Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 13

KIM KHÍ

A.- ĐẠI CƯƠNG


- Phương Tây, mùa Thu, buổi chiều tối là biểu hiện
của Thiếu âm (theo đồ Thái cực).
- Kim khí là nguồn năng lực phát xuất từ Thiếu âm.
B.- NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA KIM KHÍ
a) Về cơ thể
1. Mũi và Khứu giác
Thiên ?Ngũ Duyệt Ngũ Sứ? (LKhu 32) ghi : "Phế khai
khiếu ở mũi, Phế khí thông lên mũi".
- Mũi là cửa của bộ hô hấp, nên có liên hệ đến Kim
khí.
- Lông mũi là Thủy của Phế. Lông mũi dầy, dậm là
dấu hiệu Thủy của phế vượng. Lông mũi ít, thưa là
dấu hiệu Thủy của Phế suy.
- Mạch máu ở mũi là biểu hiện Hỏa của Phế, do đó,
mũi nóng đỏ, sưng, chảy máu mũi là Hỏa của Phế
vượng.
- Gân cơ ở mũi là biểu hiện Mộc của Phế, nơi người
viêm, lao phổi... Kim suy khắc được Mộc khiến Phế
Mộc vượng lên, làm cánh mũi phập phồng (có thể
dựa vào dấu hiệu này để chẩn đoán bệnh về Phế 1
cách chính xác).
- Cơ nhục là dấu hiệu của Thổ, trong mũi mọc thịt dư
sau khi viêm là dấu hiệu Thổ của Phế vượng. (Hỏa
sinh Thổ).
- Khứu giác có liên hệ đến mũi :
Mũi hoàn hảo, có khả năng phân biệt được mùi vị 1
cách chính xác và hoàn hảo. Một số dân tộc thiểu số
có khả năng phân biệt được mùi vị của từng loại vật
vừa đi qua.
- Mũi bị rối loạn, (viêm nhiễm, có tật...) ảnh hưởng
đến khứu giác, làm khứu giác giảm, có khi không còn
cảm giác, mùi vị gì.
- Các chuyên gia Đại Học Tổng Hợp Pensylvania
(Mỹ) điều tra 1955 người từ 5-99 tuổi cho thấy : lứa
tuổi từ 20-40 (thời gian vượng của Thiếu âm Kim khí)
có khứu giác nhạy hơn cả. Tuổi 65-80 (thời gian
Thiếu âm và Thái âm suy) hầu như mất khả năng
phân biệt mùi đến 1/4.
2. Nước mũi
- Thiên ?Tuyên Minh Ngũ Khí? (TVấn 23) ghi : "Nước
mũi là dịch của Phế".
- Mũi có liên hệ đến hô hấp, nước là biểu hiện của
Thủy dịch, do đó, nước mũi là dấu hiệu Thủy của
Phế.
- Sổ mũi, nước mũi nhiều và trong là dấu hiệu Thủy
của Phế suy.
- Vào mùa đông, buổi sáng khí lạnh, đi mưa về lạnh
làm thủy khí suy người ta hay bị sổ mũi.
3. Họng, Thanh quản, Giọng nói (âm thanh)
- Thiên ?Ngũ Duyệt Ngũ Sứ? (LKhu 32) ghi : "Phế
chủ âm thanh".
- Họng là 1 phần của bộ hô hấp, nơi đây có thanh
quản, tuyến Amidal, Vòm họng... đều chịu sự chi phối
các khí của Phế.
- Họng, Amidal sưng, lở loét... là dấu hiệu Hỏa của
Phế vượng.
- Thanh quản bị viêm, các dây rung phát âm sưng,
gây ra khan tiếng là dấu hiệu Hỏa của Phế vượng
(làm Mộc vượng gây co rút thanh quản làm khản
tiếng).
- Khi phải la hét, nói nhiều, Mộc khí bị huy động quá,
sau đó suy sụp làm khản tiếng, tắc tiếng là dấu hiệu
Mộc của Phế suy.
- Người Mộc khí vượng thường nói lớn tiếng, âm
thanh mạnh, do đó, qua giọng nói, không những biết
được phần nào tình trạng của Phế khí mà còn biết
được phần nào nội lực dựa trên đặc tính của âm
thanh.
- Tiếng la hét thuộc Can, người có tiếng hét to, vang
là người có Mộc khí của Can vượng.
- Tiếng la yếu, khàn là dấu hiệu Mộc của Can suy.
- Tiếng cười thuộc Tâm, cười vanga, to... là dấu hiệu
Mộc của Tâm vượng.
- Tiếng hát thuộc Tỳ, tiếng khóc thuộc Phế, tiếng rên
thuộc Thận... có thể dựa vào cường độ to nhỏ, mạnh
yếu để chẩn đoán được tình trạng vượng suy của các
tạng phủ liên hệ.
4. Tuyến giáp
- Quanh vùng tuyến giáp có những cơ quan liên hệ
mật thiết với chức năng hô hấp, gọi là xoang cảnh, rất
nhạy cảm với các biến thiên của áp lực không khí và
tuyến cảnh phản ứng rất mẫn cảm mỗi khi hóa tính
không khí, do đó, giữa tuyến giáp và phế khí có liên
hệ với nhau vì "Phế chủ hô hấp".
- S. Herbute và 2 cộng sự viên thuộc nhóm sinh học
Montpeellier ngày 22-1-1972 đã công bố kết quả :
Hoạt động tuyến giáp đến độ tối đa giữa 2-3g sáng là
giờ của Phế khí vượng (giờ Dần từ 3-5g) do đó, tuyến
giáp và Phế có liên hệ với nhau.
- Bướu cổ đơn thuần (tuyến giáp suy) là dấu hiệu Thổ
của Phế suy. Bướu cổ lồi mắt (BASEDOW, tuyến giáp
cường) là dấu hiệu Thổ của Phế vượng.
5. Da lông
- Thiên ?Tuyên Minh Ngũ Khí? (TVấn 23) ghi : "Phế
chủ da lông (Bì mao)".
- Da lông là phần trực tiếp tiếp xúc với không khí (Kim
khí) do đó, giữa da lông và kim khí có sự liên hệ với
nhau.
- Theo Eaton : Da lông và tóc ở người mọc rất nhanh
vào các tháng 7, 8 và nhanh nhất vào tháng 9 (tức
vào mùa thu, là mùa kim khí vượng), do đó, giữa lông
tóc và Kim khí có sự liên hệ với nhau.
- Da khô, viêm, nóng, xuất huyết dưới da là dấu hiệu
Hỏa của Phế vượng.
- Cơ nhục của da phì đại (bướu, mô mỡ...) là dấu
hiệu Thổ của Phế vượng.
- Khi tức giận Mộc khí gia tăng làm cho lông tóc dựng
lên là dấu hiệu Mộc của Phế vượng.
- Lông tóc là biểu hiện Thủy của Phế, vì thế lông
măng xanh nhiều là dấu hiệu Thủy của Phế vượng,
ngược lại, ít lông, lông khô, rụng là dấu hiệu Thủy của
Phế suy.
+ Da trắng đục, trắng bạch là dấu hiệu kim khí suy.
Người có nước da này hay buồn hay lo (thường gặp
nơi người lao phổi). Những vần thơ, khúc bi kịch não
nề nhất, những chuyện tình sử thảm thương nhất
như : Roméo Juliette, chuyện tình Love Story... đều
xuất phát từ dân tộc da trắng.
b) Về chức năng
6. Hơi khí
- Nội Kinh : "Bao nhiêu khí đều thuộc về Phế".
- Tính chất của thiếu âm là bốc hơi, liên hệ đến thể
hơi, khí.
- Tùy theo biểu hiện suy vượng của hơi, khí ở vùng
nào, có thể suy đoán bệnh ở vùng ấy.
+ Tức hơi trong phổi là dấu hiệu kim của Phế suy.
+ Tức hơi dội lên phía trên là dấu hiệu kim của Tâm
suy.
+ Tức hơi vùng bụng là dấu hiệu kim của Tỳ suy.
+ Tức hơi vùng bụng dưới là dấu hiệu kim của Thận
suy.
7. Hô hấp
- Thiên ?Ngũ Tạng Sinh Thành? (TVấn 10) ghi : "Phế
chủ hô hấp".
- Cơ năng hô hấp liên hệ đến không khí, do đó chịu
sự chi phối đặc biệt của kim khí.
- Cơ năng hô hấp có nhiệm vụ trao đổi khí : hít thanh
khí vào và thải trọc khí (khí dơ, xấu ra).
+ Thở vào : Đưa không khí từ ngoài vào (tức từ Biểu
vào Lý) là dấu hiệu Mộc của Phế ở Biểu (tức là liên
hệ đến Mộc của đại trường) chính nhờ Mộc của Phế
ở Biểu làm cho bắp thịt, lồng ngực nâng lên, gia tăng
thể tích lồng ngực, làm không khí vào phổi. Phổi thở
vào khó khăn, hơi không đầy phổi là dấu hiệu Mộc
của Đại trường suy.
+ Thở ra : Đẩy không khí từ trong ra ngoài tức là từ
Lý ra Biểu là biểu hiện Mộc đó Phế ở Lý. Mộc khí này
liên hệ với cơ năng của cơ hoành và các cơ bụng,
làm thể tích lồng ngực thu hẹp, đẩy không khí ra, làm
thở ra. Người bệnh thở ra dồn dập (như trong bệnh
suyễn, Tâm phế mãn... là dấu hiệu Kim của Phế suy
làm Mộc vượng lên, gây ra suyễn, khó thở.
+ Thở dốc : Người bị xuất huyết nhiều, khí huyết hao
hụt, Phế kim suy kiệt làm Mộc của Phế vượng lên gây
nên thở nhanh và gấp trong giai đoạn đầu (biểu hiện
qua cánh mũi phập phồng) và khí Mộc của Phế bị huy
động quá trở nên suy thì người bệnh lại thở yếu, thở
dốc trong giai đoạn sau.
- Theo "FAMILY SAFETY" của Canada, tại Hiệp hội
về môn học bệnh phổi ở Mỹ các nhà nghiên cứu
thông báo : uống 1 ly rượu hoặc nước giải khát có
pha rượu trước khi đi ngủ có thể có những hậu quả
đáng tiếc với việc hô hấp trong lúc ngủ. Số người
uống rượu, 1 số bị 110 lần ngưng thở, ít nhất mỗi lần
trong 10 giây, còn không uống rượu khi đi ngủ thì chỉ
bị có 20 lần ngưng thở (uống rượu vào làm Hỏa
vượng, ban đêm thuộc Thái âm, Thủy suy, Thủy suy
làm Hỏa bùng lên mạnh hơn, Hỏa khắc kim, gây ra
ngưng hô hấp).
- Nữ tiến sĩ tâm lý học S. Harx, Trường đại học
Newyork cho rằng hô hấp và tính cách có liên hệ với
nhau.
+ Người hô hấp sâu và chậm (kim khí sung mãn, đầy
đủ) thì tính tình thường kiên định, kiên quyết, thích
mạo hiểm, suy nghĩ và hành động nhanh nhẹn biết
cách sắp xếp cuộc sống riêng mình (dấu hiệu Thủy
khí sung mãn, do kim sinh Thủy).
+ Người hô hấp nhanh và nông (dấu hiệu kim suy) thì
tính tình thường hay ngượng nghịu, hiền lành, nhút
nhát, rụt rè, sống quen dựa vào người khác (dấu hiệu
Thủy suy, kim suy làm Thủy suy).
9. Ho
-Thiên ?Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận? (TVấn 5)
ghi : "Ở sự biến động của Phế là ho".
- Ho là 1 tác động ly tâm(từ trong ra ngoài tức từ lý ra
biểu) nhằm mục đích đưa hơi thở, đàm nhớt... từ
trong ra ngoài, có liên hệ đến Mộc của Phế.
Trên lâm sàng thường gặp 2 loại Ho :
+ Ho khan (khái) : Ho không có mục đích loại đờm
nhớt là dấu hiệu Mộc của phế vượng.
+ Ho đàm (khái thấu) : Tiếng ho có kèm theo sự thải
trừ đàm nhớt ra ngoài cũng là dấu hiệu Mộc của phế.
- Theo Colome vào lúc sáng sớm (cuối giấc ngủ) lúc
đó máu tụ lại trong phổi làm gây nên các cơn ho buổi
sáng sớm nơi người bị viêm phổi (Hỏa vượng làm
Mộc vượng - buổi sáng là thời điểm Mộc khí vượng).
9. Hen suyễn
- Theo Reinberg, cơn hen suyễn thường gặp cao
điểm nhất từ 24-4g tức là lúc phế khí thịnh (giờ Dần
3-5g) như vậy giữa suyễn và phế khí có liên hệ mật
thiết.
- Thiên ?Bản Thần? (LKhu 8) cũng ghi : Khí nghịch
lên gây ra chứng suyễn, cũng theo Nội Kinh : ' Phế
chủ khí, Thận nạp khí?, do đó suyễn cũng liên hệ với
Thận.
- Theo Frank, thời gian cơn hen suyễn trùng hợp với
thời gian bài tiết Cocticoit ra nước tiểu xuống tới mức
thấp nhất, do đó giữa suyễn và Thận có mối liên hệ
với nhau.
- Phân tích 1 cơn suyễn ta thấy : Suyễn một hợp
chứng gồm 5 triệu chứng :
+ Tức trướng trong phổi, khó thở là dấu hiệu kim của
Phế suy.
+ Đờm tiết ra nhiều là dấu hiệu Thổ của Phế suy.
+ Nhớt ra nhiều, nghe tiếng phổi thấy ran ẩm là dấu
hiệu thủy của Phế suy.
+ Khí quản co thắt, thở dồn dập, nghe phổi thấy tiếng
rít là dấu hiệu Mộc của Phế vượng.
+ Khí quản viêm là dấu hiệu Hỏa của Phế
vượng. Hội chứng này là do Kim suy làm
Thủy suy (Tương sinh), Thổ suy (Phản
sinh), Mộc vượng (Tương vũ), Hỏa
vượng (Tương thừa).
- Theo các nhà khoa học màng nhày của
khí quản và cuống Phổi dễ nhạy cảm bởi
không khí ô nhiễm vì đủ loại... Sự nhạy
cảm đó gây ra co rút (Mộc vượng) làm ho hoặc
suyễn. (Kim suy) : Tạp chí Nature ngày 23-3-1983
công bố 1 kết quả cho thấy chất Capsaicin chất cay
của ớt (cay thuộc Kim) có tính làm cho màng nhày
bớt nhạy cảm (Kim khắc Mộc), có thể dùng để trị
chứng phù của màng nhày (Kim sinh Thủy) của
những người có khí quản nhạy cảm (Mộc vượng) và
người bị suyễn (Kim suy).
10. Đàm
- Đàm là chất bài tiết rà bộ hô hấp, do đó có liên hệ
đến Phế.
- Tùy theo tính chất và màu sắc của đàm, có thể đoán
biết sự rối loạn bệnh lý từ đâu.
+ Đàm có lẫn máu, đàm khô quánh là dấu hiệu Hỏa
của Phế vượng.
+ Đàm có màu xanh (hay gặp nơi người ho nhiều do
cảm nhiễm), dấu hiệu Mộc của Phế vượng.
+ Đàm màu vàng đặc, (hay gặp trong trường hợp hội
nhiễm tụ cầu), dấu hiệu Thổ của Phế vượng (tăng
cường Thổ khí chống lại môi trường ẩm thấp, là môi
trường tạo nên các tụ cầu khuẩn).
+ Đàm trong, loãng và nhiều dấu hiệu thủy của Phế
suy.
11. Buồn sầu - Lo âu
-Thiên ?Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận? (TVấn 5)
ghi : "Chí của Phế là ưu (lo âu)".
- Nơi Đồ Thái cực, Thiếu âm Kim khí là trung gian của
sự vui mừng quá độ (Thái dương) đã chấm dứt và sự
sợ hãi chết chóc (Thái âm) sắp bắt đầu. Giữa 2 trạng
thái này, con người đâm ra lo âu, buồn sầu, buồn cho
cái vui đã qua và lo cho cái tàn tạ sắp đến.
- Mùa thu, cây cối thay lá, lúa mùa chín tới chờ gặt...
làm cho lòng người cũng vì thế mà buồn.
- "Ưu thương Phế" (sự lo âu hại Phế) : Những
nguyên nhân bên ngoài gây sự lo buồn làm Kim khí
suy và ngược lại người Kim khí suy thì hay buồn.
- Để biểu hiện sự buồn rầu về cái chết trong tang chế.
Người Á Đông thường dùng tang phục, khăn tang, vải
liệm... màu trắng (Sắc trắng là sắc của Kim).
c) Về ngoại giới
12. Kim khí và Táo khí
-Thiên ?Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận? (TVấn 5)
ghi : "Táo sinh Kim".
- Y Tông Kim Giám : "Trên trời là Táo, dưới đất là
Kim, ở người là Phế, ở thể là Bì". Kim khí thông với
Phế khí, do đó, các bệnh do Táo khí gây ra đều thuộc
về Phế Kim.
- Triệu chứng của Táo là khô cổ, khát nước, bón, tiểu
ít, da khô, tróc vẩy, Tân dịch hao hụt...
- Thiếu âm ứng với phương Tây, buổi chiều tối, mùa
thu là thời điểm Táo khí vượng lên, Kim khí ở người
cũng theo đó vượng lên.
- Người Kim khí suy, sẽ dễ chịu vào buổi chiều tối,
mùa Thu (là thời điểm Kim khí vượng) và nặng hơn
(khó chịu hơn) vào buổi trưa, mùa hè là thời điểm của
Hỏa khí vượng (Hỏa khắc Kim).

You might also like