Nguyễn Du

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

Nguyễn Du-một đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới.

Ông đã để lại
cho kho tàng văn học dân tộc biết bao tác phẩm văn học đầy đặc sắc. Trong đó , nổi bật nhất
chắc hẳn là “Truyện Kiều”. Bởi không phải ngẫu nhiên mà Chế Lan Viên đã từng viết:
“Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”. Đến với đoạn trích “Kiều ở lầu ngưng
bích”, ta lại được hiểu thêm phần nào về ngồi bút đầy tài hoa của ông. Đoạn trích đã dựng lên
cảnh cô đơn, buồn tủi cũng như tấm lòng thủy chung và đầy hiếu thảo của nàng Kiều khi một
mình bơ vơ, lạc lỏng nơi xứ người.
Đến với 6 câu thơ đầu của đoạn trích, tác giả đã làm nổi bật nên hoàn cảnh sống và nỗi
niềm cô đơn của nàng Kiều:
“Trước lầu ngưng bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn cọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
“Lầu Ngưng Bích”, cái tên mới đẹp đẽ làm sao. Từ cái tên ấy ta có thể phần nào hình
dung ra một nơi ở sang trọng của quý tộc thời phong kiến. Một chốn nghỉ ngơi ăn chơi của
những người giàu có thời xưa. Tưởng chừng trang trọng như thế, nhưng chính những tầng lầu
ấy chính là nơi “khóa xuân” biết bao con người. Và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. “Khóa
xuân” tức là khóa kính tuổi xuân, chỉ vỏn vẹn 2 chữ nhưng Nguyễn Du đã khéo léo nói về
hoàn cảnh đầy hẩm hiu của nàng Kiều. Chữ “xuân”- một lứa tuổi đẹp đẽ nhất của bao người
còn gái, nay lại bị khóa kín trong cấm cung ngăn cách với thế giới bên ngoài. Vậy là tuổi
thanh xuân của nàng Kiều nay đã chìm vào dĩ vãng. Vì thế, lầu Ngưng Bích đích thị chính là
nhà tù giam lỏng cuộc đời của Kiều, nó cho thấy tình cảnh hẩm hiu đến đau xót của nàng
Kiều lúc bấy giờ. Trong cảnh ngộ “bốn bề bát ngát” ấy, hiện hữu trong mắt Kiều nay chỉ còn
là vẻ “non xa” và “tấm trăng gần”. Nhìn xung quanh bốn bề xa lồng lộng mà lại cô đơn, chỉ
nhìn thấy những “cồn cát vàng dặm kia”. Những cồn cát dài phằng phẳng nối tiếp nhau đón
lấy ánh dương đầy đẹp đẽ khiến chúng ánh lên sắc hồng đầy tươi tắn, trẻ trung. Một cảnh
tượng thật “thanh xuân” và đẹp đẽ nhưng cũng đượm buồn. Bởi xung quanh là bốn bề bát
ngát, xa xa là bãi cát dặm kia nhưng lại chẳng tìm thấy một bóng người. Khi đó, từ “xa trông”
hiện lên như một cái nhìn đầy xa xôi, tìm kiếm từng dấu hiệu của sự sống. Nhưng tuyệt nhiên
nàng chẳng nhìn thấy gì cả. Qua đó thể hiện sự mong ngóng, tha thiết và khát khao chờ đợi
một tương lai hạnh phúc, sáng ngời nhưng phía trước chỉ là không gian trống trãi, hoang vắng
làm cho nỗi buồn của Kiều càng lớn hơn mà thôi. Từ đó, Kiều bắt đầu nghĩ đến số phận của
bản thân. Một số phận “bẽ bàng” và tủi thẹn. Nàng cảm thấy xấu hổ vì giờ đây chỉ còn là một
cô gái “Lầu Xanh”. Một kiếp đặt đâu ngồi đó chẳng bao h có quyền tự quyết. Và xấu hổ cũng
bởi vì giờ đây chẳng thể đáp ứng được tình cảm của chàng Kim. Cụm từ “mây sớm đèn
khuya” gợi nên sự tuần hoàn của thời gian một cách đầy khép kín và ẩn sâu trong đó là sự cô
đơn, nhàm chán khi ngày qua ngày sớm thì làm bạn với mây, khuya thì trò chuyện với đèn.
Vì thế nên tâm trạng của nàng Kiều cũng chia ra hai ngã “Nửa tình nửa cảnh chưa chia tấm
lòng”. Cảnh cho dù có đẹp đến chừng nào cũng không thể bù đắp được sự “bẽ bàng” đầy
vướng bận trong tâm hồn nàng lúc bấy giờ. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình đầy sống động và
những từ ngữ gợi hình, gợi cảm. Tố Như đã thành công phát họa một lầu Ngưng Bích đầy
rộng lớn, mênh mông, nhưng tuyệt nhiên không có sự sống của con người. Đồng thời qua đó
tác giả còn bộc lộ nội tâm đầy tủi thân, hổ thẹn của nàng Kiều khi bị giam lỏng tại nơi đây.
Trong nỗi cô đơn đầy vắng lặng đang bao quanh mình khi phải bơ vơ dưới góc bể chân
trời ở lầu Ngưng Bích, thì nỗi nhớ đến những người thân thiết đến như một lẽ tất yếu, rất phù
hợp với tâm trạng của Kiều lúc này. Và người đầu tiên nàng nhớ đến không ai khác chính là
chàng Kim Trọng “Phong tư tài mạo tót vời”, “Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trong mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Đến đây ta thấy được cách dùng từ vô cùng đắc địa của đại thi hào Nguyễn Du. Để diễn
tả nỗi nhớ của Kiều đối với chàng Kim thi nhân đã dùng từ “tưởng”. Tưởng là nhớ nhung đến
mức hình dung, tưởng tượng ra hình ảnh của Kim Trọng như hiện ra ngay trước mắt. Hai
người cùng nâng chén rượu thủy chung được ánh trăng chiếu rọi. Một khoảnh khắc chứa đầy
tình yêu thương sâu đậm. Nhưng giờ đây kiếp phận bị giam ở lầu Ngưng Bích, nàng lạc lõng
bơ vơ giữa chốn đất khách người dưng. Để từ đó những cảm xúc bấy lâu dồn nén đã được
nàng bày tỏ hết lòng qua câu thơ “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Câu thơ như một lời
khẳng định về tấm lòng thủy chung, sắt son dành cho chàng Kim, dù tấm lòng ấy có gặp phải
bao nhiêu sóng gió, gian nan, trắc trở thì cũng vẫn vẹn nguyên rạng ngời. Nhưng đồng thời
câu thơ cũng chính là những lời tự vấn lương tâm của nàng. Nàng tủi hổ, hổ thẹn vì bị Mã
Giám Sinh lừa vào lầu Xanh để rồi đây chịu cái kiếp đầy vết nhơ, hen ố. Như vậy, trong nỗi
nhớ chàng Kim, Thúy Kiều không chỉ bộc lộ tấm lòng sắc son, chung thủy mà còn phản phất
sự đau đớn cùng cực, tủi hổ đến tận tâm can.
Sau nỗi nhớ người tình, Thúy Kiều tiếp tục nhớ đến cha mẹ-những người thân ruột thịt
của bản thân mình:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.
Nếu như khi nhớ đến Kim Trọng thi nhân đã dùng từ “tưởng” thì khi nhớ đến cha mẹ nỗi
nhớ của Thúy Kiều lại bỗng trở nên “xót” đầy lạ kì. Xót nghĩa là thương đến mức xót xa
trong lòng. Không xót sao được khi mà một đứa con hiếu thảo như Thúy Kiều không thể
ngưng nhớ đến hình ảnh cha mẹ tựa cửa ngóng chờ mình về, còn con thì vẫn không thấy nơi
nào. Kèm theo đó là sự lo lắng cho cha mẹ khi đã tuổi cao sức yếu mà không biết có ai chăm
sóc hay không, hai chị em còn lại ở nhà có làm tốt nghĩa vụ của mình hay chưa. Cụm từ
“cách mấy nắng mưa” là cách nói miêu tả sự cách biệt không gian hết sức sáng tạo. Nó gợi
nên sự xa xôi, chia cách giữa nàng với cha mẹ mà không biết khi nào mới làm tròn được chữ
“hiếu” của đạo làm con. Qua tâm trạng xót xa, nhớ thương cha mẹ, Thúy Kiều đã bộc lộ tấm
lòng hiếu thảo, thảo thơm đầy lớn lao, cao cả và thiêng liêng.
Đọc đến đấy, chắc hẳn không chỉ có mình em mà còn cả những đọc giả khác cũng có câu
hỏi: “Tại sao một đứa con hiếu thảo như Kiều lại nhớ về chàng Kim trước cả cha mẹ- những
người có công sinh thành đầy to lớn ?”. Có lẽ đây là một dụng ý đầy nghệ thuật của tác giả.
Bởi hình ảnh trăng đang nhô lên từ phía xa xăm khiến nàng “tức cảnh sinh tình” nhớ nhung
đến đêm nguyện thề nâng ly cùng người tình dưới ánh nguyệt. Hơn thế nữa nàng còn đang là
một thiếu nữ tuổi đôi mươi. Kim Trọng còn là mối tình đầu của nàng, mối tình đậm sâu nhất
đối với mọi cô gái. Hơn thế nữa, nàng đã bán thân mình chuộc cha, có thể coi đã tạm làm tròn
chữ “hiếu” đối với gia đình. Chính vì vậy, việc nàng nhớ tới chàng Kim trước cha mẹ là một
dung ý đầy nghệ thuật của Nguyễn Du. Qua đó, ta có thể thấy được ngòi bút tâm lý đầy tài
hoa của đại thi hào. Chỉ có một thiên tài như ông mới có thể thấu hiểu, gợi tả tâm lý nhân vật
của bản thân một cách đầy chân thật và nghệ thuật đến vậy.
Để rồi từ những nỗi niềm nhớ nhung tột cùng ấy, mọi cảnh vật dù có đẹp đẽ bao nhiêu
nhưng qua tầm mắt của nàng Kiều đều hóa một màu u sầu bởi “cảnh nào cảnh chẳng nặng
sầu”, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua 2 câu thơ”
“Buồn trong cửa bể chiều hôm
Truyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Điệp từ “buồn trông” được lặp lại tận bốn lần trong những câu thơ sau. Đây là điệp ngữ
liên hoàn nhưng đồng thời cũng là khúc cao trào của nội tâm nàng Kiều. Kiều buồn nên mới
trông cảnh vật, khác với những đoạn thơ trước vì trông nên nàng mới hồi tưởng lại quá khứ
nên mới gợi nên nỗi buồn. Nhưng càng buồn thì nàng lại càng trông, nỗi buồn cứ thế mà tăng
dần lên theo cấp số nhân cứ như những đợi sóng cao trào không ngừng xoáy sâu vào tâm can
nàng vậy. Đập vào mắt ta sau đó lại là bút pháp miêu tả độc đáo, bức tranh cảnh “chiều hôm”
trong ánh mắt của kẻ nhớ nhà phản ánh rõ ràng nhất tâm trạng buồn da diết, thấm thìa cũng
như buồn tủi cho số phận của chính mình. Hình ảnh ẩn dụ “cánh buồm” đơn độc giữa cửa bể
rộng lớn, lênh đênh bất định trong ánh sáng “đượm buồn” của buổi chiều tà. Con thuyền ấy
cứ ngày một xa, rồi dần dần biến mất giữa biển khơi mênh mông. Không ai biết con thuyền
đó bao giờ mới neo đậu. Cũng như chẳng ai biết rằng khi nào nàng Kiều mới thoát khỏi chốn
ngục tù này. Con thuyền- nàng Kiều hai con người- sự vật tưởng chừng chẳng liên quan
nhưng lại có chung số phận. Một số phận lênh đênh không chốn dung thân, chẳng bao giờ có
cơ hội sum hợp, đoàn tụ với gia đình.
Không chỉ dừng lại ở đó, sự tiếc thương cho số phận của nàng Kiều còn được Nguyễn Du
thể hiện một cách chênh vênh hơn nữa qua 2 câu thơ tiếp:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu”
Trước mắt Kiều là một ngọn nước mới từ trên thác đổ xuống. Một ngọn nước mới từ dòng
suối chảy trôi một cách bình yên bỗng bắt gặp một ngọn thác mà chảy trôi xuống một cách tả
tơi. Điều đó cũng giống như cuộc đời nàng lúc bấy giờ vậy, từ một cuộc sống “êm đềm tướng
rủ màn che” nay lại hóa thành kiếp phận một cô gái lầu xanh đầy oan trái. Cũng từ đó nàng
bỗng trông thấy hình ảnh “ hoa trôi man mác”. Một bông hoa nhỏ bé, xinh đẹp nhưng lại mắc
kiếp lênh đênh vô định giữa biển cả mênh mông. Hình ảnh bông hoa được đặt trong sự tương
phản với vũ trụ rộng lớn càng tô đậm thêm số phận nhỏ bé, đơn độc của một cô gái lầu xanh
chìm nổi giữa dòng đời vô định.
Ngước mắt nhìn ra cửa biển chỉ để nhìn thấy sự cô đơn, buồn tủi. Nàng liền nhìn xuống
mặt đất để tìm kiếm một sự sống để bầu bạn nhưng nàng đâu biết rằng thứ chờ đợi nàng lại là
những đám cỏ héo úa, lụi tàn:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Hình ảnh nội cỏ rầu rầu là một hình ảnh nhân hóa đầy nghệ thuật. Nó phản ánh được tâm
trạng của nàng Kiều. Nàng buồn nên nhìn đâu cũng buồn, nỗi buồn lớn đến nỗi lan tỏa ra
cảnh vật xung quanh khiến chúng úa một màu rầu rỉ, tàn lụi. Trong đời sống hay cả trong văn
học thời xưa đến nay màu xanh chính là màu tượng trưng cho sự sống, sự sinh sôi bất diệt.
Nhưng cũng có trường hợp nó lại hóa thành một màu bi kịch của đời người. Từ đó ta cảm
thấy sự nhạt nhòa, chán nản và buồn tẻ của nàng Kiều khi cứ tìm kiếm sự sống một cách
tuyệt vọng.
Nếu như các hình ảnh trước đó được miêu tả một cách đầy bình yên và lắng đọng thì đến
với 2 câu thơ cuối của bài thơ, nhịp thơ bỗng trở nên dữ dội đến lạ kì:
“ Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Ngưng tụ lại tất cả những cảm xúc dạt dào ở những khổ thơ trên. Nội tâm của Kiều nay lại
hóa thành những cơn sóng dữ dội. Điệp khúc “buồn trông” ở những câu thơ trên cứ như
những bước đà hoàn hảo để tô đậm thêm sự dày xéo nội tâm của Kiều lúc bấy giờ. Chúng cứ
như tầng tầng lớp sóng không ngừng đập mạnh vào bờ mà phát ra những tiếng ầm ầm dữ dội.
Chúng chính là ẩn dụ cho số phận đầy phong ba, bão táp đã và đang đổi xuống đầu Kiều. Đổ
xuống đôi vai gầy của một cô gái trẻ trung một cách đầy nghiệt ngã. Qua đó, Kiều không chỉ
thể hiện sự tiếc thương cho số phận của mà thân mà còn sợ hãi trước màn đêm u tối bủa vây
mình ở phía trước.
Thời gian không ngừng trôi, thời đại văn học trung đại nay đã đi xa tựa bao giờ. Văn học
vẫn phải bước lên con tàu của thời gian mà lăn bánh bước tiếp. Những có lẽ “Truyện Kiều”,
đặc biệt là đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” với bút pháp tả cảnh ngụ tình đầy nét cổ điển
cùng cách gợi tả nội tâm đầy đỉnh cao sẽ đủ sức vượt qua mọt sự hao mòn của thời gian. Vẫn
sẽ mãi tồn tại để phản ảnh số phận đầy lênh đênh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Một số phấn “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

You might also like