Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 6

ĐỀ ÔN THI TUYỂN SINH 10 (24-25) - Đề 2 (Lớp)

Phần I. Đọc hiểu (4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Có phải chúng ta đang ngày càng ít nói với nhau hơn. Chúng ta gặp nhau qua email, tin nhắn,
chúng ta đọc blog hay những status trên Facebook của nhau mỗi ngày, chúng ta những tưởng đã hiểu
hết về nhau mà không cần thốt nên lời. Có phải vậy chăng? Có phải chúng ta cũng như loài cá heo có
thể giao tiếp với nhau bằng sóng siêu âm. Tiếng nói của con người dùng để làm gì nếu không phải để thổ
lộ, để giãi bày, để xoa dịu. Nếu muốn được hiểu thì phải nói trước đã. Vậy thì còn chần chừ chi nữa, hãy
nói với nhau đi. Nói với ba, với mẹ, với anh chị, với em, với bạn bè… Đừng chat, đừng email, đừng post
lên Facebook của nhau, hãy chạy đến gặp nhau, hay ít nhất hãy nhấc điện thoại lên, thậm chí chỉ để gọi
nhau một tiếng “ơi” dịu dàng.
(Phạm Lữ Ân, Nếu biết trăm năm là hữu hạn, NXB Hội Nhà văn, tr48- 49)
Câu 1.Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn văn trên.
Câu 2. Nêu nội đung của đoạn văn trên.
Câu 3 Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong câu: Đừng chat, đừng email, đừng post lên
Facebook của nhau, hãy chạy đến gặp nhau, hay ít nhất hãy nhấc điện thoại lên, thậm chí chỉ để gọi
nhau một tiếng “ơi” dịu dàng.
Câu 4. Từ ý văn trên, hãy viết một đoạn văn (khoảng nửa trang giấy thi) bàn về thực trạng nghiện
Facebook trong cuộc sống xã hội ngay nay.
Phần II. (6,0 điểm) Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ sau. Từ dó nêu suy nghĩ về vai trò của thế hệ
trẻ ngày nay đối với đất nước
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
(Đồng chí, Chính Hữu, Ngữ văn 9, tập 1. NXBGDVN, 2014)
ĐÁP ÁN ĐỀ 2
Câu Yêu cầu Điểm
1
(0.5 Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận 0.5
điểm)
2
(0.5 Ngày nay, con người lạm dụng công nghệ thông tin mà ít giao tiếp trực tiếp. 0.5
điểm)
3
Phép tu từ: điệp từ “đừng”, liệt kê Đừng chat, đừng email, đừng post lên Facebook của
(1.0 0.5
nhau
điểm)
Tác dụng:
- Tạo nhịp điệu cho câu văn, tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt
0.5
- Nhấn mạnh lời khuyên của tác giả: không nên lạm dụng công nghệ thông tin để giao
tiếp bằng ngôn ngữ viết mà hãy giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ nói
4 *Hình thức: Đúng hình thức đoạn văn nghị luận (tự chọn kiểu lập luận), có sự kết hợp
(2.0 các phương thức biểủ đạt, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng, diễn đạt lưu loát, 0.5
điểm) độ dài khoảng ½ trang giấy thi.
*Nội dung: Có thể mở rộng nội dung trình bày, song cần nêu được các ý chính sau:
- Giải thích:
Facebook là mạng xã hội tiện ích do Mark sáng tạo ra cho phép mọi người kết nối
với nhau mà không bị cản trở bởi khoảng cách địa lý. Dù hai người ở hai đầu của địa
cầu, chỉ cần có mạng Internet, họ có thể sử dụng Facebook để liên lạc.
Biểu hiện:
Nghiện Facebook là hiện tượng người sử dụng luôn chăm chăm vào mạng
Facebook, không thể rời ra và cảm thấy thiếu thốn, không thể sống được nếu thiếu
Facebook.
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng nghiện Facebook
 Những tính năng của Facebook tạo thu hút và kích thích não bộ của con người
 Sự tham gia vào cộng đồng và cảm giác thích thú khi có nhiều lượt like,
comment
 Áp lực xã hội khi không tham gia vào Facebook hoặc không có nhiều lượt
tương tác trên trang cá nhân
Hậu quả của hiện tượng nghiện Facebook
 Ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tinh thần, gây căng thẳng, lo âu và thiếu tự
tin
 Tăng nguy cơ mắc các bệnh về mắt, cổ tay, vai gáy
 Lãng phí thời gian và gây ảnh hưởng đến hiệu suất công việc, học tập
 Giải pháp giảm thiểu hiện tượng nghiện Facebook
Lựa chọn các nội dung phù hợp và thiết thực trên Facebook
 Giới hạn thời gian sử dụng Facebook mỗi ngày
 Tìm kiếm các hoạt động khác để thay thế cho việc sử dụng Facebook
I. Mở bài
Chính Hữu là cây bút thơ tiêu biểu trong nền thơ ca thời kháng chiến chống
thực dân Pháp. Vốn là một người lính nên tác phẩm của ông chủ yếu viết về chiến
tranh và người lính, qua những trang thơ mang giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết, ngôn
ngữ cô đọng, hàm súc gợi nhiều ý nghĩa biểu tượng nên tác phẩm của ông được
đông đảo bạn đọc đón nhận. “Đồng chí” là một bài thơ như thế. Đến với tác phẩm
qua những câu thơ nói về ý nghĩa biểu tượng của tình đồng đội, đồng chí. Nhà thơ
giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu kháng
chiến chống Pháp. Điều đó được thể hiện rõ qua đoạn thơ:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua


............................
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- - Chủ đề: Bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến
sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ.
- Vị trí đoạn thơ: Đoạn thơ trên thuộc phần đầu của bài thơ trong bài thơ đã làm
hiện lên vẻ đẹp giản dị, chân thực cơ sở hình thành của tình đồng chí, đồng đội qua
đó ta thấy được sự gắn bó thân thiết của những người lính trong những năm tháng
đầy khó khăn gian khổ.
2. Cảm nhận về đoạn thơ
a. Cơ sở hình thành tình đồng chí
Thật vậy, trong 7 câu thơ đầu, nhà thơ lý giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm
thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng.
*Cùng chung cảnh ngộ xuất thân
- Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường chiến
đấu bảo vệ Tổ quốc không ai khác chính là những người nông dân mặc áo lính. Từ
giã quê hương, họ ra đi tình nguyện đứng trong đội ngũ những người chiến đấu cho
một lí tưởng chung cao đẹp, đó là độc lập tự do cho dân tộc. Mở đầu bài thơ là
những tâm sự chân tình về con người và cuộc sống rất bình dị và cũng rất quen
thuộc:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua.
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
- Hai câu đầu với cấu trúc sóng đôi cùng cách xưng hô “anh - tôi” thân mật gần gũi
đã thể hiện sự tương đồng về hoàn cảnh của những người lính. Giọng điệu thủ thỉ,
tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của hai người đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những
ngày đầu tiên gặp gỡ. Họ đều là con em của những vùng quê nghèo khó, là những
nông dân ở nơi “nước mặn đồng chua” hoặc ở chốn “đất cày lên sỏi đá”.
- Đúng như Nguyên Hồng đã viết: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ”, họ có người đến
từ miền biển, có người đến từ đồi núi. Nhưng tất cả họ đều lớn lên từ những vùng cơ
cực, lớn lên trong cảnh nghèo khó, lam lũ, vất vả.
- Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi” hiện lên với biết bao nỗi gian lao vất vả,
mặc dù nhà thơ không chú ý miêu tả. Nhưng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn
chỉ là danh từ chung chung kia trở nên cụ thể đến mức có thể nhìn thấy được, nhất là
dưới con mắt của những người con làng quê Việt Nam. Thành ngữ dân gian được
tác giả vận dụng rất tự nhiên, nhuần nhuỵ khiến người đọc có thể dễ dàng hình dung
được những miền quê nghèo khổ, nơi sinh ra những người lính. Khi nghe tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ Quốc, họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong đoàn quân
chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Hai câu thơ đầu theo cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “Quê
anh – làng tôi” đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ.
- Và chính sự tương đồng về cảnh ngộ ấy đã trở thành niềm đồng cảm giai cấp, là cơ
sở cho tình đồng chí, đồng đội của người lính.
* Cùng chung lí tưởng chiến đấu
- Những tưởng hai con người ở hai vùng quê nghèo đói đấy sẽ chẳng bao giờ gặp
được nhau, ấy vậy mà chiến tranh nổ ra, những con người hoàn toàn xa lạ ấy lại
“quen nhau”
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
- Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như một lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau,
thương nhau, tri kỉ với nhau bằng tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa những
người nghèo, người lao động. Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải do cái
nghèo xô đẩy, mà họ về đây đứng trong cùng đội ngũ do họ có một lí tưởng chung,
cùng một mục đích cao cả: chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Giống như những anh lính
trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên:
“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ
Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một, hai”
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến”
- Hình ảnh : “Anh - tôi” riêng biệt đã mờ nhoà, hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự gắn
bó tương đồng của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu”
- “Súng” và “đầu” là hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng cho nhiệm vụ chiến
đấu và lý tưởng cao đẹp. Điệp từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai lần như nhấn
mạnh tình cảm gắn bó trong chiến đấu của người đồng chí.
*Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng
như niềm vui. Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện
bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
Cái rét ở rừng Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một
thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy.
- Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ ấm. Đắp được
chăn thì hở đầu, đắp được bên này thì hở bên kia. Có điều lạ là câu thơ nói đến cái
rét lại gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào.
Chính trong những ngày thiếu thốn, khó khăn ấy từ “xa lạ” họ đã trở thành “tri kỉ”
của nhau. “Tri kỉ” là người bạn thân thiết hiểu rất rõ về ta. Vất vả nguy nan đã gắn
kết những người đồng chí khiến họ trở thành người bạn tâm giao gắn bó. Những câu
thơ giản dị mà hết sức sâu sắc, như được chắt lọc từ cuộc sống, từ cuộc đời người
lính gian khổ. Bao nhiêu yêu thương được thể hiện qua những hình ảnh vừa gần gũi
vừa hàm súc ấy. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã trải qua cuộc đời người
lính nên câu thơ bình dị mà có sức nặng, sức nặng của tình cảm trìu mến, yêu
thương với đồng đội. Sự gắn bó mỗi lúc lại càng thêm sâu sắc: Là súng bên súng đến
đầu bên đầu, rồi thân thiết hơn nữa là đắp chung chăn, thành tri kỉ. Hình ảnh thật
giản dị nhưng rất cảm động.
- Để rồi khép lại đoạn thơ đầu là dòng thơ chỉ với một từ “Đồng chí!”. Từ “đồng
chí” được đặt thành cả một dòng thơ ngắn gọn mà ngân vang, giản dị mà thiêng
liêng. Từ “đồng chí” với dấu chấm cảm như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc
thái biểu cảm khác nhau, nhấn mạnh sự thiêng liêng cao cả trong tình cảm mới mẻ
này.
- Đồng chí là cùng chí hướng, cùng mục đích. Nhưng trong tình cảm ấy một khi có
cái lõi bên trong là « tình tri kỉ » lại được thử thách, được tôi rèn trong gian khổ thì
mới thực sự vững bền. Không còn anh, cũng chẳng còn tôi, họ đã trở thành một khối
đoàn kết, thống nhất gắn bó.
- Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nông dân), có tình
bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung mục đích
chiến đấu. Và khi họ gọi nhau bằng tiếng “đồng chí” họ không chỉ còn là người
nông dân nghèo đói lam lũ, mà họ đã trở thành anh em trong cả một cộng đồng với
một lý tưởng cao cả vì đất nước quên thân để tạo nên sự hồi sinh cho quê hương, cho
dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có 2 chữ như chất chứa, dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ sáu
câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Câu thơ như một nút nhấn
nổi bật trong bản nhạc, là sự thăng hoa và kết tinh của mọi cảm xúc, mọi tình cảm.
Quả thật ngôn từ Chính Hữu thật là hàm súc.
b. Biểu hiện đẹp của tình đồng chí
- Nếu 7 câu đầu tác giả nêu lên cơ sở để hình thành tình đồng chí thì 3 câu tiếp theo
tác giả đi tìm biểu hiện đẹp đầu tiên của tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng sâu
nặng này. Biểu hiện đẹp đầu tiên của tình đồng đội, đồng chí là sự thấu hiểu và chia
sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau. Các anh đều là những người lính tạm gác tình
riêng, để nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, dũng cảm ra đi vì nghĩa lớn để
lại sau lưng mảnh trời quê hương với biết bao nhiêu trăn trở:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn
sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu
của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính nông
dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh vật mà còn là làng quê, là dân làng. Cảnh
vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính.
- Hình ảnh “gian nhà không” là hình ảnh khá lắng đọng trong tâm trí những người
chiến sĩ ấy và cũng hết sức ám ảnh trong tâm trí người đọc. Gian nhà không không
chỉ gợi cái nghèo mà còn diễn tả nỗi trống trải của lòng người ở lại. Trong
câu“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày” nếu ta thay từ “anh” bằng từ “tôi” thì ý
nghĩa câu thơ sẽ thay đổi hẳn. Ruộng nương “tôi”....là lời bộc bạch tâm trạng của
nhân vật trữ tình. Nhưng rõ ràng nhân vật trữ tình trong bài thơ không nói về mình
mà nói về đồng đội của mình. Điều đó nghĩa là họ thấu hiểu cảnh ngộ và mối bận
lòng của nhau.
- Từ “mặc kệ” không phải là vô tâm, vô trách nhiệm. “Mặc kệ” là ý chí quyết tâm
của họ khi đi theo cách mạng, làm rắn lòng mình để khỏi mềm lòng khi bước vào
trận chiến, là sự lựa chọn dứt khoát. Tâm trạng ấy cũng được Nguyễn Đình Thi nói
tới trong bài “Đất nước”:
“ Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
- Thái độ quyết liệt ấy có vẻ như lạnh lùng nhưng người bạn tri kỉ của anh hiểu được
rằng đó chỉ là những biểu hiện bề ngoài còn trong sâu thẳm tâm hồn người lính vẫn
dành cho hậu phương biết bao yêu mến, vẫn hình dung ra cảnh “Giếng nước gốc đa
nhớ người ra lính”.“Giếng nước, gốc đa” vốn là những vật vô tri, vô giác nay đã
được nhân hóa lên để thể hiện nỗi nhớ thương da diết của quê hương yêu dấu với
những người lính đã rời đi và rất khó để hẹn ngày trở lại. Ngoài ra giếng nước, gốc
đa còn dùng để ám chỉ những người ở lại, những người vợ chờ chồng, mẹ chờ con
luôn nhớ thương, mong ngóng tới ngày người lính trở về. Tại sao người lính đang ở
trong chiến trường mà lại thấu hiểu hết những tâm sự của quê hương, gia đình, ấy là
bởi vì chính người lính cũng đang nhớ về họ da diết, một nỗi nhớ hai chiều, nhớ về
quê hương chính là cách để họ vượt qua khó khăn.
- Đấy chính là vẻ đẹp tâm hồn, những tình cảm chất chứa trong những người chiến
sĩ ấy. Ba câu thơ với các hình ảnh: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa, hình
ảnh nào cũng thân thương, cũng ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ thương vơi đầy.
Nhắc tới nỗi nhớ da diết này, Chính Hữu đã nói đến sự hi sinh không mấy dễ dàng
của người lính. Tâm tư ấy, nỗi nhớ nhung ấy của “anh” và cũng là của “tôi”, là
đồng chí họ thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã được tiếp thêm sức
mạnh bởi tình yêu quê hương đất nước ấy.
3. Đánh giá, mở rộng
- Bằng ngôn từ cô đọng, hàm súc, vận dụng thành ngữ linh hoạt, hành ảnh chân
thực mang tính khái quát cao, đoạn thơ đã khắc họa được hình ảnh những người lính
một cách chân thực, cũng như tình đồng chí keo sơn gắn bó của họ trong những
ngày đầu chống Pháp.
- Từ hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí khiến ta liên tưởng đến hình ảnh
của người lính trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân hay hình ảnh
người lính trong bài “Nhớ” của Hồng Nguyên, hay hình ảnh người lính trong bài
“Tây tiến” của nhà thơ Quang Dũng… Họ là kết tinh cao độ những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta trong suốt bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Họ mãi là hình
ảnh đẹp nhất trong thơ, mãi là chân dung đẹp nhất của thời đại chúng ta.
III. Kết bài
Chỉ với 10 câu thơ nhưng Chính Hữu đã giúp người đọc thấy rõ cơ sở hình
thành nên tình đồng đội, đồng chí vững chắc của những người lính cũng như biểu
hiện đẹp về tình đồng chí thiêng liêng, sâu nặng. Từ đó, chúng ta cảm thấy tự hào,
yêu mến và kính trọng hơn những người lính cách mạng đã hy sinh để bảo vệ nền
hòa bình của đất nước.

You might also like