,
không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học.
Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua quá trình tổng kết,
trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học.

Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học nó lại có tác động trở lại nhận
thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức
thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học.
Câu 22. Thực tiễn là gì? Các hình thức cơ bản của thực tiễn
a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là gì? là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch
sử-xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Thực tiễn là hoạt động
khi con người sử dụng công cụ tác động vào đối tượng vật chất làm cho đối tượng
đó thay đổi theo mục đích của mình. Thực tiễn có ba đặc trưng là hoạt động vật
chất cảm tính, lịch sử-tự nhiên và tính mục đích.
VD: xây nhà, xây dựng các công trình công cộng: thủy điện, nhà máy, công viên,

Các hình thức của thực tiễn.


1) Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực tiễn.
Lao động là cơ sở vật chất cho các loại hoạt động khác của con người; là hoạt động
đã đưa con người từ trạng thái thú vật lên trạng thái con người, đảm bảo cho sự tồn
tại và phát triển của con người nói riêng và xã hội loài người nói chung. VD: Từ
thời nguyên thủy, con người lao động, biến đá thành công cụ lao động sản xuất để
phục vụ cuộc sống, biết sử dụng lửa để nấu chín thức ăn, không ăn tươi nuốt sống
như động vật ăn thịt.
2) Hoạt động cải tạo xã hội (chính trị-xã hội) là hoạt động nhằm cải tạo hiện
thực xã hội, cải biến những quan hệ xã hội nên có tác dụng trực tiếp đối với sự phát
triển xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng xã hội. VD: Làm cách mạng, tiến hành
xây dựng nông thôn mới,

3) Hoạt động thực nghiệm là hình thức đặc biệt của thực tiễn. Thực nghiệm bao
gồm thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm khoa học và thực nghiệm xã hội, được tiến
hành trong điều kiện nhân tạo nhằm rút ngắn thời gian của các quá trình biến đổi để
dựa trên cơ sở đó nhận thức thế giới, chứng minh tính chân thực của nhận thức.
VD: Quá trình xây dựng đất nước sử dụng chất xám như làm kinh tế, học tập,
nghiên cứu các loại thuốc phòng chống các loại bệnh,…
4) Các hoạt động thực tiễn không cơ bản như giáo dục, nghệ thuật, pháp luật,
đạo đức,… được mở rộng và có vai trò ngày càng tăng đối với sự phát triển của xã
hội do đời sống xã hội ngày càng phát triển, ngày càng thêm đa dạng. Trong đó,
hoạt động sản xuất vật chất quy định các hình thức còn lại của thực tiễn và đến lượt
mình, các hình thức đó tác động ngược trở lại hoạt động sản xuất vật chất. VD:
công nghệ thông tin 4.0, máy móc phát triển, sử dụng trí tuệ nhân tạo -> con người
có công cụ lao động hiện đại, sản xuất và lao động dễ dàng, thuận tiện hơn -> kinh
tế, xã hội phát triển -> các nghề thủ công dần bị mất đi vì có máy móc tự động hóa
làm thay -> hoạt động sản xuất lúc này là sáng tạo ra các máy móc đó.

Câu 23. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
1) Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người
nhận biết được cấu trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình
thành tri thức về đối tượng. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và
khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận
thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt
động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ
những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại
cho con người những tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận
động và phát triển của thế giới.
VD: Khi ném hòn đá vào một tấm kính, thấy tấm kính đó vỡ ra khi chúng ta sẽ biết
rằng kính có thuộc tính dễ vỡ.
2) Thực tiễn là mục đích và động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của
nhận thức.
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao
năng lực thực tiễn để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của
con người. Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng
phản ánh nhạy bén, chính xác; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực
phản ánh của con người đối với tự nhiên. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ
đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Những tri thức được áp
dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
VD: Công nghệ tiên tiến, thay đổi từng ngày từng giờ, đòi hỏi con người phải luôn
luôn trau dồi, tìm hiểu, bắt kịp với xu thế phát triển của công nghệ.
Việc học tập đặt ra yêu cầu học sinh phải giải những bài khó, học kiến thức mới
nâng cao hơn, mỗi khi giải quyết được những vấn đề đó, nhận thức của học sinh
được tăng lên.
3) Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Mọi sự biến đổi của nhận thức thường
xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là tiêu
chuẩn, thước đo giá trị (chân lý) những tri thức đã đạt được; đồng thời bổ sung,
phát triển và hoàn thiện nhận thức.
VD: Qua 2 cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp và Mỹ, Bác Hồ đã chứng minh
chân lí:
Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Nhà thám hiểm Ma-gien-lăng đã đi vòng quanh thế giới,phát hiện ra Thái Bình
Dương và khẳng định Trái Đất có hình cầu, bác bỏ tư tưởng Trái Đất
hình dẹt.
Như vậy, thực tiễn không những là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình
thành và phát triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để
thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi
chúng ta quán triệt quan điểm thực tiễn: yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ
thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn; lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn nhận thức. Việc nghiên
cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ
quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc; ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực
tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa. (liên hệ với chính sách
của Đảng để phục vụ cuộc sống nhân dân)
Câu 24.Trình bày quan niệm về giai đoạn nhận thức lý tính trong quá trình
nhận thức
Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) bắt nguồn từ trực quan sinh động và từ lý
luận do thế hệ trước truyền lại. Nhận thức lý tính phản ánh sâu sắc, chính xác và
đầy đủ hơn về khách thể nhận thức. VD: Kinh nghiệm dân gian: Trông mặt mà bắt
hình dong/Con lợn có béo thì lòng mới ngon,…
Những thành phần của nhận thức lý tính
1) Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh đặc tính cơ bản
của SVHT. VD: Định nghĩa về gió: là luồng không khí chuyển động từ đai áp cao
xuống đai áp thấp.
2) Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định
hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng; là hình
thức phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào
ý thức con người tạo nên vai trò của phán đoán là hình thức biểu hiện và diễn đạt
các quy luật khách quan.
VD: Nhiều mây đen – trời mưa, phán đoán giá vàng,…
3) Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri
thức mới theo phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán
tiên đề (suy luận là quá trình đi từ những phán đoán tiên đề đến một phán đoán
mới).
VD: Newton phán đoán trong môi trường lí tưởng không có ma sát thì các vật đang
chuyển động sẽ tiếp tục chuyển động, đang đứng yên sẽ tiếp tục đứng yên, từ đó rút
ra định luật 1 Newton.
Kết quả của nhận thức trong giai đoạn tư duy trừu tượng là nhờ phương pháp
trừu tượng hoá và khái quát hoá các thông tin, tài liệu do trực quan sinh động và tư
duy trừu tượng do các thế hệ trước để lại, tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực sâu
sắc hơn; phản ánh được những thuộc tính và mối quan hệ bản chất mang tính quy
luật của sự vật, hiện tượng.

Mối quan hệ biện chứng giữa hai giai đoạn nhận thức:
1) Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn của một quá trình
nhận thức. Tuy có những sự khác nhau về mức độ phản ánh hiện thực khách quan,
nhưng giữa hai quá trình đó có sự liên hệ, tác động qua lại. Trực quan sinh động là
cơ sở tất yếu của tư duy trừu tượng, trên thực tế, nhận thức lý tính không thể thực
hiện nếu thiếu tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại và ngược lại, nhận thức lý
tính sẽ làm cho nhận thức cảm tính sâu sắc và chính xác hơn.
VD: Khi bác Hồ mới về nước, Bác nắm được tình hình đất nước qua quan sát và
nghe các cán bộ báo cáo. Đây là tiền đề để Bác đưa ra chiến lược và chính sách phù
hợp vừa cải thiện cuộc sống nhân dân vừa kháng chiến (NTCT). Từ thực tế như
vậy, Bác nghiên cứu, tiên đoán những khả năng có thể xảy ra tiếp theo để quyết
định đường lối đúng đắn nhất (NTLT)
2) Mỗi kết quả của nhận thức, mỗi nấc thang mà con người đạt được trong nhận
thức thế giới khách quan đều là kết quả của cả trực quan sinh động (điểm khởi
đầu) và tư duy trừu tượng (tổng hợp những tri thức của trực quan sinh động thành
các kết quả của nhận thức và thực tiễn là nơi kiểm nghiệm tính chân thực của các
kết quả đó của nhận thức) được thực hiện trên cơ sở thực tiễn, do thực tiễn quy
định.
VD: Khi mới gặp một người, cảm nhận ban đầu cho ta thấy người đó dễ gần, vui
tính,…(NTCT), qua tiếp xúc lâu dài, ta thấy được nhiều đặc điểm ở người đó hơn:
gia trưởng, bảo thủ,… (NTLT)
3) Mỗi giai đoạn nhận thức có những nét đặc trưng riêng. Nhận thức cảm tính
gắn liền với thực tiễn và sự tác động trực tiếp của khách thể lên các giác quan của
chủ thể, nhận thức lý tính bao quát sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, nhận thức ở giai
đoạn này nhất thiết phải được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh nhằm tránh nguy
cơ ảo tưởng, viển vông. Đó là thực chất của mệnh đề “từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn”.
VD: Qua quan sát tình hình thi đua trong một lớp học (NTCT), ta thấy được những
điểm mạnh và điểm yếu của tập thể lớp, từ đó, tổng kết và đánh giá được tinh thần
cạnh tranh học tập của lớp đó (NTLT) đề ra và áp dụng những phương pháp kích
thích thi đua học tập phù hợp.
4) Mỗi chu trình nhận thức đều phải đi từ thực tiễn đến trực quan sinh động rồi
đến tư duy trừu tượng rồi đến thực tiễn. Trong đó, thực tiễn giữ vai trò là điểm bắt
đầu và khâu kết thúc của chu trình đó. Nhưng sự kết thúc chu trình nhận thức này
lại là sự khởi đầu của chu trình nhận thức mới ở mức độ cao hơn, rộng hơn chu
trình cũ và cứ thế vận động mãi làm cho nhận thức của con người ngày càng sâu
hơn, nắm được bản chất và quy luật của thế giới khách quan.
VD: Quan sát con gà – Nắm được đặc điểm bên ngoài – Nghiên cứu về đặc điểm
sinh lí, đặc tính sinh trưởng và phát triển,… - Kiến thức nâng cao, có phương pháp
nuôi gà hiệu quả.
5) Trên con đường nhận thức đó, cứ mỗi lần mâu thuẫn trong nhận thức được
giải quyết thì lại xuất hiện mâu thuẫn mới. Mỗi lần giải quyết mâu thuẫn của nhận
thức là một lần nhận thức được nâng lên trình độ mới, chính xác hơn, loại bỏ dần
những nhận thức sai đã phạm phải.
Kết quả của quá trình đó là hình ảnh chủ quan được tạo ra ngày càng có tính bản
chất, khách quan và cụ thể.
VD: 10000 thí nghiệm của Edison.
Câu 24. Khái niệm và các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất-kỹ thuật của hình thái kinh tế-xã hội; là
mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất, thể
hiện năng lực thực tế chinh phục giới tự nhiên bằng sức mạnh của con người trong
quá trình đó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định sự hình thành, tồn tại và
chuyển hoá giữa các hình thái kinh tế-xã hội, từ hình thái thấp, ít tiến bộ lên hình
thái cao, tiến bộ hơn.
VD: Công nghệ 4.0, Người công nhân đứng cạnh cái máy kéo đã chết thì chưa là
LLSX, kinh nghiệm lao động của con người,…
Các yếu tố của lực lượng sản xuất:
1) Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động - bộ phận của giới tự nhiên được đưa
vào sản xuất, chịu sự tác động của con người (nông nghiệp, công nghiệp nặng,…);
công cụ lao động - những vật thể hay phức hợp vật thể nối con người với đối tượng
lao động, truyền tác động từ con người đến đối tượng lao động (cuốc, xẻng, máy
tính, máy xúc,…); phương tiện lao động gồm đường xá, cầu cống, kho tàng, bến
bãi, phương tiện vận chuyển và thông tin liên lạc.
2) Người lao động là những người có thể lực, kỹ năng, kinh nghiệm lao động và
biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Người lao động phát triển
về thể lực, trí lực, nhạy bén và tính sáng tạo trong lao động. Trí tuệ cao, trình độ
chuyên môn giỏi, đạo đức nghề nghiệp trong sáng là những yếu tố quan trọng của
người lao động. VD: bác sĩ, kĩ sư, nông dân,…
3) Khoa học được coi là một trong những yếu tố thành phần của lực lượng sản
xuất. Hiện nay,khái niệm khoa học còn được mở rộng sang lĩnh vực công nghệ.
Khoa học-công nghệ đang trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", trở thành "lực
lượng sản xuất độc lập" là đặc điểm thời đại của sản xuất vật chất hiện nay.
VD: Trí tuệ nhân tạo AI, Người nông dân Mỹ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất cho ra đời quả bí đỏ nặng 437kg
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là trình độ của công cụ lao động; trình
độ tổ chức và phân công lao động xã hội; trình độ ứng dụng các thành tựu khoa học
vào sản xuất; kinh nghiệm, kỹ năng lao động thể hiện qua khả năng chinh phục tự
nhiên của con người.

Câu 26.Khái niệm và các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội); là quan hệ cơ bản, quy định mọi quan hệ xã
hội khác; phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo thành cơ sở hạ
tầng của xã hội và là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ xã hội. Trong quy
luật này, quan hệ sản xuất mang tính thứ hai, do lực lượng sản xuất quy định.
VD: trong 1 nhà máy khi công nhân góp cổ phần thì họ vừa có quyền sở hữu và
quyền sử dụng.
Các yếu tố của quan hệ sản xuất.
1) Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất - là quan hệ sở hữu giữa “những nhóm
người”; quy định địa vị của từng nhóm người trong sản xuất xã hội. VD: Địa chủ -
Nông dân
2) Quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động có khả năng quy định
quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của sản xuất vật chất cụ thể. VD: Chủ tịch,
tổng giám đốc, trưởng phòng, phó phòng, thư kí, nhân viên,…
3) Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động là khâu cuối cùng của quá trình
sản xuất vật chất. Tính chất và hình thức phân phối, mức độ thu nhập của các giai
cấp và của các tầng lớp xã hội đều phụ thuộc vào quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và
quan hệ tổ chức, quản lý và phân công lao động. VD: người mua – người bán
Trong quá trình sản xuất vật chất, ba thành phần cơ bản trên đây của quan hệ sản
xuất có quan hệ hữu cơ với nhau tạo nên sự ổn định tương đối so với sự vận động
thường xuyên của lực lượng sản xuất. Mỗi yếu tố của quan hệ sản xuất có vai trò và
ý nghĩa tác động lên sản xuất xã hội khác nhau; trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản
xuất đóng vai trò quy định đối với hai quan hệ còn lại và quan hệ trong tổ chức,
quản lý và phân công lao động và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động có
thể góp phần củng cố, phát triển quan hệ sản xuất và cũng có thể làm biến dạng
quan hệ sở hữu tư liệu đó.
Câu 27. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất
1) Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định quan hệ sản xuất
– Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của
phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình
thức xã hội của phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức thì nội dung quyết định hình thức.
VD: Thời phong kiến, làm nông là chủ yếu nên hình thành QHSX địa chủ - nông
dân.
– Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực
lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức
sản xuất mới xuất hiện. VD: săn bắn hái lượm– trồng trọt chăn nuôi – thuê người
làm – làm nông trên diện rộng…
– Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao
hơn, đưa loài người trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội khác nhau từ thấp lên
cao, với những kiểu quan hệ sản xuất khác nhau. VD: Chiếm hữu nô lệ - Phong
kiến - TBCN
2.Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
– Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ tạo
địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản
thúc đẩy, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. VD: trong cơ quan xí
nghiệp sản xuất hàng hóa nhiều và tốt, năng suất lao động tăng, người lao động
hăng hái sản xuất.
– Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. VD: sản phẩm máy moc thủ công – hai người lái máy
cày bằng người cuốc ruộng suy ra không còn đúng, dẫn đến cản trở; ở Việt Nam
xây dựng hợp tác xã cấp cao quá nhanh (cấp xã) cải tạo công thương nghiệp ồ ạt,
mang tính chiến dịch trong khi trình độ lực lượng sản xuất thấp kém.
– Quan hệ sản xuất có thể tác động (thúc đẩy kìm hãm) sự phát triển của lực lượng
sản xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao động của
quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp dụng thành tựu
khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao động, v.v.. VD:
Mối quan hệ giữa sếp và nhân viên tốt, sếp có nhiều chính sách khen thưởng xứng
đáng thì nhân viên tích cực làm việc hiệu quả, doanh thu cao.

– Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp
mới giải quyết được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến liên. VD: vô sản – tư bản.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức sản xuất khác cao hơn. Quy
luật này là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người
phát triển từ thấp đến cao.
VD: Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất ở nước ta: chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa từ một nước công nghiệp lạc hậu với lực lượng sản xuất đậm
chất nông nghiệp với quan hệ làm chung, chia đều nên đã gặp phải những khó khăn
lớn trong những năm trước năm 1986; sau năm 1986 lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển, quan hệ sản xuất cũng đa
dạng hơn nên sau hơn 15 năm, nước ta đã từ một nước nông nghiệp lạc hậu chuyển
dần lên thành một nước công hoá.
Câu 28. Khái niệm cơ sở hạ tầng và các yếu tố cầu thành cơ sở hạ tầng
Định nghĩa. Cơ sở hạ tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản
xuất tạo nên cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
VD: cơ sở hạ tầng của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay là
một kết cấu kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân tư bản,...) trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Các yếu tố của cơ sở hạ tầng.
1) QHSX của phương thức sản xuất trước đó (QHSX tàn dư).VD: Phong kiến
2) QHSX của phương thức sản xuất đang tồn tại chủ đạo (QHSX thống trị).
VD:XHCN
3) QHSX của phương thức sản xuất tương lai (QHSX mầm mống tương lai).
VD:CSCN
Các yếu tố của cơ sở hạ tầng- hệ thống các quan hệ sản xuất của một phương thức
sản xuất nhất định- một mặt, trong quan hệ đối với lực lượng sản xuất, giữ vai trò là
hình thức kinh tế cho sự duy trì, phát huy và phát triển lực lượng sản xuất đang tồn
tại; mặt khác- trong quan hệ đối với các quan hệ chính trị-xã hội, giữ vai trò là cơ
sở hình thành kết cấu kinh tế- cơ sở cho sự thiết lập kiến trúc thượng tầng của xã
hội.
Câu 29. Khái niệm kiến trúc thượng tầng và các yếu tố cấu thành
Định nghĩa: là toàn bộ những quan điểm xã hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v) với những thiết chế tương ứng (nhà nước,
đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v) và những mối quan hệ nội tại giữa các
yếu tố đó của kiến trúc thượng tầng. Toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ
cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc
thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng
với cơ sở hạ tầng hiện thực đó.
VD: Tư tưởng HCM, CN Mác – Lê-nin, Mặt trận Tổ quốc VN, Hội Phụ nữ,…
Các yếu tố cơ bản của một kiến trúc thượng tầng
1) quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị. VD: Bản
chất của nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam đều do quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa qui định. Do đó, bản chất của nhà nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
2) tàn dư những quan điểm xã hội của xã hội trước.
3) quan điểm và tổ chức xã hội của các giai cấp mới ra đời.
4) quan điểm và tổ chức xã hội của các tầng lớp trung gian.
Những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị quy
định tính chất kiến trúc thượng tầng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc
thượng tầng trong xã hội có giai cấp là nhà nước; công cụ vật chất cụ thể của giai
cấp thống trị về mặt kinh tế, chính trị và pháp luật. Nhờ có nhà nước mà tư tưởng
của giai cấp thống trị mới được truyền bá và thống trị được đời sống xã hội. Giai
cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm chính
quyền nhà nước thì hệ tư tưởng và các thể chế giai cấp đó cũng giữ địa vị thống trị
trong xã hội.
Câu 30. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
– Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất
định như thế nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho nó thế nào thì hệ
thống tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, v.v.. và các quan hệ; các
thể chế tương ứng với những tư tưởng ấy cũng như vậy. VD: QHSX phong kiến
sinh ra Nhà nước phong kiến.

– Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó
xảy ra trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự
biến đổi đó diễn ra thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp. VD: chuyển
từ QHSX PK sang QHSX TBCN đồng thời chuyển từ nhà nước PK sang nhà nước
TBCN.
– Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc tượng tầng là quy luật phổ biến của mỗi hình
thái kinh tế - xã hội. VD: thời nào cũng thế, PK – TBCN – XHCN.

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
– Bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xoá bỏ
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
– Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng
bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng
có tác động to lớn nhất và trực tiếp đối với cơ sở hạ tầng.
– Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, kiến trúc thượng tầng có những quá trình
biến đổi nhất định. Quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của
nó đối với cơ sở hạ tầng càng có hiệu quả và ngược lại.
– Trong thời đại ngày nay, vai trò của kiến trúc thượng tầng tăng lên rõ rệt, càng thể
hiện với tư cách là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Song nếu
quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng đến mức phủ định
tính tất yếu kinh tế của xã hội, thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan, duy ý chí.
VD: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta
– Cơ sở hạ tầng trong thời ký quá độ ở nước ta bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất
gắn liền với các hình thức sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau,
thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
– Về xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hệ thống chính
trị xã hội mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiền phong của nó là Đảng cộng
sản Việt Nam.
Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị – xã hội không tồn tại như một
mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lực
thuộc về nhân dân lao động.
Nêu những đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc hạ tầng ở nước ta hiện nay
Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế
nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư
nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau,
thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống
nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, chúng vừa cạnh tranh
nhau, vừa liên kết, bổ sung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải
sử dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó biện pháp
kinh tế có vai trò quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình
thức và bước đi thích hợp theo hướng: kinh tế quốc doanh được củng cố và phát
triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn
những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty
cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng.
Đảng ghi rõ “phải tập trung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng kinh tế xã hội và một số công trình công nghiệp then chốt đã được chuẩn bị
vốn và công nghệ. Nâng cấp và xây dựng mới hệ thống giao thông, sân bay, bến
cảng, thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo, y tế ”, “Từ nay tới cuối thập kỷ, phải
quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát
triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ
sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu”.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân
ta, giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm
thuê bị đánh đập, lương ít.
Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởnh chủ đạo
trong đời sống tinh thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi
rõ:“xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do
Đảng cộng sản lãnh đạo ”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống
chính trị - xã hội không tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người,
thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải
quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và
củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt
thời kỳ quá độ.
Câu 31. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cấu thành
Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao gồm:
Hoàn cảnh địa lý. VD: các điều kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,… tạo nên đặc điểm
riêng có của không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội.
Điều kiện dân số. VD: cách thức và mô hình tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư.
Phương thức sản xuất ra của cải vật chất. VD: phương thức kỹ thuật canh nông lúa
nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của
người Việt Nam.
Trong ba nhân tố đó thì phương thức sản xuất của cải vật chất là nhân tố quyết định
đối với tồn tại xã hội. VD: Trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều
sông ngòi,... tất yếu làm hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp
nhất đối với người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm qua. Để
tiến hành được phương thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân
cư làng, xã, có tính ổn định bền vững.
Câu 32. Khái niệm ý thức xã hội và các cấp độ của ý thức xã hội
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những tư tưởng,
quan điểm, lý luận, tình cảm, tâm trạng, tập quán, truyền thống v.v.. phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử.
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, có chung một nguồn gốc là
phản ánh tồn tại xã hội và giữa chúng có quan hệ tác động lẫn nhau. Những hệ tư
tưởng xã hội không nảy sinh tự phát từ tâm lý xã hội và không phải là sự biểu hiện
trực tiếp của tâm lý xã hội.
- Tâm lý xã hội - là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ
những tình cảm, tâm trạng, tập quán, thói quen, tập quán,… của con người, của một
bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội được hình thành một cách tự phát dưới tác
động trực tiếp của điều kiện sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó. VD:
Thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen,tính tò mò,…
- Hệ tư tưởng bao gồm những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý
luận, thành các học thuyết về xã hội, được hình thành một cách tự giác. Với tính
cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng có vai trò chỉ đạo thực tiễn, hoạt
động cải tạo xã hội của giai cấp. VD: hệ tư tưởng phong kiến, Khổng Tử, hệ tư
tưởng tư sản, …
Trong xã hội có giai cấp xã hội có tính giai cấp. Tính giai cấp của ý thức xã hội thể
hiện cả trong hiện tượng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi
giai cấp có tình cảm, tâm trạng, thói quen, riêng. Về mặt hệ tư tưởng thì tính giai
cấp thể hiện sâu sắc hơn. Các giai cấp đối khác nhau thì có các quan điểm chính trị,
đạo đức, pháp luật khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
VD: các quan điểm chính trị, pháp luật, v.v của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị
thường đối lập nhau. Tư tưởng của thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị về
kinh tế và chính trị của thời đại đó. Ý thức xã hội của các giai cấp khác nhau tác
động lẫn nhau.
Câu 33. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi xác định tồn tại xã hội là một hình thức đặc biệt của
vật chất, có xuất phát điểm từ "không phải ý thức của con người quy định sự tồn tại
của họ, mà ngược lại, tồn tại xã hội của họ quy định ý thức của họ" và khẳng định
"ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội". Sự phản ánh đó là quá trình biện chứng
phức tạp, là kết quả của mối liên hệ tích cực giữa con người với thực tiễn.
a. Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội
1) Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội quy
định nội dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội; ý thức xã hội phản
ánh cái lôgíc khách quan của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ
không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó, mà phải giải
thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện
có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ xã hội.
VD: Những người dân miền Tây sống quen với sông nước nên hình thành nền văn
hóa sông nước và kinh tế phát triển dựa trên những lợi ích khai thác được từ sông
nước.
2) Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi. Mỗi
khi tồn tại xã hội, đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và
lý luận xã hội cũng dần biến đổi theo. Chính vì vậy, ở những thời kỳ lịch sử khác
nhau, nếu có những quan điểm, tư tưởng, học thuyết xã hội khác nhau về cùng một
vấn đề thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất của các thời kỳ
lịch sử khác nhau quy định.
VD: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp
kém, mọi người còn sống chung, làm chung, hưởng chung nên chưa có quan niệm
tư hữu, chưa có ý thức bóc lột. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã, chế
độ tư hữu ra đời xã hội phân chia giầu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con
người cũng thay đổi căn bản: tư tưởng ăn bám, tư hữu, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân…
xuất hiện.
3) Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận,
hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh
tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế
được phản ánh trong các tư tưởng ấy.
VD: Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và dần
dần lớn mạnh thì cũng nảy sinh quan niệm cho rằng sự tồn tại của chế độ phong
kiến là trái công lý, không phù hợp với lý tính con người phải được thay thế bằng
xã hội công bằng, bình đẳng,bác ái. Ngay cả khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời, đã
xuất hiện các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng phê phán những mâu
thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản, đề xuất xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn,
thay thế chế độ tư bản.
b. Tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội
- Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
1) ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do không phản ánh kịp những
thay đổi của tồn tại xã hội do sức ỳ của thói quen, truyền thống, tập quán và tính
bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội v.v… tiếp tục tồn tại sau khi những điều
kiện lịch sử sinh ra chúng đã mất đi từ lâu; do lợi ích nên không chịu thay đổi. VD:
Một số hủ tục lạc hậu: chữa bệnh bằng bùa chú, người Mông phơi xác chết hàng
chục ngày rồi mới mai táng.
2) ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Do tính năng động của ý thức,
trong những điều kiện nhất định, tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên
tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội; dự báo được quy luật và có
tác dụng tổ chức,hướng hoạt động thực tiễn của con người vào mục đích nhất định.
Đó cũng là vai trò to lớn của những tư tưởng tiên tiến, khoa học; tuy nhiên, sự vượt
trước này cũng có khả năng là ảo
tưởng.
VD: Chủ nghĩa Mác Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - giai cấp cách
mạng nhất của thời đại. Tuy ra đời vào thế kỷ XIX, trong lòng chủ nghĩa tư bản
nhưng chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ rõ qui luật của chủ nghĩa tư bản nói riêng. Qua
đó khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản nhất định sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng
sản mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết đó đã trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí lý
luận sắc bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, các dân tộc bị áp
bức trên toàn thế giới thoát khỏi ách nô dịch, bóc lột, xây dựng một xã hội hoàn
toàn tốt đẹp. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác Lênin vẫn là thế giới quan và
phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh vực,
vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
3) ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại được tạo ra
trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Kế thừa có tính
tất yếu khách quan; có tính chọn lọc và sáng tạo; kế thừa theo quan điểm lợi ích;
theo truyền thống và đổi mới. Do vậy, nếu không chú ý đến sự phát triển tư tưởng
của các giai đoạn lịch sử trước được kế thừa trong ý thức xã hội mới, thì khó giải
thích được một tư tưởng nhất định. VD: chủ nghĩa Mác Lênin, kế thừa tinh hoa tư
tưởng của loài người đã đạt được trước đó mà trực tiếp là nền triết học cổ điển Đức,
nền kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp.
Lịch sử phát triển của các tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn
của tư tưởng nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh và
suy tàn của nền kinh tế. Điều này chỉ ra rằng, vì sao một nước có trình độ kinh tế
kém phát triển, nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao. VD: Nước Pháp thế kỷ
XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn nước Anh, nhưng tư tưởng lại tiên tiến hơn
nước Anh, hoặc so với nước Anh, Pháp nửa đầu thế kỷ XIX, nước Đức lạc hậu hơn
về kinh tế, nhưng đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
4) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng gây ảnh hưởng tới tồn
tại xã hội. Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ
thể, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi phối
các hình thái ý thức xã hội khác.
VD: Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt quan trọng, còn
ở Tây Âu thời trung cổ, tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống
tinh thần xã hội như triết học, nghệ thuật, đạo đức, chính trị, pháp quyền, ở giai
đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn tác động đến các
hình thái ý thức xã hội khác nhau.
- Sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội là biểu hiện quan
trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Đó là sự
tác động nhiều chiều với các phương thức phức tạp. Sự tác động này thể hiện mức
độ phù hợp giữa tư tưởng với hiện thực; sự xâm nhập của ý thức xã hội vào quần
chúng cả chiều sâu, chiều rộng và phụ thuộc vào khả năng hiện thực hoá ý thức xã
hội của giai cấp và đảng phái.
VD: nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống
tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm
thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức XH.
Như vậy, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực tác động
ngược trở lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.
Câu 34. Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Tại sao nói “sự phát triển của những
hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”?
1.Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất
đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa
các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
VD: Công xã nguyên thủy – Chiếm hữu nô lệ - Phong kiến – CNTB – XHCN.
2. Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên
1) Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con
người mà tuân theo các quy luật khách quan: các quy luật của cấu trúc hình thái
kinh tế - xã hội, và hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học,... mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thưọng
tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
2) Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của
mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội, đều có nguyên nhân trực tiếp
hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó. V.I.Lênin từng
nhấn mạnh một phương pháp luận quan trọng khi nghiên cứu về xã hội là: "Chỉ cố
đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những
quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực
lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát
triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên". VD: CXNT –
CHNL – PK – TBCN – XHCN.
3) Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và sự phát triển
của lịch sử xã hội loài người có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan,
nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách
quan. Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính
chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội:
nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của
sự vận động, phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đồng thời khẳng định
vai trò của các nhân tố khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói
chung và lịch sử mỗi cộng đồng người cụ thể nói riêng. Đó là sự tác động của các
nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan lực lượng chính trị của các giai cấp,
tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động
của tình hình quốc tế đối với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người trong
lịch sử, v.v. Chính do sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của
mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi
khác nhau, tạo nên tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân
loại. Tính chất phong phú, đa dạng của tiến trình phát triển các hình thái kinh tế - xã
hội có thể bao hàm những buớc phát triển "bỏ qua" một hay một vài hình thái kinh
tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự "bỏ qua" như vậy đều phải có những
điều kiện khách quan và chủ quan nhất định. Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung,
lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu của
các quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của cácnhân tố khác nhau, trong
đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con người. Từ đó lịch sử phát triển của xã
hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính
thống nhất của nó.
Câu 34. Bản chất con người?
1. Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Bản tính tự nhiên của con người:
1) con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên.
Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển
của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về
sự tiến hóa của các loài.
2) con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là
thân thể vô cơ của con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động
của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của
con người và xã hội loài người; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người
tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường. Đây chính là mối
quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác
của giới tự nhiên. VD: Vùng ven sông có điều kiện tự nhiên thuận lợi, dồi dào
nguồn thức ăn, nguồn nước đầy đủ nên con người tập trung sinh sống tại đây, khai
thác các nguồn tài nguyên và nguồn lợi từ sông nước mang lại. Nhưng trong quá
trình đó, con người sản xuất, khi khai thác quá đà khiến thiên nhiên nơi đây cạn
kiệt, xói mòn, sạt lở, xuống cấp, ô nhiễm, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó
mang đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong
mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp,
quốc gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương
diện khác của bản tính con người, hơn nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
Bản tính xã hội của con người:
1) xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người có nguồn gốc xã hội, cơ bản nhất
là nhân tố lao động. Nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động
vật để tiến hóa và phát triển thành người. VD: Người cổ đại ăn lông ở lỗ, sống
trong các hang đá nguyên thủy và hoang dã như các loài động vật. Qua lao động,
con người biết chế tạo và sử dụng các công cụ lao động, sử dụng lửa,… để chinh
phục thiên nhiên.
2) xét từ giác độ tồn tại và phát triển, sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối
bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người
cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền
đề cho sự phát triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn
tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là "con người" với đầy
đủ ý nghĩa của nó. VD: xã hội phong kiến buộc con người sống trong khuôn khổ,
luật lệ, giáo điều với những tư tưởng khắt khe, nhưng khi con người được giải
phóng, bước sang chế độ XHCN thì con người văn minh hơn, tân tiến hơn.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất, quy
định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng
hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì
thế, nêu lý giải bản tính sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự
nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định
cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
2. Bản chất con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Giới tự
nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là
kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Đặc
trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã
hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người
với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật
có tính xã hội", hoặc con người động vật có tư duy... Những quan niệm trên đều
phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con
người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy. Với phương pháp
biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện,
cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất
ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn
giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự
tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra
chính đời sống vật chất của mình".
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự
nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn
bộ giới tự nhiên".
VD: Người nguyên thủy bắt đầu biết chế tạo công cụ lao động, sản xuất, biết trồng
trọt, canh tác, chặt cây phá rừng làm nương rẫy, biết chăn nuôi, thuần hóa động vật
phục vụ cuộc sống cá nhân, từ đó làm thay đổi giới tự nhiên.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động
sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và
tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy;
xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất
xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội. VD: Nghề giáo viên định hình con người mô phạm, nghiêm túc, chỉn chu; nghề
cảnh sát, bộ đội hình thành con người kỉ cương, nề nếp, cứng rắn,..
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con
người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống
nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể
với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa... quy
định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình
thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm,
khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội
giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống
nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội,
cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội của con người.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề
nổi tiếng:
"Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội"
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong
một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch
sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và
tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các
mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị,
kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất
xã hội của mình. VD: Người sói, người vượn, người gà… Một người đàn ông ở
quốc đảo Fipji, bị cha mẹ nhốt vào chuồng gà trong một khoảng thời gian dài. Sau
khi trốn ra được thì người đàn ông này ảnh hưởng hầu hết những tập tính của gà
như mổ thức ăn, vỗ cánh và cất tiếng kêu gọi bầy…

Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ
nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn
tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh
vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng
hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi
cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử .Không có thế giới tự nhiên, không
có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của
lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là,
con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học
thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và
của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi
hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Như vậy, với tư
cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải
biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính
bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của
con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ
sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và
tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu
cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại
quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận
động biến đổi, phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người là hệ thống mở,
tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã
hội", con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể
sáng tạo. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương
ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con
người. VD: người nông dân Việt Nam trong chế độ phong kiến quằn lưng lao động
phục vụ cho giai cấp địa chủ; Chí Phèo là sản phẩm của những quan hệ xã hội trong
xã hội phong kiến nửa thực dân thối nát; còn người nông dân trong XHCN đã chủ
động, tích cực, dân chủ và văn minh hơn.

Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ
môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng
của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch
sử xã hội loài người.

You might also like