Professional Documents
Culture Documents
Chủ đề 6
Chủ đề 6
luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và việc vận
dụng nó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
1. Khái niệm chủ nghĩa duy vật biện chứng
C.Mác đã kế thừa tư tưởng về phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich
Hegel và lý luận về chủ nghĩa duy vật của Ludwig Andreas von Feuerbach và phát triển
nên phương pháp luận này. Các nhà triết học Marx-Lenin cho rằng phương pháp duy
vật biện chứng là cơ sở triết học cho hệ tư tưởng của họ.
Triết học Mác là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, là hạt nhân thế giới
quan, phương pháp luận của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là công cụ nhận thức
vĩ đại để giai cấp công nhân nhận thức và cải tạo thế giới, xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất
công; giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn đó
là xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa. Những cống hiến vĩ đại của
C.Mác trong lĩnh vực triết học đó là tạo nên sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phép biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; làm cho triết học trở thành thế
giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng để giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Trong lịch sử triết học duy vật trước C.Mác đã chứa đựng không ít những hạt nhân hợp
lý. Nhưng do sự hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội, trình độ phát triển của khoa
học cho nên tính siêu hình, duy vật về tự nhiên, duy tâm về xã hội là nhược điểm lớn
nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác. Trong khi đó, phép biện chứng lại bị nhốt
trong cái vỏ duy tâm thần bí của triết học cổ điển Đức, đặc biệt là hệ thống triết học duy
tâm, bảo thủ, phản động của G.V.Ph.Hêghen. Để xây dựng một thế giới quan, phương
pháp luận triết học thực sự khoa học và cách mạng, đem lại cho loài người một công cụ
nhận thức vĩ đại, C.Mác đã tiến hành cải tạo chủ nghĩa duy vật L.Phoiơbắc, phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. Công lao của C.Mác trong cải tạo chủ nghĩa duy vật đã
được V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy
vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ
nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”.
Phép biện chứng là một cống hiến vĩ đại, không thể phủ nhận của C.Mác. C.Mác đã
chủ định nghiên cứu phép biện chứng từ rất sớm. Trong khi thừa nhận những hạt nhân
hợp lý, C.Mác đã chỉ ra thế giới quan duy tâm, lộn ngược, tính chất bảo thủ, phản động,
bất lực trước những vấn đề xã hội và lịch sử trong phép biện chứng của
G.V.Ph.Hêghen. C.Mác đã đặt ra yêu cầu phải sử dụng phép biện chứng duy vật để
phân tích các vấn đề xã hội và lịch sử. Theo đó, phép biện chứng duy vật của C.Mác
khác hẳn về chất so với phép biện chứng duy tâm của G.V.Ph.Hêghen. Đúng như
C.Mác đã khẳng định: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương
pháp của Hê-ghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa.”(2). Tạo ra
sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng là cống hiến vĩ đại của
C.Mác mà trong lịch sử triết học chưa từng có. C.Mác đã đem lại cho loài người tiến bộ
vũ khí lý luận sắc bén, công cụ nhận thức vĩ đại.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học; là khoa
học về những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội
và tư duy. Triết học Mác-Lênin là triết học duy vật, bởi triết học đó coi ý thức là tính chất
của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người và nhiệm vụ của bộ não người là
phản ánh giới tự nhiên. Sự phản ánh có tính biện chứng, bởi nhờ nó mà con người
nhận thức được mối quan hệ qua lại chung nhất giữa các sự vật, hiện tượng của thế
giới vật chất; đồng thời nhận thức được rằng, sự vận động và phát triển của thế giới là
kết quả của các mâu thuẫn đang tồn tại bên trong thế giới đang vận động đó.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng - nó là hình thức cao nhất trong các hình thức của chủ
nghĩa duy vật. Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật kết hợp
với phép biện chứng.
Đặc trưng của phương pháp duy vật biện chứng là coi một sự vật hay một hiện tượng
trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện
tượng khác.
2. Khái quát về nguyên tắc của phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng
Phương pháp luận biện chứng duy vật được coi là những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo
các chủ thể trong việc xác định phạm vi, phương pháp, cách thức, phương tiện tác
động nhằm tạo ra những biến đổi cho phù hợp và hiệu quả. Vận dụng phương pháp
luận biện chứng duy vật trong quán triệt và xử lý mối quan hệ lớn giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là
góp phần định hướng phát triển đất nước theo hướng bền vững.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác đã tạo ra một bước ngoặt trong triết học, một trong
những biểu hiện nổi bật của cuộc cách mạng này là sự thống nhất chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật trở thành cơ sở của thế giới quan và
phương pháp luận khoa học, vì nó là một hệ thống lý luận phản ánh những mối liên hệ,
những quá trình biến đổi của bản thân thế giới hiện thực, căn cứ vào những kết
quả khoa học đã được đúc kết, kết hợp với sự tổng kết, khái quát thực tiễn hoạt động
của con người. Phương pháp luận của phép biện chứng là những kết luận được rút ra
từ việc khảo sát các mối liên hệ của các sự vật, từ quá trình phát sinh, phát triển cụ thể
của nó, “từ các mặt liên hệ, liên kết, vận động, sinh ra và mất đi của các sự vật”. Vì vậy,
phương pháp luận của phép biện chứng duy vật được coi là những nguyên tắc xuất
phát chỉ đạo các chủ thể trong việc xác định phạm vi, phương pháp, cách thức, phương
tiện tác động nhằm tạo ra những biến đổi cho phù hợp và hiệu quả.
Các nguyên tắc cơ bản của phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng cụ thể
chúng ta sẽ đi phân tích ở những mục sau đây...