THỦY KHÍ

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 14

THỦY KHÍ

A.- ĐẠI CƯƠNG


- Nhìn vào đồ Thái cực, Phương Bắc, Mùa Đông,
buổi tối khuya là dấu hiệu của Thái âm, âm khí ngự trị
hoàn toàn, trời đất u tối, lạnh lẽo, cảnh vật điêu tàn,
thê lương, tất cả đang đi vào cõi chết, trong khi đó,
mọi sinh vật đều lo ẩn núp, trốn tránh cái lạnh lẽo giá
buốt của âm khí để cố duy trì và bảo tồn dương khí
còn lại, tránh khỏi bị tiêu diệt, để chờ đợi mùa xuân
(khởi đầu Thiếu Dương) để phát triển Dương khí đem
lại sức sống. Dương khí ở nơi người chính là Thủy
khí.
- Thủy khí là nguồn năng lực tàng trữ trong con
người, nhằm duy trì sự sống trong tình trạng Thái âm
hủy diệt.
- Thủy khí tương ứng với Thái âm, là do nguồn năng
lực phát xuất từ Thận, do đó Thận có liên hệ nhiều
đối với Thủy khí.
B.- NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA THỦY KHÍ
a) Về cơ thể
1. Tóc
- Thiên ?Thượng Cổ Thiên Chân Luận? (TVấn 1) ghi :
"Thận suy, tóc rụng".
- Về già, Thủy khí suy, tóc người trở nên bạc, rụng,
mất vẻ bóng láng, do đó, giữa tóc và Thủy khí có liên
hệ với nhau.
- Huyết do tinh sinh ra, tinh tràng trữ ở Thận, tóc là
sản phẩm "thừa ra" của huyết, được huyết nuôi
dưỡng, Thận suy không sinh được huyết, tóc sẽ
rụng... do đó Thận là căn nguyên của tóc.
- Tóc xanh, óng, dầy, đen huyền, tóc mây... là dấu
hiệu Thủy khí sung mãn.
- Tóc khô, rụng, bạc là dấu hiệu Thủy khí suy kém.
- Theo H.Roenigk (Mỹ), hiện nay, số người bệnh rụng
tóc trên thế giới rất đông, chỉ riêng ở Mỹ đã tới 20
triệu người, nguyên nhân chủ yếu là do họ hay sợ hãi
(sợ mất công ăn việc làm, sợ bị hủy diệt bởi vũ khí
hạt nhân...). Theo Nội Kinh, sự sợ hãi làm hại Thận
(Khủng thương Thận), Thận suy làm tóc bạc, rụng.
Tục ngữ cũng có câu : "Lo bạc râu, Sầu bạc tóc".
- Có nhiều trường hợp đặc biệt, 1 số người trải qua
những biến động kinh hãi, thủy khí suy sụp nhanh
chóng, tóc và lông mày của họ trở nên bạc trắng
trong 1 thời gian ngắn. Trong cuốn "Chúng tôi sẽ chết
như sống" do NXB Cầu Vồng, Maxcơva, xuất bản
năm 1985, tác giả Anatoli Gôlubếp có kể rằng : bạn
ông, ông Tơsurin bị bạc trắng tóc trong 1 đêm, khi
vượt qua trận tuyến Satarưigugiơ. A. Caren, trong
cuốn : "L? homme cet inconnu" (Con người, 1 đối
tượng chưa hiểu được) kể : Trong trận thế chiến
1914 - 1918, 1 người đàn bà người Buổi, bị quân Đức
kết án tử hình, đêm hôm trước ngày bị xử bắn, tội
nhân bỗng trắng xóa mái tóc. Trong "Đông châu liệt
quốc" cũng kể : Ngũ Tử Tư, 1 đêm lo nghĩ cách trốn
thoát qua cửa ải nước Sở, đã bạc cả mái tóc đến nỗi
lính canh ải không nhận ra.
2. Tai và thính giác
- Thiên ?Ngũ Duyệt Ngũ Sứ? (LKhu 32) ghi : "Thận
khai khiếu ở Tai".
- Thủy khí sung mãn thì thính giác tinh, có thể nghe
được những âm thanh nhỏ và xa.
- Thủy khí suy yếu thì thính giác sút giảm : nghe
không rõ, ù tai, lãng tai, điếc, tai kêu như ve, lùng
bùng trong tai...
- Uống thuốc lợi tiểu, đi tiểu nhiều thấy mệt, tai lùng
bùng. (Thủy suy).
- Những người già, người bệnh nặng, sốt rét... Thủy
suy thường thấy ù tai.
3. Xương và răng
- Thiên ?Tuyên Minh Ngũ Khí? (TVấn 23) ghi : "Thận
chủ cốt", và "Phần thừa của xương là răng".
- Về già, vào mùa lạnh, người ta thường thấy đau
nhức trong xương, ê ẩm trong răng, răng long, rụng...
Do đó, giữa xương răng và Thận có liên hệ với nhau.
- Thận ố hàn (Thận ghét lạnh), người đang đau nhức
răng và xương, uống nước đá vào thấy đau và nhức
hơn.
- Nhức, lạnh trong xương, lạnh cột sống trong chứng
sốt rét, cảm giác như kiến bò, giòi bọ rúc trong
xương... của những người ghiền xì ke ma túy, là dấu
hiệu của những người Thủy khí suy.
- Nóng trong xương, viêm xương là Hỏa của Thận
vượng.
- Những người gẫy xương, trong thời gian chờ xương
lành lại, nếu giao hợp nhiều, mất tinh dịch làm Thận
thủy suy sụp. Thận suy, không sinh được xương rất
lâu lành.
- Thận chủ sự phát dục, Thủy khí suy làm sự phát
dục của cơ thể giảm sút gây ra hiện tượng chậm mọc
răng, chậm lớn, xương mềm yếu, tóc thưa...
- Răng chắc, to, bóng láng là dấu hiệu Thủy khí sung
mãn.
- Răng long, đen đục, ê nhức ... là dấu hiệu Thủy khí
suy.
- Những người tiếp xúc nhiều với hàn khí (nước đá,
nước lạnh...) làm cho Thủy khí suy (Thận ố hàn) dễ
sinh ra hư, gẫy, rụng răng...
- Các nhà nghiên cứu trường đào tạo bác sĩ nha khoa
ở Philađenphia (Mỹ) cho rằng : "Stress" (khủng
hoảng, sợ hãi, cảm xúc...) mãn tính có khả năng gây
hỏng răng. Khủng thương Thận, do đó, sợ hãi... có
thể làm hỏng răng được.
Bác sĩ Stanley Cobb chuyên gia về thần kinh, cho
rằng, sự lo âu, sợ hãi, liên quan mật thiết với các triệu
chứng gây ra bệnh thấp khớp.
- Theo Tạp chí Prirôda (Ý), sau khi nghiên cứu 340
người từ 40-80 tuổi thấy rằng, người hút thuốc lá
loãng xương mạnh hơn (hút thuốc làm kim suy, Kim
suy không sinh được Thủy).
4. Nước tiểu
-Thiên ?Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận? (TVấn 5)
ghi : "Nước tiểu là dịch của Thận".
- Nơi người già Thủy khí suy yếu, vào mùa đông, buổi
tối, những ngày mưa các cụ thường đi tiểu nhiều, do
đó, nước tiểu và thủy khí có liên hệ với nhau.
- Đi tiểu nhiều lần, nhất là tiểu đêm, nước tiểu nhiều
và trong là dấu hiệu Thủy của Thận suy.
- Ít tiểu, nước tiểu đỏ, tiểu ít nước, tiểu ra máu là dấu
hiệu Hỏa của Thận vượng.
- Bí tiểu vì bọng đái không co thắt là dấu hiệu Mộc
của Thận suy.
- Đái gắt, (Tiểu nhiều lần, mỗi lần ra ít nước tiểu) do
sự quá co thắt của Bàng quang là dấu hiệu Mộc của
Thận vượng.
- Người Thận Thủy bình thường, uống nước vừa đủ
khi khát, không đi tiểu quá 4 lần 1 ngày.
- Bác sĩ Bedrich Nejedly, khoa hóa sinh tỉnh Klando
(Tiệp Khắc) cho biết : có sự liên hệ giữa việc uống ít
nước và bệnh thận. Uống quá ít nước, độ đậm đặc
của nước tiểu trong Thận tăng lên và nếu tình trạng
này kéo dài sẽ gây viêm nhiễm đường tiểu. Đây là
dấu hiệu hỏa của Thận vượng do Thủy khí của Thận
không đầy đủ do thiếu nước cung cấp.
- Tại Thượng Hải, các nhà nghiên cứu đã chiết từ
nước tiểu ra 1 loại men có tên là Urokinaza (chống
đông máu) để trị bệnh huyết khối, tắc mạch máu
Phổi. Nhồi máu cơ tim. Nó còn có tác dụng hòa tan
những cục máu nghẽn là vật cản trong hệ thống tuần
hoàn. Dùng nước tiểu (biểu hiện của Thận Thủy để
điều trị bệnh ở Tâm hỏa là áp dụng luật tương khắc,
Thủy khắc Hỏa).
5. Tinh dịch
- Thiên ?Bản Thần? (LKhu 8) ghi : "Thận tàng tinh".
- Tinh khí thật ra do tinh hoa 5 khí của Ngũ hành kết
lại chứ không phải chỉ do 1 mình Thận, dù Thận giữ
vai trò chủ yếu, do đó, nếu tổng trạng suy nhược, tinh
dịch không thể sinh ra nhiều được.
- Ngược lại, đa dục (ham mê tửu sắc quá độ) làm mất
tinh dịch quá nhiều, sẽ có thể làm cho cơ thể suy
nhược.
- Làm mất nhiều tinh dịch hoặc tinh dịch không đủ, có
thể gây nên các chứng bệnh bất lực, hiếm muộn con
cái.
- Theo các nhà nghiên cứu : Tắm ngồi lâu trong bồn
nước nóng, âm nang nóng liên tiếp, lượng tinh trùng
sẽ giảm xuống gây ra tình trạng vô sinh (đây là hiện
tượng của Hỏa (nước nóng) làm hại Thủy (tinh dịch).
Muốn sản sinh tinh trùng, dịch hoàn phải có nhiệt độ
3505 - 360nghĩa là thấp hơn thân nhiệt bình thường 1
- 105. Y học phát hiện rằng, khi âm nang nóng lên sẽ
gây trở ngại cho việc tạo ra tinh trùng.
- Theo các nhà nghiên cứu, người nghiện thuốc lá
nặng cũng giảm số lượng tinh trùng. Mỗi ngày hút
khoảng 30 điếu thuốc lá thì 51/100 lượng tinh trùng bị
tiêu diệt. Đây là nguyên tắc tương sinh của Ngũ hành
: Hút thuốc nhiều làm Kim suy, Kim suy không sinh
được Thủy.
- Mộng tinh : Xuất tinh trong lúc ngủ mộng. chứng
này tuy do Thận Thủy suy (tinh tiết ra) nhưng thường
chủ yếu do Tâm hỏa vượng. Cơn mộng trong giấc
ngủ là dấu hiệu Hỏa của Tâm vượng (vì Tâm tàng
thần) Tâm hỏa vượng phản khắc Thận Thủy gây ra.
Nếu mộng tinh quá nhiều lần, tinh dịch sẽ hao mòn,
đưa đến toàn thể các tạng suy yếu, nhất là Thận
Thủy, sinh ra chứng Di tinh hoặc Tiết tinh (Tảo tinh).
- Di tinh : Tinh dịch chảy ra tự nhiên, đây là dấu hiệu
Thủy của Thận suy trầm trọng. Ở những người bệnh
nặng, nếu tinh tự xuất ra là dấu hiệu người bệnh sắp
chết vì Thủy của Thận suy kiệt hoàn toàn, không giữ
tinh được.
- Tảo tinh : Tinh tiết quá sớm khi giao hợp. Thường
do Thủy của Thận suy, nhưng cũng có khi do Hỏa của
Tâm vượng phản khắc lại Thận thủy khiến xuất tinh
sớm.
- Liệt âm, liệt dương : Triệu chứng suy nhược hoặc
bất lực của bộ phận sinh dục nam nữ, đó là dấu hiệu
Thủy của Thận suy, chủ yếu là Mộc của Thận suy,
đồng thời còn là dấu hiệu của sự suy nhược toàn bộ.
- Người Thận thủy vững vàng, không bị tình dục chi
phối và khi giao hợp thì lại hoàn tất 1 cách tốt đẹp.
Trái lại người Thận thủy suy, Tâm hỏa vượng thì luôn
luôn bị tình dục ám ảnh và thường thất bại khi giao
hợp như liệt dương, liệt âm, tảo tinh, lạnh cảm... để
rồi sinh ra nhiều tật xấu như thủ dâm, thị dâm, loạn
dâm, bạo dâm... làm mất cả phẩm cách.
b) Về chức năng
6. Trí nhớ
- Khi còn trẻ, trí nhớ mạnh mẽ, đầy đủ, ngược lại, đến
tuổi già, thủy khí suy yếu, trí nhớ cũng từ đó trở nên
tồi tệ, vậy giữa thủy khí và trí nhớ có sự liên hệ với
nhau.
- Các nhà nghiên cứu cho là trí nhớ con người giảm
từ từ và đều đặn từ 50 - 60 tuổi, bác sĩ Albert, bệnh
viện tâm thần Massachusetts nhận thấy : người ở 60
tuổi trở đi, thường gặp 2 khó khăn :
+ Khó khăn về ngôn ngữ : khó gọi đúng tên người
muốn gọi.
+ Khó khăn về trí nhớ : khó nhớ 1 lúc 2 việc cần làm
trở lên.
- Các nhà khoa học ở đại học thành phố Berkeley cho
rằng ở tư thế nằm dễ nhớ hơn, lý do là do máu dồn
lên não.
- Theo tuần báo Liên Xô, tại Nhật, theo các số liệu
thống kê của cục đường sắt cho thấy : Trong những
tháng oi bức, người ta hay bị quên hơn cả. Từ đầu
tháng 5 hành khách bắt đầu dễ quên, vào tháng 8,
thời tiết nóng bức đến độ mức đồ vật bỏ quên nhiều
gấp 2 lần tháng giêng (nóng bức là biểu hiện của Hỏa
vượng, Hỏa phản khắc lại Thủy làm Thủy suy, ảnh
hưởng đến trí nhớ).
- "Khủng thương thận (sự sợ hãi làm hại Thận), theo
New Scientist số 3-1983, các nhà nghiên cứu đại học
Washington (Mỹ) phát hiện thấy Shốc tâm lý (đặc biệt
là sự sợ hãi) là nguyên nhân gây ra mất trí nhớ.
- Tại Liên Xô, 1 số trường học đã dùng bóng đèn màu
tím, vì ánh sáng màu tím được coi là có lợi cho sự
phát triển trí tuệ của học sinh.
7. Ý chí
- Thiên ?Tuyên Minh Ngũ Khí? (TVấn 23) ghi : "Thận
chủ ý chí".
- Trong châm cứu huyệt vị, ngang với huyệt Thận du
là huyệt Chí thất (chí là ý chí, Thất là chỗ chứa nhỏ),
vậy giữa Thận và ý chí có liên hệ mật thiết.
- Người điềm Tỉnh, hành động vững vàng trước
những biến động hiểm nghèo là người có Thủy khí
sung mãn.
- Người Thủy khí suy yếu, thiếu hẳn ý chí : không thể
quyết định dứt khoát, không có lập trường.
8. Sự sợ hãi :
- Nội Kinh : "Ở chí của Thận là sự sợ hãi".
- Người Thận thủy suy thường hay sợ hãi.
- Khủng thương thận (sự sợ hãi làm hại Thận), những
biến động hăm dọa tính mạng đời sống con người,
làm thủy khí suy.
- Alexis Carel, trong "Con người, 1 đối tượng chưa
hiểu hết", có kể lại 1 trường hợp phụ nữ, vì quá hãi
sợ và từ lúc đó, bà không thấy lại kinh nguyệt hàng
tháng của mình nữa. (Kinh nguyệt có liên hệ với
Thận, thận suy, ảnh hưởng đến kinh nguyệt).
9. Lạnh
- Thiên 'Ngũ Duyệt Ngũ Xứ' (LKhu 37) ghi : "Thận ố
hàn" (thận ghét lạnh).
- Về mùa đông, đêm khuya (thời điểm của Thái âm),
người ta cảm thấy lạnh. Vậy giữa lạnh và thủy khí có
liên hệ với nhau.
- Sờ ngoài da thấy lạnh là Thủy của Thận ở phần
Biểu suy (Biểu là phần bên ngoài).
- Người bệnh cảm thấy lạnh nhất là 2 bàn chân, lạnh
trong cột sống, lạnh từ trong lạnh ra, dù sờ ngoài da
không thấy lạnh là dấu hiệu Thủy của Thận suy ở lý
(phần bên trong thuộc Lý).
- Tùy theo cảm giác lạnh ở vùng nào có thể suy ra cơ
quan, cục bộ có rối loạn.
+ Thấy lạnh vùng lưng, chân... là dấu hiệu Thủy của
Thận suy.
+ Thấy lạnh vùng trán... là dấu hiệu thủy của Tâm
suy...
Thận ố hàn do đó, để bảo vệ thận, thường xuyên
tránh tiếp xúc của Hàn khí (thời tiết lạnh, nước đá
lạnh...). Mặc ấm chống lạnh để bảo vệ Thủy khí của
cơ thể.
10. Sự run rẩy
-Thiên ?Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận? (TVấn 5)
ghi : "Ở sự biến động của Thận là run rẩy".
- Khi lạnh quá hoặc khi sợ hãi quá người ta thường
run rẩy, vậy run rẩy có liên hệ với thủy khí.
- Người hay run rẩy tung biến động là người có thủy
khí suy.
11. Tiếng rên rỉ, hắt hơi
- Thiên ?Ngũ Duyệt Ngũ Sứ? (LKhu 32) ghi : "Rên rỉ,
hắt hơi là tiếng của Thận".
- Những người bị rét hoặc đang lên cơn kinh hãi
thường hay run rẩy và rên rỉ.
- Người ta thường hay hắt hơi vào những ngày mưa,
thời tiết lạnh, gió lạnh vào sáng sớm... là dấu hiệu
Thủy của Phế suy (vì chứng này thường gây ra kéo
dài, mãn tính, do đó, thường là do kim suy kéo theo
Thủy suy và Mộc vượng).
12. Sắc đen
- Thiên 'Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận; ghi : "Sắc
của Thận là sắc đen".
- Sắc của Thái âm, buổi tối, mùa đông là sắc đen.
- Sắc đen sáng, bóng là dấu hiệu thủy khí sung mãn.
Thực tế cho thấy những người da đen, da bánh mật
là những người thủy khí sung mãn, khả năng tình dục
của họ rất caop.
- Sắc đen u ám là dấu hiệu của thủy khí suy, thường
gặp nơi những người bệnh lâu ngày, sốt rét, ghiền xì
khe, ma túy...
- Quan sát khuôn mặt nơi đồ hình Thái cực ta thấy :
+ Cằm có sắc đen tối là dấu hiệu Thủy của Thận suy.
+ Trán có sắc đen tối là dấu hiệu Thủy của Tâm suy.
+ Mũi có sắc đen tối là dấu hiệu Thủy của Tỳ suy.
+ Má trái có sắc đen tối là dấu hiệu Thủy của Can
suy.
+ Má phải có sắc đen tối là dấu hiệu Thủy của Phế
suy.
- Bệnh viện Axiaphânphao (CHDC Đức) thấy rằng
những người hay bị đau đầu và co thắt mạch (dấu
hiệu của Hỏa vượng) bao giờ cũng thích lựa chọn
màu xanh đen và 60% người bị bệnh Cường tuyến
giáp (bệnh bướu cổ lồi mắt - Badơđô (Basedow) đặc
biệt ưa thích màu tím.
- Da đen bóng, phản ảnh Thủy khí sung mãn, người
có sắc da đen bóng là người thủy khí sung mãn.
Thận thủy có liên hệ đến sinh dục, vì thế dân tộc da
đen thường mạnh về tình dục.
13. Hàn khí và thủy khí
- Sách Y Tông Kim Giám : Trên trời là Hàn dưới đất là
Thủy, ở người là Thận, ở thể là cốt, Hàn khí thông với
thận, do đó, những bệnh do Hàn khí gây ra đều liên
hệ với Thận.
- Hàn khí là khí lạnh, hay gặp vào mùa đông, phương
Bắc, tối khuya và trong kỹ nghệ lạnh.
- Hàn khí là nguồn năng lực cần thiết để chống lại
Hỏa và Nhiệt khí làm cho mát dịu. Tuy nhiên, nếu hàn
khí quá mạnh thì sự mát mẻ dễ chịu sẽ nhường chỗ
cho sự lạnh lẽo, khó chịu.
- Thủy khí là nguồn năng lực của cơ thể chống lại
Hàn khí, nếu thủy khí suy, không chống lại được Hàn
khí sinh ra lạnh lẽo.
- Nước là biểu hiện của thủy khí, có tính Hàn, dùng
để chống lại Hỏa khí và Nhiệt khí, tuy nhiên, vì tính
hàn của nó nên cũng có thể làm cho Thủy khí suy
(Thận ố hàn), nhất là nước đá lạnh. Uống nhiều
nước, gây đi tiểu nhiều vì Thận phải làm việc nhiều
dẫn đến tình trạng Thủy khí suy. Do đó, chỉ nên uống
nước khi cần thiết và khát thôi.

You might also like