TÙY BÚT

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 77

TÙY BÚT – TẢN VĂN – TRUYỆN KÍ

KIẾN THỨC NGỮ VĂN


1. Tuỳ bút, tản văn

- Tuỳ bút là văn xuôi trữ tình - một loại tác phẩm tự sự phi hư cấu. Tuỳ bút ghi chép một cách tự do
những suy nghĩ, cảm xúc mang màu sắc cá nhân của người viết về con người và sự việc. Vì thế, bài tuỳ
bút thường thể hiện rất rõ cái “tôi” độc đáo, cũng như tâm hồn, tình cảm của tác giả. Ngôn ngữ của tuỳ
bút thường rất giàu chất thơ.

- Tản văn — một loại tác phẩm gần với tuỳ bút, cũng là loại tác phẩm tự sự phi hư cấu, sử dụng kết
hợp nhiều phương thức biểu đạt. Nội dung bài tân văn thường nêu lên các hiện tượng chân thực, gần
gũi với cuộc sống nhưng giàu ý nghĩa xã hội. Thông qua nội dung ấy, người viết bộc lộ trực tiếp tình
cảm, suy nghĩ mang đậm cá tính của mình.

- Sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình trong tuỳ bút, tản văn

Với nhiệm vụ ghi chép sự thật của đời sống, từ đó bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của người
viết, cả tuỳ bút và tản văn đều cần có sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình. Tự sự là kể lại sự việc (bối
cảnh, nhân vật, quá trình, kết quả,....); trữ tình là bộc lộ trực tiếp những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc
chủ quan của người viết trước con người và sự việc được nói tới. Tuỳ vào đề tài và mục đích bài viết
mà tác giả kết hợp các yếu tố tự sự và trữ tình với những mức độ khác nhau. Nhưng nhìn chung, tuỳ
bút sử dụng nhiều yếu tố trữ tình, còn tản văn dùng nhiều yếu tố tự sự.

2. Truyện kí

- Truyện kí là thể loại giao thoa giữa truyện và kí, trong đó, nhà văn dựa vào những con người và sự
việc có thật, lựa chọn, sắp xếp và tổ chức thành câu chuyện hấp dẫn, làm nổi bật đối tượng được phản
ánh bằng ngôn ngữ văn học. Truyện ki phát triển mạnh trong các cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ do yêu cầu cổ vũ động viên, ca ngợi người thật, việc thật,... Những tác phẩm như
Sống như anh (của Trần Đình Văn viết về anh hùng Nguyễn Văn Trỗi), Người mẹ cầm súng (của
Nguyễn Thi viết về cuộc đời chị Út Tịch),... là những truyện kí tiêu biểu của thời kì chống Mỹ cứu
nước.

- Sự kết hợp giữa hư cấu và phi hư cấu: Truyện kí chú trọng tính xác thực về con người và sự kiện,..
đồng thời sử dụng hư cấu với các chi tiết, tâm lí, nhân vật, sự việc,... do nhà văn tưởng tượng ra khiến
câu chuyện hiện lên vừa chân thực, khách quan vừa sinh động theo cách nhìn độc đáo của tác giả. Ví
dụ: Truyện kí Người mẹ cầm súng của Nguyẽn Thi dựa trên câu chuyện có thật về người phụ nữ Nam
Bộ anh hùng trong thời kì chống Mỹ cứu nước là chị Nguyễn Thị Út. Trên cơ sở sự việc và con người
có thật ấy, để câu chuyện sinh động, hấp dẫn hơn, Nguyễn Thi có những sáng tạo trong việc lựa chọn
chi tiết, sắp xếp sự việc, tình huống, sử dụng lời kể, miêu tả tâm lí nhân vật,... Truyện kí Vào phủ chúa
gặp lại của Minh Chuyên cũng có sự kết hợp giữa hư cấu và phi hư cấu như vậy.

3. Cách giải thích nghĩa của từ

Nghĩa của từ là nội dung (sự vật, hiện tượng, khái niệm, cảm xúc....) mà từ biểu thị. Một từ có thể có
một nghĩa hoặc nhiều nghĩa. Nghĩa của từ nhiều nghĩa gồm nghĩa gốc (nghĩa cơ sở) và nghĩa chuyển
(nghĩa phái sinh). Để xác định nghĩa cụ thể của một từ nhiều nghĩa trong văn bản, ta cần dựa vào ngữ
cảnh (hoàn cảnh giao tiếp và các từ ngữ xung quanh từ ấy).

Có những cách giải thích nghĩa của từ như sau:

- Giải thích bằng cách nêu khái niệm mà từ biểu thị. Ví dụ: Cách giải thích các thuật ngữ tuỳ bút, tản
văn ở phần Kiến thức ngữ văn này.
- Giải thích trực quan. Chẳng hạn, giải thích nghĩa của từ đàn tính bằng cách cho xem cây đàn thật
hoặc hình ảnh cây đàn; giải thích nghĩa của từ cây bằng tranh, ảnh, video,...

- Giải thích bằng cách đặt từ cần giải thích vào trong một câu cụ thể nhằm xác lập ngữ cảnh sử dụng.
Chẳng hạn, nghĩa của từ ngon trong hai ngữ cảnh sau đây sẽ khác nhau: Món này ngon lắm! (ngon:
nghĩa gốc, chỉ vị giác) và Xe này ngon lắm! (ngon nghĩa phái sinh, có nghĩa là "tốt". "chất lượng").

- Giải thích bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa. Ví dụ: phi trường, sân bay, thất bại, không thành công.

- Giải thích bằng cách giải nghĩa các thành tố tạo nên từ đó. Chẳng hạn, xe ngựa là “xe do ngựa kéo";
yếu điểm là “điểm quan trọng, điểm chính" (yếu có nghĩa là “quan trọng”).

4. Cách trình bày tài liệu tham khảo trong một báo cáo nghiên cứu

Người viết báo cáo nghiên cứu cần thông tin đầy đủ về các tài liệu mà mình đã tham khảo để bảo đảm
quyền sở hữu trí tuệ của tác giả những tài liệu đó, đồng thời giúp cho nội dung báo cáo thêm thuyết
phục. Tài liệu tham khảo thường được lập thành danh sách (danh mục), đặt ở cuối báo cáo; sắp xếp họ
tên tác giả (hoặc tên tài liệu) theo thứ tự chữ cái trong bảng chữ cái. Thông tin về mỗi tài liệu tham
khảo gồm có: tác giả, năm xuất bản, tên tài liệu, nhà xuất bản, địa điểm xuất bản. Nếu tài liệu tham
khảo là bài báo thì cần nêu thêm tên tạp chí và số của các trang có bài báo. Ví dụ:

1. Cao Xuân Hạo (2000). Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Đào Duy Anh phiên chủ (1976), Quốc âm thi tập, trong “Nguyễn Trãi toàn tập”, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.

3. Đỗ Đức Hiểu (1990). “Những lớp sóng ngôn từ trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Ngôn
ngữ, số 4, trang 7 12.

THƯƠNG NHỚ MÙA XUÂN


- Đề tài: mùa xuân
- Kết cấu của văn bản: 3 phần:
+ Cảm nhận về quy luật tình cảm của con người với mùa xuân.
+ Cảnh sắc, không khí mùa xuân Hà Nội.
+ Cảnh sắc, không khí mùa xuân sau những ngày rằm tháng Giêng.
- Tác giả Vũ Bằng:
+ Nhà văn, nhà báo Vũ Bằng (1913 - 1984) có tên thật là Vũ Đăng Bằng, bút danh như Thiên Thư,
Lưu Tâm, Vạn Lý Trình,…
+ Ông sinh ra tại Hà Nội nhưng quê gốc của ông ở Hải Dương
+ Sinh trưởng trong một gia đình làm nghề xuất bản nhà sách ở Hà Nội
+ Vũ Bằng với phong cách viết miêu tả chân thực cuộc sống xung quanh, về thiên nhiên, về con người
về sự đổi thay của quê hương đất nước, giọng văn nhẹ nhàng truyền cảm và có sức hấp dẫn vô cùng
lớn.
2. Đọc hiểu
* Nội dung chính: “Thương nhớ mùa xuân” là tác phẩm được khắc họa khung cảnh mùa xuân và miêu
tả nó một cách chân thực và tuyệt đẹp, tác giả đã bộc lộ nỗi nhớ về Hà Nội qua cách miêu tả cảnh sắc
thiên nhiên cùng đời sống sinh hoạt của con người nơi đây. Dù đã xa quê nhưng những kí ức về quê
hương là thứ mà không bao giờ phai mờ.
* Trả lời câu hỏi giữa bài:
Câu 1. (trang 57 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Chú ý cách tác giả giới thiệu về tháng Giêng và mùa xuân.
Trả lời:
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta
càng trìu mến, không có gì lạ hết.
Câu 2. (trang 58 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Cảnh sắc và con người Hà Nội vào mùa xuân có đặc điểm
gì?
Trả lời:
Mùa xuân Bắc Việt – mùa xuân Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn
kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm, có câu hát huê tình của cô gái
đẹp như thơ mộng,...
Câu 3. (trang 58 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Cảm xúc của nhân vật "tôi" trước mùa xuân thế nào?
Trả lời:
Mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng
lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng. Nhân vật tôi háo hứng,
mong ngóng nó đến.
Câu 4. (trang 59 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Ở phần 3, tác giả đã bày tỏ cảm xúc gì về mùa xuân Hà Nội?
Trả lời:
Các chi tiết như: "Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương
mến".
→ Tác giả cảm thán, vui vẻ trước vẻ đẹp của mùa xuân.
Câu 5. (trang 59 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Thời tiết đặc trưng của Hà Nội sau rằm tháng Giêng như thế
nào?
Trả lời:
Trăng tháng Giêng non như một người con gái mơn mởn đào tơ. Trăng tháng này đẹp hơn các tháng
khác: "sáng nhưng không lộng lẫy như trăng mùa thu, đẹp nhưng không đẹp một cách úa héo như
trăng tháng Một...."
Câu 6. (trang 60 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Trong tâm trí tác giả, trăng tháng Giêng có gì đặc biệt?
Trả lời:
Trăng tháng Giêng non như một người con gái mơn mởn đào tơ. Trăng tháng này đẹp hơn các tháng
khác: "sáng nhưng không lộng lẫy như trăng mùa thu, đẹp nhưng không đẹp một cách úa héo như
trăng tháng Một...."
* Trả lời câu hỏi cuối bài:
Câu 1. (trang 61 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Đề tài của văn bản Thương nhớ mùa xuân là gì? Dựa vào đâu
để em biết được điều đó?
Trả lời:
Đề tài của văn bản Thương nhớ mùa xuân là tình yêu thương với quê hương và gia đình. Dựa vào nội
dung của văn bản mà em biết được điều đó. Qua tác phẩm, tác giả đã bộc lộ nỗi nhớ về Hà Nội qua
cách miêu tả cảnh sắc thiên nhiên cùng đời sống sinh hoạt của con người nơi đây. Dù đã xa quê nhưng
những kí ức về quê hương là thứ mà không bao giờ phai mờ.
“Thương nhớ mùa xuân" là nỗi niềm nhớ thương da diết quê hương, gia đình.
Dựa vào nội dung của văn bản, em biết được điều đó. Văn bản đã biểu lộ một cách rất chân thực và cụ
thể nỗi niềm nhớ thương da diết quê hương, gia đình của tác giả.Với cách viết tùy bút chân thực và cụ
thể, ông đã biểu lộ tình cảm thiêng liêng đó. Nhớ về mùa xuân của đất Bắc, của Hà Nội, Vũ Bằng đã tả
lại những cảnh sắc thiên nhiên và đời sống sinh hoạt của người thủ đô một cách rõ ràng trong tâm trí
của người con xa quê. Giọng văn nhẹ nhàng, du dương, trầm bổng của ông đã đưa độc giả lạc vào thế
giới hồi ức miên man, dạt dào cảm xúc. Ông đã nhắc đi nhắc lại như một lời tỏ tình thiết tha mà say
đắm: “Mùa xuân của tôi... mùa xuân thần thái của tôi...”
Câu 2. (trang 61 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Xác định nội dung chính của mỗi phần trong văn bản Thương
nhớ mùa xuân. Theo em, mạch lô gích chính gắn kết các phần của văn bản là gì?
Trả lời:
- Văn bản Thương nhớ mùa xuân có bố cục 3 phần:
+ Phần 1: Từ đầu đến “mê luyến mùa xuân”. Nội dung chính là nêu lên những cảm nhận về tình cảm
của con người với mùa xuân.
+ Phần 2: Tiếp theo đến “mở hội liên hoan”. Miêu tả cảnh sắc và không khí mùa xuân Hà Nội.
+ Phần 3: Phần còn lại. Miêu tả cảnh sắc và không khí màu xuân sau ngày rằm tháng Giêng.
- Theo em, mạch lô gích chính gắn kết các phần của văn bản là những suy nghĩ và cảm nhận của nhà
văn về cảnh sắc mùa xuân.
Câu 3. (trang 61 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Cái “tôi” tác giả trong văn bản thể hiện tình cảm, cảm xúc gì?
Hãy dẫn ra một số câu văn thể hiện rõ tình cảm, cảm xúc ấy.
Trả lời:
- Cái “tôi” tác giả trong văn bản thể hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả đối với mùa xuân. Một số câu
văn thể hiện rõ tình cảm, cảm xúc ấy là:
+ "Tự nhiên như thế: ai củng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta
càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng
đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son
nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân."
+ "Nhưng tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng Giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn,
đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ không mướit xanh như cuối đông, đầu Giêng, nhưng trái
lại, lại nức một mùi hương man mác."
Câu 4. (trang 61 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phân tích sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình của thể loại
tuỳ bút qua một vài biểu hiện cụ thể của văn bản Thương nhớ mùa xuân (ngôn ngữ, chi tiết, sự việc,...).
Trả lời:
Trong văn bản Thương nhớ mùa xuân, yếu tố tự sự và trữ tình của thể loại tuỳ bút đã được tác giả Vũ
Bằng kết hợp xuất sắc thông qua một vài ngôn ngữ, chi tiết, sự việc,...cụ thể như:
+ Ngôn ngữ: Tuy sử dụng những ngôn ngữ giản dị nhưng nó rất giàu hình ảnh, giàu chất trữ tình và
giàu tính biểu cảm, mang lại cảm xúc dồi dào cho người đọc.
+ Việc kết hợp nhiều phương thức kể, tả, biểu cảm vào văn bản đã giúp cho giọng điệu thơ trở nên
nhịp nhàng và hài hòa hơn.
+ Cảnh vật thiên nhiên mùa xuân dưới ngòi bút nhà văn rất sinh động và đẹp, qua đó đã thể hiện được
tình cảm của tác giả với quê hương và cảnh sắc nơi đó. Một số chi tiết như "Anh có thể đạp cỏ trên Hồ
Gươm...anh vậy", "Thường thường, vào khoảng... cuộc sống êm đềm, thường nhật",… đã thể hiện
được sự sinh động đó.
- Không chỉ sử dụng các câu kể, tả mà còn trong văn bản, tác giả cũng sử dụng nhiều câu cảm thán bộc
lộ tâm tư và tình cảm của mình: "Ới ơi người em gái xõa tóc bên cửa sổ!", “Tôi yêu sông xanh, núi
tím.... là vì thế”,…
Câu 5. (trang 61 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Chi tiết nào về thiên nhiên (hoặc phong tục, con người) Hà
Nội trong văn bản để lại ấn tượng đặc biệt đối với em? Vì sao?
Trả lời:
Chi tiết về thiên nhiên (hoặc phong tục, con người) Hà Nội trong văn bản để lại ấn tượng đặc biệt đối
với em là chi tiết miêu tả thiên nhiên Hà Nội vào tháng Giêng. Việt Nam có ba vùng miền và mỗi vùng
miền lại có đặc điểm về khí hậu và thời tiết khác nhau trong đó, mùa xuân và khí hậu miền Bắc rất đặc
biệt vì nó có đủ 4 màu trong một năm. Vũ Bằng đã miêu tả rất chân thực khung cảnh tháng giêng về
với những cảm nhận về sự chuyển giao diệu kì của thời tiết và sự hòa quyện giữa cảnh sắc thiên nhiên
với con người nơi đây.
Em thích chi tiết miêu tả thiên nhiên Hà Nội vào tháng Giêng. Vũ Bằng đã miêu tả chân thực khung
cảnh tháng giêng về. Tháng Giêng tời là lúc đất trời chuẩn bị có sự chuyển giao diệu kì và đầy tinh tế.
Đất bắc mang một nét đẹp thật trong veo, đằm thắm, có sự hòa quyện nhịp nhàng giữa con người với
cảnh sắc thiên nhiên đất trời. Và có lẽ vì thế mà lòng người cũng đồng điệu, hòa cùng những nhịp điệu
nhộn nhịp của mùa xuân.
Câu 6. (trang 61 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Em hiểu thêm được những gì về giá trị văn hoá dân tộc từ văn
bản Thương nhớ mùa xuân?
Trả lời:
Qua văn bản “Thương nhớ mùa xuân”, em đã thấy được nhiều hơn về giá trị văn hoá dân tộc thông qua
văn hóa con người Hà Nội thông qua những chi tiết miêu tả ngày Tết ở nơi đây. Tết miền Bắc gắn liền
với hình ảnh hoa đào, bánh chưng xanh ăn chúng với thịt mỡ dưa hành. Ở ngoài Bắc, còn mùng là còn
Tết, còn hoa đào là vẫn còn thấy Tết. Tết kết thúc cũng là lúc cuộc sống quay trở lại quỹ đạo như hàng
ngày.
Qua văn bản, em hiểu nhiều hơn về vă hóa con người Hà Nội. Các chi tiết “Tết hết mà chưa hết hẳn,
đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái
lại, lại nức một mùi hương man mác” và "Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết...Tết cũng tạm thời kết
thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật" đã chỉ ra những đặc trưng về văn hóa người
miền Bắc vào mỗi dịp trước và sau tết. Tết miền Bắc gắn liền với hình ảnh cây đào, bánh trưng, dưa
hành... Khi hoa phai là lúc hết Tết, cuộc sống quay trở lại quỹ đạo thường ngày, tất bật với công việc.
Câu 1. Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Thương nhớ mùa xuân
- Giá trị nội dung:
“Thương nhớ mùa xuân" đã biểu lộ một cách rất chân thực và cụ thể nỗi niềm nhớ thương da diết quê
hương, gia đình của tác giả. Với cách viết tùy bút chân thực và cụ thể, ông đã biểu lộ tình cảm thiêng
liêng đó. Nhớ về mùa xuân của đất Bắc, của Hà Nội, Vũ Bằng đã tả lại những cảnh sắc thiên nhiên và
đời sống sinh hoạt của người thủ đô một cách rõ ràng trong tâm trí của người con xa quê. Giọng văn
nhẹ nhàng, du dương, trầm bổng của ông đã đưa độc giả lạc vào thế giới hồi ức miên man, dạt dào cảm
xúc.
- Giá trị nghệ thuật:
 Ngôn ngữ: Giàu hình ảnh, cảm xúc, giàu chất trữ tình
 Cảnh vật qua dưới ngòi bút nhà văn hiện lên thật sinh động, như được thổi hồn bên trong. Qua
đó, thể hiện được sự tài hoa, khả năng quan sát, cảm nhận tinh tế của tác giả.
Câu 2. Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Thương nhớ mùa xuân.
“Thương nhớ mùa xuân” là tác phẩm được khắc họa khung cảnh mùa xuân và miêu tả nó một cách
chân thực và tuyệt đẹp, tác giả đã bộc lộ nỗi nhớ về Hà Nội qua cách miêu tả cảnh sắc thiên nhiên cùng
đời sống sinh hoạt của con người nơi đây. Dù đã xa quê nhưng những kí ức về quê hương là thứ mà
không bao giờ phai mờ.
Câu 4. Phân tích tác phẩm Thương nhớ mùa xuân
Mùa xuân không chỉ đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên mà chính từ tâm hồn mỗi con người, ai ai cũng
toát lên vẻ đẹp dịu dàng, quyến rũ mà nồng nàn khi đón chào mùa xuân mới. Trong tác phẩm Thương
nhớ mùa xuân, Vũ Bằng đã viết “Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống trong người căng lên như
máu”. Xuân đến khiến cho trái tim con người thổn thức, háo hức, sức sống trong người muốn cựa
quậy, muốn bùng cháy. Xuân đã làm cho “tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn
những ngày đông giả”. Cái rét của mùa xuân chẳng giống như rét “căm căm” của mùa đông xứ Bắc
nữa, mà là một cái lạnh thật dịu dàng, thật nhẹ nhàng biết bao.
Vũ Bằng với ngòi bút tài hoa, cảm nhận tinh tế, ngôn ngữ giàu chất thơ cùng nhiều hình ảnh so
sánh độc đáo, mới lạ đã khiến cho người đọc hồi tưởng về kí ức của những mùa xuân đã qua, cái
không khí, mùi hương của xuân của quê hương, của lòng người thoang thoảng mênh mang.
Và xuân đến mang tới một tháng giêng tươi đẹp nhất, hội tụ những vẻ đẹp ngọt ngào nhất. Như
trong Vội Vàng, Xuân Diệu đã từng nói “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Còn trong văn
người thi sĩ Vũ Bằng, tuy chẳng được dịu ngọt, hối hả như Xuân Diệu nhưng lại mang vẻ đằm thắm và
da diết khiến cho người đọc phải say mê, đấm chìm trong đó. Khi tháng giêng về đó cũng là lúc đất
trời chuẩn bị có sự chuyển giao diệu kì và đầy tinh tế. Đất bắc mang một nét đẹp thật trong veo, đằm
thắm, có sự hòa quyện nhịp nhàng giữa con người với cảnh sắc thiên nhiên đất trời. Và có lẽ vì thế mà
lòng người cũng đồng điệu, hòa cùng những nhịp điệu nhộn nhịp của mùa xuân.
Không biết vì lí do gì cứ “Tự nhiên như thế” người người, nhà nhà “ai cũng chuộng mùa xuân”.
Không có gì lạ khi người ta yêu chiều, thích thú khi đón chào tháng giêng bới “tháng giêng là tháng
đầu của mùa xuân” vì thế mà “người ta càng trìu mến”. Xuân đến, mang bao điều tươi mới, mang tới
sức sống tràn đầy, cho cây lá đâm chồi nảy lộc, cho hương sắc đất trời càng thêm rực rỡ, cho lòng
người càng dịu dàng nồng say, xuân cứ ngọt ngào như vậy thì ai mà chẳng mê! “Ai bảo được non đừng
thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm
được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng” thì khi ấy “mới hết được người mê luyến
mùa xuân”. Vũ Bằng cũng giống với mọi người, chàng thi sĩ ấy cũng bày tỏ tình cảm yêu quý của
mình dành cho mùa xuân xinh đẹp: “ Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in
ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế. Mùa xuân của tôi-
mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn
kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô
gái đẹp như thơ mộng...” Mùa xuân của Vũ Bằng là mùa xuân của miền Bắc Việt Nam, là cái không
khí của xuân Hà Nội, là những cơn mưa xuân nhỏ li ti, kéo dài tới hàng mấy ngày, là những cơn gió
man mát thi thoảng lại thổi một luồng qua những người đi đường, là âm thanh đặc trưng của mùa xuân,
…. Tất cả những điều ấy đã tạo nên một xuân dịu dàng, nồng nàn khiến cho không chỉ tác giả mà biết
bao tâm hồn con người phải đắm say vào đó. Vào lúc đất trời giao thoa, không khí dễ chịu, cảnh vật
tươi tắn, những “người yêu cảnh” khi ấy chỉ muốn “khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu mở cửa
đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng
như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống”. Người ta có thể dạo chơi, rồi thưởng thức hết
vể đẹp của cái xuân ấy, thế là đã hết ngày. Vậy đấy “cái mùa xuân thần thánh của tôi làm cho người ta
muốn phát điên lên như thế ấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu
căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra
thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh”. “Cùng với mùa xuân trở lại”
tâm hồi, trái tim “Người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng
giá” Nhưng lúc ấy, đường sá ngoài kia chẳng còn sự lầy lội, ẩm ướt của cái giá lạnh mùa đông, thay
vào đó là tiết trời dịu ngọt, êm ả, man mác, khiến ta sung sướng và hạnh phúc biết bao. “Ra ngoài trời,
thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa”.
Tác giả đã không kìm được nữa mà phải thốt lên rằng “Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà
Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến”. Mùa xuân xinh đẹp như thế, ai mà chẳng yêu, ai mà chẳng
nhớ, với tác giả mùa xuân Hà Nội khiến lòng nhà thơ đầy rộn ràng, nhộn nhịp, say đắm vô cùng. Đặc
biệt ông “yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng” bởi lúc này đây “Tết hết mà
chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng,
nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác”. Nhưng đồng thời cũng là lúc phải chia tay với những
bữa cơm “thịt mỡ dưa hành” nhà nhà lại “bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm
những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng”.
Thật vậy Thương nhớ mùa xuân của Vũ Bằng là những dòng cảm xúc thật dịu dàng, nhẹ nhàng,
trong tẻo và đầy tươi mới của mùa xuân “Bắc Việt”. Nó gợi nhắc cho độc giả về không khí nhộn nhịp,
rộn rã, những thanh âm trong trẻo và ngọt lành của một mùa xuân xinh tươi, tràn đầy sức sống.
VÀO CHÙA GẶP LẠI
- Tóm tắt văn bản:
"Vào chùa gặp lại" là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Minh Chuyên khi ông viết về sự hy sinh mất
mát của những quân nhân nữ trong cuộc kháng chiến đấu tranh chống thực dân Mỹ xâm lược. Chiến
tranh xảy ra nó tàn phá nặng nề, làm tổn hại về người và của, nó kéo dài tới mức hàng nghìn người
phụ nữ đã được tập hợp lại hành quân tiến vào chiến trường để chiến đấu. Kết thúc cuộc chiến tranh
khốc liệt và gian khổ ấy, tác giả đã gặp được một nữ quân nhân may mắn sống sót sau cuộc chiến, và
hiện nay cô ấy đã xuống tóc đi tu. Không chỉ vậy, tập bút ký "Vào chùa gặp lại" của nhà văn còn điểm
mặt tới hơn ba chục người. Họ đều là những gương mặt đã từng tham gia kháng chiến trong sự nghiệp
giải phóng nước nhà. Mỗi người đều là những chiến sĩ, họ khoác lên mình bộ quân phục màu xanh,
đeo những chiếc bô lô to lớn, nặng nề, mỗi người lại được giao những nhiệm vụ khác nhau trên những
chiến trường khác nhau. Cả thanh xuân dùng để phục vụ, để cống hiến, có lẽ bời vì thế mà khi hòa
bình, tự do được lập lại, đã có không ít cô gái đã qua cái thời thanh xuân tươi đẹp nhất. Họ chẳng còn
nghĩ ngợi tới chuyện vợ chồng, hoặc có những trường hợp, người thương của những quân nhân nữ ấy
đã bỏ mạng trên chiến trường, vì thương, vì nhớ, mà họ chẳng đành bước tiếp. Nhưng có lẽ nguyên
nhân chủ yếu xuất phát từ vết thương do chiến tranh để lại, đã có không ít các chiến bị bị nhiễm chất
độc màu da cam. Đó quả thật là sự đau đớn tột cùng đối với những nữ quân nhân, họ lo sợ rằng, khi
kết hôn, cưới chồng rồi sinh con, con của họ sẽ gặp nguy hiểm, sẽ chẳng được lành lặn, vậy nên đa
phần các cô gái khi trở về hoặc sống một mình cả phần đời còn lại, hoặc cạo tóc đi tu, làm người con
của Phật. Trông cuốn bút kí này, Minh Chuyên đã dành rất nhiều trang sách để kể về sư thầy Lương
Thị Thân- một cô gái xinh đẹp, quê ở Thái Bình, là người có học vấn cao, khi tham gia chiến đấu cô
từng là sĩ quan công tác trong trạm quân y, sau đó được điều sang phục trách trạm xá. Cô có một
khoảng thời gian dài hoạt động cách mạng, nhưng cũng như bao người đồng đội khác, số lần cô cận kề
với cái chết không thể mang ra đếm được. Sau đó khi đã phục viên, Lương Thị Thân đã trở về quê nhà,
rồi tìm tới của Phật, quyết định xuống tóc đi tu. Cũng đã từng có một lần, có một người đàn ông đã tìm
tới tận chùa để xin cưới hỏi và khuyên bảo cô trở về. Dù người đó có năn nỉ như thế nào, nhưng cô
nhất quyết không đồng ý bởi "là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống. Nó
thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả năng...
Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lỏng
Thân mới bớt nỗi sầu đau.”
- Chi tiết người thật việc thật và yếu tố phi hư cấu:
+ Chi tiết mở đầu, tình huống nhân vật tôi gặp lại người nữ y sĩ tại chùa Đông Am, xã Quảng Bình,
huyện Kiến Xương.
+ Chi tiết Thân theo đoàn xe chở bộ đội về Lao Bảo – Quảng Trị ngày 12-2-1975, rồi đoàn xe trúng
bom địch, Thân bị thương và nằm điều trị.
- Ý nghĩa triết lí nhân sinh: sự chịu đựng gian khổ, kiên cường, dũng cảm, lạc quan; giàu đức hi sinh,
sống nhân hậu,...
- Thông tin về tác giả:
+ Nhà văn Minh Chuyên có tên khai sinh là Nguyễn Minh Chuyên.
+ Minh Chuyên sinh năm tại tỉnh Thái Bình.
+ Là hội viên của Hội nhà văn Việt Nam năm 1993
+ Tác phẩm chính: Di họa chiến tranh (tập bút ký, 1998); Nỗi kinh hoàng (tập ký, 2004); Hậu chiến
Việt Nam (tập ký, 2004, 2005), Cha con người lính (tập kịch bản, 2006); Kịch bản truyền hình (tập
kịch văn học, 2007); Những linh hồn da cam (tập ký 2008); Linh hồn Việt Cộng (tập ký 2009), Điểm
tựa cuộc đời (tập truyện ký, 1997);…
2. Đọc hiểu
* Nội dung chính: Tác phẩm “Vào chùa gặp lại” kể về cuộc gặp gỡ giữa tác giả Minh Chuyên và sư
thầy Đàm Thân về những chuyện của cuộc kháng chiến gian khổ đã để lại và những suy tư trong lòng
của nhân vật truyện.

* Trả lời câu hỏi giữa bài


Câu 1. (trang 62 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Chú ý các thông tin cụ thể về người thật, việc thật được
miêu tả ở phần 1.
Trả lời:
Thông tin cụ thể về người thật, việc thật: chùa Đông Am, xã Quảng Bình, huyện Kiều Xương. Ngôi
chùa có sư Đàm Thân.
Câu 2. (trang 62 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Sư Đàm Thân kể lại chuyện gì về "một thời đã qua" ở
chiến trường?
Trả lời:
Sư Đàm Thân kể lại chuyện gì về "một thời đã qua" ở chiến trường Quảng Trị.
Câu 3. (trang 63 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Câu chuyện ở chiến trường hơn hai mươi năm trước của
nữ quân y Lương Thị Thân có gì đặc biệt?
Trả lời:
Câu chuyện ở chiến trường hơn hai mươi năm trước của nữ quân y Lương Thị Thân đặc biệt ở chỗ:
Sau khi trở về mong ước của cô là phó thác cuộc đời nơi Tam Bảo.
Câu 4. (trang 64 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Chú ý phân biệt lời nhân vật (sư Đàm Thân) và lời người
kể chuyện xưng “tôi” trong phần 2.
Trả lời:
- Lời nhân vật: Ngôi chùa đầu tiên mở cửa đón Thân là chùa Đông Chú, Kiến Xương. Nhiệm vụ của
Thân là vừa làm công việc của một chú tiểu, vừa lo săn sóc, nuôi dưỡng bác Trần Diệu Tánh bị tàn tật
do di chứng nhiễm chất độc màu da cam, chân tay co quắp, liệt toàn thân....
- Lời người kể chuyện xưng “tôi”: Khi trao đổi với Ủy ban Mặt trận huyện Kiến Xương, tôi mới hay:
Sở dĩ Đông Am là chùa gương mẫu vì sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo bá đạo len lỏi vào
chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt
mã, gọi hồn,...
Câu 5. (trang 65 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Những việc làm tốt đời, đẹp đạo của sư Đàm Thân là gì?
Trả lời:
Những việc làm tốt đời, đẹp đạo của sư Đàm Thân là:
- Ở chùa, vừa lễ Phật, vừa cầu kinh, vừa xốc vác cùng mọi người tu sửa, cải tạo, mở mang, biến một
ngôi chùa vốn hoang tàn thành ngôi chùa sạch cỏ, đỏ nhang.
- Sư về làm trụ trì, chùa Đông Am liên tục đoạt danh hiệu chùa "Bốn gương mẫu". Sở dĩ được vậy là
vì: "sư thầy Đàm Thân không để các tạp giáo, bá đạo len lỏi vào chùa. Không lợi thế cửa Phật để làm
những điều nhảm nhí, mê tín, đồng bóng, xóc thẻ, yểm bùa, đốt mã, gọi hồn,..."
Câu 6. (trang 66 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Tình huống bất ngờ ở đây là gì?
Trả lời:
Tình huống bất ngờ ở đây là Quân vốn tưởng đã chết, nay lại xuất hiện trước mặt sư và anh còn sống.
Câu 7. (trang 66 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Nhân vật Hồng Quân đã kể lại chuyện gì?
Trả lời:
Nhân vật Hồng Quân đã kể lại chuyện chiến trường nơi anh làm nhiệm vụ, lí do anh còn sống và đến
bây giờ mới trở về.
Câu 8. (trang 67 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hình dung về tình cảm và thái độ của nhân vật Thân sau
khi nghe Quân kể.
Trả lời:
Về tình cảm và thái độ của nhân vật Thân sau khi nghe Quân kể: mừng vì anh còn sống, thương vì cô
không thể chăm lo phần đời con lại của Quân.
Câu 9. (trang 67 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Vì sao Thân từ chối lời cầu khẩn của Quân?
Trả lời:
Thân từ chối lời cầu khẩn của Quân phần vì giữ đạo, phần vì cô không còn khả năng... do ảnh hưởng
của chất độc màu da cam và vết thương cột sống. Cô biết mình không thể đem lại tương lai và hạnh
phúc cho Quân, chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật, lòng cô mới bớt nỗi sầu đau.
Câu 10. (trang 68 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hành động nào của Quân khiến người đọc bất ngờ?
Trả lời:
Hành động của Quân khiến người đọc bất ngờ là việc anh xuất gia, đi tu ở chùa Bình Dương.
Câu 11. (trang 66 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hình dung về sư Đàm Thân qua những lời kể của tác giả.
Trả lời:
Hình dung về sư Đàm Thân: giàu đức hi sinh, sống nhân hậu,...
* Trả lời câu hỏi cuối bài
Câu 1. (trang 69 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Văn bản trên có những nhân vật nào? Nhân vật chính là ai?
Trả lời:
Văn bản trên có những nhân vật là: nhân vật "tôi", sư Đàm Thân, chàng trai tên Quân, Vũ Thị Bích.
Trong đó nhân vật chính là sư Đàm Thân.
Câu 2. (trang 69 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Nhân vật “tôi” gặp lại người nữ quân y trong tình huống
nào? Ý nghĩa của tình huống ấy là gì?
Trả lời:
Nhân vật “tôi” gặp lại người nữ quân y sau hơn hai mươi năm, cuộc gặp gỡ bất ngờ này diễn ra ở chùa
Đông Am.
→ Ý nghĩa của tình huống này là: thể hiện sự biết ơn của nhân vật tôi khi vẫn nhớ đến nữ y sĩ được coi
là "bồ tát" nhân từ, từ đó cho thấy tấm lòng và nhân cách tốt đẹp của nhân vật “tôi”.
Câu 3. (trang 69 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phân tích hình tượng nhân vật Đàm Thân. Tác giả thể hiện
thái độ, tình cảm như thế nào đối với nhân vật này? Dẫn ra một số câu văn chứng tỏ điều đó.
Trả lời:
Thái độ, tình cảm của tác giả đối với nhân vật chính - Đàm Thân là thái độ tôn trọng và yêu mến. Điều
này được thể hiện qua một số chi tiết như:
+ Nhân vật tôi luôn coi Đàm Thân như vị "bồ tát" nhân từ.
+ Chi tiết "Nhìn bóng Đàm Thân khuất sau... tôi chợt nhớ lời nhà sư nói về sự linh ứng của kinh Pháp
hoa, và cứ mường tượng như thể mình đã nhìn thấy hoa của lòng người."
Câu 4. (trang 69 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Chỉ ra một số chi tiết cho thấy sự kết hợp giữa yếu tố hư
cấu và phi hư cấu trong văn bản Vào chùa gặp lại. Phân tích tác dụng của sự kết hợp đó đối với việc
thể hiện nội dung, ý nghĩa của văn bản?
Trả lời:
Một số chi tiết cho thấy sự kết hợp giữa yếu tố hư cấu trong văn bản Vào chùa gặp lại:
+ Một trong những lí do, khiến Đàm Thân quyết định xuất gia là do những giấc mơ ngày ở chiến
trường luôn luôn linh ứng.
Một số chi tiết cho thấy sự kết hợp giữa yếu tố phi hư cấu:
+ Ngày 12 tháng 2 năm 1975, máy bay địch bắn phá lên đỉnh dốc Chu Linh.
+ Thân về quê với 62% thương tật, hưởng chế độ thương binh 2/4.
→ Theo em, sự kết hợp này có tác dụng nhấn mạnh trong việc thể hiện nội dung, ý nghĩa của truyện.
Qua những chi tiết đo, ta có thể thấy được hiện thực khốc liệt của chiến tranh, tội ác của lũ bán nước
và cướp nước.
Câu 5. (trang 69 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Từ câu chuyện của các nhân vật trong văn bản, em suy nghĩ
gì về những hi sinh cao cả của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc?
Trả lời:
Từ văn bản, em cảm nhận một cách chân thực sự khốc liệt của chiến tranh, những mất mát, hi sinh của
thế hệ đi trước phải gánh chịu để có được độc lập, tự do như ngày hôm nay. Có thể thấy, tinh thần yêu
nước, trọng nhân nghĩa, khoan dung, sự cố kết, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào tư tưởng,
tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó các thành viên trong đại gia
đình các dân tộc Việt Nam. Bất luận trong hoàn cảnh nào, đã kết thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc
ta vượt lên mọi khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vẻ vang trong đấu tranh giải phóng dân tộc,
cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Câu 6. (trang 69 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Theo em, câu chuyện muốn truyền đạt tới người đọc thông
điệp nhân sinh gì? Điều đó còn có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống hôm nay?
Trả lời:
Theo em, câu chuyện muốn truyền đạt tới người đọc thông điệp nhân sinh về con người trong thời
chiến. Văn bản nói về sự hy sinh cao cả của những người quân nhân là phụ nữ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Chiến tranh kéo dài đã làm cho đất nước bị phá hủy nặng nề, không biết bao nhiêu người
đã bỏ mạng lại nơi chiến trường. Không chỉ có đàn ông con trai mới đi đánh giặc mà kể cả những
người phụ nữ cũng được tham gia chiến đấu, góp phần công sức nhỏ bé của mình vào sự tự do của đất
nước. Truyện không chỉ ca ngợi những tấm gương sáng chói đó mà còn muốn phê phán, tố cáo hành
động dã man và những hậu quả khung khiếp mà chiến tranh mang lại cho con người. Qua văn bản, tác
giả còn muốn gửi tới mọi người thông điệp về lòng yêu nước, về sự biết ơn với những thế hệ đi trước
đã hi sinh thân mình vì độc lập dân tộc. Điều đó vẫn còn có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống hôm
nay, là một thông điệp, một tư tưởng không bao giờ phai mờ.
“Vào chùa gặp lại” là một trong những tác phẩm tiểu biểu của nhà văn Minh Chuyên - người dành cả
cuộc đời để viết về hậu chiến. Văn bản nói về sự hy sinh mất mát của những người quân nhân là phụ
nữ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ. Chiến tranh đã làm tổn hại nặng nề về người và của,
nó kéo dài và khốc liệt đến nỗi hàng vạn nữ quân nhân cũng được huy động lại thành lập thành những
tiểu đôi, hành quân tiến vào chiến trường. Truyện ca ngợi sự hi sinh cao cả của những người phụ nữ
nhưng đồng thời cũng lên án, tố cáo tội ác của chiến tranh, của những kẻ xâm lược. Qua truyện, tác giả
gửi đến thế hệ trẻ, thông điệp về lòng yêu nước, sự biết ơn với những thế hệ đã hi sinh thân mình vì
độc lập dân tộc. Thông điệp này có giá trị đến mãi về sau. Nó dạy thế hệ trẻ phải biết ơn, cố gắng học
tập và rèn luyện phát triển đất nước đi lên, không phụ sự hi sinh của thế hệ ông cha đi trước đã đổ
xương máu để có được hòa bình.
Câu 1. Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Vào chùa gặp lại.
- Giá trị nội dung:
“Vào chùa gặp lại” nói lên những hy sinh mất mát của những người quân nhân là phụ nữ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ gian khổ. Chiến tranh đã làm tổn hại nặng nề về người và của, nó kéo dài và
khốc liệt đến nỗi hàng vạn nữ quân nhân cũng được huy động lại thành lập thành những tiểu đôi, hành
quân tiến vào chiến trường. Truyện ca ngợi sự hi sinh cao cả của những người phụ nữ nhưng đồng thời
cũng lên án, tố cáo tội ác của chiến tranh, của những kẻ xâm lược. Qua truyện, tác giả gửi đến thế hệ
trẻ, thông điệp về lòng yêu nước, sự biết ơn với những thế hệ đã hi sinh thân mình vì độc lập dân tộc.
Thông điệp này có giá trị đến mãi về sau. Nó dạy thế hệ trẻ phải biết ơn, cố gắng học tập và rèn luyện
phát triển đất nước đi lên, không phụ sự hi sinh của thế hệ ông cha đi trước đã đổ xương máu để có
được hòa bình.
- Giá trị nghệ thuật:
 Ngòi bút tài hoa, cảm nhận tinh tế
 Ngôn ngữ giàu chất trữ tình cùng nhiều hình ảnh so sánh độc đáo
 Khắc họa nhân vật chân thực
“Vào chùa gặp lại” là một trong những tác phẩm tiểu biểu của nhà văn Minh Chuyên - người dành cả
cuộc đời để viết về hậu chiến. Văn bản nói về sự hy sinh mất mát của những người quân nhân là phụ
nữ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ.
1. Tác giả
- Tiểu sử
 Nhà văn Minh Chuyên có tên khai sinh là Nguyễn Minh Chuyên.
 Minh Chuyên sinh năm tại tỉnh Thái Bình.
 Là hội viên của Hội nhà văn Việt Nam năm 1993
- Tác phẩm chính
 Di họa chiến tranh (tập bút ký, 1998); Nỗi kinh hoàng (tập ký, 2004); Hậu chiến Việt Nam (tập
ký, 2004, 2005);…
 Cha con người lính (tập kịch bản, 2006); Kịch bản truyền hình (tập kịch văn học, 2007); Những
linh hồn da cam (tập ký 2008); Linh hồn Việt Cộng (tập ký 2009), Điểm tựa cuộc đời (tập
truyện ký, 1997);…
2. Tác phẩm
- Thể loại: Kí
- Phương thức biểu đạt: Tự sự
- Hoàn cảnh xuất xứ của tác phẩm: Vào chùa gặp lại là những trang viết về người thật, việc thật: Sư
thầy Đàm Thân tên là Lương Thị Thân - một cô gái xinh đẹp quê Thái Bình tham gia cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước, trở thành một nữ quân y đường dây 559 Trường Sơn và từng bị thương, bị phơi
nhiễm chất độc màu da cam. Sau chiến tranh trở về quê hương, cô Thân vào chùa tu hành và làm việc
nghĩa vì không muốn để lại gánh nặng và nỗi đau cho gia đình. Văn bản chính là cuộc gặp gỡ giữa tác
giả với sư thầy Đàm Thân.
Câu 4. Phân tích tác phẩm Vào chùa gặp lại.
"Vào chùa gặp lại" của nhà văn Minh Chuyên nói về sự hy sinh mất mát của những người quân nhân
là phụ nữ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ. Chiến tranh đã làm tổn hại nặng nề về người và
của, nó kéo dài và khốc liệt đến nỗi hàng vạn nữ quân nhân cũng được huy động lại thành lập thành
những tiểu đôi, hành quân tiến vào chiến trường. Kết thúc cuộc chiến tranh, ở quê hương Thái Bình
của nhà văn Minh Chuyên, đã có một nữ quân nhân may mắn sống sót và trở về, đặc biệt cô gái ấy đã
không xây dựng cho mình một tổ ấm nhỏ mà đã đưa ra quyết định xuống tóc đi tu.
Đã từng có có phóng viên hỏi rằng: “Thưa nhà văn Minh Chuyên căn nguyên nào khiến ông suốt
một đời văn chỉ viết một đề tài hậu chiến?
Minh Chuyên đáp: “Mười năm công tác và chiến đấu tại chiến trường miền Đông Nam Bộ, sống
trong đạn bom, tôi chỉ bị thương mà không chết. Trong khi đó, đồng đội của tôi hầu hết đã hy sinh và
bị thương rất nặng. Tôi được hưởng cuộc sống hoà bình. Bạn bè và đồng đội tôi hầu hết không được
trở về. Những người được trở về thì thương tích đầy mình. Bệnh tật, thương tật và di chứng chiến tranh
đã biến họ thành những con người bất hạnh. Tôi dẫu có suốt đời viết về họ, ngợi ca hành động anh
hùng của họ và bênh vực họ khỏi những nỗi oan khiên cũng không bao giờ hết, không bao giờ trả hết
được ân nghĩa của đồng đội đã hết lòng vì nước, vì dân”. Thật vậy, Minh Chuyên đã chứng minh lời
nói đó qua hành động của mình, chỉ riêng trong bút ký "Vào chùa gặp lại", nhà văn đã điểm mặt tới
hơn ba chục người. Gồm những gương mặt đã có công rất lớn trong sự nghiệp nước nhà như sư bác Đỗ
Thị Vui, sư thầy Đào Thị Ngọc Hân, sư bác Nguyễn Thị Chiêm, sư thầy Vũ Thị Mừng, ni trưởng
Lương Đàm Thanh sư bác Bùi Thị My, sư bác Trương Thị Minh, sư thầy Nguyễn Thị Phương, sư thầy
Phạm Thu Thủy, sư thầy Đoàn Thị Hoa,…
Mỗi người là thành viên của một đơn vị, họ phụ trách trên những chiến trường khác nhau. Dù vậy
họ rất giống nhau khi đều là những chiến sĩ anh dũng, họ mạnh mẽ chiến đấu hết mình trên chiến
trường khắc nghiệt và đa số những con người ấy đều mang trong mình những dấu vết của chiến tranh
để lại, để ca ngợi công lao to lớn của những nữ chiến sĩ anh dũng ấy. Dành quá nửa thanh xuân cho đất
nước, có người vì quá lứa lỡ thì, nhan sắc đã dần phai mòn theo thời gian, hay chẳng còn quan tâm tới
chuyện hạnh phúc vợ chồng. Trong số đông, rất nhiều nữ quân nhân đã từng bị nhiễm chất độc màu da
cam, có lẽ phần lớn chính bởi lí do đấy mà khi nghĩ tới cảnh tượng lấy chồng rồi khi sinh ra những đứa
con dị dạng, là một người mẹ, họ sẽ đau lòng thế nào khi đứa trẻ mình mang nặng chín tháng mười
ngày sẽ là một gánh nặng cho gia đình và cho xã hội mà họ đã quyết định tìm đến cửa Phật. Vào chùa
họ xuống tóc trở thành một nữ tu, ngày ngày siêng năng kinh bổn, tu đắc đạo dù vậy trong lòng họ nào
đâu đã yên, họ vẫn tìm đủ mọi cách để giúp đời, giúp người. Họ tự nuôi sống mình, tự trồng trọt chăn
nuôi, giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh, khó khăn, cưu mang nuôi dưỡng những đứa bị bỏ rơi, bị trẻ
tàn tật, chăm sóc những người già không nơi nương tựa, …
Trong cuốn bút ký ấy, nhà văn dành rất nhiều trang sách để nói về sư thầy Lương Thị Thân - Thích
Đàm Thân – là một cô gái quê ở Thái Bình xinh đẹp, có học vấn tốt, từng là một sĩ quan công tác tại
trạm quân y, sau đó cô chuyển sang là người phụ trách trạm xá của trung đoàn 8. Đã không biết bao lần
cận kề với cái chết, nhưng lần đáng sợ khiến cô không thể quên được là khi Thân tham gia chiến đấu
trong chiến dịch Hồ Chí Minh, tháng 2 năm 1975. Trong khi cùng đoàn xe di chuyển từ Lao Bảo -
Quảng Trị về dốc Chu Linh thì bất chợt gặp máy bay địch đánh phá. Đoàn xe bị tổn hại nặng nề, bị
trúng bom, bốc cháy, rơi xuống vực. Còn Thân đã bị bất tỉnh cùng ba vết thương trên đầu, ở đầu gối và
cột sống.
Thân may mắn được cứu sống, được hai chiến sĩ đưa tới một trạm phẫu dã chiến, họ khiêng cô đi,
một trong hai người đã hiến máu cố. Nhưng biến cố ập tới khi hai chiến sĩ đó từ trạm phẫu trở về
doanh trại, họ gặp pháo bầy, cả hai đều đã hy sinh, khiến Thân cứ day dứt mà khóc thương.
Gia đình ở nơi đặt trạm phẫu họ rất sùng đạo Phật. Vì vậy khi nằm dưỡng thương. Thân đã có một
thời gian được nghe tiếng tụng kinh, ban đầu cô lẩm nhẩm học theo, với mong muốn cầu nguyện cho
vong linh hai người chiến sĩ cùng những đồng đội được yên nghỉ.
Khi phục viên trở về quê, Thân đã quyết định tìm đến cửa Phật, xuống tóc đi tu. Đã có một người
đàn ống tới hỏi cưới, nhưng cô chẳng đồng ý“ Thân chối từ mãi, Quân vẫn van vi, tha thiết khuyên cô
xa rời cõi hư vô về với tổ ấm gia đình” Vậy nên Thân chỉ đành “Nói rõ thân phận của mình, nói cái
điều mà cô chưa hề thổ lộ cùng ai. Đó là do hậu quả di chứng chất độc da cam và vết thương cột sống.
Nó thường xuyên làm nửa người phía dưới của Thân tê dại. Bác sĩ đã kết luận Thân không còn khả
năng... Thân không thể đem lại tương lai và hạnh phúc cho Quân được. Chỉ có ở nơi hư vô cửa Phật,
lỏng Thân mới bớt nỗi sầu đau.”
“Vào chùa gặp lại” là một trong những tác phẩm tiểu biểu của nhà văn Minh Chuyên- người dành
cả cuộc đời để viết về hậu chiến. Chỉ vì khai phá những vấn đề chưa có nhiều người đụng đến mà
không ít lần tác giả đã gặp nhiều hà, nhưng rồi công lý, lẽ phải đã thuộc về ông. Ông được nhân dân
ủng hộ ông, từ đó đã tạo cho ông nguồn động lực lớn để sáng tác thêm nhiều bút ký khác.
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
- Tên Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937.
- Quê quán: Huế.
- Quá trình hoạt động văn học, kháng chiến .
+ Ông học tại Huế hết bậc Trung học, tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Sài Gòn năm 1960 và
trường Đại học Huế năm 1964.
+ Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ
bằng hoạt động văn nghệ.
+ Ông từng là Tổng thư kí Hội văn học nghệ thuật Trị Thừa – Thiên, Chủ tịch Hội Văn học Bình Trị
Thiên, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt.
+ Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Phong cách nghệ thuật:
+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều
được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí…
+ Lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
2. Đọc hiểu
* Nội dung chính: Đoạn trích là hình ảnh của dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình đầy chất thơ khi ở
thượng nguồn đến khi về với thành phố Huế. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên với từng bước đi trong
cuộc hành trình trở về với xứ Huế thơ mộng. Và trong mỗi bước đi ấy, sông Hương như thay đổi, từ
một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại trở thành một bà mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở,
dịu dàng e ấp bên xứ Huế trữ tình. Qua đoạn trích, người đọc cũng có thể cảm nhận được tình yêu,
niềm tự hào tha thiết, sâu lắng mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho dòng sông quê hương, cho xứ
Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.

* Trả lời câu hỏi giữa bài:


Câu 1 (trang 69 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phần 1 miêu tả sông Hương ở đâu?
Trả lời:
Phần 1 miêu tả sông Hương ở thượng nguồn.
Câu 2. (trang 70 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Nhà văn đã hình dung về sông Hương như thế nào trước
khi nó chảy qua thành phố Huế?
Trả lời:
Nhà văn đã hình dung về sông Hương như một người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng
Châu Hóa đầy hoa dại.
Câu 3. (trang 71 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Đặc điểm của sông Hương khi chảy trong lòng thành phố
Huế là gì?
Trả lời:
Lúc qua thành phố Huế, sông Hương trôi đi thực chậm, chảy lặng lờ như điệu slow. Sông Hương đã
trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trên sông vọng lại tiếng hát trong một khoang
thuyền nào đó. Sông Hương mang vẻ đẹp vừa trữ tình, vừa trầm mặc gắn liền với lịch sử bi tráng của
dân tộc mà trên thế giới không có dòng sông nào như thế. Và trước về với biển sông Hương lưu luyến
tình cảm với thành phố Huế ví như nỗi vấn vương của nàng Kiều với Kim Trọng.
Câu 4. (trang 71 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Chú ý các chi tiết thể hiện tình cảm, cảm xúc của nhân vật
“tôi”
Trả lời:
Các chi tiết thể hiện tình cảm, cảm xúc của nhân vật tôi:
- Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grat đã đánh thức
trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại, ôi, tôi muốn làm một con chim nhỏ đứng co một chân
trên con tàu thủy tinh để đi ra biển.
- ...chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố...
Câu 5. (trang 72 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Nét độc đáo của sông Hương sau khi rời khỏi kinh thành
Huế là gì?
Trả lời:
Nét độc đáo của sông Hương sau khi rời khỏi kinh thành Huế là dòng sông không chảy qua tỉnh khác
luôn mà đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố ở góc thị trấn Bao Vinh
xưa cổ.
Câu 6. (trang 73 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Sông Hương hiện lên như thế nào quan các thời kì lịch sử?
Trả lời:
Sông Hương là chứng nhân lịch sử, gắn bó với mọi biến cố của Huế (dòng sông biên thùy thời vua
Hùng, dòng sông viễn châu oanh liệt thời trung đại, dòng sông vẻ vang thời Nguyễn Huệ, dòng sông bi
tráng thời kì cách mạng tháng Tám).
Câu 7. (trang 74 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Chú ý các biện pháp nghệ thuật mà tác giả sử dụng để khắc
họa sông Hương.
Trả lời:
Các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, liệt kê.
Câu 8. (trang 74 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Ở đoạn cuối này, sông Hương đã được nhìn nhận từ khía
cạnh nào?
Trả lời:
Ở đoạn cuối này, sông Hương đã được nhìn nhận từ khía cạnh thơ ca.
* Trả lời câu hỏi cuối bài:
Câu 1. (trang 74 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Nhận xét về nhan đề Ai đã đặt tên cho dòng sông và nêu bố
cục bài viết.
Trả lời:
Nhan đề là một câu hỏi, đây là một nét độc đáo rất riêng của nhà văn, nhằm hướng người đọc biết về
nội dung tác phẩm đó là “đi tìm nguồn gỗ của dòng sông Hương”, qua đó nhấn mạnh đến vẻ đẹp huyền
thoại của dòng sông Hương, thể hiện lòng biết ơn đến những con người khai phá vùng đất ấy.
Câu 2. (trang 74 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy chỉ ra đặc điểm và vẻ đẹp của hình tượng sông Hương
trong văn bản trên theo bảng sau:

Góc nhìn Đặc điểm Vẻ đẹp

Địa lí Sông Hương ở thượng nguồn

Sông Hương trước khi chảy qua thành phố Huế.

Sông Hương giữa lòng thành phố Huế

Sông Hương trước khi từ biệt thành phố Huế

Lịch sử

Thơ ca

Trả lời:

Góc nhìn Đặc điểm Vẻ đẹp

Địa lí Mang vẻ đẹp hùng vĩ và rầm rộ giữa Sông Hương vùng thượng
bóng cây đại ngàn. Sông Hương lúc nguồn mang vẻ đẹp mãnh liệt,
Sông Hương ở
mãnh liệt qua những ghềnh thác, lúc trở hoang dại và bí ẩn nhưng
thượng nguồn
nên dịu dàng giữa những dặm dài chói cũng có lúc dịu dàng và say
lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. đắm.

Sông Hương vẫn còn dư vang của


Sông Hương trước Trường Sơn với sắc nước xanh thẳm,
Sông Hương mang vẻ đẹp thơ
khi chảy qua thành mềm như tấm lụa, với những chiếc
mộng và trữ tình.
phố Huế thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con
thoi.

Sông Hương giữa chuyển dòng một cách liên tục, uốn Sông Hương mang vẻ đẹp
lòng thành phố Huế mình theo những đường cong thật tình tứ, duyên dáng, vui tươi.
mềm. Sông Hương đã trở thành một
người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe
nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân
khấu nhà hát.

Sông Hương trước Đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng
Vẫn mang trong mình vẻ đẹp
khi từ biệt thành phố đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở
duyên dáng, dịu dàng.
Huế góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.

Là chứng nhân lịch sử, chứng


Lịch sử
kiến mọi biến cố của Huế.

Sông Hương là cái nôi của âm


Thơ ca
nhạc Huế.

Câu 3. (trang 75 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Qua việc khắc hoạ hình tượng sông Hương, nhà văn thể
hiện tình cảm, thái độ gì đối với quê hương, xứ sở?
Trả lời:
Sông Hương khi chảy vào thành phố có nét đẹp riêng:
- Nếu ở trên, người đọc cảm nhận phần nào vẻ đẹp man dại, dịu dàng, trầm mặc của con sông, thì giờ
đây con sông được khám phá, phát hiện ở sắc thái tâm trạng. Sông Hương gặp thành phố như đến với
điểm hẹn tình yêu, trở nên vui tươi và đặc biệt chậm rãi, êm dịu, mềm mại.
- Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận
tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đến bất ngờ, lý thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông. Đó
là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ, đắm đuối", “chiếc cầu trắng ở thành phố in ngần trên nền trời,
nhỏ nhắn như một vầng trăng non", sông Hương “uốn một cành cũng rất nhẹ sang cồn Hiến", đường
cung ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng" không nói ra của tình yêu, “nghìn ánh
hoa đăng bồng bềnh" làm dòng sông thêm lộng lẫy, con sông ngập ngừng như có “những vấn vương
của một nỗi lòng, không nỡ rời xa thành phố...". Quả đúng như câu thơ của Thu Bồn:
Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
-> Tác giả dành tình cảm yêu mến đặc biệt cho con sông này, thấu hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp của
dòng sông.
Câu 4. (trang 75 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy chỉ ra và làm sáng tỏ đặc điểm tuỳ bút thể hiện qua văn
bản này (cái “tôi” độc đáo sự kết hợp tự sự và trữ tình, ngôn ngữ giàu chất thơ).
Trả lời:
Tác dụng của sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong việc khắc hoạ hình tượng sông Hương và
thể hiện cảm xúc của nhân vật “tôi” được thể hiện rõ nét qua đoạn văn tiêu biểu trong văn bản miêu tả
lại vẻ đẹp của con sông Hương từ khi ở Thượng Nguồn đến khi chảy qua Huế.
+ Việc miêu tả sông Hương ở nhiều phương diện đã cho thấy sự quan sát tinh tế và tình yêu thương
của tác giả với nơi đây.
+ Chất trữ tình được vận dụng rõ nét bởi sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người.
Câu 5. (trang 75 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Qua văn bản, người viết gửi đến bạn đọc thông điệp gì?
Hãy nêu lên giá trị văn hoá mà em hiểu được từ văn bản.
Trả lời:
Tác giả đã tô đậm cho con sông Hương ấy bao nét thơ thật dịu dàng, thơ mộng mà hoang dã, đa tình,
lịch lãm và cổ kính. Từ góc độ văn hóa truyền thống lịch sử tác giả cũng đã khắc họa sông Hương với
nét tính cách đăc biệt qua đó cũng tái hiện lại cho bạn đọc những hình ảnh trong lịch sử và gắn liền với
những phẩm chất rất riêng của người Huế. Mà đặc biệt hơn là vẻ đẹp của người con gái Huế luôn nhẹ
nhàng, bay bổng mà rất đằm thắm.
Câu 6 (trang 75 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Văn bản đem lại cho em suy nghĩ gì trong việc nhìn
nhận vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên quê hương mình? Hãy viết về một cảnh đẹp của quê hương
em bằng một đoạn văn (khoảng 10 – 12 dòng).
Trả lời
- Đọc văn bản "Ai đã đặt tên cho dòng sông" đã khiến em suy nghĩ đến vẻ đẹp của thiên nhiên quê
hương mình và tầm quan trọng của việc đặt tên cho những địa danh tự nhiên. Một tên gọi thích hợp
không chỉ giúp những địa danh đó dễ nhớ và dễ tìm kiếm mà còn giúp gợi lên những cảm xúc đặc biệt
khi ngắm nhìn.
Đoạn văn tham khảo
- Mẫu 1:
Tuyên Quang - quê hương em là một vùng đất rộng lớn với nhiều cảnh quan đa dạng và đẹp mê hồn.
Một trong những cảnh đẹp mà em yêu thích nhất ở đây chính là thác Na Hang. Khi đến thác Na Hang,
chúng ta sẽ được chứng kiến những dòng nước trong vắt cùng với những cánh rừng xanh bát ngát
khiến mình cảm thấy như đang đứng giữa thiên nhiên hoang sơ và yên bình. Những vách đá trùng điệp
như xây chắc vững giữa dòng nước, mỗi giọt nước rơi xuống vực thẳm đều tạo ra âm thanh tuyệt vời
như một dàn nhạc thiên nhiên. Những thác nước cao, nhìn mãi không thấy đỉnh. Đứng phía dưới ngắm
lên, những thác nước như những giọt nước mắt không lồ của trời cao đang chảy xuống. Bầu trời trong
xanh và nắng rọi tràn ngập tạo nên cảnh tượng tuyệt đẹp khiến em muốn đắm chìm vào đó mãi mãi.
Cảm giác thích thú và hạnh phúc khi được đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của quê
hương mình luôn là điều mà em không thể quên được.
- Mẫu 2:
Quê hương em là một thành phố nhỏ nhưng rất rực rỡ và đầy màu sắc với rất nhiều cảnh đẹp. Cứ mỗi
dịp lễ là nơi đây lại rộn ràng tấp nập bởi du khách bốn phương đến ghé thăm. Nơi tạo nên sức hút ấy
chính là bãi biển tuyệt đẹp mang tên bãi biển Đồ Sơn. Nơi đây là một vùng biển rộng và thoáng đãng.
Cũng như những vùng biển khác, ở Đồ Sơn có bãi cát vàng mịn trải rộng, có dòng nước biển xanh
trong vắt, mát lạnh, có những hàng cây xanh mướt mắt chạy dọc theo bờ cát. Nhưng chỉ như thế thì
vẫn chưa phải là tất cả. Du khách đến với bãi tắm còn là để chiêm ngưỡng bãi đá thú vị ở nơi đây. Dọc
theo bãi cát vàng đến xuống dưới nước biển, là rất nhiều những tảng đá, mỏm đá với hình thù khác
nhau nằm rải rác. Những tảng đá ấy tạo nên một thạch trận kì quái cho mọi người leo trèo, chụp ảnh.
Chính chúng đã tạo nên sức hút kì thú cho vùng biển này. Em rất yêu thích bãi biển của quê hương
mình. Bởi nhờ nó mà quê hương em có một dấu ấn trong lòng du khách tứ phương, và nó cũng giúp
cho kinh tế địa phương thêm phần phát triển hơn.
- Giá trị nội dung
 Đoạn trích là hình ảnh của dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình đầy chất thơ khi ở thượng
nguồn đến khi về với thành phố Huế. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên với từng bước đi trong
cuộc hành trình trở về với người tình thơ mộng. Và trong mỗi bước đi ấy, sông Hương như
trưởng thành, thay đổi, lớn lên để từ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại trở thành một
bà mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở
 Qua đoạn trích, người đọc cũng có thể cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng
mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là
cho đất nước.
- Giá trị nghệ thuật
 Sông Hương được tái hiện bằng một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý và văn
chương của tác giả.
 Những cảm xúc sâu lắng cùng văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa đã tạo nên sức
hấp dẫn của đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Đoạn trích là hình ảnh của dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình đầy chất thơ khi ở thượng nguồn đến
khi về với thành phố Huế. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên với từng bước đi trong cuộc hành trình trở
về với xứ Huế thơ mộng. Và trong mỗi bước đi ấy, sông Hương như thay đổi, từ một cô gái Di-gan
phóng khoáng và man dại trở thành một bà mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, dịu dàng e ấp bên
xứ Huế trữ tình. Qua đoạn trích, người đọc cũng có thể cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào tha thiết,
sâu lắng mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là
cho đất nước.
THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT
Câu 1. (trang 75 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Từ già trong các ngữ cảnh sau mang nghĩa gì? Hãy giải
thích nghĩa của từ già theo những cách khác nhau mà em biết.
a) Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ, một buổi tối ngồi nghe con
gái đọc “Kiều”: “Trong như tiếng hạc bay qua / Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”... (Hoàng Phủ
Ngọc Tường)
b) Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn,
và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên
rừng. (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
c) Càng thấy anh đứng yên, họ càng được ngắm, và càng cho là anh muốn pha trò như thế, nên
càng cười già! (Nguyễn Công Hoan)
Trả lời:
- Nghĩa của từ "già" trong các câu:
a. Ở từ lâu trong một nghề, một trạng thái nói chung.
b. Nhiều tuổi, đã sống từ lâu.
c. Dôi ra, trên một mức độ nào đó.
- Từ "già" có thể sử dụng theo nhiều nghĩa khác nhau:
+ Nếu là tính từ có thể hiểu là:
Nhiều tuổi, đã sống từ lâu, đã đi đến giai đoạn cuối của một chu kỳ sinh học.
Mang tính chất bên ngoài, hình thức của người đã sống từ lâu dù bản thân chưa nhiều tuổi.
Ở từ lâu trong một nghề, một trạng thái nói chung.
Nói hoa lợi để quá mức mới thu hoạch hoặc chưa thu.
Trên mức trung bình, mức vừa dùng, mức hợp lý.
+ Nếu là đại từ, có thể hiểu là: Từ thân mật người có tuổi tự xưng hoặc người chưa già gọi người có
tuổi.
Câu 2. (trang 75 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy giải thích nghĩa của từ say (hoặc yếu tố say trong từ
phức) trong các câu sau và cho biết trong mỗi trường hợp, từ được sử dụng với nghĩa gốc hay nghĩa
chuyển.
a) Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống
điếu, mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thủ giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu
mạnh cũng nghe như lòng mình say sưa một cái gì đó — có lẽ là sự sống! (Vũ Bằng)
b) Ngoài đường, người ta cũng không còn bị chói mắt hay say lòng vì những áo nhung trơn mướt,
những giày kinh xoè cánh phượng bay hay những dải khăn “san” khéo biết lựa màu bay đùa trước gió
như thể tơ trời vậy. (Vũ Bằng)
c) Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn,
và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên
rừng. (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
d) Đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say. Và hắn say thị lắm. (Nam Cao)
Trả lời:
a. Từ say ở đây là từ chỉ trạng thái bị ngây ngất, choáng váng, nôn nao do tác động của rượu, thuốc hay
các yếu tố có tác dụng kích thích. Đây là nghĩa gốc của từ say.
b. Từ say ở đây là từ chỉ trạng thái yêu thích một điều gì đó, có thể là con người, hoặc sự vật... Đây là
nghĩa chuyển của từ say.
c. Từ say ở đây là từ chỉ sự yêu thích đến mức như chìm sâu vào, không còn biết gì đến cái khác, đến
xung quanh nữa. Đây là nghĩa chuyển của từ say.
d. "người say": từ chỉ một sự vật nhận được sự yêu thích của người khác.
"say": từ chỉ trạng thái yêu thích một điều gì đó.
=> Cả hai nghĩa trên đều là nghĩa chuyển.
Câu 3. (trang 76 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy trình bày và sắp xếp lại các tài liệu tham khảo dưới
đây cho đúng.
Trần Đình Sử, Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Bút kí sử thi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Văn
nghệ, số 7, năm 1987.
Mai Văn Hoan (2010), Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương, báo Đà Nẵng, số ra ngày 21 tháng 3.
Phạm Xuân Dũng, Phái đẹp trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, báo Quảng Trị, số ra ngày 7 tháng 11,
năm 2009.
Trần Thủy Mai (2002), Kí văn hoá của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Sông Hương, số 161 tháng 7.
Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hồ Thế Hà, Thông điệp thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Sông Hương, số 161, tháng 7, năm 2002.
Trả lời:
Trần Đình Sử, Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Bút kí sử thi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Văn
nghệ, số 7, năm 1987.
Mai Văn Hoan (2010), Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương, báo Đà Nẵng, số ra ngày 21 tháng 3.
Phạm Xuân Dũng, Phái đẹp trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, báo Quảng Trị, số ra ngày 7 tháng 11,
năm 2009.
Trần Thủy Mai (2002), Kí văn hoá của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Sông Hương, số 161 tháng 7,
Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hồ Thế Hà, Thông điệp thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí Sông Hương, số 161, tháng 7, năm 2002.
Câu 4. (trang 76 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Tìm và sắp xếp 5 – 10 tài liệu tham khảo (bài viết, sách
nghiên cứu,...) phục vụ cho báo cáo nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du.
Trả lời:
1. Đào Duy Anh (1984), Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan hải tùng thư, Huế, Tái bản dưới tên Khảo
luận về Kim Vân Kiều, In lại trong Nguyễn Du - về tác gia và tác phẩm (1998), NXB Giáo dục, HN.
2. Đào Duy Anh (1984), Từ điển Truyện Kiều, NXB Khoa học xã hội, HN. Đào Duy Anh (2009) (tái
bản, Phan Ngọc hiệu đính), Từ điển Truyện Kiều, NXB Giáo dục, HN.
3. Nguyễn Ngọc Bích (2008), Tìm hiểu tín hiệu thẩm mỹ “hoa” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
trên ba bình diện: kết học, nghĩa học, dụng hoc, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP HN, HN.
4. Lê Nguyên Cẩn (2007), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc độ văn hóa, NXB Giáo dục, HN.
5. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội
1. Định hướng
1.1 Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội là ghi lại những kết quả đã nghiên cứu
được về một đề tài thuộc lĩnh vực tự nhiên (vật lí, hóa học, sinh học,...) hoặc xã hội (văn học, lịch sử,
chính trị, văn hóa,...) mà em quan tâm.
Đọc bản tóm tắt sau và tìm hiểu cách trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu các câu hỏi bên dưới:
- Bản tóm tắt cho biết nội dung chính của báo cáo là gì?
- Nội dung nghiên cứu gồm những gì?
- Kết quả nghiên cứu được thể hiện qua các đề mục nào?
- Việc đưa các biểu đồ vào báo cáo nhằm mục đích gì?
Trả lời:
- Văn bản trên gồm 4 phần:
Tóm tắt: Nêu tên đề tài/ nhan đề báo cáo Bảo tồn đa dạng sinh học chim ở một số khu bảo tồn vùng
Đông Bắc Việt Nam và tóm tắt mục tiêu, phương pháp, phạm vi nghiên cứu.
Mở đầu: Nêu vấn đề nghiên cứu; Nêu lí do thực hiện nghiên cứu; Nêu nhiệm vụ, câu hỏi, phương pháp
và phạm vi nghiên cứu, trích dẫn nguồn tài liệu tham khảo
Nội dung nghiên cứu: Nêu cơ sở lý luận, trình bày kết quả khảo sát và lí giải, phân tích ý nghĩa của các
dữ liệu, đề xuất giải pháp dựa trên kết quả khảo sát thực trạng.
Kết luận: Tóm tắt kết quả nghiên cứu và trình bày danh mục tài liệu tham khảo.
- Nội dung nghiên cứu gồm:
+ Về điều kiện học tập trực tuyến.
+ Về các hoạt động học tập của học sinh trong thời gian học trực tuyến.
+ Về hiệu quả của hoạt động trực tuyến.
- Kết quả nghiên cứu được thể hiện qua các đề mục:
+ Điều kiện học tập trực tuyến: thiết bị học tập và đường truyền internet, kĩ năng sử dụng công nghệ
thông tin và kĩ năng học tập trực tuyến của học sinh.
+ Thực trạng học tập trực tuyến: thời lượng học, các môn học trực tuyến, hoạt động học trực tuyến của
học sinh.
+ Khó khăn gặp phải trong quá trình học trực tuyến.
+ Hiệu quả học tập trực tuyến.
- Việc đưa các biểu đồ vào báo cáo nhằm mục đích: tăng tính khoa học, dễ nhìn, rõ ràng.
1.2. Để viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội, các em cần lưu ý:
- Tiến hành tự nghiên cứu (hoặc lập nhóm nghiên cứu) theo quy trình: xác định đề tài nghiên cứu (ở
đây là một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội mà em quan tâm hoặc thích tìm hiểu), tìm hiểu lịch sử nghiên
cứu vấn đề, xác định mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu: xác định phương pháp nghiên cứu:
thu thập, lựa chọn và dọc các tài liệu tham khảo có liên quan; tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi hoặc
trực tiếp phỏng vấn về thực trạng của vấn đề (nếu cần), phân tích, xử lí số liệu, thu thập, phân tích,
nhận xét thông tin để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, tổng hợp kết quả nghiên cứu.
- Xây dựng dàn ý (đề cương) của báo cáo nghiên cứu.
- Viết báo cáo nghiên cứu dựa trên dàn ý đã lập.
- Ngoài dàn ý và cách trình bày báo cáo như trường hợp đã nêu ở ý I.1. mục I. Định hướng, có thể
trình bày theo các cách khác, nhưng cần nhân mạnh những những kết quả nghiên cứu mới về vấn đề,
trích dẫn các nguồn tư liệu một cách đầy đủ, đúng quy định. Phần cuối báo cáo nêu rõ các tài liệu tham
khảo.
2. Thực hành
2.1. Thực hành viết theo các bước
Bài tập: (trang 78 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Em hãy thay mặt nhóm để viết báo cáo nghiên cứu về
vấn đề tác động của việc sử dụng mạng xã hội đến tình hình học tập của học sinh trường em.
a. Chuẩn bị
- Đọc kĩ đề bài, xác định vấn đề cần nghiên cứu và viết báo cáo nghiên cứu.
- Tiến hành nghiên cứu theo quy trình đã nêu ở ý 1.2, mục 1. Định hướng.
- Xác định bố cục của báo cáo nghiên cứu cần viết. - Tập hợp các nội dung chính đã nghiên cứu (kết
quả nghiên cứu).
- Chuẩn bị các ngữ liệu (các trích dẫn, tài liệu tham khảo, tranh, ảnh, biểu đồ,... minh hoạ cho báo cáo.
b. Tìm ý và lập dàn ý
- Tìm ý cho báo cáo nghiên cứu bảng cách suy luận từ khái quát đến cụ thể theo sơ đồ sau:
- Lập dàn ý cho báo cáo nghiên cứu bằng cách lựa chọn, sắp xếp các ý theo bố cục ba phần:
c. Viết
- Viết báo cáo nghiên cứu theo dàn ý đã lập, chú ý giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, trình
bày kết quả một cách cụ thể, rõ ràng.
- Trong khi viết, kết hợp sử dụng chữ viết với các phương tiện khác như tranh, ảnh, sơ đồ, bảng biểu,
đường dẫn tới các trang web,... để trình bày kết quả nghiên cứu.
- Lập danh mục tài liệu tham khảo và trích dẫn thông tin từ các nguồn tài liệu tham khảo dùng quy
cách như đã nêu trong mục I. Định hướng.
- Dùng từ ngữ chính xác và viết đúng chính tả, ngữ pháp,...
* Bài viết mẫu tham khảo
Báo cáo nghiên cứu về vấn đề tác động của việc sử dụng mạng xã hội đến tình hình học tập của
học sinh trường
Tóm tắt:
Hiện nay, mạng xã hội trở thành một phương tiện phổ biến với những tính năng đa dạng cho phép
người dùng kết nối, chia sẻ, tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng, hiệu quả. Sư phát triển của
mạng xã hội ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của toàn xã hội, trong đó bao gồm cả học sinh. Qua
mạng xã hội, các em tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng, xong chưa có tính chọn lọc. Điều này
dẫn đến một bộ phận học sinh hiểu sai, không đúng về một vấn đề nào đó. Việc nghiên cứu đề tài này,
giúp chúng em có cái nhìn khách quan, toàn diện về nhiều khía cạnh để từ đó tìm kiếm những giải
pháp phù hợp giúp học sinh tránh xa được các tác động xấu của mạng xã hội....
1. Đặt vấn đề
1.1. Mục đích
- Tìm hiểu về lượng thời gian sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh.
- Tìm hiểu về mục đích sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh.
- Tìm hiểu về những tác động tích cực của mạng xã hội Facebook đối với học sinh.
- Tìm hiểu về những tác động tiêu cực của mạng xã hội Facebook đối với học sinh.
1.2. Nhiệm vụ
- Mô tả thực trạng sử dụng Facebook của học sinh (mục đích sử dụng, thời gian sử dụng, thời điểm sử
dụng, tần suất sử dụng, phương tiện truy cập,…)
- Phân tích ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội Facebook đến học tập của học sinh.
- Phân tích ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội Facebook đến đời sống của học sinh (các quan hệ
xã hội).
1.3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tác động của mạng xã hội Facebook đối với học sinh.
Phạm vi nghiên cứu: 560 học sinh.
Thời gian: Tháng 11 – Tháng 12 năm 2012.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại
Phương pháp đối chiếu so sánh
Phương pháp tổng hợp, hệ thống
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Vai trò, vị trí của mạng Facebook trong đời sống con người.
Facebook thật sự đã mang lại cho chúng tôi nhiều trải nghiệm thú vị và hứng thú. Facebook là nơi
chúng tôi có thể chia sẻ, cập nhật thông tin, hình ảnh, tán gẫu cùng bạn bè và tham gia vào các ứng
dụng giải trí. Vì thế, chúng tôi dành khá nhiều thời gian truy cập Facebook mỗi khi mở chiếc máy tính
của mình. Nhiều lúc, chúng tôi cảm giác khó chịu khi đường truyền internet chặn Facebook vì một lý
do nào đó. Qua đó, chúng tôi hiểu rằng, bản thân chúng tôi ít nhiều bị sự thu hút từ mạng xã hội
Facebook làm tác động và một số bạn khác cũng như vậy.
Vì thế, với tư cách là những cá nhân trực tiếp tham gia và đồng thời cũng là học sinh, chúng tôi xin
nghiên cứu vấn đề này để hiểu rõ hơn về mạng xã hội Facebook mà chúng tôi đang sử dụng, tìm hiểu
những tác động tích cực, tiêu cực của mạng xã hội Facebook đối với học sinh để từ đó điều chỉnh cách
sử dụng và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao các tác động tích cực đối với học sinh.
2.2 Thực trạng sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh
Kết quả khảo sát cũng đã phản ánh tỉ lệ cao học sinh tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook và hầu
như bất kì một bạn nào cũng có riêng ít nhất 1 tài khoản Facebook để tham gia chia sẻ, cập nhật thông
tin, hình ảnh và giao lưu kết bạn. Về mức độ thời gian tham gia sử dụng Facebook thì đa số các bạn đã
sử dụng Facebook trên 1 năm (481/541 bạn, chiếm 88,9%). Qua đó, phản ánh sự gắn bó lâu dài của
các bạn học sinh đối với Facebook. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, mạng xã hội Facebook có
nhiều tác động tiêu cực dễ gây ảnh hưởng đến người tham gia sử dụng.
2.3 Mục đích sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh.
2.3.1. Chia sẻ, cập nhật thông tin và hình ảnh:
Đây có thể coi là mục đích chính học sinh khi sử dụng Facebook vì chiếm đến 74,6% kết quả khảo sát.
Phần lớn học sinh sử dụng Facebook thay thế cho nhật ký truyền thống, với tính năng lưu trữ trực
tuyến.
2.2 Giao lưu, kết nối bạn bè:
Facebook là một không gian giao tiếp công cộng trực tuyến tạo liên kết dễ dàng, thuận tiện, nhanh nhất
giữa con người với nhau thông qua nhiều hình thức liên kết rộng rãi chứ không bị giới hạn không gian.
2.3. Giải trí:
Với hơn 500 nghìn ứng dụng giải trí hay, đa dạng và được đánh giá cao dành cho người sử dụng như:
Games, Poke, Calendar, Youtube, Free Messenger... Facebook được các bạn học sinh lựa chọn như một
nơi để giải tỏa căng thẳng sau những giờ học mệt mỏi. Họ có thể chơi game, trò chuyện với gia đình,
người thân, bạn bè.
2.4 Những tác động tích cực và tiêu cực của mạng xã hội Facebook đối với học sinh
2.4.1 Những tác động tích cực
Thông qua Facebook, các bạn đã có nơi để thể hiện mình và chia sẻ những điều khó nói cùng bạn bè.
Facebook tạo cho phần đông nhóm đối tượng khảo sát sự thoải mái về tinh thần khi được chia sẻ
những suy nghĩ về cuộc sống cá nhân hay các vấn đề xã hội. Facebook còn là một công cụ hữu hiệu để
thể hiện cá tính bản thân.
2.4.2 Những tác động tiêu cực
Sử dụng Facebook một cách thường xuyên (bất kì thời gian nào trong ngày, chiếm 34,9%). Tác động
tiêu cực lớn nhất mà nhóm đối tượng khảo sát cho thấy đó là việc tốn thời gian (chiếm 52,4%).
Khoảng thời gian sử dụng Facebook mỗi ngày từ 1 - 3 giờ đồng hồ và trên 3 tiếng đồng hồ chiếm đa số
câu trả lời trong cuộc khảo sát (41,3% và 30,2%). Bên cạnh đó, sinh viên khoa PR nhận thức được
những tác động tiêu cực đến tâm lý, sinh lý của bản thân do việc lạm dụng Facebook như: nghiện
Facebook dễ gây béo phì, ảnh hưởng đến thời gian, sức khỏe, công việc học tập và dễ bị ảnh hưởng bởi
những thói hư, tật xấu... Ngoài ra, cũng có một bộ phận nhỏ các sinh viên không biết mục đích sử dụng
Facebook là gì?. Tuy nhiên, vì sự rủ rê của bạn bè nên họ cũng tạo tài khoản để bắt kịp xu hướng.
Ngoài ra, 15,9% cho là Facebook không có bất kì ảnh hưởng tiêu cực nào đến bản thân đối tượng được
khảo sát
2.5 Các biện pháp nâng cao ảnh hưởng tích cực của mạng Facebook đối với học sinh
2.5.1 Biện pháp từ cá nhân.
- Mỗi cá nhân hãy tự hỏi xem bạn sử dụng Facebook để làm gì hay lí do đầu tiên để bạn quyết định
đăng kí một tài khoản Facebook là gì?
Tự hoạch định cho bản thân khung thời gian hợp lí, cân bằng được giữa công việc, học tập và giải trí.
Chỉ dành thời gian cho Facebook khi bạn thật sự rãnh rỗi hay muốn giải tỏa căng thẳng, mệt mỏi.
Mọi tác động của Facebook nảy sinh ra đều do ý thức của người sử dụng, nếu ý thức không tốt sẽ dẫn
đến những hành vi xấu. Vì thế, trước khi chia sẻ bất cứ nội dung gì lên Facebook, mỗi cá nhân phải
xem xét nó có hại gì cho ai hay không, đừng chỉ nghĩ đến lợi ích bản thân mà làm ảnh hưởng đến
người khác. Và đặc biệt, các bạn sinh viên phải có thái độ nghiêm túc trước mọi vấn đề.
- Biện pháp từ cộng đồng.
Nhà trường, gia đình cần có sự hướng dẫn, tư vấn, định hướng cho học sinh về việc sử dụng mạng xã
hội Facebook một cách có ít, mang lại hiệu quả tốt và ý thức được những nguy cơ tiềm ẩn của việc
chia sẻ thông tin cá nhân lên Facebook.
Các nhà quản lý các cấp, các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương nên tạo sân chơi giải trí lành
mạnh; giáo dục, tuyên truyền về những tác hại từ việc sự dụng mạng xã hội Facebook không đúng
cách. Từ đó, hướng các bạn sinh viên khoa PR, trường Đại học Văn Lang không nên quá lệ thuộc vào
mạng xã hội Facebook, giúp cho sinh viên xây dựng nhiều mối quan hệ trong xã hội để trau dồi những
kĩ năng giao tiếp, ứng xử.
Ngoài ra, xã hội cũng cần có những định hướng và giúp đỡ giới trẻ, đặc biệt là các bạn học sinh tham
gia vào các hoạt động thực tế, có ích cho bản thân và cộng đồng. Việc đẩy mạnh công tác giáo dục tư
tưởng chính trị, nâng cao tầm nhận thức của học sinh về các vấn đề chính trị, xã hội sẽ từng bước giúp
học sinh có được bản lĩnh vững vàng xử lý được những thông tin tiếp cận từ nhiều chiều khác nhau
3. Kết luận
Mạng xã hội Facebook căn bản là một phần của xã hội ngày nay. Nó đã, đang và sẽ mang đến cho cuộc
sống của con người ngày càng nhiều những tiện ích thú vị, tương tác cao cũng như sự tối đa hóa các
chức năng. Tuy nhiên, mạng xã hội Facebook cũng là nơi dấy lên những tiêu cực khiến nhiều người lo
lắng. Và chúng ta không thể đổ lỗi hoàn toàn cho mạng xã hội Facebook. Bởi lẽ, nó đơn giản chỉ là
một công cụ, một phương tiện được tạo ra để gắn kết mọi người trên toàn Thế giới. Nhưng chính
những người tham gia, sử dụng lại không hiểu đúng mục đích đó nên đã sà đà và lạm dụng quá mức
dẫn đến gây ra những sự việc không mong muốn. Tất cả là do hành vi và sự nhận thức ở cá nhân người
tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook.
Vì thế, mỗi học sinh nên hiểu rõ những biện pháp từ bản thân và cộng đồng để tham gia vào mạng xã
hội Facebook một cách tích cực nhất. Điều này sẽ giúp cho mỗi cá nhân nhận thấy Facebook hữu ích
hơn và có thể kiểm soát tốt những hoạt động “không tên” trên mạng xã hội Facebook. Ngoài ra, mỗi cá
nhân nên thể hiện trách nhiệm trong việc nâng cao tác động tích cực của mạng xã hội Facebook đối với
cộng đồng mạng.
Tài liệu tham khảo
1. Bài viết: "Nghiện" Facebook: Thực trạng đáng báo động ở giới trẻ! – Tác giả: TC
2. Bài viết: Ảnh hưởng của mạng xã hội đến thanh thiếu niên trong thời đại đa truyền thông. – Tác giả:
Lê Thị Dung – Mai Thanh Thảo.
3. Bài viết : 10 tác động của Facebook đến cuộc sống mọi người – Tác giả: Bảo Bình / Theo PCW
4. Bài viết : Báo động “văn hóa mạng xã hội” trong giới trẻ. Tác giả: Nguyễn Hoàng
5. Bài viết: Nhận diện những tác động tiêu cực của internet đối với giới trẻ.
6. Tác giả: PGS, TS BÙI THẾ DUY
d) Kiểm tra và chỉnh sửa
Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 5, phần Viết, mục d (trang 26); đối chiếu với dàn ý đề văn đã làm
ở bài này.
2 2. Rèn luyện kĩ năng: Cách trích dẫn trong bài viết
a) Cách thức
Trong một bài viết (bài văn nghị luận hoặc báo cáo nghiên cứu), người viết không chỉ nêu ý kiến, lí lẽ
của mình mà còn phải dẫn ra ý kiến của người khác hoặc tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau nhằm làm
tăng tính khách quan và làm cho nội dung của bài viết có sức thuyết phục cao hơn. Có hai cách trích
dẫn:
- Dẫn trực tiếp: nhắc lại nguyên văn ý kiến hoặc tư liệu và đặt những thông tin đó trong dấu ngoặc kép.
Ghi rõ nguồn trích dẫn (để ở trong ngoặc đơn hoặc nêu ở cước chú)
- Dẫn gián tiếp: thuật lại ý kiến hoặc tư liệu nhưng có điều chỉnh cho phù hợp và không đặt trong dấu
ngoặc kép. Ghi rõ nguồn trích dẫn (nếu có) như cách dẫn trực tiếp.
b) Bài tập
Bài tập 1: (trang 81 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Chỉ ra cách trích dẫn trong đoạn trích sau.
“Tại Việt Nam, hình thức học tập trực tuyến đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức, triển khai ngay
từ những ngày đầu ứng phó với dịch bệnh theo phương châm “Tạm dừng đến trường nhưng không
dừng học". Việt Nam đã thúc đẩy nhiều biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả dạy học trực tuyến cho
học sinh như: gửi công văn hướng dẫn dạy học qua Internet, qua truyền hình, điều chỉnh về nội dung
dạy học và ban hành khung pháp lí đảm bảo cho dạy học trực tuyến [3]. [4]. (5)...
(Theo Lê Anh Vinh và nhóm nghiên cứu)
Trả lời:
Cách trích dẫn trong đoạn trích là dẫn trực tiếp.
Bài tập 2: (trang 81 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy viết một đoạn văn trong phần “Khải quát về mạng
xã hội" theo sơ đồ đã nêu ở ý 2.1, mục "Thực hành", trong đó có ít nhất một trích dẫn cụ thể.
Trả lời:
Nghiên cứu lớn nhất về mặt định lượng về mạng xã hội phải kể đến “Mạng xã hội với thanh niên Việt
Nam – Thực trạng và giải pháp” do Trần Hữu Luyến là chủ nhiệm, dưới sự tài trợ của Quỹ Phát triển
Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Nafosted). Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu về mạng xã hội ở
khía cạnh truyền thông. Lê Minh Thanh (2010) qua phân tích tài liệu trên blog và các trang mạng xã
hội trực tuyến, trong đó tập trung vào hình thức và nội dung trong khoảng thời gian từ 2005-2010 đã
tìm ra những mặt tích cực, tiêu cực của truyền thông cá nhân trong thời đại internet. Hoàng Thị Hải
Yến vào năm 2012 với đề tài: “Trao đổi thông tin trên mạng xã hội của giới trẻ Việt Nam từ năm 2010
đến năm 2011 – thực trạng và giải pháp (khảo sát mạng Facebook, Zingme và Go.vn). Đề tài đã làm rõ
những vấn đề lý thuyết chung về mạng xã hội, nghiên cứu thực trạng trao đổi thông tin của giới trẻ
Việt Nam trên mạng xã hội từ năm 2010 – 2011 qua khảo sát thông tin và người dùng ở 3 trang mạng
xã hội Facebook, Zingme và Go.vn.
Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội
1. Định hướng
a) Bài 7 tập trung vào yêu cầu trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã
hội đáng quan tâm. Tuy nhiên, người trình bày không đọc lại toàn bộ báo cáo mà chỉ tóm tắt, trọng tâm
là nêu kết quả của những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra.
b) Khi trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội, các em cần chú ý:
- Lựa chọn vấn đề nghiên cứu đã nêu trong phần Viết.
- Nêu ngắn gọn, đẩy đủ các nội dung chính của báo cáo nghiên cứu.
- Xác định rõ thời lượng và người nghe báo cáo để có cách trình bày phù hợp.
- Chuẩn bị dàn ý cho phần trình bày ý kiến của bản thân, tránh viết thành văn để dọc; nên sử dụng các
phần mềm trình chiếu để làm tăng sức hấp dẫn và hiệu quả của bài báo cáo.
- Chuẩn bị các phương tiện như tranh, ảnh, video,... và máy chiếu, màn hình (nếu có).
- Dự kiến trước những câu hỏi hoặc đề nghị của người nghe báo cáo.
- Người nghe cần nắm được nội dung của bài báo cáo, nếu được nhận xét, đánh giả về nội dung và
cách trình bảy của người nói, đặt câu hỏi về những điểm cần làm rõ. Người nói và người nghe cần
tương tác một cách hiệu quả và có văn hóa.
2. Thực hành
Bài tập. (trang 82 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Em hãy thay mặt nhóm để trình bày báo cáo kết quả
nghiên cứu về vấn đề tác động của việc sử dụng mạng xã hội đến tình hình học tập của học sinh trường
em.
a) Chuẩn bị
- Trao đổi, phối hợp với bạn trong nhóm nghiên cứu (nếu có) về những việc cần làm.
- Thực hiện việc chuẩn bị như hướng dẫn ở mục 1. Định hướng
b) Tìm ý và lập dàn ý
Xem xét dàn ý đã nêu ở phần biết và bổ sung một số ý cho phù hợp với đối tượng, yêu cầu, thời gian,
điều kiện trình bày báo cáo (nếu cần).
c) Nói và nghe
Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 5, phần Nói và nghe, mục e (trang 29), đối chiếu với dàn ý đề văn
đã làm ở bài này.
* Bài nói mẫu tham khảo
Chào thầy/cô và các bạn. Mình tên là Nguyễn Văn A, hôm nay mình xin được phép đại diện nhóm 1
trình bày về kết quả nghiên cứu của nhóm. Báo cáo nghiên cứu về vấn đề tác động của việc sử dụng
mạng xã hội đến tình hình học tập của học sinh trường .
Tóm tắt:
Hiện nay, mạng xã hội trở thành một phương tiện phổ biến với những tính năng đa dạng cho phép
người dùng kết nối, chia sẻ, tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng, hiệu quả. Sư phát triển của
mạng xã hội ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của toàn xã hội, trong đó bao gồm cả học sinh. Qua
mạng xã hội, các em tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng, xong chưa có tính chọn lọc. Điều này
dẫn đến một bộ phận học sinh hiểu sai, không đúng về một vấn đề nào đó. Việc nghiên cứu đề tài này,
giúp chúng em có cái nhìn khách quan, toàn diện về nhiều khía cạnh để từ đó tìm kiếm những giải
pháp phù hợp giúp học sinh tránh xa được các tác động xấu của mạng xã hội....
1. Đặt vấn đề
1.1. Mục đích
- Tìm hiểu về lượng thời gian sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh.
- Tìm hiểu về mục đích sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh.
- Tìm hiểu về những tác động tích cực của mạng xã hội Facebook đối với học sinh.
- Tìm hiểu về những tác động tiêu cực của mạng xã hội Facebook đối với học sinh.
1.2. Nhiệm vụ
- Mô tả thực trạng sử dụng Facebook của học sinh (mục đích sử dụng, thời gian sử dụng, thời điểm sử
dụng, tần suất sử dụng, phương tiện truy cập,…)
- Phân tích ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội Facebook đến học tập của học sinh.
- Phân tích ảnh hưởng của việc sử dụng mạng xã hội Facebook đến đời sống của học sinh (các quan hệ
xã hội).
1.3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tác động của mạng xã hội Facebook đối với học sinh.
Phạm vi nghiên cứu: 560 học sinh.
Thời gian: Tháng 11 – Tháng 12 năm 2012.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại
Phương pháp đối chiếu so sánh
Phương pháp tổng hợp, hệ thống
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Vai trò, vị trí của mạng Facebook trong đời sống con người.
Facebook thật sự đã mang lại cho chúng tôi nhiều trải nghiệm thú vị và hứng thú. Facebook là nơi
chúng tôi có thể chia sẻ, cập nhật thông tin, hình ảnh, tán gẫu cùng bạn bè và tham gia vào các ứng
dụng giải trí. Vì thế, chúng tôi dành khá nhiều thời gian truy cập Facebook mỗi khi mở chiếc máy tính
của mình. Nhiều lúc, chúng tôi cảm giác khó chịu khi đường truyền internet chặn Facebook vì một lý
do nào đó. Qua đó, chúng tôi hiểu rằng, bản thân chúng tôi ít nhiều bị sự thu hút từ mạng xã hội
Facebook làm tác động và một số bạn khác cũng như vậy.
Vì thế, với tư cách là những cá nhân trực tiếp tham gia và đồng thời cũng là học sinh, chúng tôi xin
nghiên cứu vấn đề này để hiểu rõ hơn về mạng xã hội Facebook mà chúng tôi đang sử dụng, tìm hiểu
những tác động tích cực, tiêu cực của mạng xã hội Facebook đối với học sinh để từ đó điều chỉnh cách
sử dụng và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao các tác động tích cực đối với học sinh.
2.2 Thực trạng sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh
Kết quả khảo sát cũng đã phản ánh tỉ lệ cao học sinh tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook và hầu
như bất kì một bạn nào cũng có riêng ít nhất 1 tài khoản Facebook để tham gia chia sẻ, cập nhật thông
tin, hình ảnh và giao lưu kết bạn. Về mức độ thời gian tham gia sử dụng Facebook thì đa số các bạn đã
sử dụng Facebook trên 1 năm (481/541 bạn, chiếm 88,9%). Qua đó, phản ánh sự gắn bó lâu dài của
các bạn học sinh đối với Facebook. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, mạng xã hội Facebook có
nhiều tác động tiêu cực dễ gây ảnh hưởng đến người tham gia sử dụng.
2.3 Mục đích sử dụng mạng xã hội Facebook của học sinh.
2.3.1. Chia sẻ, cập nhật thông tin và hình ảnh:
2.2 Giao lưu, kết nối bạn bè:
2.3. Giải trí:
2.4 Những tác động tích cực và tiêu cực của mạng xã hội Facebook đối với học sinh
2.4.1 Những tác động tích cực
Thông qua Facebook, các bạn đã có nơi để thể hiện mình và chia sẻ những điều khó nói cùng bạn bè.
Facebook tạo cho phần đông nhóm đối tượng khảo sát sự thoải mái về tinh thần khi được chia sẻ
những suy nghĩ về cuộc sống cá nhân hay các vấn đề xã hội. Facebook còn là một công cụ hữu hiệu để
thể hiện cá tính bản thân.
2.4.2 Những tác động tiêu cực
Sử dụng Facebook một cách thường xuyên (bất kì thời gian nào trong ngày, chiếm 34,9%). Tác động
tiêu cực lớn nhất mà nhóm đối tượng khảo sát cho thấy đó là việc tốn thời gian (chiếm 52,4%).
Khoảng thời gian sử dụng Facebook mỗi ngày từ 1 - 3 giờ đồng hồ và trên 3 tiếng đồng hồ chiếm đa số
câu trả lời trong cuộc khảo sát (41,3% và 30,2%). Bên cạnh đó, sinh viên khoa PR nhận thức được
những tác động tiêu cực đến tâm lý, sinh lý của bản thân do việc lạm dụng Facebook như: nghiện
Facebook dễ gây béo phì, ảnh hưởng đến thời gian, sức khỏe, công việc học tập và dễ bị ảnh hưởng bởi
những thói hư, tật xấu... Ngoài ra, cũng có một bộ phận nhỏ các sinh viên không biết mục đích sử dụng
Facebook là gì?. Tuy nhiên, vì sự rủ rê của bạn bè nên họ cũng tạo tài khoản để bắt kịp xu hướng.
Ngoài ra, 15,9% cho là Facebook không có bất kì ảnh hưởng tiêu cực nào đến bản thân đối tượng được
khảo sát
2.5 Các biện pháp nâng cao ảnh hưởng tích cực của mạng Facebook đối với học sinh
2.5.1 Biện pháp từ cá nhân
- Mỗi cá nhân hãy tự hỏi xem bạn sử dụng Facebook để làm gì hay lí do đầu tiên để bạn quyết định
đăng kí một tài khoản Facebook là gì?
- Tự hoạch định cho bản thân khung thời gian hợp lí, cân bằng được giữa công việc, học tập và giải trí.
Chỉ dành thời gian cho Facebook khi bạn thật sự rãnh rỗi hay muốn giải tỏa căng thẳng, mệt mỏi.
2.5.2 Biện pháp từ cộng đồng
- Nhà trường, gia đình cần có sự hướng dẫn, tư vấn, định hướng cho học sinh.
- Các nhà quản lý các cấp, các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương.
- Ngoài ra, xã hội cũng cần có những định hướng và giúp đỡ giới trẻ, đặc biệt là các bạn học sinh tham
gia vào các hoạt động thực tế, có ích cho bản thân và cộng đồng. Việc đẩy mạnh công tác giáo dục tư
tưởng chính trị, nâng cao tầm nhận thức của học sinh về các vấn đề chính trị, xã hội sẽ từng bước giúp
học sinh có được bản lĩnh vững vàng xử lý được những thông tin tiếp cận từ nhiều chiều khác nhau
3. Kết luận
Mạng xã hội Facebook căn bản là một phần của xã hội ngày nay. Nó đã, đang và sẽ mang đến cho cuộc
sống của con người ngày càng nhiều những tiện ích thú vị, tương tác cao cũng như sự tối đa hóa các
chức năng. Tuy nhiên, mạng xã hội Facebook cũng là nơi dấy lên những tiêu cực khiến nhiều người lo
lắng. Và chúng ta không thể đổ lỗi hoàn toàn cho mạng xã hội Facebook. Bởi lẽ, nó đơn giản chỉ là
một công cụ, một phương tiện được tạo ra để gắn kết mọi người trên toàn Thế giới. Nhưng chính
những người tham gia, sử dụng lại không hiểu đúng mục đích đó nên đã sà đà và lạm dụng quá mức
dẫn đến gây ra những sự việc không mong muốn. Tất cả là do hành vi và sự nhận thức ở cá nhân người
tham gia sử dụng mạng xã hội Facebook.
Vì thế, mỗi học sinh nên hiểu rõ những biện pháp từ bản thân và cộng đồng để tham gia vào mạng xã
hội Facebook một cách tích cực nhất. Điều này sẽ giúp cho mỗi cá nhân nhận thấy Facebook hữu ích
hơn và có thể kiểm soát tốt những hoạt động “không tên” trên mạng xã hội Facebook. Ngoài ra, mỗi cá
nhân nên thể hiện trách nhiệm trong việc nâng cao tác động tích cực của mạng xã hội Facebook đối với
cộng đồng mạng.
Trên đây là bài trình bày của tôi về báo cáo kết quả nghiên cứu về vấn đề tác động của việc sử dụng
mạng xã hội đến tình hình học tập của học sinh, cảm ơn thầy/cô và các bạn đã lắng nghe. Rất mong
nhận được sự góp ý từ phía thầy/cô và các bạn.
d) Kiểm tra và chỉnh sửa
Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bãi 5, phần Nói và nghe, mục d (trang 29); đối chiếu với dàn ý đề
văn đã làm ở bài này.
Bánh mì Sài Gòn
Đọc văn bản “Bánh mì Sài Gòn” (trang 82 sgk Ngữ văn 11 Tập 2) và thực hiện các yêu cầu bên
dưới:
Câu 1. (trang 85 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Theo em, vì sao tác giả chọn viết về món bánh mì Sài
Gòn?
A. Vì đó là món ăn đồng thời là một hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội
B. Vì đó là món ăn nổi tiếng của người Sài Gòn lúc bấy giờ
C. Vì đó là món ăn ngon được nhiều người Sài Gòn yêu thích
D. Vì đó là món ăn có nguồn gốc thuần tuý của Việt Nam
Trả lời:
Chọn đáp án: A
Câu 2. (trang 85 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phương án nào dưới đây nêu đúng và đủ nhất bố cục của
văn bản Bánh mì Sài Gòn?
A. Giới thiệu món bánh mì lần đầu tiên được du nhập vào Việt Nam, từ đó khái quát về quy luật phát
triển của văn hoá
B. Giới thiệu quy luật giao lưu và hội nhập của văn hoá, từ đó lí giải cụ thể về món bánh mì ở Việt
Nam
C. Giới thiệu quy luật giao lưu và hội nhập văn hoá, từ đó lí giải về sự biến tấu đa dạng của món bánh
mì ở Việt Nam
D. Giới thiệu bánh mì du nhập vào Việt Nam và dần trở thành món ăn quen thuộc, từ đó khái quát về
quy luật phát triển của văn hoá
Trả lời:
Chọn đáp án: D
Câu 3. (trang 85 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Vì sao bánh mì được du nhập vào nước ta, sớm nhất ở Sài
Gòn?
A. Vì đó là thành phố có rất nhiều người thích ăn bánh mì
B. Vì đó là thành phố có nhiều người “Tây” và “Tàu” cùng sinh sống
C. Vì đó là thành phố ngã ba, nơi giao lưu của nhiều cách sống
D. Vì ở đó có nhiều đầu bếp nổi tiếng đến sinh sống và làm việc
Trả lời:
Chọn đáp án: C
Câu 4. (trang 85 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phương án nào dưới đây nêu đúng giá trị văn hoá của món
bánh mì?
A. Phát triển đồng thời trên cả hai con đường tự giác và tự phát
B. Đáp ứng được nhu cầu ích dụng của cuộc sống đời thường
C. Tương tác để tạo nên sự cân bằng của cuộc sống con người
D. Trở thành phòng thí nghiệm của sự tiến bộ xã hội loài người
Trả lời:
Chọn đáp án: A
Câu 5. (trang 85 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Câu văn nào dưới đây cho biết đánh giá của tác giả về vai
trò của bánh mì trong đời sống hiện nay?
A. Ấy thế mà, như trên đã nói, có lúc nó được coi là thứ không nên đụng đến, không thuộc hệ chuẩn
giá trị truyền thống của “đạo nhà”.
B. Loại thức ăn này tồn tại trong cái nhìn của dân ta là bánh – hiểu là món ăn chơi, không phải là thực
phẩm thường xuyên như cơm ..
C. Nói chung, giờ đây bánh mì đã là một thành tố quan trọng trong cái mà thế nhân đời nay gọi là “văn
hoá ẩm thực".
D. Có lẽ, bánh mì đã xuất hiện ở xứ ta trước cái mốc 1859, nhưng ắt hẳn được biết đến nhiều là sau khi
đội quân viễn chinh chiếm thành Gia Định.
Trả lời:
Chọn đáp án: C
Câu 6. (trang 86 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy làm rõ sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong
văn bản trên qua một số biểu hiện cụ thể, đồng thời, nhận xét về tác dụng của sự kết hợp ấy.
Trả lời:
Chất trữ tình trong văn bản thể hiện ở việc tác giả nêu lên cảm xúc, suy nghĩ của mình về các giá trị
văn hóa.
Văn bản viết theo ngôi thứ nhất. Cái tôi trong văn bản thể hiện trực tiếp những cảm xúc, suy nghĩ riêng
của tác giả.
Ngôn ngữ văn bản tinh tế, sống động, mang hơi thở đời sống, giàu hình ảnh và chất trữ tình.
-> Việc kết hợp như vậy giúp tác giả thể hiện được hết những tâm tư, suy nghĩ của mình về vấn đề nói
đến. Đồng thời cũng giúp bài viết trở nên sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc.
Câu 7. (trang 86 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Từ trường hợp ổ bánh mì, tác giả văn bản đã mở rộng bàn
luận về vấn đề gì?
Trả lời:
Từ trường hợp ổ bánh mì, tác giả văn bản đã mở rộng bàn luận về vấn đề tiến trình phát triển của văn
hóa.
Câu 8. (trang 86 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Tác giả văn bản thể hiện quan điểm như thế nào về vấn đề
phát triển văn hoá? Em có đồng tình với quan điểm của tác giả không? Tại sao?
Trả lời:
Theo tác giả, văn hoá phát triển đồng thời trên cả hai con đường tự giác và tự phát, trong từng thời
đoạn cụ thể, mỗi con đường mạnh yếu khác nhau, nhưng chúng luôn tương tác để tạo nên sự cân bằng
của chính thể văn hoá.
Em đồng ý với quan điểm của tác giả bởi trong câu chuyện "ổ bánh mì", tác giả đã đưa ra những dẫn
chứng cụ thể, rõ ràng và thuyết phục cho quan điểm này.
Câu 9. (trang 86 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Từ văn bản Bánh mì Sài Gòn, hãy nêu suy nghĩ của em về
một thái độ cần có của thế hệ trẻ ngày nay đối với việc tiếp nhận các yếu tố văn hoá nước ngoài.
Trả lời:
Từ văn bản Bánh mì Sài Gòn, chúng ta dễ dàng nhận ra việc du nhập văn hóa nước ngoài là một trong
những vấn đề rất được quan tâm, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Thế hệ trẻ là những con người
năng động, nhiệt huyết, ưa tìm tòi, khám phá. Khi mạng xã hội phát triển, thế hệ trẻ có nhiều điều kiện
tiếp cận các nguồn thông tin khác nhau về tư tưởng, văn hóa của một số quốc gia khác. Một số văn hóa
nước ngoài du nhập vào nước ta mang lại những lợi ích nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích vẫn tồn
tại những hạn chế. Giới trẻ phần đông là những người chưa trải nghiệm nhiều, trong họ tiềm ẩn những
nhân tố tiêu cực như: dễ chán nản, hoang mang. dao động trước khó khăn, dễ bị kích động, nhẹ dạ cả
tin, tiếp nhận thông tin ít chọn lọc. Việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài mà không có chọn lọc, nhìn
nhận kĩ vấn đề dễ mang lại những nguy cơ tiềm ẩn như làm xấu, mất đi văn hóa dân tộc... Chính vì
vậy, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về văn hóa
giới trẻ ngay khi còn đang trên ghế nhà trường.
Trả lời:
Câu 10 (trang 86 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy giới thiệu (khoảng 12 – 15 dòng) về lịch sử bánh
mì hoặc một loại thức ăn / đồ uống mà em yêu thích, trong đó có trích dẫn các tài liệu mà em
tham khảo được.
Bánh chưng là những món ăn truyền thống mang đậm nét văn hoá của người Việt. Giải thích về sự ra
đời của bánh chưng, chúng ta có truyền thuyết bánh chưng, bánh dày: "Truyền thuyết “Bánh chưng,
bánh dày” xuất hiện từ đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng đã triệu tập các quan Lang
(các con của nhà vua) đến và truyền rằng: vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý
với nhà vua nhất sẽ được nhà vua nhường ngôi. Các vị quan Lang lên rừng, xuống biển tìm châu ngọc
và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua. Riêng Lang Liêu là người con nghèo khó nhất trong
số các vị quan Lang, chàng không tìm những sản vật quý hiếm về dâng vua cha, mà đã dùng ngay
những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh tượng
trưng cho trời tròn và đất vuông (còn được gọi là bánh chưng và bánh dày) để làm lễ vật dâng vua cha.
Lễ vật của Lang Liêu hợp với ý vua Hùng nhất và nhà vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu… Từ đó bánh
Chưng, bánh dày đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng, để thể hiện tấm lòng
uống nước nhớ nguồn đối với tiên tổ, cha, ông." (Nguyễn Quyên (2021), Phong tục gói bánh chưng
ngày Tết, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam).Truyền thuyết trên muốn nhắc nhở con cháu về
truyền thống hiếu kính; lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của của bánh chưng, bánh dày là nét
đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc.
Hướng dẫn tự học
Câu 1. (trang 86 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Tìm đọc một số đoạn văn bản tùy bút, tản văn, truyện kí
trong sách, báo hoặc internet. Khi đọc, cần lưu ý: tóm tắt nội dung văn bản, ghi lại những cảm xúc,
điều tâm đắc, thích thú hoặc băn khoăn, chưa hiểu,... của bản thân về những văn bản đó.
Trả lời:
- Tùy bút: Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân.
- Tóm tắt:
Từ thượng nguồn sông Đà đã mang vẻ dữ dội của đại ngàn: dựng đá vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới
thấy mặt trời; sóng đá dữ dội dàn thành các thạch trận xô nhau liên tiếp, dữ dội hơn trông Đà giang
như sôi lên sùng sục, tiếng thác đá ở đây thì như ngàn con trâu mộng giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ
lửa. Có lúc sông Đà cũng dịu dàng: Sông Đà tuôn dài như áng tóc trữ tình,mang màu xanh ngọc bích
và màu đỏ phù sa chứ không có màu đen như Pháp nói; sông Đà lại giống như một cố nhân lâu ngày
gặp lại; hai bên bờ sông Đà tĩnh lặng nhưng đầy sức sống. Trên vẻ đẹp của Tây Bắc ấy hình ảnh người
lái đò hiện ra đầy nghệ sĩ, hùng dũng dù rất bình dị đời thường, Ông lái đò vượt qua ba thạch trận với
nhiều cửa tử; ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, nhưng đêm trở về với những thứ bình dị,
khiêm tốn.
- Nội dung chính: Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say
đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa
trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên bác của Nguyễn
Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì quan của tạo hóa và những kì tích lao động của con
người.
- Điều ấn tượng về hình tượng ông lái đò:
Ông lái đò hiện ra là một người khoảng bảy mươi tuổi làm nghề lái đò đã nhiều năm nay. Ông là đại
diện cho những con người lao động bình dị, từng trải, có nhiều kinh nghiệm lái đò, có lòng dũng cảm,
gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán ở nơi đây. Mỗi ngày làm việc như một trận chiến với
đám thủy quái trên sông, ông phải dùng hết công lực của mình để đối phó với bọn chúng mà không hề
nao núng. Khi bọn đá bày ra trùng vi thạch trận thứ nhất đầy hiểm nguy, người lái đò hai tay giữ mái
chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình; ông không hề nao núng mà bình tĩnh,
đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái
đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái để vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất.
Sau khi phá xong vòng một, người lái đò không được nghỉ ngơi mà phá luôn trùng vi thạch trận thứ
hai, thứ ba. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá; ông đã thuộc quy luật phục kích
của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán
chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của
loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu
nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé
Câu 2. (trang 86 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hoàn thành bài báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên
hoặc xã hội.
Trả lời:
Bài viết tham khảo: Thực trạng về tự ti và tự phụ của giới trẻ Việt Nam
Tóm tắt:
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã xác định và đánh giá thực trạng tâm lý tự ti và tự phụ ở một bộ
phận các bạn trẻ Việt Nam ngày nay, từ đó đưa ra những giải pháp để cải thiện và vượt qua tâm lí tự ti
cho các bạn. Khảo sát được thực hiện tại một trường thuộc địa bàn thành phố Hà Nội.
1. Mở đầu:
Trong thời buổi hiện nay, khi đất nước ta đang trên con đường hội nhập, thì đòi hỏi phải cần có những
người thật sự tài năng để đưa đất nước đi lên ngang tầm với bạn bè năm châu như lời Bác Hồ đã dạy.
Nhưng điều đó không phải dễ khi thực tế bây giờ vẫn còn tồn tại nhiều thái độ sống chưa thực sự đúng
đắn. Trong đó có hai thái độ tự ti và tự phụ.
2. Nội dung nghiên cứu:
2.1 Khái niệm tự ti và tự phụ
- "Tự ti": Thiếu tự tin, không tin vào khả năng của bản thân, sống mặc cảm, thu mình.
- "Tự phụ": Kiêu căng, ảo tưởng về bản thân, xem mình luôn là nhất, là đúng, mà coi thường mọi
người xung quanh.
2.2 Kết quả nghiên cứu và đề xuất
a. Thực trạng
- 130 bạn trong độ tuổi 16-17 cho đến 6,4% sống khép kín, tự ti và mặc cảm; 2,0% có tính tự phụ.
b. Biểu hiện
Tự ti:
- Nói về tự ti, đó là thái độ tự xem mình thấp hơn người khác, thua kém người khác.
- Người tự ti luôn sống khép kín, thu mình, không tin tưởng vào khả năng của bản thân.
- Thiếu ý chí, không dám nghĩ, không dám làm.
- Họ luôn sợ sệt, trốn tránh, nhút nhát trước chỗ đông người. (nêu một vài dẫn chứng)
Tự phụ:
- Nói về tự phụ lại là một thái độ hoàn toàn trái ngược với tự ti. Nếu ngưòi tự ti cứ xem mình thấp hơn
ngưòi khác thì ngưòi tự phụ lại luôn tự đề cao bản thân mình, tự xem mình tài giỏi hơn người khác,
trong mắt họ thế giới thật nhỏ bé.
- Người tự phụ luôn chủ quan tự cho mình là đúng.
- Khi làm được việc gì đó thì tỏ ra coi thường người khác => Biểu hiện của căn bệnh "ngôi sao". (nêu
một vài dẫn chứng tiêu biểu).
c. Đề xuất
- Có những giải pháp khắc phục tâm lí.
- Trau dồi thêm kiến thức cho bản thân, đặt mục tiêu cho bản thân
-…
3. Kết luận
- Khẳng định lại vấn đề nghị luận.
- Liên hệ bản thân, mở ra những suy nghĩ mới

𝐓𝐓𝐒 - Cảm nhận Cảm nhận từ cơ bản về vẻ đẹp của sông Hương trong bút kí ”Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường - Khoá học Văn Chuyên sâu Tổng ôn và Luyện đề đặc biệt
dành cho kì thi TN THPT 2024
Nghệ thuật là quá trình lao động vất vả, đòi hỏi những trái tim và khối óc đầy tình yêu và sự sáng tạo.
Người nghệ sĩ trên từng trang viết chính là một họa công tài hoa, bằng tài năng của mình khắc họa nên
những hình tượng đặc sắc, để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim bạn đọc. Để rồi, từ niềm đam mê
mãnh liệt với nghệ thuật, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chấm nghiên bút của mình vào cuộc đời để sáng
tạo nên những hình tượng nghệ thuật chân chính như thế. Đến với tác phẩm ”Ai đã đặt tên cho dòng
sông?”, bạn đọc bắt gặp hình tượng sông Hương mang những nét đẹp khác nhau qua từng góc nhìn của
tác giả.
Nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng đều là những tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc
sống. Văn chương bao giờ cũng đi ra từ cuộc đời, cũng lớn lên từ hiện thực và rồi từ đó cánh diều nghệ
thuật sẽ nhờ ngọn gió cảm xúc mà cất cánh bay cao. Từ nguồn nhựa sống mãnh liệt mà đời sống ban
phát, người nghệ sĩ sáng tác nên những trang tuyệt bút mà qua đó đã nổi bật hình ảnh cuộc đời, con
người, thiên nhiên thông qua những hình tượng nghệ thuật đặc sắc. Hình tượng văn học cũng như viên
pha lê tinh khiết, bề ngoài nó đơn thuần chỉ là phản ánh cuộc đời đầy màu sắc nhưng ẩn chứa sâu thẳm
viên pha lê ấy lại mang sức nặng của vẻ đẹp đời sống. Hình tượng ấy chính là phương tiện, là sợi dây
truyền đi cái nhìn khách quan đầy chân tình của tác giả đến người đọc. Nó có thể là con người, là đồ
vật… song tất cả hình tượng đều mang trong mình sứ mệnh cao cả - chính là nhịp cầu vô hình dẫn dắt
những trái tim đến với trái tim, suy nghĩ đến với suy nghĩ, để nhà văn có thể cùng với bạn đọc giãi bày
những tâm tư, những khát vọng, hướng đến những giá trị cao đẹp trong đời sống. Hoàng Phủ Ngọc
Tường là một cây bút xuất sắc trong việc tạo ra những hình tượng như thế. Ông sinh ra, lớn lên, và làm
việc ở xứ Huế mộng mơ, nơi nổi tiếng với những điệu ca cổ say đắm lòng người. Chính nơi đây là
nguồn cảm hứng bất tận cho ông viết nên những tác phẩm để đời của mình. Gắn bó ruột thịt với nơi
này nên hầu như các tác phẩm của ông đều viết về Huế đến nỗi người ta gọi ông bằng một danh xưng
gần gũi đó chính là “nhà văn của xứ Huế”. Ông chuyên viết về thể loại bút kí với nét đặc trưng tiêu
biểu là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều,
được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú uyên thâm về triết học, địa lí, văn hóa, lịch sử… Tất cả
được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa. Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” của ông cũng được viết dưới thể loại bút kí quen thuộc, ra đời năm 1981 khi Hoàng Phủ
Ngọc Tường sống ở Huế bên bờ sông Hương. Tình yêu máu thịt đối với quê hương cũng lớn lên từng
ngày và nó hiệu hữu mọi thời gian, mọi không gian làm nên một bài kí ca ngợi sông Hương như một
biểu tượng của xứ Huế, từ đó bộc lộ cái tôi trữ tình tác giả với tình yêu quê hương đất nước nồng nàn,
sâu sắc. Tìm hiểu tác phẩm, bạn đọc không khỏi băn khoăn với tựa đề ”Ai đã đặt tên cho dòng sông?”-
một nhan đề lạ, độc đáo ẩn chứa trong hình thức một câu hỏi thoáng ngẩn ngơ nhưng rất thi sĩ. Đó là
một câu hỏi đầy suy tư, thâm trầm của người nghệ sĩ. Câu hỏi về cái tên đẹp của dòng sông, về những
con người khai phá miền đất ấy và đặt tên cho dòng sông đặc biệt làm nên vẻ đẹp sông Hương xứ Huế.
Từ thoáng ngẩn ngơ này bao nhiêu cái đẹp ùa về trong tâm trí tác giả, khơi nên mạch viết dạt dào về
nhan sắc thiên phú của dòng nước êm đềm chảy qua cố đô Huế. Bài bút kí viết về sự gắn bó của sông
Hương với lịch sử văn hóa dân tộc, khẳng định” Dòng sông huyền nhiệm nơi sinh ra vẻ đẹp của tâm
hồn đất nước “. Câu hỏi đó định hướng người đọc khám phá sông Hướng ở những khía cạnh đặc biệt
mới mẻ, khía cạnh văn hóa thẩm mỉ, truyền cảm hứng cho độc giả về một tình yêu xứ sở thiết tha.
Viết về bất cứ dòng sông nào trên đất nước, người ta đều cần có, cần thể hiện được tình yêu lắng sâu
và một sự am tường về địa lí, lích sử, văn hóa gắn liền với chúng. Bởi các dòng sông luôn là cầu nối
của những vùng, những nền văn hóa đa dạng, lắm sắc màu mà cư dân sống trong vòng tay của chúng
phải vô vàn biết ơn. Đây cũng là thử thách của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhưng chính thách thức này
đã chuyển hóa thành niềm giục giã đầy tự nhiên tha thiết trong tâm hồn con người yêu sông hương,
yêu Huế này.
Bằng con mắt nhìn đầy chân thực của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên là dòng sông tự
nhiên, dòng sông địa lí. Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã thể hiện quan điểm của mình về sự khác biệt của
dòng sông quê hương: ”Trong những dòng sông đẹp của các nước mà tôi thường nghe nói đến hình
như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Hoàng Phủ Ngọc Tường tự hào, hãnh diện
về con sông Hương của quê hương xứ sở và xếp sông Hương vào danh sách những dòng sông đẹp. Từ
đó, tác giả tiếp cận sông Hương từ góc độ văn hóa thẩm mĩ, đi vào khám phá những nét độc đáo của
dòng sông này. Sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất - sông Hương được soi chiếu trong mối
quan hệ đặc biệt: sông Hương và thành phố của nó tức là xứ Huế. Đó là quan hệ của một cơ duyên,
một tình yêu thiên định. Cái nhìn, sự khám phá mới mẻ và có tính triết lí cao của Hoàng Phủ Ngọc
Tường ở đây không chỉ là dòng sông mà còn là đời sông, là cuộc đời của một người con gái của tự
nhiên, không chỉ là dòng sông mà còn là vùng đất của cơ duyên, của mối tình mặn nồng, và cũng là
nơi gửi gắm triết lí nhân sinh bởi vạn vật trong tự nhiên tồn tại đều mang một nét ý nghĩa đặc biệt. Nhà
văn ngược về cội nguồn của sông Hương ở thượng nguồn để thấu hiểu bản chất cũng như phần tâm
hồn sâu thẳm của dòng sông. Sông Hương trong lòng Trường Sơn” là một bản trường ca của rừng già,
rầm rộ qua những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào
những đáy vực bí ẩn và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọ màu đỏ
của hoa đỗ quyên rừng”. Câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường trải dài nhiều vế, mỗi vế là một sắc
thái, một cung bậc của bản trường ca đặc biệt của rừng già. Khúc nhạc của sông Hương ở thượng
nguồn có những âm điệu mạnh mẽ, dữ dội, có những cao trào, cuộn xoáy nhưng cũng có những đoạn
đắm say đầy mê hoặc. Sông Hương với những vẻ đẹp độc đáo- đối lập nhưng lại thống nhất trong một
sinh thể đầy cá tính mang nét bản năng hoang sơ, hùng vĩ của đại ngàn. Với nghệ thuật so sánh độc
đáo, sự kết hợp những từ láy, tính từ được dùng dày đặc, tác giả đã khắc chạm được tâm hồn đầy chân
thực, tự nhiên của sông Hương ở thượng nguồn. Trong lòng Trường Sơn, sông Hương mang vẻ đẹp
hoang dại, nguyên sơn, thánh thiện của tự nhiên như” một cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại.
Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Lối so sánh độc lạ
đã tạo điểm nhấn cho sông Hương, để sông Hương hiện lên là người con gái đẹp của tự nhiên mang vẻ
đẹp phóng túng, quyến rũ đến mê hoặc, đầy bí ẩn. Dòng sông mang một tâm hồn đầy cá tính mạnh mẽ
song rất là thánh thiện, điềm nhiên. Nhưng khi sông Hương ra khỏi đại ngàn, nó lại mang một màu sắc
đối lập, dường như ”rừng già… đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra
khỏi rừng sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa
của một vùng văn hóa xứ sở”. Sông Hương đã thay đổi và trưởng thành lên , tìm được cá tính thực sự
của chính mình, sông Hương mang” sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”. Sông Hương không còn là người con
gái đẩy nổi loạn của núi rừng Trường Sơn nữa mà đã trở thành ”người mẹ phù sa của một vùng văn
hóa xứ sở”. Dòng sông dịu dàng, lặng lẽ, miệt mài chắt chiu gom góp phù sa để mang về đồng bằng xứ
Huế, để kiến tạo nên một nét văn hóa cho quê hương xứ sở. Sông Hương muốn giấu kín đi tất thảy
phần bản năng hoang dại, biến đổi một cách hoàn toàn, lột xác trở thành một con người khác trước khi
tìm về quá khứ” dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở của rừng và ném chìa khóa
trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Sông Hương chủ động biến đổi lột xác để có thể hòa
hợp với nét dịu dàng của xứ Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện góc nhìn đầy triết lí về sông Hương
cũng như người con gái khi yêu muốn hòa hợp thì phải kiềm chế phần bản năng hoang dại, nguyên sơ
để trưởng thành, để phù hợp với người yêu, với xứ Huế. Với góc nhìn mang tính lãng mạn, tinh tế đầy
triết lí, sông Hương ở thượng nguồn hiện lên từ hình ảnh người con gái đầy cá tính, nổi loạn trưởng
thành mang vẻ đẹp dịu dàng, trẻ trung, sẵn sàng cho hành trình tìm kiếm hạnh phúc, tìm kiếm một nửa
của chính mình.
Từ góc nhìn nơi đại ngàn hùng vĩ, tác giả thu ánh mắt quan sát của mình để khắc họa hình ảnh sông
Hương khi ở đồng bằng và ngoại ô thành phố. Sông Hương trong hành trình với xứ Huế” phải nhiều
thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp, nằm ngủ mơ màng giữa cánh
đồng Châu Hoa đày hoa dại”. Sông Hương đã chờ đợi Huế trong một khoảng thời gian rất dài- dòng
sông đầy kiên nhẫn trong cuộc tìm kiếm hạnh phúc. Huế chính là người tình mong đợi mà sông Hương
tìm kiếm đến khi gặp được thỏa lòng mới ngừng hành trình tìm kiếm. Dòng sông Hương không đơn
giản dễ dãi mà có những tiêu chí khắt khe chỉ Huế mới đáp ứng được. Sông Hương khi gặp Huế mang
một nét đẹp hiền hòa, mềm mại, nữ tính, chảy trôi êm đềm như đang tận hưởng cảnh vật xung quanh.
Với nghệ thuật nhân hóa kết hợp với liên tưởng độc đáo, câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường dẹp như
câu chuyện cổ tích tái hiện một mối tình nhuốm màu huyền ảo. Hành trình về xuôi đầy gian nan của
sông Hương được tác giả miêu tả như một “cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương
lai của nó”. Dòng chảy của sông Hương “ chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột
ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Bằng việc sử dụng một loạt động từ nối tiếp nhau,
tác giả miêu tả sông Hương đổi dòng liên tục đẻ nhanh chóng được gặp Huế như nỗ lực rút ngắn
khoảng cách với xứ Huế để thỏa lòng mong nhớ khôn nguôi. Hành trình kiếm tìm tình yêu của sông
Hương là một hành trình gian truân, không đơn giản, đòi hỏi sự nỗ lực lớn nhưng rất đỗi ngọt ngào.
Sông Hương còn liên tục biến đổi với những vẻ đẹp khác nhau, đem đến nhiều cái nhìn riêng biệt cho
độc giả. Có lúc sông Hương hiện lên sâu lắng, tĩnh lặng, đầy bí ẩn khi” vượt qua một lòng vực sâu
dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”, lúc lại hấp dẫn, gợi cảm, quyến rũ, mềm mại
với “ những điểm cao đột ngột như Long Cảnh, Tam Thai, Lưu Bai mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn
thấy dòng sông mềm mại như tấm lụa”, lắm khi sông Hương cũng hiện lên với vẻ đẹp đa sắc, lung
linh, kì ảo khi băng qua” những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền
trời Tây Nam thành phố sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, rồi lúc sông Hương lại mang vẻ điềm tình
muôn thuở, lặng lẽ như đang ru vỗ bảo vệ giấc ngủ nghìn năm cho các vua chúa ” chảy qua những
rừng thông u tịch… vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi”. Qua những biến đổi của sông Hương, ta
thấy hành trình về xuôi của nó là một hành trình dài, chảy qua nhiều địa danh, mang nhiều mảng màu
mới lạ song đó cũng là hành trình lãng mạn để tìm kiếm tình yêu đích thực. Sông Hương là một cô gái
trẻ đầy đam mê, khát vọng hạnh phúc vượt qua trở ngại của thời gian, không gian để kiên nhẫn chờ
đợi, nỗ lực biến đổi để mình trở nên hoàn thiện hơn để gặp người tình mong đợi. Hoàng Phủ Ngọc
Tường phô diễn vốn hiểu biết rất uyên bác với lối hành văn mê đắm giàu cảm xúc và rất đỗi tài hoa,
thể hiện góc nhìn lãng mạn gửi gắm những suy tư đầy tính triết lí.
Sông Hương khi chảy giữa lòng thành phố Huế lại mang những vẻ đẹp riêng có . Tác giả tưởng tượng
cảm giác của sông Hương khi gặp thành phố yêu dấu của mình” sông Hương vui tươi hẳn lên giữa
những miền bãi xanh biếc”. Khi gặp được đích thực người yêu của mình, sông Hương như một cô gái
vui vẻ, hạnh phúc, rạng ngời không thể che giấu. Huế trong cảm nhận đầu tiên của sông Hương là”
chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”, Huế mang
vẻ đẹp thanh tú, gợi cảm. Ra khỏi vùng núi, sông Hương giáp mặt thành phố “ uốn một cánh cung rất
nhẹ sang đến cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không
nói ra của tình yêu. Với cách so sánh độc đáo, đường cong sông Hương với “ tiếng vâng không nói ra
của tình yêu” cho thấy tâm hồn tình yêu sâu thẳm của sông Hương đầy e ấp, ngượng ngùng, đắm say
nhưng lại rất kín đáo, chừng mực. Một sông Hương hiện lên dịu dàng, e thẹn, đắm say trong tình yêu
của mình qua đôi mắt trẻ trung , lãng mạn, đa tình của tác giả. Khi sống trong thành phố Huế, hòa
quyện và trở thành một phần của xứ Huế, sông Hương như bắt trọn từng giây từng phút với nơi đây”
những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị”, hai bờ sông” những cây đa, cây
cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sần xuống những xóm thuyền xúm xít”. Sông Hương hòa hợp với đặc trưng và
phong cách xứ Huế, chảy giữa lòng thành phố như thể để sống lâu hơn, sống trọn, sống sâu với xứ
Huế. Sông Hương như làm tăng thêm vẻ đẹp trầm mặc, thâm nghiêm, u tịch cho thành phố ngàn năm
tuổi này. Nhà văn cũng kể về lưu tốc sông Hương” trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt
hồ yên tĩnh”, dòng chảy chậm rãi, lững lờ, như “ điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Qua đoạn
này, sông Hương cố tình chảy chậm lại như cố níu giữ thời gian để ở bên thành phố Huế cho thấy tình
yêu xứ Huế nồng nàn, không muốn chảy , mà muốn ngưng đọng để sống lâu hơn với tình yêu của
mình, để trân trọng phút giây bên nhau. Qua đây, bạn đọc cũng thấy được sự am hiểu uyên bác của
Hoàng Phủ Ngọc Tường về sông Hương cùng với tài năng nghệ thuật ngôn ngữ mượt mà giàu hình
ảnh để miêu tả sông Hương khi gặp Huế mang đặc điểm rất Huế.
Hành trình nào rồi cũng có điểm dừng, cuộc gặp gỡ nào rồi cũng phải đến hồi kết thúc. Sông Hương
cuối cùng cũng phải rời khỏi thành phố, chia xa tình yêu của mình “sông Hương chếnh về hướng chính
bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến
ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ
lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố
lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Tác giả miêu tả sự quay lại gặp Huế của sông Hương như
đêm tình tự của nàng Kiều, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, là tấm lòng người
dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình. Với liên tưởng bất ngờ, thú vị, sông Hương được tác giả
cảm nhận với vẻ đẹp say đắm của người con gái đang yêu như nàng Kiều ngày xưa và mang phẩm chất
thủy chung son sắt của người dân Châu Hóa đối với quê hương mình”. Vẻ đẹp tự nhiên của sông
Hương hiện lên với những dáng vẻ khác nhau, mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính ở thượng nguồn, dịu
dàng, mềm mại, trẻ trung đằm thắm khi về đến với Huế, lưu luyến bịn rịn nhớ thương và một lòng thủy
chung son sắt khi tạm biệt Huế. Phải là một người yêu mến sông Hương, yêu mến xứ Huế thì tác giả
mới viết nên những trang văn xúc động, ám ảnh bạn đọc như thế.
Mỗi dòng sông là đại diện cho một nền văn minh, là nơi lưu giữ những kí ức tươi đẹp cho vùng đất mà
nó chảy qua. Sông Hương cũng vậy, nó là một dòng chảy của văn hóa, của lịch sử anh hùng nơi xứ
Huế có bề dày truyền thống từ bao đời. Sông Hương chính là “người mẹ phù sa của quê hương, xứ sở”
hình thành và nuôi dưỡng văn hóa, bản sắc vùng miền, là chứng nhân văn hóa lịch sử. Nhắc đến xứ
Huế, người ta nhớ đến thứ nhã nhạc cung đình cổ kính, là ca Huế tinh tế nhưng gần gũi, và sông
Hương cũng tự mang trong mình thứ âm nhạc ấy. Tác giả khẳng định tự bản thân sông Hương chính là
dòng sông âm nhạc” Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của nước sông ấy, sông Hương đã trở
thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Với nghệ thuật so sánh, sông Hương chính là một người
con gái tài hoa đang gảy lên khúc nhạc riêng của đời mình- như điệu chảy chậm rãi, lửng lơ, nhẹ
nhàng, sâu lắng- điệu nhạc độc đáo riêng biệt của sông Hương. Nhà văn mở rộng liên tưởng và khẳng
định” toàn bộ nền âm nhạc cổ điển đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một
khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Sông Hương đã trở
thành cái nôi sản sinh ra âm nhạc Huế, những giai điệu, tiết tấu, cung bậc của dòng chảy sông Hương
làm những sắc điệu riêng của âm nhạc cổ điển Huế. Với vốn hiểu biết về âm nhạc đặc biệt là âm nhạc
cổ điển Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định sông Hương là dòng sông âm nhạc. Sông Hương
còn là dòng sông thi ca, bởi nó chính là nguồn cảm hứng bất tận không bao giờ vơi cạn đối với những
nghệ sĩ để viết nên những “đứa con tinh thần” riêng biệt của mình. Trong thơ, sông Hương hiện lên với
những vẻ đẹp khác nhau, lúc “xanh biếc thường ngày”, khi laị thay màu” dòng sông trắng -lá cây xanh
trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà”, có lúc” từ tha thiết mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên” như
kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát”, rồi” từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều
lảng bảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan”, “khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong
thơ Tố Hữu”… Chính sông Hương tự làm mới mình trong cảm hứng sáng tác của những người viết
xưa và nay. Sông Hương cũng mang nét phong tục tập quán rất đặc trưng của xứ Huế và tâm hồn của
người dân nơi đây. Sông Hương sát cánh với cuộc sống con người xứ Huế, từng đồng cam cộng khổ,
”tự hiến đời mình làm chiến công” chiến đấu chống quân thù cùng người dân Huế trong những năm
tháng chiến tranh mưa bom bão đạn, cũng ngày ngày giúp xứ Huế bồi đắp nên những đồng bằng châu
thổ màu mỡ, rộng lớn… Màu sắc của chiếc áo cưới cũng lấy cảm hứng từ màu sương khói của sông
Hương tạo nên một cách rất riêng không giống với bất cứ vùng miền nào trên Tổ quốc.
Sông Hương- dòng sông lịch sử, dòng sông anh hùng. Tác giả kể về sông Hương qua các thời đại. Từ
thời các vua Hùng, nó chỉ là một dòng sông” biên thùy xa xôi” cho đến thời trung đại nó là ”dòng sông
viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam… soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh
hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lích sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi
nghĩa”, rồi thời hiện đại, “dòng sông với những chiến công rung chuyển trong Cách mạng tháng Tám,
dòng sông gắn với những đau thương, mất mát”. Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê để người đọc hình
dung dòng sông qua các thời đại đặc biệt tác giả chú ý khắc họa về dòng sông anh dùng để bộc lộ niềm
tự hào của người Huế đối với sông Hương. Như vậy, nhà văn khám phá sông Hương trên cả ba phương
diện: dòng sông tự nhiên, dòng sông văn hóa, dòng sông lịch sử. Ở phương diện nào, tác giả cũng nhấn
mạnh mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa sông Hương với xứ Huế để từ đó khẳng định một cách chắc
nịch “ Sông Hương là dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất”- đó là thành phố Huế mà thôi.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa bức chân dung đa chiều của sông Hương một cách thật sinh
động, hấp dẫn, từ những góc độ khác nhau, sông Hương mang những vẻ đẹp riêng có, độc đáo của
mình. Bằng vốn hiểu biết vô cùng phong phú trong các lĩnh vực địa lí, triết học, lịch sử… cùng sự kết
hợp nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ , hành văn ngôn ngữ nhẹ nhàng, giàu sức biểu đạt, tác giả đã tô
vẽ một sông Hương khắc cốt ghi tâm trong lòng độc giả, khiến cho ai chưa đến thăm nơi này cũng phải
thốt lên trước vẻ đẹp của nó. Và ẩn đằng sau hình tượng sông Hương ấy , nhà văn cũng bày tỏ cái tôi
tác giả của mình: đó là một cái tôi mê đắm tài hoa cảnh sắc quê hương đất nước, cái tôi uyên bác, giàu
tri thức về lịch sử, văn hóa, địa lí…, cái tôi yêu quê, gắn bó một lòng sâu nặng với xứ sở đã sinh ra và
nuôi dưỡng mình - xứ Huế mộng mơ.
Nhà văn Thạch Lam đã từng quan niệm: ”Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai
ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc bài học trông nhìn và thưởng
thức”. Nhà văn với sứ mệnh cao cả như con ong vàng rong ruổi khắp nẻo đường để hút thứ mật ngọt -
kết tinh những tinh hoa của đất trời để tô vẽ màu sắc tươi đẹp cho cuộc sống. Hoàng Phủ Ngọc Tường
cũng vậy. Ông đã khắc chạm một cách thật tinh tế dòng sông quê hương - dòng sông Hương đẹp đẽ
bao đời để gợi lên trong lòng bạn đọc những tình cảm, những dư vị yêu thương rất đời, rất người. Qua
đó, bản thân mỗi người như yêu hơn, quý hơn nét đẹp đặc biệt của sông Hương nói riêng và đất nước
Việt Nam nói chung, khơi gợi lòng tự hào dân tộc cũng như thúc giục sức mạnh để xây dựng đất nước
ta ngày càng đẹp giàu hơn nữa.

𝐓𝐓𝐒 - Hương giang nên họa, nên thơ trong tình yêu giữa lòng thành phố Huế qua cảm nhận của em
bé TTS-ER 2k6
Những buổi chiều, những buổi chiều thương
Tôi đã sống và tôi chưa được sống
Nhưng chiều nay, vô tình trong nắng muộn,
Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương giang
(Chiều Hương giang, Nguyễn Khoa Điềm)
Mảnh đất Huế thân thương đã bao lần đi vào những trang thơ nhẹ nhàng, dịu êm, ngọt ngào như thế.
Huế mộng mơ, Huế gợi bao thương nhớ, ân tình. Nhớ đến Huế, tôi lại nhớ đến dòng Hương giang với
vẻ đẹp trữ tình, duyên dáng. Một dòng chảy lững lờ mà sâu lắng, nước xanh mênh mang và mát rượi
vào lòng ta. Để rồi, dòng sông ấy đã chảy một dòng chảy hiền hòa vào những trang văn nên họa nên
thơ mà khi đi vào bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng chảy ấy lại
mang vẻ đẹp thân thương và độc đáo đến lạ. Vẻ đẹp ấy được thể hiện rõ trong đoạn trích “Từ đây, như
đã tìm đúng đường về... những vấn vương của một nỗi lòng.”
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí, với phong cách nghệ thuật độc đáo là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được ông
tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí...Tất cả được thể hiện qua lối
hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Ông đã có nhiều năm gắn bó với mảnh đất và con
người xứ Huế, vì thế, Huế là cội nguồn, là máu thịt, là nỗi nhớ nhung mà ông vẫn luôn đưa vào từng
trang văn của mình. Yêu Huế, ông đã yêu cả dòng Hương giang, để rồi viết nên bút kí “Ai đã đặt tên
cho dòng sông?”. Tác phẩm được viết tại Huế, năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Bài bút kí miêu tả
sông Hương từ nhiều góc độ như thiên nhiên, lịch sử, nghệ thuật, văn hóa. Đoạn trích nằm ở phần thứ
ba của tác phẩm, thể hiện vẻ đẹp của sông Hương trong lòng thành phố Huế, để rồi ta thấy được một
biểu tượng của cố đô, cái hồ của xứ Huế thân thương, thơ mộng và cả một tình yêu mãnh liệt của tác
giả dành cho xứ Huế.
Từ thượng nguồn khi sông Hương mang những cá tính độc đáo, đến cuộc tìm kiếm “có ý thức”, hướng
về thành phố thân yêu, trải qua cuộc hành trình gian truân, vất vả, cuối cùng sông Hương cũng đã “tìm
đúng đường về”. Tại đây, nó mang một tâm trạng vui tươi hẳn lên. Sông Hương như một nàng thiếu nữ
được gặp người tình mà mình đầy mong đợi, không còn mang vẻ “trầm mặc” khi gặp tiếng chùa Thiên
Mụ mà trở nên tươi vui, tràn đấy sức sống. Dù cuộc hành trình có khó khăn, gian khổ từ hướng nam
bắc, sang tây bắc, “đột ngột vẽ một hình cánh cung thật tròn về phía đông bắc”, sông Hương vẫn chảy
trôi với từng giọt niềm tin. Những giọt niềm tin ấy đưa sông Hương đến với xứ Huế mộng mơ, để rồi
có thể “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc”. Bao nhiêu khó khăn ở phía
trước giờ được đáp trả lại bằng những niềm vui, bằng sự yên tâm, dường như bao khát khao đã được
đáp trả, sự mong mỏi của cô gái ngày đêm mong đợi đã trở thành hiện thực. Suốt chặng đường, sông
Hương vẫn luôn kiên trì, hy vọng đến một ngày được gặp thành phố, chặng hành trình truân chuyên,
bền bỉ và kiên trì ấy cũng giống như cách mà con người Huế dựng xây và gìn giữ cố đô này. Đó là một
điều đáng mến, một điều quý giá của một tình yêu mãnh liệt, thủy chung.
Lúc này, sông Hương đã nhìn thấy “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời”. Đó là cầu
Tràng Tiền-chiếc cầu đã đồng hành cùng Huế suốt bao năm tháng, đã chứng kiến bao thăng trầm lịch
sử nơi đây. Cây cầu không chỉ lưu giữ bước chân của người đi qua mà còn lưu giữ cả một miền kí ức
lịch sử hào hùng của cố đô, là một chứng nhân lịch sử và cũng là một người bạn tri âm, tri kỉ của thành
phố nghìn năm này. Để rồi, mỗi khi nhắc đến cây cầu Tràng Tiền, ta lại nhớ đến mảnh đất xứ Huế với
vẻ trầm mặc, mộng mơ. “Phía đó, nơi cuối đường” là cây cầu Tràng Tiền gắn với mảnh đất cố đô.
Dường như sự mong mỏi, khát khao đã được đáp trả, một nỗi vọng trông đã được thực hiện nơi dòng
sông, để rồi ta thấy được rằng một hành trình kiên trì cuối cùng cũng sẽ có được kết quả, sẽ có được
niềm vui và hạnh phúc. Đặc biệt, nhà văn đã so sánh cây cầu trắng ấy với “những vành trăng non”-
một vành trăng non dịu êm, thơ mộng, trữ tình. Và dường như cây cầu cũng tỏa ra một thứ ánh sáng
êm ả, nhẹ nhàng, là ánh sáng báo hiệu sự yên bình, hạnh phúc đang chờ dòng sông ở phía trước, nơi
người tình vẫn đang đợi chờ.
Leonit Lenov từng cho rằng: “Có hai kiểu nhà văn thường gặp, kiểu nhà văn phóng bút tạo nên những
hình tượng góc cạnh, thô mộc; có kiểu nhà văn chỉ vẩy nhẹ ngòi bút mà hình tượng nghệ thuật đã sống
động, đẹp đẽ hơn cả cảnh thần tiên”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “phẩy nhẹ ngòi bút” mà ghi lại những
chuyển biến đầy tinh tế của sông Hương cùng sự e ấp, dịu dàng như một người thiếu nữ e thẹn, ngập
ngùng khi gặp tình yêu của mình. Khi đã “giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên”, Hương giang uốn một
đường cong rất nhẹ. Nếu như trên chặng đường đi đến tìm gặp thành phố, sông Hương đã “uốn những
đường cong thật mềm”, thật khéo léo, tinh tế, tạo nên một vẻ thật thật yêu kiều thật dịu dàng của dòng
Hương giang, thì khi đã ở trong lòng thành phố, sự yêu kiều, sự tinh tế, sự dịu dàng lại được toát lên
một cách mạnh mẽ và sâu sắc hơn nữa. Sông Hương đã mềm mại, đã trữ tình, thế nhưng đường cong
ấy lại càng khiến cho sông Hương trở nên mềm mại, nhẹ nhàng, dịu dàng hơn. Khi đã giáp mặt thành
phố-người tình mong đợi của mình, sông Hương tỏa sáng với vẻ đẹp đầy nữ tính, như một người thiếu
nữ e thẹn, ngại ngùng với một tiếng “vâng” không nói ra của tính yêu. Sự nhân cách hóa dòng sông
của Hoàng Phủ khiến con sông dịu dàng, nhẹ nhàng, vừa e ấp, kín đáo lại vừa tha thiết, mãnh liệt khi
gặp thành phố thân yêu. Sông Hương như một người thiếu nữ Huế nhẹ nhàng, thiết tha trong tà áo
trắng kín đáo, khiến cho người lữ khách thiết tha, mê say, đắm đuối. Tiếng “vâng” ấy như một cách để
thể hiện tình yêu- một tình yêu cháy bỏng của sông Hương dành cho xứ Huế nhưng lại được thể hiện
một cách vô cùng kín đáo, nhẹ nhàng.
Đã có lần, đứng trước dòng sông ban chiều tím biếc mộng mơ, nhà thơ Vũ Nguyên
Đạt đã chấp bút viết những vần thơ đầy xúc cảm rằng:
Ta về thăm Huế mộng mơ
Câu thơ ai thả lững lờ trên sông
Nghe mênh mông thổn thức lòng
Con thuyền buông mái giữa dòng Hương giang
Hương Giang đã không ít lần đi vào thơ ca nhạc họa như thế, nhưng mỗi lần tìm về với trang văn của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta vẫn thấy xuyến xao khôn nguôi trước vẻ đẹp của dòng sông đã từng trở
thành nàng thơ của biết bao văn nhân, thi sĩ xưa nay. Dưới ánh nhìn của ông, sông Hương đa tình
nhưng lại e ấp, kín đáo, càng tha thiết trong trái tim bao nhiêu, lại càng e thẹn, ngại ngùng, kín đáo khi
gặp người mình thương bấy nhiêu. Nó mang đậm chất Huế, phong cách của con người Huế, của người
phụ nữ xứ Huế mộng mơ. Có lẽ bởi đã gắn bó lâu với Huế, đã quá
yêu Huế, quá yêu thành phố thân thương này nên từng dòng chảy của nó đều có Huế, có chất Huế, có
sự đằm thắm, thiết tha của con người Huế, khiến mỗi thi nhân, văn nhân vì thế mà đắm say không rời,
để rồi đưa vào từng câu văn, câu thơ đẹp đẽ của mình.
Dưới ngòi bút thấm đượm tình yêu dành cho Hương giang, nhà văn đã đặt nàng thơ của mình trong
mối tương quan với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới: sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-
đa-pét. Cũng giống như hai dòng sông ấy, sông Hương cũng nằm trong thành phố thân yêu cũng mình,
tạo nên vẻ đẹp cho thành phố ấy. Thế nhưng, sông Hương lại mang dáng vẻ trầm mặc mà “không một
thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Bên dòng sông Hương, “Huế trong tổng thế vẫn giữ
nguyên dạng một đô thị cổ”, một đô thị trầm mặc, u hoài, cổ thi và triết lí. Những “cây đa, cây cừa” cổ
thụ nhưng càng tô đậm thêm nét u hoài ấy. Nó đã cùng sông Hương chứng kiến vùng đất đô thị cổ qua
bao tháng năm, đã ở đó, tạo nên dáng hình, nét đẹp cổ kính của xứ Huế. Vậy nên, dù cho có “những
xóm thuyền xúm xít”, dù nhịp sống sôi động vẫn luôn chảy trôi với sự lao động, mưu sinh hàng ngày
của người dân nơi đây, xứ Huế vẫn mang một nét cổ kính xưa, vẫn giữ dáng vẻ trầm mặc, u hoài, và
cuộc sống nơi đây vẫn yên bình chảy chôi như thế. Sông Hương đã từng thiết tha yêu xứ Huế trong
cuộc kiếm tìm tình yêu, từng mãnh liệt, bồi hồi, đêm ngày ngóng trông người tình của mình, từng kiên
trì với chặng hành trình đầy gian truân ấy để giữ mãi tình yêu thủy chung dành cho Huế. Và bây giờ,
khi đã được hòa vào lòng thành phố, khi đã được ôm trọn xứ Huế vào lòng, từng nhánh sông với bao
nhiêu yêu thương mãnh liệt, thủy chung, son sắt “tỏa đi khắp phố thị”. Ta nhớ Giang Hồng đã từng có
những vần thơ sâu sắc về mối tình đậm sâu ấy:
Ngày tuổi nhỏ tôi vẫn thường hỏi mẹ
Sao nước sông Hương lại xanh ngắt màu mơ
Mạ ôm tôi vào lòng vuốt mái tóc lơ thơ
Nước sông Hương xanh vì chảy qua trái tim của Huế
Phải chăng chỉ vì thuộc về một thành phố duy nhất - Huế, phải chăng vì tình cảm quá thiết tha, quá
mãnh liệt, quá sắt son mà sông Hương đã phô bày cả tấm lòng mình, phô bày cả trái tim chân thành
của một người con gái vẫn ngày đêm mong chờ, khát khao tình yêu, bày tỏ tình cảm của một dòng
sông xứ sở.
Khi đến đêm, ánh lửa của chiếc thuyền chài trên sông lại soi sáng đến “những linh hồn mô tê xưa cũ”-
những linh hồn cũ xưa, mộc mạc, dân giã mà thành phố vẫn luôn giữ trong mình. Bởi những triều đại
lịch sử đã đi qua, bởi một thời quá khứ vàng son của dân tộc, như một dòng nhựa chảy trôi để ta nhớ,
để ta biết ơn về cội nguồn của chính mình. Vì vậy, “linh hồn mô tê xưa cũ” đã tạo nên nét đẹp cổ kính
của cố đô-một cố đô u hoài, luôn trầm mặc, lắng đọng với thời gian. Khi sống ở Huế, sông Hương đã
hòa quyện và trở thành một phần không thể tách rời với Huế, sông Hương như bắt trọn từng phút giây
nơi đây, từ “những nhánh sông đào mang nước”, “những cây đa, cây cừa cổ thụ”, đến những “xóm
thuyền”, những “linh hồn mô tê xưa cũ”. Để rồi dòng sông được sống lâu hơn, sống trọn và sống sâu
với xứ Huế. Và dòng sông ấy cũng đã làm tăng lên vẻ đẹp trầm mặc, thâm nghiêm, u tịch cho thành
phố ngàn năm tuổi này.
Hòa mình vào bức tranh xứ Huế, sông Hương đã góp những gam màu dịu dàng, đằm thắm với điệu
chảy lặng tờ của mình, cùng những thanh âm trong “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Trong
khoảnh khắc đắm chìm bên nhịp chảy lặng tờ của sông Hương, Hoàng Phủ đã có dịp nhớ đến những kí
ức với sông Nêva nơi nước Nga xinh đẹp. Sông Nêva hiện lên thật sinh động, rực rỡ với những gam
màu sắc lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời mùa xuân, với những con hải âu nghịch ngợm đứng co lên
một chân, với những chiếc thuyền xinh đẹp và những đoàn tàu tốc hành chở những hành khách tí hon.
Trong tâm tưởng của nhà thơ, dóng sông luôn mạnh mẽ “cuốn trôi những đám băng lô xô” và chính
dòng sông cũng đã gợi cho ông về một miền kỉ niệm, khiến ông nhớ đến giấc mộng tuổi dại của mình
“làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển”, được tự do tự tại, thoải
mái tung bay, ngắm nhìn những thứ đẹp đẽ nhất trên cuộc đời này. Ta dường như thấy được sự quý
mến, trân trọng vạn vật trong cuộc sống của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi những con hải âu, những
chiếc thuyền hay những dòng sông-những sự vật tưởng chừng như vô tri vô giác lại nên câu thành chữ,
tạo nên những câu văn thật đẹp nhờ ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông say mê, thích
thú, “cuống quýt vỗ tay” khi ngắm nhìn con sông chảy siết ấy, nhưng rồi chợt nhận ra dòng sông chảy
quá mạnh, quá nhanh, khiến những chú hải âu chưa kịp nói điều gì với người bạn của chúng, để lại một
nỗi tiếc nuối, hụt hẫng mà “ngẩn ngơ trông theo”. Ông nhớ đến câu chuyện của một người Hy Lạp đã
khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh. Có lẽ, đối với ông, dòng sông ấy tượng trưng cho
sự bộn bề, tấp nập của nhịp sống vội vàng, nhanh chóng và khi con người hòa cùng với nhịp điệu ấy,
họ sẽ bỏ lỡ một điều gì đó, như một lời tạ từ, một lời chào tạm biệt, một lời hẹn gặp lại, họ sẽ không
thể cảm nhận trọn vẹn được những vẻ đẹp trân quý, để rồi khi đi qua sẽ chỉ còn sự nuối tiếc, sự nhớ
nhung những thứ mà ta đã bỏ lỡ. Và lúc này, sông Hương hiện lên thật khác biệt với dòng sông có nhịp
điệu thật mạnh mẽ ấy, nó mang lại cảm giác thanh bình, yên ả, một cảm giác dịu êm, xoa dịu cõi lòng,
chữa lành trái tim đang chứa những vết nứt. Điệu chảy lặng tờ, chảy trôi thật nhẹ nhàng, chậm rãi của
sông Hương có thể nhìn theo từ nhiều góc độ. Dưới góc độ địa lí, những chi lưu cùng hai hòn đảo trên
sông đã giảm hẳn lưu tốc của dòng sông, khiến sông Hương trôi thật chậm. Nhưng có lẽ, đó là một trái
tim đang cố níu kéo những khoảnh khắc được ở trong vòng tay của thành phố mà mình yêu thương, nó
cố trôi qua thật chậm để sống lâu hơn, để sống được trọn vẹn trong tình yêu, được đắm say, được thiết
tha bên cạnh tình yêu của mình. “Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của toi, chợt thấy quý điệu chảy
lặng lờ của nó khi đi ngang qua thành phố...” Dấu chấm cảm ở cuối câu như khiến tình cảm của dòng
sông như ngân vang, như không có bất kì giới hạn nào bởi sông Hương đã dành trọn tình cảm dành
cho xứ Huế một cách đầy mãnh liệt, sâu sắc và thủy chung nhất. Và bởi tình yêu nhẹ nhàng mà đằm
thắm, đắm say ấy đã khiến con người cảm thấy thật yên bình, thơ mộng, khiến nhà văn không khỏi nhớ
nhung, trân quý điệu chảy lặng tờ như đang cố níu giữ người tình của dòng sông Hương.
“Điệu slow tình cảm” là món quà quý giá mà sông Hương dành tặng riêng cho xứ Huế, là sự an nhiên,
sự bình yên của một tình yêu sâu lắng, của hai mảnh ghép đã tìm thấy nhau sau cuộc hành trình đầy
khó khăn, trắc trở. Điệu slow ấy đã được thể hiện trong một khung cảnh nên thơ, lãng mạn, đậm chất
văn hóa Huế với “trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh” vào đêm hội. Sự chuyển đổi đầy tinh tế của
Hoàng Phủ Ngọc Tường từ những cảm nhận của thính giác sang sự cảm nhận bằng thị giác, để ta thấy
được một khung cảnh lãng mạn như chỉ dành riêng cho hai người, nơi ấy có tiếng nhạc du dương, êm
đềm, bay bổng của “điệu slow tình cảm”, có ánh sáng lung linh, huyền ảo, có một tình yêu say đắm,
thiết tha. Và trong giây phút tuyệt đẹp ấy, sông Hương “ngập ngừng như muốn đi muốn ở”, không nỡ
rời xa thành phố thân yêu này, không nỡ trôi quá nhanh mà chỉ “chao nhẹ trên mặt nước như những
vấn vương của một nỗi lòng”, một nỗi lòng thiết tha và khao khát với tình yêu, một nỗi lòng yêu say
đắm xứ Huế. Nỗi vấn vương ấy trao đến xứ Huế mộng mơ, để nó sẽ luôn căng tràn trong lòng Huế, để
khi rời đi ta vẫn sẽ luyến lưu, tiếc nuối và yêu hơn một dòng sông luôn gắn bó với thành phố thân yêu
của mình. Dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hương giang hiện lên thật sinh động, thật
“người” biết mấy, mang theo nỗi niềm của người thiếu nữ trong tình yêu mà quyến luyến trôi đi.
Những xúc cảm ấy của Hương giang, có phải ta cũng đã từng gặp trong thơ Thu Bồn?
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.
Có phải vì tình cảm quá sâu nặng nên con sông cứ luôn “dùng dằng”, trôi thật chậm, thật chậm, không
muốn chảy trôi để giữ trọn mọi khoảnh khắc được đắm mình trong xứ Huế thân yêu. Và sông Hương
cũng như con người Huế: thâm trầm, sâu sắc, kín đáo mà yêu thương cháy bỏng, mãnh liệt.
Nếu Nguyễn Tuân “viết bút kí như một công trình khoa học” (Phan Ngọc), thì ký của Ngọc Tường
chính là tác phẩm văn xuối kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ. Đọc từng trang văn của “Ai đã đặt
tên cho dòng sông?”, hiện ra trước mắt độc giả là dòng chảy mang linh hồn của cả đất Huế, vừa man
dại phóng khoáng, vừa mềm mại, uyển chuyển, dịu dàng. Bằng sự kết hợp độc đáo, sự tài hoa, uyên
bác, am hiểu sông Hương cùng trường liên tưởng, so sánh ví von thú vị, và lối hành văn súc tích,
hướng nội, mê đắm lòng người, nghệ thuật ngôn ngữ mượt mà, giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã khiến cho người đọc chìm đắm trong dòng chảy êm ru, hiền hòa mà kín đáo, chung tình của dòng
Hương giang. Chất trữ tình được nhà văn kết hợp khéo léo, nhuần nhuyễn, tạo nên những trang văn
nên thơ nên họa, đi vào lòng người đọc và sống mãi trong lòng người đọc qua bao tháng năm.
Như I.Ê-ren-bua đã từng viết: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Von-ga, con sông
Von-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu gia đình, yêu miền quê trở thành tình yêu tổ quốc”, tình cảm đối
với sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là tình cảm đối với đất nước, với quê hương là tấm
lòng yêu mến xứ Huế nồng cháy của nhà văn. Bởi yêu Huế lắm, gắn bó với Huế lắm, văn nhân mới
viết nên những trang văn tuyệt đẹp về con sông cố đô đến như vậy. Sự am hiểu về một vùng văn hóa
xứ sở, sự cảm nhận tinh tế về dòng chảy sông Hương hay việc đặt nàng thơ của mình với những con
sông khác trên thế giới, tất cả đều cho thấy sự tự hào, niềm say đắm mãnh liệt, yêu quý và trân trọng
linh hồn của xứ Huế, tất cả những thứ thuộc về cố đô ngàn năm. Và sở dĩ văn nhân đã chọn dòng sông
Hương để miêu tả, để trao gửi tình cảm của mình dành cho xứ Huế bởi “mỗi giòng sông đều để lại
trong lòng những đứa con rất gần gũi với nó những kỉ niệm riêng tư. Kỉ niệm thì khó quên. Và kỉ niệm
về một giòng sông thì bao giờ cũng đẹp.” (Trịnh Công Sơn) Gắn bó với xứ Huế, có những kỉ niệm, cả
một miền kí ức bên Huế với những sợi nhớ sợi thương tha thiết, mãnh liệt, nhà văn cũng đã có những
kí ức khó quên với dòng sông Hương, để rồi say đắm, yêu quý, trân trọng, ngợi ca dòng sông, thương
yêu xứ Huế ngàn năm qua từng lời văn của mình. Để rồi, khi người đọc cảm nhận từng trang văn của
ông, ta lại càng thêm thấu hiểu, thêm yêu, thêm quý một cố đô Huế cổ kính, lãng mạn, thơ mộng.
Thiên bút kí đã tạo cho mỗi người đọc một tình yêu Huế thuần khiết, sâu nặng dù đã đến hay chưa đến
Huế, như người ta yêu Hà Nội như đọc văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân.
Gấp lại trang viết đậm chất trữ tình của bút kí đặc sắc “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” cùng cái tôi mê
đắm và tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dường như
tâm trí độc giả vẫn còn vương vẫn mãi dáng hình của một dòng sông trầm mặc, dịu dàng, duyên dáng,
thiết tha nơi miền đất cố đô xứ Huế mộng mơ năm nào. Để rồi dòng sông ấy cứ thế chảy trôi, chảy vào
một miền thương, một miền nhớ, một vùng đất xa thẳm nơi trái tim bạn đọc về vẻ đẹp muôn đời, tồn
tại mãi ngàn năm:
Huế vẫn thế bao đời nay vẫn thế
Hương giang trôi còn trôi mãi ngàn năm
(Theo anh về Huế, Huỳnh Minh Nhật)

𝐓𝐓𝐒 - Về thái độ sống tích cực và dòng chảy sông Hương dịu dàng trong Đề thi tham khảo môn Văn
năm nay
𝟏. Những suy nghĩ và cảm nhận của em bé TTS-ER 2k5 9.5+ về ý nghĩa của thái độ sống/thái độ sống
tích cực.
Andersen từng nói “Chỉ sống thôi là chưa đủ, phải sống có ánh sáng, có tự do, có hương hoa ngào
ngạt", vì thế, để cuộc đời ngọt ngào hương sắc hạnh phúc và yên vui, ta cần xây dựng và thấu hiểu về ý
nghĩa của một thái độ sống tích cực. Thái độ sống là những hành vi, suy nghĩ, định hướng chi phối
cách mỗi người thể hiện bản thân với thế giới bên ngoài; có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc
sống, bởi trước tiên, chính lối suy nghĩ tích cực sẽ góp phần định hình, xây dựng ấn tượng của bản
thân với những điều đang hiện hữu trong cuộc sống của mình. Và hơn thế, cuộc sống giống như một
đại dương luôn tồn tại những đợt sóng ngầm, khi ấy, chính góc nhìn tích cực sẽ quyết định cách ta đối
mặt và vượt qua những thử thách, biến cố bất ngờ ập tới. Ranh giới giữa một ngày may mắn hay tồi tệ
nằm ngay ở chính cách mỗi người đối diện với nó; mọi trở ngại, khó khăn sẽ không bỗng chốc dễ dàng
hơn, nhưng ta hoàn toàn có thể suy nghĩ, cảm nhận về nó bằng sự chuyển hoá từ cảm xúc tiêu cực, bi
quan thành nhìn nhận tích cực, lạc quan: Ta sẽ không thể khứ hồi thời gian để tránh đến trường với một
chiếc xe hư, nhưng ta có thể luôn cảm thấy may mắn khi mình còn có thể sửa chiếc xe ấy, khi mình
vẫn an toàn và khoẻ mạnh; Ta sẽ không chạy trốn được một kết quả chưa như ý hay những căn bệnh đã
đến, nhưng ta có thể trân quý cơ hội được còn thời gian để nỗ lực tạo ra một kết quả tốt hơn, xây dựng
lối sống khoa học hơn cho mình. Chính góc nhìn tích cực sẽ “tạo ra một lực hút lớn đối với những điều
tốt đẹp" (Michael J. Ritt), đó là cách để ta tự thắp cho mình một ngọn nến thơm sáng rực khi tìm kiếm
ý nghĩa cuộc đời. Bên cạnh đó, người có thái độ sống tích cực sẽ dễ dàng hòa nhập, kết nối và cộng tác
trong một tập thể, tạo nên những giá trị cao đẹp cho cộng đồng và được mọi người xung quanh yêu
quý, kính trọng. Bởi từ câu chuyện của người dẫn chương trình trẻ Khánh Vy - dù có lúc mệt mỏi
nhưng mỗi khi xuất hiện trên sóng truyền hình, cô vẫn luôn giữ một nụ cười tươi vui và tràn đầy sức
sống như cách cô từng chia sẻ: “Mỗi lần bạn chán chường, thất vọng, về một việc gì đó hay về bản
thân, mỉm cười một cái. Hoặc cứ mỗi lần đứng trước gương mỉm cười một cái. Gặp mọi người, mỉm
cười chào hỏi. Cười giúp chúng ta sản sinh dopamine - hormone hạnh phúc, giúp cơ thể ta khoan khoái
hơn”, chính nguồn năng lượng dồi dào ấy đã truyền đi rất nhiều cảm hứng cho các bạn trẻ hiện nay.
Thế nhưng, đôi khi chúng ta vẫn mải miết chạy theo những kì vọng rồi thất vọng mà quên cách chăm
sóc đời sống tinh thần của mình; có những người đã luôn thụ động, bi quan trước những khó khăn thử
thách, họ chỉ mãi nhìn về sai lầm của quá khứ mà quên lãng vẻ đẹp của ngày mai. Vì vậy, một thái độ
sống tích cực, đúng đắn trên hành trình phát triển bản thân sẽ giúp mỗi người sống vui vẻ, tốt đẹp hơn
từng ngày. Bởi sau cùng, thái độ sống tích cực không được đo lường bằng một định nghĩa cụ thể, mà
đó chính là hành trình ta ươm mầm và vun đắp cho một nụ cười hạnh phúc, một tâm hồn an vui, một
cuộc đời nhiều giá trị như lời tôi luôn tâm niệm trong trái tim mình: “Một lần đến nhân gian, hãy sống
đời rực rỡ”! (Lương Sảng).
| Đoạn văn luận bàn của em bé TTS-ER 2k5 9.5+ 𝓝𝓰𝓾𝔂𝓮̂̃𝓷 𝓗𝓸𝓪̀𝓷𝓰 𝓓𝓲𝓮̂̃𝓶 𝓗𝓾𝔂𝓮̂̀𝓷 - Lớp 12.2 -
Trường THPT Cao Bá Quát - Tỉnh Quảng Nam; TTS-ER 9.5+ trong kì thi TN THPT 2023 - 𝓚𝓱𝓸𝓪́
𝓱𝓸̣𝓬 𝓥𝓪̆𝓷 𝓒𝓱𝓾𝔂𝓮̂𝓷 𝓼𝓪̂𝓾 𝓣𝓸̂̉𝓷𝓰 𝓸̂𝓷 𝓿𝓪̀ 𝓛𝓾𝔂𝓮̣̂𝓷 đ𝓮̂̀.
Đọc thêm tham khảo:
“Giống như Bác sĩ tâm lý người Do Thái Viktor Frankl trong khoảng thời gian bị Đảng Quốc Xã Đức
giam ở Trại tập trung Auschwitz, ngày nào ông cũng phải sống trong nỗi khủng hoảng. Hằng ngày, ông
phải ra công trường lao động, suy nghĩ trong đầu ông toàn là những ảo tưởng tuyệt vọng đại loại như “
liệu có còn sống sót qua đêm nay hay không”.
Thay vì chìm đắm trong cảm giác bất an và chán chường, lúc đi lao động buổi sáng, ông cố tình tưởng
tượng mình đang đi trên đường diễn thuyết, ông đi tới một khán phòng ngập tràn ánh sáng, tinh thần
sảng khoái, tràn đầy sức sống để bắt đầu một buổi diễn thuyết. Trên khuôn mặt ông dân hiện ra một nụ
cười đã từ lâu không nhìn thấy, khi ông nhận ra rằng ông có thể cười, ông liền biết rõ, mình sẽ không
phải chết ở trại tập trung này, nhất định ông sẽ sống sót để ra ngoài. Sau khi được phóng thích, ông vẫn
giữ cho mình một nét trẻ trung”.
𝟐. Bài văn Nghị luận văn học của em bé TTS-ER 2k5 9.5+ 𝓝𝓰𝓱𝓲𝓮̂𝓶 𝓛𝓮̂ 𝓣𝓱𝓾̣𝓬 𝓐𝓷𝓱 9.5+ lớp
12D1 - Trường THPT Cầu Giấy, Hà Nội; TTS-ER 9.5+ trong kì thi TN THPT 2023 - 𝓚𝓱𝓸𝓪́ 𝓱𝓸̣𝓬
𝓥𝓪̆𝓷 𝓒𝓱𝓾𝔂𝓮̂𝓷 𝓼𝓪̂𝓾 𝓣𝓸̂̉𝓷𝓰 𝓸̂𝓷 𝓿𝓪̀ 𝓛𝓾𝔂𝓮̣̂𝓷 đ𝓮̂̀.
Lưu Hiệp từng viết rằng “Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời”. Trái tim của một người
nghệ sĩ dường như là một mảnh đất văn chương đầy nhiệm màu, mà ở đó những rung cảm thiết tha
nhất, đẹp đẽ nhất đã ươm mầm lên bao lời thơ văn như biết hát, để thay tiếng lòng cuộn trào, cất lên
niềm thương về cuộc đời, về những “bể dâu” vần xoay thổn thức nơi tâm khảm của nhà văn. Và có lẽ
bởi vì đã “trầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế” (Tô Hoài),
hình ảnh về miền đất cố đô cũng như dòng sông Hương nên thơ nên mộng vốn đã thấm cảm vào trong
từng nhịp thở, trong từng sợi thương sợi nhớ cũng chảy vào trong trang văn “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đầy tự nhiên và dịu dàng tới thế. Hình ảnh sông Hương trong thi
ca nhạc họa, khi rời khỏi “người tình mong đợi” - thành phố Huế, cũng như vẻ đẹp của nó qua lăng
kính lịch sử, qua ngòi bút trữ tình nhưng cũng rất mực trí tuệ của thi nhân, đã được khắc họa đầy lãng
mạn, sâu lắng và hào hùng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn chuyên về kí. Hoàng Cát từng nhận xét nhà văn “có một
phong cách viết bút kí văn học của riêng mình.”, có lẽ vì thế mà qua các tác phẩm như “Ngôi sao trên
đỉnh Phu Văn Lâu”, “Ngọn núi ảo ảnh”,... ta đều cảm nhận được một nét bút rất “Hoàng Phủ”, mang
đậm sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa chất nghị luận sắc bén với tính suy
tư đa chiều được tạo nên từ vốn kiến thức uyên bác sâu rộng của nhà văn về triết học, lịch sử, địa lí.
Tất cả điều ấy được thể hiện qua nét văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Để rồi chính nhà văn
đã gửi trao tất cả tinh túy ấy qua những dòng văn “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết tại chính
đất Huế vào những ngày đầu của năm 1981 và được in trong tập truyện cùng tên. Tác phẩm mang
trong mình một nét dịu êm đặc trưng của đất Huế, của một người luôn yêu và tự hào về mảnh đất Kinh
kỳ mà ông đã gắn bó cả nửa kiếp nhân sinh, về dòng sông Hương như đã thành máu chảy trong trái tim
“nhà-Huế-học” này. Hình ảnh dòng sông Hương trong với những vẻ đẹp đặc trưng lắng mình trong văn
hóa mảnh đất cố đô, trầm mình trong lịch sử đất nước cùng tình yêu bịn rịn của nàng với thành phố
Huế đã được văn nhân, với một lòng vấn vương về quê hương, đất nước và đặc biệt là vùng đất Kinh
Kỳ, khắc họa đầy dịu dàng, độc đáo qua những dòng văn bàng bạc trữ tình viết về sông Hương rời
thành phố Huế cũng như qua hai góc nhìn văn hóa và lịch sử.
Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như một nét thư pháp mềm mại nhưng lại đậm sâu trong
tâm hồn thi vị của ông, vang bóng ngàn năm “kinh hồng diễm ảnh” về một dòng sông của riêng đất
Huế. Bức tranh thủy mặc về Hương giang, qua ngòi bút bậc thầy của văn nhân họ Hoàng, hiển lộ trong
mắt người đọc một hành trình gian truân kiêu hùng mà cũng đầy trí tuệ, dịu dàng của dòng sông này.
Hoang dại và “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” tựa một cô gái Di-gan, sông Hương vén màn hoa đỏ
“dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên” bước ra khỏi cánh rừng già với một vẻ đẹp yêu kiều trí
tuệ, trở thành “người mẹ phù sa của một văn hóa xứ sở”. Trong cuộc tìm kiếm có ý thức của “người
đẹp ngủ” nơi cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, nàng Hương giang đã phải băng qua giữa núi đồi sừng
sững, trầm mặc trôi quanh những lăng thành cổ kính để nghe một tiếng chuông Thiên Mụ vọng vang
làm rung động tiếng lòng “phẳng lặng” của mình. Dường như Huế trong đôi mắt của nàng Hương
giang cũng là một “kinh hồng diễm ảnh”, có lẽ bởi vậy mà sông Hương chọn dừng chân “lặng lờ trôi”
trong lòng thành phố Huế, âu cũng là do “một thoáng kinh hồng” mà lưu luyến. Để rồi đây, trong một
nỗi “vấn vương” da diết, sông Hương gửi lại nỗi niềm của mình qua thi ca nhạc họa, qua sử thiêng dân
tộc, để trở thành một “kinh hồng diễm ảnh” với đô thành năm ấy và với quê hương, đất nước tới bao
thế kỉ và cho đến cả ngày sau.
Khi nghiên cứu kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lê Trà My đã có nhận xét: “Khi nhìn các vấn đề, nhà văn
thường đặt chúng trong chiều sâu văn hoá dân tộc, khám phá ở đó những giá trị văn hoá, bằng những
năng lực nội cảm của chính bản thân mình.”. Dường như trong từng câu từng chữ của văn nhân họ
Hoàng, đều ánh lên một chất suy tư bàng bạc về văn hóa của mảnh đất Huế và cũng là một bình diện
văn hóa góp phần giàu đẹp cho Tổ quốc. Nhắc đến xứ Huế và sông Hương, tác giả không quên hình
ảnh của nàng Hương giang với nét đẹp tựa thi tựa ca, đã đi vào trong tiếng đàn ca Huế du dương, và đi
vào thiên truyện “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du tiếng đàn như một nét luyến láy vấn vương
của Kiều dành cho Kim Trọng, hay cũng là sông Hương dành cho xứ Huế. Ca Huế bắt nguồn từ khi
nào, có lẽ cũng là một “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” khác trong chính tác phẩm, một câu hỏi ngỏ. Ca
Huế là một phần của văn hóa Huế, nó chịu ảnh hưởng bởi cỏ cây, hoa lá, đất và người cố đô; nó mang
trong mình nét vàng son cao quý của một triều đại bắt đầu và kết thúc nơi dòng Hương giang này, nó
mang một nét tinh túy khó phai trong trái tim của những người Huế - người yêu Huế và đặc biệt là
“nhà-Huế-học” Hoàng Phủ Ngọc Tường. m nhạc cung đình Huế này đã gắn liền với tuổi thơ của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, đi sâu vào tiềm thức và thấm nhuần trong từng hơi thở của văn nhân họ
Hoàng. Chính nhà văn cũng từng tâm sự: “Những kỉ niệm thời ấu thơ như những đêm nghe ca Huế dù
đã cách nay hơn nửa thế kỉ nhưng tôi vẫn không quên. Ngày đó những đêm ca Huế không sân khấu
đèn màu, không “micro”, người nghe ngồi bệt dưới nền đất để thưởng thức âm nhạc. Những kỉ niệm
dung dị đó đã ám ảnh suốt những năm tháng tôi xa sông Hương. Sau này, để bài ký đầu tiên trong cuộc
đời sáng tác của tôi là con sông quê hương…”. Trong tâm hồn và đôi mắt đã quen với màu xanh biếc
của dòng sông Hương, nhà văn đã khẳng định rằng “ toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh
thành trên mặt nước của dòng sông này”. Hương giang, trong khoảng lặng của nỗi khắc khoải thương
nhớ, qua góc nhìn âm nhạc đầy độc đáo, đã được nhà văn ví như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya”. Bức tranh thủy mặc về cảnh sắc của đô thành xưa cũ vào đêm dường như bừng sáng lên trong
tiếng đàn của nàng Hương giang đầy yêu kiều, kiều diễm. “Tài nữ” để chỉ người con gái đẹp và có tài,
giờ đây mỹ nhân với đôi bàn tay nhẹ lướt trên những cung đàn, trong cái du dương thầm thì của đêm
đen, đã đánh một bản nhạc biểu trưng của vùng văn hóa xứ sở. Có phải, chỉ trong đêm khuya tĩnh lặng,
khi mọi ồn ào, huyên náo và phồn hoa của xứ Kinh kỳ phai nhạt dần trong mộng đẹp của con người,
người ta mới có thể thấu trọn thanh âm tuyệt vời của những bản nhạc Huế đã truyền từ đời này sang
đời khác, rung cảm từ trái tim này tới tâm hồn khác, để rồi nhà văn chẳng ngại tỏ bày: ”Đã nhiều lần
tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát”. Chất trí tuệ và chất thơ
được kết hợp hài hòa tạo nên bút pháp độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường - một “lãng tử uyên thâm”
dành trọn lòng với Huế, âm nhạc cổ điển Huế chỉ thật sự là chính nó, nguyên sơ và trọn vẹn nhất khi
nó được “được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa
tiếng nước rơi bám âm của những mái chèo khuya.”. Tiếng hát, tiếng đàn mang “quốc hồn, quốc tủy”
của một thời đại, và đã thấm vào từng tấc đất, từng cái gợn mênh mang của sông Hương hòa cùng
tiếng tim đập đầy rung cảm của một người nghệ sĩ mang trong mình nỗi yêu say đắm với thiên nhiên,
nhất là đất Huế đã tạo nên một khung cảnh nên thơ nên mộng. Những thanh âm ấy, mềm mại và dịu
êm như trăng soi bóng nước, chiếu vào lòng những người con cố đô, đi qua bao thế giới nồng say thi vị
vẫn chỉ yêu quý và giữ trong lòng tiếng đàn trên sông vào buổi đêm.
Bức tranh sông nước hòa cùng nét văn hóa đặc sắc của cố đô đã được tái hiện thơ mộng, đầy thi vị
trong ngòi bút tài hoa của người “tài tử kinh thành” này, từ đó cảm nhận được tình cảm trân quý nét
văn hóa của sông Hương - xứ Huế cũng như vẻ đẹp của đất nước của tác giả. Để rồi tiếng ca “Nam ai
nam bình” đã theo thời gian đã xóa tan đi “mọi định luật về sự băng hoại” để vấn vương không chỉ
trong tiếng văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, trong lời thơ của Thanh Hải “Tiếng nam ai nam bằng/
Nước non ngàn dặm mình/ Đất Huế/ Nhịp phách tiền…” mà còn lại tiếng lòng nuối tiếc của Thạch
Quỳ về triều đại cũ:
“Ai ngâm khúc nhạc cung đình
Để ai thương cả Hoàng thành cỏ rêu…”
Và trong khoảnh khắc lặng say trong men đàn, tửu ca của nhã nhạc xứ Huế, văn nhân nhớ về “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du, cũng như “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Chế Lan Viên khi nhắc đến
Truyện Kiều đã từng nói rằng “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Những dòng sông là
nơi bắt đầu của một nền văn minh, và Hoàng Phủ Ngọc Tường - với một vốn kiến thức phong phú về
lịch sử, địa lý, văn hóa và triết học đã khiến người đọc thổn thức và bất ngờ khi biết rằng áng văn lay
động và xuất sắc nhất của Việt Nam cũng được khởi sinh từ đây, trong sự rung cảm của âm nhạc cổ
điển Huế. Nguyễn Du đã dành đời mình để đi qua những “bể dâu” đau thấu lòng, mà tạc ra “Truyện
Kiều” bằng huyết lệ, đã từng “bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu”:
“Hương Giang nhất phiến nguyệt,
Kim cổ hứa đa sầu”
(Một mảnh trăng trên sông Hương
Gợi bao nỗi sầu kim cổ)
Trăng trên sông Hương như ôm lấy tiếng đàn réo rắt để chảy vào đời Tố Như những nỗi nhớ, cũng
chảy vào đời Thúy Kiều qua những bản nhạc tính bằng kiếp số. Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như đã
hóa thân thành một nghệ nhân già, lắng nghe những câu thơ tả tiếng đàn của nàng Kiều “Trong như
tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời” và hết lòng tâm đắc “nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào
trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”. Chỉ với một câu “Đó chính là Tứ đại
cảnh” đã lần nữa khẳng định chắc chắn hơn về mối quan hệ gắn bó sâu sắc giữa sông Hương và nền
âm nhạc cổ điển Huế. Có lẽ, nền âm nhạc cổ điển ấy không chỉ trở thành niềm cảm hứng của đại thi
hào sáng tác nên tuyệt tác ba nghìn hai trăm năm mươi tư câu theo thể lục bát ấy, mà còn là niềm
thương nhớ trong tấm lòng nâng niu của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Dù cách nhau qua bao thế hệ, nhưng
giữa Nguyễn Du và Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như đã “gặp” nhau ở một tâm hồn đồng điệu, niềm
giao cảm của những người nghệ sĩ hết lòng vì cái đẹp, vì cuộc đời. Hương giang đã khiến những bản
nhạc Huế trở nên dịu dàng và da diết hơn bao giờ hết, còn âm nhạc cổ điển Huế lại khiến cho dòng
sông trở thành một sinh thể có hồn, cứ vậy bước vào áng bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường, để lại
cho ta bao nhớ, bao thương về bóng dáng của “người tài nữ đánh đàn đêm khuya”, hay cũng chính là
cô Kiều đánh đàn “đã đi vào lịch sử” và còn cả cách văn nhân họ Hoàng hết lòng với con sông quê
Hương này.
Chảy trôi nơi dòng văn hóa của đất Việt, sông Hương thường mang theo một nét đẹp duyên dáng, hữu
tình, trở thành một dòng chảy dạt dào cảm xúc trong vô vàn tác phẩm của những người nghệ sĩ tài ba.
Hương giang đi vào thơ Cao Bá Quát mang đậm khí khái “Trường giang như kiếm lập thiên thanh” thì
Hàn Mặc Tử lại chọn “Đêm khuya tự tình với sông Hương” : “Sông Hương hỡi, xuân vừa tơ liễu/ Cả
trăm hoa hàm tiếu nhởn nhơ”. Hay với Bà Huyện Thanh Quan, dòng Hương giang là “nỗi quan hoài
vạn cổ với bóng chiều bảng lảng” còn sông Hương trong thơ Bùi Giáng sống động như một điều hiển
nhiên, một báu vật của riêng đất Huế “Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn núi Ngự/ bên bờ sông
Hương”. Có thể nói mỗi lần dòng sông Hương xuất hiện trong những áng văn chương thời đại đều là
“tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần” của mỗi nhà văn nhà thơ. Và Hoàng Phủ Ngọc
Tường cũng cho ta thấy hình ảnh sông Hương mà ông đã được lắng nghe, được thấu cảm, nhưng là
hình ảnh của một Hương giang lưu luyến và độc nhất vô nhị, khi nàng từ giã “người tình mong đời”,
rời xa thành phố Huế. Cuộc gặp gỡ nào cũng phải ly tan, nỗi nhớ thương và luyến tiếc dẫu cho đậm
sâu cách mấy vẫn phải nói một lời tạm biệt. Bởi vì trong cuộc đời này, nếu “Kẻ làm thơ không được
đánh mất đi tấm lòng trẻ thơ” như Viên Mai đã từng viết thì “kẻ đi yêu” cũng chẳng thể lỡ chuyến
hành trình của cuộc đời mình. Trong hành trình Hương giang rời khỏi kinh thành Huế “chếch về hướng
bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói”, ta cảm nhận được một nỗi thương
nhớ dâng trào lên nơi ngòi bút của nhà văn. Nàng Hương giang, sau cái ngoảnh đầu nhìn lại, giờ đây
đã tiếp tục với thủy trình của mình với một niềm lưu luyến, bịn rịn. Tình yêu và nỗi nhớ thương với
một thành phố chỉ dành riêng cho mình, và nhận thức rằng Hương giang với Huế là “chỉ có một dòng
sông để thương để nhớ” cứ trải dài không nỡ, như một cái chạm tay khắc khoải nơi Cồn Hến ẩn hiện
trong khói sương bảng lảng của chốn Kinh kỳ. Nàng “lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc
và của những vườn cau nơi ngoại ô Vĩ Dạ”, cái vườn cau đã xuất hiện trong veo trong thơ của thi sĩ
Hàn Mặc Tử “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Từng sắc màu của thiên nhiên như trôi “lặng tờ” dịu
êm trong nét bút đọng tiếng lòng, như một lời tiễn biệt mềm mại mà xứ Huế gửi đến dòng sông này. Ở
đây, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng những gam màu lạnh, nhưng sáng như “màu xanh biếc của
tre trúc” hay màu xanh ngọc của vườn cau - dường như văn nhân họ Hoàng muốn nói rằng dẫu cho
sông Hương và xứ Huế phải chia cách, nhưng tình yêu mà Hương giang dành cho xứ Huế, hay cũng là
tình yêu của nhà văn với sông Hương, với cố đô vẫn mãi luôn sáng trong như vậy. Tình yêu trong bút
kí của một chất văn “ngọt ngào lay động” không còn là màu đỏ chói lọi như hoa đỗ quyên, cũng không
phải màu hồng lãng mạn mà là một sắc biếc xanh tượng trưng cho một trái tim lành, một tấm lòng
thành của tuổi thanh xuân tươi tràn căng mọng nhất. Sông Hương rời đi trong một màu xanh đẹp tới
động lòng người của xứ Huế, nàng dường như cũng đắm mình trong màu xanh của vùng văn hóa xứ
sở, tạo nên một bức tranh “Thủy thiên thanh, ảm trạm ba bình/ Trọng trọng tự họa, khúc khúc như
bình” (Hành hương tử - Tô Thức) rất mực nên thơ. Sông Hương đã gặp lại xứ Huế ở Bao Vinh, chọn
ngoảnh đầu lại để ngắm nhìn nơi níu giữ bước chân nàng - đó là tình yêu của cả đời sông, tình yêu của
Hương giang dành cho xứ Huế. Nàng như “sực nhớ một điều gì chưa kịp nói”, vậy nên “Rẽ ngoặt sang
hướng đông tây” để nói một lời thề nguyền ước hẹn của đời mình “Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ
chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh
đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao”.
Ta tự hỏi “thực bất ngờ biết bao ấy” là dòng sông đang ngân lên một điều sau cuối hay chính tác giả
đang cảm thán trước khúc quanh đặc biệt mà sông Hương phải đi qua? Đây có lẽ chính là một chi tiết
để Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận một nét gì đó “Rất lạ với tự nhiên và rất giống con người” - con
người xứ Huế, dẫu cho có đi xa tới đâu vẫn luôn hướng về cố nhân, vẫn hướng về những kỉ niệm của
năm tháng, vẫn là những “linh hồn mô tê xưa cũ” và chẳng nỡ rời xa quê hương. Nhà văn nhân cách
hóa dòng sông, để nói thay tiếng lòng người con xứ Huế, cũng như tiếng lòng của nhà văn về một tình
yêu với thiên nhiên và con người nơi đây. Bởi lẽ nhà văn Trần Hữu Pháp từng viết:
“Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ Huế không quên
Xa con sông mang theo nỗi nhớ
Người ở lại tháng năm đợi chờ”
Con sông mang theo nỗi nhớ của người đi và kẻ ở, như cách mỗi người yêu Huế mang theo kí ức vẹn
nguyên để đến và đi bằng một lòng riêng trọn vẹn đặt lại nơi này. Cũng giống như Hoàng Phủ Ngọc
Tường, những ngày xa Huế trong ông khiến tâm hồn thi nhân “ám ảnh”, cũng từ đó lý giải được vì sao
tiếng văn của tác giả lại chân thật và gần gũi tới thế, bởi chính ông cũng thương nhớ nơi nuôi dưỡng
tâm hồn mình như cách sông Hương nhớ thương Huế vậy. Huế không chỉ là những lăng thành cổ kính
mang theo giấc mộng không tỉnh của các đời vua chúa, mà cũng còn là “Xanh biếc” những thi ca,
khiến tác giả nhớ về chuyện nàng Kiều đã yêu và đắm say hết mình trong “Truyện Kiều” (Nguyễn
Du). Không nguyện thề dưới trăng như Kiều, như mối tình giữa sông Hương và xứ Huế lại đậm sâu
khó tả. Không có vật định tình, nhưng tình lại sâu giữa dòng trôi. Đó như một “nỗi vương vấn, cả một
chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” cho tới ngàn năm, vạn kiếp, cho tới ngày Huế chẳng còn là Huế thì
lúc đó sông Hương mới hết nhớ thương, và lúc đó chính dòng sông ấy cũng chẳng tìm thấy chính
mình. Tình cảm của sông Hương và Huế là một mối liên kết đặc biệt đầy ái ân, đầy dịu dàng, nó là
khảo nghiệm cho duy nhất và mãi mãi, như “nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương
đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Trong từng cách ví
von của Hoàng Phủ, ta bắt gặp từng chút thương mến dòng Hương đang lớn dần trong tâm trí. Lời thề
“Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ...” của nàng Hương cũng là lời thề tự của riêng nhà văn
dành cho quê hương xứ sở. Có lẽ theo Nguyễn Quang Thiều, vì “Bởi Huế là tình yêu thương của ông,
Huế chứa đựng những vui buồn lớn nhất của đời ông”, nên trong câu hẹn thề của sông Hương và xứ
Huế ấy vẫn luôn thắm đượm tấm lòng của người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi thủy chung với quê
hương, cũng như cảm nhận được từng chút mến thương, dấu yêu sông Hương nơi văn nhân họ Hoàng.
Chất tự sự và lãng mạn của Hoàng Phủ trong bút kí mang theo sự kết hợp tinh tế giữa chất trí tuệ và trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều với nhiều kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực. Và
quả như Trần Thị Thanh Nga đã từng nói “... Trên cơ sở những hiểu biết thấu đáo về đặc điểm địa lí
của sông Hương, nhưng mặt khác, nhà văn cũng đã làm cho hình tượng sông Hương sống dậy cụ thể,
sinh động và rất có hồn nhờ những sáng tạo đặc sắc trong nghệ thuật liên tưởng, so sánh, ẩn dụ, nhân
hóa… và bằng một lối hành văn đậm chất trữ tình” - sông Hương nơi áng văn của Hoàng Phủ Ngọc
Tường sẽ luôn mang một niềm vấn vương đượm “ánh lửa” với những độc giả, với những người Huế
và những người yêu Huế, thắp thêm những “ánh sáng” về một hành trình tương lai gặp Hương giang
nơi xứ sở cố đô.
Hương giang là dòng sông dường như đã vượt lên thời gian, để đi vào miền văn hóa của đất nước. Văn
hóa là một phần của lịch sử, sông Hương là biểu trưng cho văn hóa của những một thế hệ, mang hình
ảnh người con gái Việt Nam, lên được non cao xuống được đèo sâu, khi nghe tiếng Tổ quốc vẫy gọi,
người con gái quả cảm ấy hiến dâng đời trẻ của mình cho núi sông Tổ quốc, hòa vào làm một với bốn
nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; còn khi về với đời thường, nàng Hương giang
càng giản đơn và dịu dàng như cách một cô gái Huế e lệ, duyên dáng trong tà áo dài tím mộng mơ trên
cung đường thành đô xưa, vẫn là một cô gái của Huế, của Việt Nam. Ta bắt gặp nét tương đồng này
trong thiên tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, khi ông lái đò - hình tượng của “chất
vàng mười đã qua thử lửa”, sau khoảng thời gian vật lộn và chiến đấu đầy oanh liệt và mạnh mẽ với
thạch trận sông Đà, với sóng - nước - đá - gió chỉ lăm le quật ngã ông, khi gác mái chèo trở về, ông lại
trở thành ông lão đầy chất phác, giản dị và toàn bàn về “cá anh vũ, cá dầm xanh”. Có phải chăng, trong
cách nhìn nhận của cả hai nhà văn chuyên về kí, những sự vật đều có những khía cạnh khác nhau để
luôn phù hợp với hoàn cảnh, mọi thứ đều được cấu thành sự hợp hoan giữa “ánh lửa” dữ dội cùng với
“sông nước lặng tờ”, giữa những điều rất đỗi phi thường với những thứ đôi lúc lại thật dịu dàng, giản
đơn? Hoàng Phủ Ngọc Tường, với nỗi niềm khắc khoải nửa đời, đã “vinh danh Huế bằng những trang
văn xuất sắc của mình”(Nguyễn Quang Thiều” về một dòng sông cất lên những bản hùng ca thời đại,
cũng vang lên những tiếng ca Huế dịu êm đượm lòng người, để từ đó thấu cảm được tình yêu của nhà
văn đối với con sông đất Kinh kỳ này.
Có thể nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là tác phẩm mà mỗi một câu chữ đều là những “hạt ngọc
mới nhất do mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có”. Lặng mình trầm ngâm trong
thiên bút kí “Ai đã đặt tên cho cho dòng sông”, lòng ta như dịu dàng theo từng tiếng thầm thì duyên
dáng của Hương giang xứ Huế qua những câu chữ đầy tinh tế, lấp lánh nét thơ mộng đặc trưng của
một vùng văn hóa xứ sở. Lối hành văn hướng nội, mê đắm và rất mực tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc
Tường đưa ta theo hành trình của một dòng sông “chỉ thuộc về một thành phố duy nhất” tìm về nơi mà
nó thuộc về, để từ đó đắm mình mềm mại, tĩnh tại giữa lòng phố thị thân thuộc. Nhà văn đã khéo léo
sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hóa để tạo nên những liên tưởng độc đáo, đậm chất thơ tựa như một
nét uốn trong bức tranh thủy mặc, họa vào trong lòng người đọc bao rung động, hoài niệm và vấn
vương. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói rằng “Những trang văn của ông viết về Huế đã chứa
đựng nhiều đặc sắc của văn phong”. Với đôi mắt đã yêu Huế và bên Huế tới một nửa cuộc đời mình,
Hoàng Phủ Ngọc Tường coi xứ cố đô và dòng sông Hương như một người bạn tri âm tri kỷ. Vẻ đẹp
của cảnh sắc Hương giang là thứ ông không thể tìm ở những khung trời khác mà ông đã đặt chân tới,
bởi lẽ vậy mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đặt tất cả tâm hồn và hơi thở của mình để họa nên hành trình
dòng sông Hương nên thơ nên mộng, từ góc nhìn của địa lý cho tới tiếng vọng ngàn đời của một nền
văn hóa xứ sở, tìm về với Huế như về với tình nhân của nàng. Bằng tài quan sát tinh tường, tỉ mỉ,
tưởng tượng phong phú cùng với một tri thức sâu sắc về nhiều mặt (địa lý, thơ ca, âm nhạc, hội
họa…), văn nhân họ Hoàng đã khiến độc giả nhận thức rõ ràng vẻ đẹp khiến lòng người rung cảm của
sông Hương nơi đất Kinh thành trong đoạn trích nói riêng và cả tác phẩm nói chung, cũng như tình yêu
tha thiết của ông dành cho nơi đây. Dưới ánh nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, qua bao sự “trầm tĩnh
lắng đọng trong giọng điệu, phong phú dầy dặn trong vốn liếng và kỹ lưỡng tự nhiên trong ngôn từ,
ngữ pháp”, Hương giang hiện lên lấp lánh chất thơ đặc trưng của đất Kinh kỳ, mang đậm nét người
con gái Huế đẹp dịu dàng, tha thướt, đằm thắm, can đảm và khát khao đi tìm “người tình tương lai” mà
nàng đã ngóng trông từ lâu, để rồi dành tặng cho riêng thành phố ấy một tiếng ca Huế tha thướt mỗi
đêm khuya, một nỗi lưu luyến khó rời; và hơn cả, dòng sông ấy còn dành tặng đất nước “Truyện Kiều”
vọng vang thời đại, và một trang sử hào hùng “ngàn năm còn mãi”. Đằng sau ấy còn là một cái tôi tài
hoa, uyên bác yêu thiên nhiên, quê hương, nguyện một lòng gắn bó sâu nặng với mảnh đất đã ấp ủ bao
ước mơ thời non dại của mình nơi Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Tiến sĩ Văn Sơn từng nói: “Một người nghệ sĩ nếu không thực sự băn khoăn, tha thiết về một điều gì
thuộc về giá trị sống, người đó sẽ không có những sáng tạo lớn, độc đáo...”. Với Hoàng Phủ Ngọc
Tường, người đã dành nửa đời người mình nơi mảnh đất Kinh kỳ, ngắm nhìn sông Hương qua đôi mắt
của tháng năm, có lẽ dòng sông ấy là “nét sống” đẹp đẽ và kì diệu nhất của Huế - bởi Hương giang là
bắt đầu của văn hóa ca Huế đặc trưng, là nguồn cảm hứng dồi dào chảy nên “Truyện Kiều” cũng là nơi
mang trong mình những nét son lịch sử, và cả “giá trị sống” nó dành cho riêng Huế và con người nơi
đây. Phiêu du theo tác phẩm của “nhà văn hóa Huế”, ta cảm nhận được tình cảm của nhà văn với dòng
sông xứ Huế, những cảm xúc mang bao tâm sự của đời văn rất “Hoàng Phủ Ngọc Tường”. Huế với
Hoàng Phủ Ngọc Tường, là chốn về, là nơi mà thi nhân ấy “nặng nợ” nửa đời, có lẽ bởi vậy mà trang
văn của nhà văn về xứ Huế, về dòng sông “lặng tờ” với “nỗi vấn vương cùng sự lẳng lơ kín đáo” dành
riêng cho mảnh đất Kinh kỳ đều có “rất nhiều ánh lửa” (Nguyễn Tuân). Văn nhân họ Hoàng, qua ngòi
bút “trữ tình trí tuệ” và thấm đượm cả “huyết lệ” nơi tâm can, đã cố gắng tãi tất cả những vẻ đẹp quê
hương mình qua những trang văn. Sông Hương hiện lên là trái tim của vùng văn hóa xứ sở, thấm vào
từng câu hát “Nam ai nam bình” ru nôi của người Huế, đậm sâu trong tiếng đàn Kiều bi ai vượt thời
đại, vang vọng trong sử vàng dân tộc và đằm mình trong mảnh đất Kinh kỳ. Trần Đình Sử từng dành
lời khen ngợi cho Hoàng Phủ Ngọc Tường “Cái mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám phá bình
diện văn hoá với tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn”.. Nhà văn đã theo dõi tiến
trình của dòng sông này tự thuở nó vẫn là “bản trường ca của rừng già”, qua nhiều tháng năm và thăng
trầm để trở về thành phố mà nó hằng thương nhớ, để rồi sinh thành và đắp bồi nên văn hóa Huế đặc
trưng “ca Huế sông Hương” cũng như cất tiếng hát về một giai thoại lịch sử ngàn đời. Chính vì thế
sông Hương, qua nét mực nghiêng của văn nhân họ Hoàng, mang một vẻ đẹp gần gũi, đầy tình cảm
trong những liên tưởng thâm trầm, đậm chất văn hóa của xứ Huế đồng thời thể hiện được vốn sống
uyên bác cùng chữ “tài” của một người cả đời văn và đời người chảy xuôi theo dòng sông Hương.
Hương giang, qua ngòi bút “đầy chất thơ thị vị, ngọt ngào” không lẫn với những người viết khác của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, hiện lên với một tâm hồn cổ kính, trầm mặc đặc trưng của “những lăng thành
cổ kính” nơi “rừng thông u tịch”, nhưng cũng mang một tấm lòng thủy chung, son sắt cho thành phố
Huế, cùng nỗi vấn vương, quyến luyến đầy dịu dàng, khắc khoải nhưng cũng rất mực tinh tế dành
riêng cho mảnh đất cố đô. Đó là nét đẹp mang mác thấm đượm trong cỏ cây, hoa lá, trời đất và con
người xứ Huế, và cũng thấm đượm trong lòng biết bao độc giả. Suy cho cùng, tất cả những điều ấy âu
cũng là do sự gắn bó đầy thiết tha hơn nửa đời người của Hoàng Phủ Ngọc Tường với đất Kinh kỳ. Từ
đó ta cũng cảm nhận được tình yêu quê hương xứ sở sâu nặng tuôn chảy qua ngòi bút kí đậm chất trí
tuệ và trữ tình của nhà văn. Dường như trái tim của mỗi con người của nơi này, hay trót thương nhớ
mảnh đất cố đô đều có “một nhánh sông đào mang nước sông Hương” mà Hương giang gửi gắm, để
vấn vương trong nỗi niềm kín đáo của một đời người, của đời sông.
Chính nhà văn đã từng bộc bạch: “Từ dưới đáy kinh nghiệm của một đời cầm bút, tôi đã không ngần
ngại gửi tâm hồn mình vào tác phẩm, vẽ lại đời mình bằng màu nước của dòng sông, nó xanh biếc và
yên tĩnh như một lẽ vĩnh hằng trong cảnh vật cố đô". Trái tim của văn nhân ấy dường như đã hòa làm
một với trái tim của cố đô Huế, là dòng sông Hương đầy thi vị đã vang vọng vào trong thơ ca nhạc họa
và đắp bồi lên một nền văn hóa của xứ sở một thuở Kinh Kỳ. Đôi mắt ông ngắm nhìn và vấn vương
màu xanh trong của dòng Hương cứ chảy trôi bất tận cho tới ngàn đời ở một thành phố duy nhất, cũng
như những trang văn ông để lại cho lớp trẻ ngày sau. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” có phải chăng là
một câu hỏi mà Hoàng Phủ Ngọc Tường gửi tới cho độc giả, hay cũng tự hỏi chính ông, một người con
“nặng nợ” với Huế, hay dường như ông, đang thì thầm hỏi chính mảnh đất cố đô này, rằng ai đã đặt tên
cho dòng sông Hương, để hương sắc của nó cứ chảy tràn vào trong tim ông, trong văn ông mênh mang
tới vậy.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “chuyển giao nội tâm của người sáng tác đến người thưởng thức” (Nguyễn
Khoa Điềm) về dư âm của một dòng sông Hương êm đềm chảy trôi, trọn lòng thủy chung, son sắt dành
cho mình thành phố Huế, cũng như tình yêu của nhà văn dành cho Hương giang xứ Huế nói riêng và
thiên nhiên đất nước nói chung. Đọc những tiếng lòng rung động về dòng sông Hương, dường như
trong trái tim của người ở xa muốn được đến mảnh đất cố đô thêm một lần nữa bỗng bồi hồi, thiết tha.
Dường như Huế trong tôi không còn chỉ là tiếng chuông chùa trên núi ngân vang mỗi chiều, tiếng
người con gái Huế dịu dàng nói chuyện, gánh hàng rong từ tinh mơ sớm hay tiếng Nam ai nam bình
dìu dặt theo dòng chảy của sông Hương, mà giờ đây có lẽ còn cả những lời thề son sắt Hương giang
dành cho Huế, còn cả tiếng thương trĩu nặng của một nhà văn thương Huế, và còn cả sự gửi trao một
nền văn hóa xứ sở cho lớp trẻ chúng tôi để tiếp tục gìn giữ, vun bồi và phát triển của chính mảnh đất
cố đô nơi đã chứng kiến sự hưng thịnh và lụi tàn của một triều đại. Tiếng lòng của nhà văn, của sông
Hương, của Huế ấy cũng sẽ như dòng sông Hương trong lịch sử văn hóa và khi rời thành phố Huế, neo
đậu trong tâm trí ta mãi về sau:
“Sao thèm hát một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.”
(“Vọng Huế” – Nguyễn Trọng Tạo)

𝐓𝐓𝐒 - Có cánh chim hải âu trong một “giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại” nơi trang ký Hoàng Phủ Ngọc
Tường
Trong kí ức “mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với
chiếc thuyền xinh đẹp của chúng” hằn sâu nơi tâm thức của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bút
ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, người đọc tìm thấy một sợi dây kết nối đẹp đẽ giữa con người và
thiên nhiên, vạn vật; giữa cảm hứng của người nghệ sĩ và sự vận hành của muôn loài giữa đất trời bao
la. Là chim, là ong, là bướm đều gắn mình vào hành trình nên câu thành chữ; đều hòa mình vào nhịp
sáng tác; đều là hiện thân của Cái Đẹp trong cuộc đời, bồi đắp nỗi niềm như những vần thơ haiku của
M. Basho từng cất tiếng:
“Những chú Bướm
sải đôi cánh rộng
ánh dương trên đồng”.
Sải đôi cánh rộng trên cánh đồng mênh mông, những chú bướm nhỏ dang cánh phấn chao nghiêng gọi
về mùa xuân rực rỡ giữa đất trời rộng lớn. Cánh phấn nên thơ nên hoạ cứ thế khoe sắc thắm sau hành
trình ủ kén, lột xác đớn đau; hệt cách vạn vật toả sáng vươn dậy khỏi một chặng đường đã nếm trải bao
thử thách, chông gai. Hay chính những “ánh sáng lập lòe” của con Đom đóm đã “làm hiện lên cả một
mảnh vườn đẫm sương” trong bài haiku của Kirei:
“Đom đóm!
một con bay đến
cả vườn đẫm sương”.
Bướm gọi xuân về, Đom đóm gọi sương đến, vườn thơ đẫm sương tình, đồng rộng đỏ rực ánh dương;
còn cánh hải câu nghịch ngợm của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại gợi trong ta những dòng trôi êm đềm,
những lượn lờ thương nhớ, những dải đường bình yên trên sóng nước dập dìu trôi chảy. Từng có một
“giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại” “hoá làm một con chim như đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh
để đi ra biển” nơi người nghệ sĩ ấy, cũng chính “người bạn” hải âu này phải “ngẩn ngơ trông theo”
trước dòng Nê-va trôi đi quá nhanh. Có lẽ từ giây phút ấy, ta đã xuyến xao trời biếc sông Hương cùng
Hoàng Phủ, rót vào đáy tâm hồn những dòng trôi chậm rãi, từ tốn, thanh yên của một Hương giang
nhiều trân quý. Nơi từng trang văn, vần thơ ấy, có cánh chim hải âu đợi chờ trong kí ức, phảng phất dư
âm của cánh bướm chờ xuân, dạt dào ánh chớp của đom đóm được kí thác để khởi sinh cho vạn điều
tươi đẹp, lấp lánh niềm hi vọng trong lòng ta…

𝐓𝐓𝐒 - Cảm hứng Kiều trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến văn chương dân tộc. Không khó để tìm
dấu ấn của Kiều trong các sáng tác văn học ở Việt Nam, từ văn chương bình dân cho đến các sáng tác
thành văn hiện đại. Đọc “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi cảm nhận có
một “cảm hứng Kiều” rất sâu đậm trong thiên bút ký tài hoa này.
𝟏. Đ𝒂̣̆𝒄 đ𝒊𝒆̂̉𝒎 𝒏𝒖̛̃ 𝒒𝒖𝒚𝒆̂̀𝒏 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒕𝒊̀𝒏𝒉 𝒚𝒆̂𝒖.
Hãy xem Hoàng Phủ tả sông Hương trong cái nhìn “thiên tính nữ” rất rõ. Sông Hương từ thượng
nguồn đã đầm sâu trong mình những vẻ đẹp đầy cá tính của một cô gái: “Phải nhiều thế kỷ qua đi,
người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá
đầy hoa dại”.
Từ sông Hương về với Huế là hành trình đầy gian nan của một cuộc tìm kiếm có ý thức. Bằng cái nhìn
nhân cách hóa của đôi mắt trìu mến thương yêu của nhà văn đã làm bật lên nhiều đặc điểm “nữ quyền”
trong tình yêu. Đó là sự kiếm tìm người yêu mà phần chủ động lại thuộc về phái nữ.
Điều mà văn chương thành văn cổ kim của dân tộc rất ít khi đề cập: “Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi
vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình
theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương
lai của nó.
Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; Vấp Ngọc Trản, nó chuyển
hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung
thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”.
Bằng hàng loạt kiểu diễn đạt trên trong đoạn văn ngắn, Hoàng Phủ Ngọc Tường như đang muốn nhấn
mạnh biết bao khó khăn vất vả để sông Hương có thể đến được với Huế. Và sông Hương bằng tình yêu
nồng nhiệt của mình đối với người tình mong đợi đã mạnh mẽ vượt qua.
Điều này không khỏi khiến người đọc liên tưởng đến cuộc vượt thoát khỏi lễ nghi phong kiến của nàng
Kiều trong đêm thề nguyền cùng Kim Trọng. Nguyễn Du mô tả bước chân táo bạo của Thuý Kiều,
mạnh dạn vượt ra khỏi vòng lễ giáo phong kiến, chủ động tìm kiếm hạnh phúc cho đời mình:
Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa sương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Chính tình yêu nồng nàn táo bạo ấy của nàng Kiều đã va chạm mạnh đến bức tường lễ giáo gia phong
làm cho nhiều nhà Nho khác giật nảy mình mà vội răn đe cháu con:
Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều.
Từ khởi nguồn ấy có thể thấy, từ trong cốt tủy Hoàng Phủ Ngọc Tường bị hấp lực của vẻ đẹp đa dạng
đầy bí ẩn của tâm hồn Kiều chi phối trong cái nhìn đối sánh với dòng Hương Giang thơ mộng.
Ở trong tâm hồn Kiều có sự đồng điệu với Hương Giang. Đó là sự hòa quyện giữa sự nền nã dịu dàng
và sự quyết liệt trong tình yêu. Bởi thế cho nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mào đầu bằng nhận định
rất xác đáng của mình: “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người
ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã
vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ,
đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.
𝟐. 𝑹𝒖𝒏𝒈 đ𝒐̣̂𝒏𝒈 𝒕𝒓𝒖̛𝒐̛́𝒄 𝒗𝒆̉ đ𝒆̣𝒑 𝒔𝒐̂𝒏𝒈 𝑯𝒖̛𝒐̛𝒏𝒈.
Ở những đoạn khác, Hoàng Phủ Ngọc Tường có khi đã đồng nhất Kiều với dòng Hương Giang bằng
con mắt mê đắm và bút pháp lão thực được tinh lọc từ năng lực liên tưởng bậc thầy “Hình như trong
khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya.
Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như
vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một
khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.
Như vậy sông Hương đã trở thành “sinh thể” âm nhạc cổ điển trên đất cố đô, là nơi khơi dòng nên
những giai điệu quyến rũ của ca Huế “sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya”.
Quả thật đúng như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nói, hồn vía ca Huế chỉ thật sự được lan tỏa khi người
nghệ sĩ diễn xướng trong không gian và thời gian đặc thù: Trên những con thuyền lênh đênh trên sóng
nước Hương Giang vào lúc đêm khuya. Đây chính là cơ sở để tác giả đưa ra “phỏng đoán” nguồn cội
của những “bản đàn đã đi suốt đời Kiều”.
Suốt những năm tháng làm quan dưới triều Nguyễn, bằng con mắt tài hoa nghệ sĩ, Nguyễn Du đã rung
động trước vẻ đẹp của sông Hương. Đây chính là cơ sở để Hoàng Phủ Ngọc Tường tưởng tượng và
nêu ra “ức đoán” của mình: “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến
trăng sầu và từ đó những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”.
Để củng cố thêm ức đoán ấy, nhà văn còn bồi thêm căn cứ “Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân
già, chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay
qua/Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”... Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào
trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”.
Có một mối liên hệ mơ hồ, phải chăng nhờ “Tứ đại cảnh”1 của ca Huế mà Nguyễn Du có được những
dòng thơ tuyệt tác về tiếng đàn Kiều hay chính những dòng thơ ấy mà những nghệ nhân đã tạo tác nên
“tứ đại cảnh” nổi tiếng trong ca Huế?
𝟑. ”Đ𝒊 𝒕𝒊̀𝒎 𝒄𝒂̂𝒖 𝒉𝒐̉𝒊: “𝑨𝒊 đ𝒂̃ đ𝒂̣̆𝒕 𝒕𝒆̂𝒏…”
Khi phải rời khỏi Huế, khi phải chia xa người tình mong đợi, khi phải làm một cuộc li biệt để về với
biển cả, sông Hương luôn là người tình dịu dàng và thủy chung son sắt: “Rời khỏi kinh thành, sông
Hương chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang
xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại
ô Vĩ Dạ.
Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông -
Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ
chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình”.
Đoạn văn thể hiện góc nhìn tài hoa nghệ sĩ của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi liên tưởng thủy trình sông
Hương từ thực địa với sự trở lại của người con gái khi chưa kịp nói với người yêu lời thề chung thủy
thiết tha. Từ một khúc quanh đổi dòng tự nhiên của Hương Giang đã trở thành nỗi luyến lưu bịn rịn
của người con gái đối với người tình mong đợi của mình. Đây là cái nhìn mê đắm của người văn họ
Hoàng Phủ trước một sinh thể nghệ thuật mà ông dành trọn cuộc đời để tôn vinh, sông Hương xứ Huế.
Từ hình thể tự nhiên của thủy trình đặc biệt ấy của Hương Giang, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên
tưởng đến đêm tình tự thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng “Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất
giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ
kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ sông này, sông Hương đã chí
tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả”.
Có thể thấy, việc Kiều trở lại nơi ở của Kim Trọng vào lúc đêm khuya “Xăm xăm băng lối vườn khuya
một mình” là một sự bất ngờ đối với Kim Trọng. Bởi cả ngày hôm đó họ đã có khoảng thời gian tình
tự ý hợp tâm đầu. Chàng Kim không ngờ tới, ban đêm Thúy Kiều lại sang:
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Một cảm hứng Kiều đôi khi nồng nàn, đôi khi bảng lảng nhưng luôn dìu dặt trên những trang văn của
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phải chăng chính cảm hứng ấy đã góp phần hun đúc nên cái nhìn mê đắm
của nhà văn đã nguyện suốt cả cuộc đời đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

𝐓𝐓𝐒 - Vẻ đẹp của bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bút ký này là kết quả mối lương duyên giữa một tâm hồn nghệ sỹ giàu cảm xúc, tinh tế có tình yêu xứ
sở tha thiết và một trí tuệ nghiên cứu minh mẫn, uyên thâm. Đó là bản trường ca đầy chất thơ tạo cho
sông Hương và xứ Huế một tâm hồn mang tinh hoa văn hoá đất Kinh kỳ xưa. Sự mạch lạc của tư duy
nghiên cứu ở cách thể hiện rất rõ ràng nhưng hiểu biết về nguồn gốc, đặc điểm địa lý, lịch sử, dòng
chảy của dòng sông với một giọng diệu trữ tình, giàu hình ảnh, lối diễn đạt đằm thắm dịu dàng tràn
đầy xúc cảm. Lối viết ấy tạo cho người đọc cảm giác như đang được tâm tình trên con thuyền thả trôi
theo dòng chảy lặng lờ của dòng sông mà vừa ngắm vừa nghe ai đó thủ thỉ kể về dòng sông huyền
thoại này. Cái điệu chảy lững lờ của dòng sông đã được tác giả thổi vào đó một cái hồn khiến nó trở
thành người con gái dịu dàng, mỗi bước đi là một niềm vương vấn với quê hương, với thành phố Huế
nên thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã kết hợp một cách điêu luyện tư duy nghiên cứu và tư duy nghệ
thuật để giải thích nguyên nhân cái điệu chảy chậm chạp của dòng sông mà tác giả gọi “điệu slow tình
cảm dành riêng cho Huế”, tác giả đã giải thích bằng cả hai cách: một cách là tư duy hình tượng của
nghệ sĩ một cách theo tư duy nghiên cứu của ngành địa lý.
Bắt nguồn từ rừng già Trường Sơn, sông Hương cũng từng gào thét hung dữ cùng gió ngàn bởi cái địa
thế hiểm trở của núi rừng. Nhưng khi vào lòng thành phố nó lại chảy thật chậm do đặc điểm cấu tạo
của dòng chảy, ở đây dòng sông chia làm nhiều nhánh, theo những nhánh sông đào mang nước về
thành phố và những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hơn lưu tốc của dòng
sông, khiến cho sông Hương… trôi thật chậm… Đó là cách giải thích của nhà khoa học.
Còn dưới con mắt của người nghệ sĩ dòng chảy của Hương giang lại được miêu tả thật hấp dẫn với
nhiều cách so sánh, những từ ngữ được sử dụng rất đắc địa, giàu hình ảnh, màu sắc và hình khối tạo
nên một dòng Hương giang thật đẹp, thật nên thơ và như một con người đầy xúc cảm chứa chan tình
yêu với cố đô Huế giàu truyền thống văn hoá. Sông Hương, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, không còn là một dòng chảy mà là cả một nền văn hoá, cả một chiều dài lịch sử anh hùng và
một chiều sâu tâm hồn cao quý. Người nghệ sĩ cũng lần lượt theo bước dòng sông từ thượng nguồn
cho đến khi nó tạm biệt thành phố Huế thân yêu để ra cửa Thuận An và hoà mình ra biển.
Giữa núi rừng hùng vĩ của rừng Trường Sơn, sông Hương đã là bản trường ca cửa rừng già., và cũng
có lúc trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng, vẻ đẹp
của sông Hương nơi đại ngàn thật gần với vẻ dữ dằn mà cùng thật dịu dàng một cách hoang dại của
sông Đà dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân “sông Đà hung bạo và trữ tình,., sông Đà tuôn dài,
tuôn dài như áng tóc trữ tình mà đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân (Nguyễn Tuân — Người lái đò Sông
Đà). Cái dữ dội của sông hương nơi đại ngàn đã được tác giả chọn lựa một hình ảnh so sánh thật sống
động, gợi cảm và đầy màu sắc văn hoá “sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái
Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn trong
sáng”. Dưới lăng kính của người nghệ sĩ, sông Hương đã trở thành một con người, một người con gái
có đầy đủ tâm hồn, tính cách, lòng yêu thương rừng già” đã chế ngự bản năng của người con gái để
“sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một
vùng văn hoá xứ sở”. Có thể thấy ngay ở trang đầu tiên dành cho sông Hương, tác giả đã sáng tạo một
loạt hình ảnh độc đáo để gợi tả vẻ đẹp mang màu sắc văn hoá của dòng sông. Từ đó tạo cảm giác sông
Hương khi vào lòng thành phố đã thay đổi mình, kiềm chế mình để phù hợp với vẻ mộng mơ, thâm
trầm và cổ kính của cố đô. Sông Hương như người con gái đẹp ngủ mơ màng được đánh thức để hoà
mình cùng Huế, nó duyên dáng uốn mình và bước đi chậm chạp, thật quý phải uốn mình theo những
đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức,… Bước chuẩn bị để dòng sông đi vào lòng
thành phố đã được tác giả miêu tả rất kỹ càng với một cảm xúc ở độ cao trào, một loạt hình ảnh so
sánh được sử dụng để khắc hoạ vẻ đẹp của dòng sông một cách hoàn mĩ. Đến chân đồi Thiên Mụ thì
Hương giang cùng tiếng chuông chùa cùng với sự thâm trầm uy nghiêm của những lăng tẩm của vua
chúa Nguyễn đã tạo cho sông Hương một vẻ đẹp văn hoá đặc biệt mà bất kể một dòng sông nào của
Việt Nam đều không có được, vẻ đẹp ấy được tác giả chọn tả bằng một câu văn dài như ngân lên trong
hồn người đọc, tạo một dư âm, một ấn tượng không thể phai mờ trong tâm trí người đọc. Đó là vẻ đẹp
trầm mặc nhất của sông Hương như triết lý, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của
nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga từ bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát
tiếng gà.
Nếu như Nguyễn Tuân đã tạo cho sông Đà vẻ trữ tình và hung dữ để nhằm mục đích tôn vinh con
người trong lao động, Hoàng cầm tạo cho thi ca một dáng “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến
trường kì” của dòng sông Đuống để tạo nên hình ảnh quê hương yêu dấu trong những ngày đau thương
thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại tạo cho thi ca một dòng sông văn hoá. Vẻ đẹp của Hương giang được
tạo nên bởi truyền thống, bản sắc văn hoá của xứ Huế, với vùng ngoại ô Kim Long hay những khu nhà
vườn Vĩ Dạ xanh mướt một màu thiên nhiên tràn đầy sức sống, những khu vườn thơ mộng ẩn chứa
trong lòng nó những con người phúc hậu, những nếp sống cổ xưa với những nét sinh hoạt tinh tế đầy
văn hoá. Và cái điệu chảy lững lờ như lưu luyến vấn vương của dòng Hương giang đã tạo nên một môi
trường tuyệt vời cho những đêm ca Huế, những đêm hội hoa đăng, những thú vui đố thơ, thả thơ trên
những con thuyền giữa dòng sông. Mặt nước yên tĩnh như không trôi đã nâng niu góp phần gìn giữ
những sinh hoạt văn hoá cổ truyền của Huế, tạo vẻ đẹp riêng thu hút và quyến rũ khách thập phương.
Điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế ấy thật hợp cảnh hợp tình với những ngôi chùa cổ, những lăng
tẩm uy nghi của chốn kinh thành xưa.
Chính cái đặc biệt của sông Hương, vẻ đẹp trữ tình của nó trong toàn bộ quần thể văn hoá của Huế đã
là nguồn cảm hứng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ra 1ớn lên và gắn bó với Huế, hàng ngày hàng
giờ được nhìn thấy dòng Hương nên người nghệ sĩ trong tác giả đã phát hiện được cái tình tứ duyên
dáng của dòng sông. Nên ông đã tìm thấy vẻ đẹp của dòng sông trong từng bước đi của nó. Dưới ngòi
bút của ông dòng chảy vô tri vô giác đã biến thành một con người mà mỗi bước đi là một suy tư, một
trăn trở, một nỗi niềm vương vấn với thành phố quê hương theo bước đi của dòng sông vẻ đẹp của Huế
hiện lên ngày càng đủ đầy, toàn vẹn. Đi đến đâu dòng sông đều mang một tâm trạng của một con
người. Rời xa tiếng chuông chùa Thiên Mụ là chạm đến sự đông đúc của thành phố và tác giả thấy như
đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên… Và cái điệu đà kiêu sa của 12 nhịp cầu Tràng
Tiền “in ngầm trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”, là một đồ trang sức đẹp nhất, lộng lẫy nhất
tạo cho dòng sông vẻ đẹp dịu hiền mà quý phái của người con gái xứ Huế.
Một trong những nét độc đáo rất riêng, rất Huế trong cách tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường có lẽ chính
là cách tả những khúc uốn lượn của dòng sông vói một hệ thống các hình ảnh so sánh rất mềm, rất
duyên. Khi là uốn mình theo những đường cong thật mềm khi lại đột ngột vẽ một hình cung thật tròn,
… ôm lấy chân đồi Thiên Mụ và lúc lại “mềm như tấm lụa rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến
cồn Huế,… Không chi mô tả hình dáng dòng sông bằng những từ ngữ giàu tính hình tượng và rất gợi
cảm mà cái đặc biệt tạo nên phong cách ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, góp phần tạo nền “bản đại
hợp xướng” ngôn từ cho nền văn học dân tộc, chính là sự sáng tạo nên những phương thức so sánh rất
đắc địa, bất ngờ và đầy chất thơ, thể hiện đỉnh cao cảm xúc trữ tình của tác giả như: sông Hương uốn
một cánh cung rất nhẹ. đường cong ấy làm cho đường cong mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không
nói ra của tình yêu hay “trăm nghìn ánh hoa đăng bềnh bồng… qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn
đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của những nỗi lòng”. Với những cách so
sánh độc đáo sống động ấy sông Hương đã thành một con người, một người con gái đầy tình cảm, khi
xa dần thành phố đến cồn Huế dòng sông có đoạn chảy vòng lại và người nghệ sĩ trong Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã thấy sự “lưu luyến” của nó và như sực nhớ ra một điều gì chưa kịp nói nó đột ngột đổi
dòng rẽ ngoặt… để gặp lại thành phố, và được tác giả gọi là nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín
đáo của tình yêu. Thật bất ngờ khi một lần nữa tác giả lại tin tưởng sự gắn bó của sông Hương và xứ
Huế vói mối tình son sắt Kim Trọng – Thúy Kiều. Tâm hồn người nghệ sĩ ấy đã trở lại sự minh mẫn
của tư duy khoa học để khẳng định “tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình vói quê
hương xứ sở”. Đây là điểm mấu chốt, trực tiếp thể hiện nội dung tư tưởng cơ bản của bút kí. Và dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào thì sông Hương vẫn luôn hiện lên giống hoặc được ví là “người con gái dịu
dàng của đất nước”. Đó là người con gái Huế dịu dàng quyến rũ, một vẻ sang trọng quí phái.
Sông Hương trong cảm hứng của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chi mang vẻ đẹp thơ mộng của một
vùng văn hoá truyền thống, không chỉ dịu dàng một vẻ sơn thuỷ hữu tình mà còn là một dòng sông anh
hùng như bao dòng sông khác của quê hương Việt Nam, sông mang trong mình bao điều bí ẩn của lịch
sử. Nếu những trang miêu tả dòng chảy của dòng sông là những trang trữ tình nhất thì những trang nói
về lịch sử là những trang đáng tự hào nhất. Dòng sông “tươi trẻ và quyến rũ”, lung linh sắc màu trong
những ngày thanh bình lại trở thành người anh hùng sát cánh cùng dân tộc đánh giặc “Hiển nhiên là
sông Hương đã sống những thế kỷ vinh quang với lịch sử của nó”. Tác giả đã lược thuật những thời kỳ
lịch sử của dân tộc mà sông Hương đã trải qua một cách đầy tự hào, mỗi trang sử hào hùng của đất
nước sông Hương đều có những chiến công, như một chiến binh cùng bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
Với lối viết gợi cảm, giàu cảm xúc tự hào với lịch sử quê hương tác giả đã tạo nên những trang viết
đầy âm hưởng anh hùng ca, tạo cho sông Hương một phương diện mới trong vẻ đẹp hoàn mỹ của nó.
Sông Hương không chỉ dịu dàng quý phái trong vẻ đẹp văn hóa cố đô mà còn đầy tự hào trong lịch sử
đấu tranh của một dân tộc anh hùng. Trong cảm hứng tự hào ấy vẫn không quên những đau thương mà
đế quốc đã gây ra cho Huế chỉ bằng một trích dẫn lời một bài báo của người Mỹ. Dòng sông như một
nhân chứng sống cùng với những Bạch Đằng, Hồng Hà, Bến Hải, sông Lam, sông Cửu Long… tạo
nên bản anh hùng ca bất diệt của núi sông Việt Nam, là chứng minh đầy tự hào cho sự gắn bó son sắt
bền chặt giữa thiên nhiên và con người trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc “địa linh nhân kiệt”
này. Niềm tự hào ấy được thể hiện thật ấn tượng bằng một câu văn đầy sắc màu trữ tình: “Sông Hương
là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc, khi nghe lời gọi
nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường làm một
người con gái dịu dàng của đất nước”.
Có thể thấy tác giả có một lối viết rất độc đáo đầy sáng tạo khi thể hiện cảm xúc về dòng sông mà thực
chất là cảm xúc về cố đô Huế. Cảm xúc có những lúc chuyển hướng đột ngột nhưng vẫn liền mạch,
uyển chuyển. Từ cảm hứng tự hào chuyển sang niềm say mê “sắc áo cưới Huế ngày xưa” và như quên
dòng sông, tác giả đắm mình trong niềm mê say “màu áo điều lục của những cô dâu trẻ” và sông
Hương lại trở thành cô dâu thực đẹp trong ngày 11 ‘Vu quy’ với “một tấm voan huyền ảo”, “ẩn giấu
gương mặt thực của mình”.
Thành công đáng kể nhất của tác phẩm chính là ở ngôn ngữ ký giàu hình tượng và giàu sức gợi cảm,
điều đó đã làm nền một Hoàng Phủ Ngọc Tường ‘là một trong những người viết ký hay nhất” (Nguyên
Ngọc), ơ thể ký người viết có điều kiện phát huy tối đa những liên tưởng phong phú của mình về đối
tượng. Từ cảm xúc về dòng sông tác giả đã thể hiện thành công những suy tưởng của mình về Huế, về
lịch sử, về những “dòng sông đẹp trên thế giới” với một lối viết thật tự nhiên, dễ thấm vào lòng người.
GS Hoàng Ngọc Hiến khi viết về thể loại ký đã nhận xét “Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường mang dáng dấp
etxe” – một thể ký đặc biệt từng xuất hiện nhiều ở phương Tây – đòi hỏi ở người viết một khả năng
diễn đạt uyển chuyển, những sáng tạo khi quan sát và khéo léo khi trình bày những suy ngẫm chủ quan
của mình. “Giọng văn etxe thường là giọng văn nhẩn nha, thủng thẳng của một người suy ngẫm., lối
văn etxe có sự mềm mại, uyển chuyển của một người biết tranh thủ mà cũng biết nhân nhượng, biết
tôn trọng ý kiến của người khác nhưng trước sau vẫn cậy vào ý kiến chủ quan của mình” (trang 24
sđd). Vì vậy trong tác phẩm hay xuất hiện những từ “hình như”, “dường nhu”, “như”.. Tất nhiên đó
chưa phải là biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi tích cực, cơ sở triết học của thể etxe, nhưng nó đã giúp
nhà văn dễ dàng thể hiện những liên tưởng của mình một cách tự nhiên hơn. Tư duy etxe làm nên
chiều rộng của trường liên tưởng để từ sòng Hương có thể tái hiện cả lịch sử, văn hoá Huế, những
dòng sông đẹp trên thế giới qua đó thể hiện tình cảm sâu đậm với quê hương. Suy tưởng của nhà văn
có sự chuyển hướng rất linh hoạt, từ miêu tả hiện thực đến suy ngẫm tạo nên sự đan xen hợp lý của
tính chất triết luận với những sáng tạo hình tượng nghệ thuật. Từ điệu chảy lặng lờ của sông Hương mà
nhớ đến sông Xen của Pari hoa lệ, sông Đa nuýp xanh thẳm, sông Nê-va của Lê-nin-grat rồi đến cả
triết lý của Hê- ra-clit thời cổ đại., để rồi bộc lộ tình cảm với sông Hương “tôi nhớ lại con sông Hương
của tôi, chợt thấy qúy điệu chảy lững lờ của nó. Đấy là điệu slow tình cảm. dành riêng cho Huế”. Sông
Hương có vẻ đẹp riêng, đó là vẻ đẹp đặc trung nên thơ và trữ tình của Huế bởi nó mang trong mình cả
một nền văn hóa của quê hương xứ sở. Những nét văn hoá đặc sắc nhất của Huế, theo tác giả, đều
được sinh ra và tồn tại cùng vẻ mặt nước lặng lờ của dòng sông, đó là những đêm hội hoa đăng, những
làn điệu ca Huế ngọt ngào, những khu vườn cây trái xanh tươi, những lăng tẩm uy nghiêm… Vì thế mà
sông Hương trở thành “người tài nữ đánh đàn lức đêm khuya”, điệu nhạc dìu dặt, đằm thắm của ca
Huế chỉ có thể cảm nhận được trong cái không gian tĩnh lặng của mặt nước sông Hương về đêm. Cả
câu Kiều hay nhất cưa Nguyễn Du khi miêu tả tiếng đàn của nàng Kiều cũng được sinh ra từ những
ngày “Nguyễn Du lênh đênh trên quãng sông này vói một phiến trăng sầu”. Như vậy sông Hương đã
mang trong mình chất nhạc. Theo cảm nhận của tác giả sông Hương không chỉ mang trong mình vẻ
đẹp văn hoá mà nó còn là môi trường sản sinh ra Truyện Kiều – niềm tự hào của văn học dân tộc “tôi
đã cảm nhận ra cái âm hưởng sâu thẳm của Huế trên mỗi trang Truyện Kiều… thiên nhiên của mảnh
đất kinh kì xưa đã để lại một cái bóng mông lung nhưng rất dễ nhận ra trong thơ Nguyễn Du..”. Sông
Hương trong cảm hứng của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp thơ mộng của một vùng
văn hoá truyền thống, không chỉ dịu dàng một vẻ sơn thuỷ hữu tình mà còn là một dòng sông anh hùng
như bao dòng sông khác của quê hương Việt Nam, sông mang trong mình bao điều bí ẩn của lịch sử.
Nếu những trang miêu tả dòng chảy của dòng sông là những trang trữ tình nhất thì những trang nói về
lịch sử là những trang đáng tự hào nhất. Dòng sông “tươi trẻ và quyến rũ”, lung linh sắc màu trong
những ngày thanh bình lại trở thành người anh hùng sát cánh cùng dân tộc đánh giặc.
Chỉ với mười trang văn, bằng sự hiểu biết và tình cảm sâu nặng, tình yêu mãnh liệt với Huế nhà văn đã
tạo nên một xứ Huế đáng yêu trong vẻ đẹp của thi ca, của văn hoá. Sức hấp dẫn của bút ký này được
tạo nên bởi hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, gợi cảm và một lối diễn đạt ngọt ngào như hương vị của
hoa trái cỏ cây xứ Huế. Điều đó đã tạo cho thể ký nói chung và ký Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng
một sức công phá diệu kỳ vào trái tim độc giả. Thường thì tư tưởng chủ đề của ký không khó nắm bắt,
nó dễ dàng đến với số đông độc giả. Đến với ký người thưởng thức không chỉ thoả mãn khoái thú thẩm
mỹ mà còn có được những khoái thú thuần trí tuệ bởi những tri thức về người thật việc thật, làm nên
nét khác biệt của ký với các loại thể văn học khác. Đến với “Ai đã đặt tên cho dòng sòng?”người đọc
sẽ gặp một người trần thuật có tâm hồn tinh tế và một giọng trần thuật mượt ngọt như dòng nước
Hương giang bốn mùa xanh thẳm. Tác phẩm sẽ tạo cho người đọc một tình yêu Huế thuần khiết và sâu
nặng như người ta yêu Hà Nội khi đọc văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân.

𝐓𝐓𝐒 - Những dòng sông trong thi ca Việt


Việt Nam có lẽ là một trong những đất nước có mật độ sông ngòi dày đặc nhất trên thế giới. Trên khắp
lãnh thổ từ Bắc chí Nam có tới hơn 2.300 con sông dài trên 10km và cứ di chuyển trung bình 20km thì
ta lại bắt gặp một cửa sông. Dòng sông, vì thế với mỗi người Việt là một thứ gần gũi, thân thương, ai
cũng có ít nhiều kỷ niệm. Và tự bao giờ, sông đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của bao lĩnh vực
nghệ thuật, trong đó có thi ca.
𝟏. Trong cuộc thi thơ của Báo Văn nghệ tổ chức năm 1969, trao giải năm 1970, có một bài thơ nằm
trong chùm thơ được trao giải Nhì của thi sĩ Bế Kiến Quốc mang tên “Những dòng sông”. Trong bài
thơ khá dài này, có hai câu thơ được lặp lại trong phần đầu và cuối như một chủ âm quan trọng của tác
phẩm, dẫn dắt cảm hứng chủ đề của cả bài thơ: “Sinh ở đâu mà ai cũng anh hùng?/ Tất cả trả lời: Sinh
bên một dòng sông…”.
Hai câu thơ này, có thể nói đã nằm trong hành trang ra trận của biết bao người lính, nhất là những thế
hệ học sinh sinh viên nhập ngũ đầu thập niên 70 của thế kỷ trước. Những người lính tuổi mới đôi mươi
ấy đã vào trận với cả dòng sông tuổi thơ của mình, dòng sông ấy gắn với quê hương làng xóm, gắn với
gia đình bầu bạn thân yêu. Dòng sông ấy đã khiến cho tất cả những người lính trở thành những người
anh hùng can trường trong mưa bom bão đạn.
Chiến tranh kết thúc, cả đất nước bước vào một kỷ nguyên mới của hòa bình thống nhất, chúng ta lại
được thấy nhiều hơn vẻ đẹp của những dòng sông trong một thời kỳ mới, thời kỳ dựng xây Tổ quốc.
Nhà thơ Lai Vu trong một bài thơ đã mang đến cho người đọc hai vẻ đẹp tương phản của hai dòng
sông cùng ở miền Bắc: sông Đáy và sông Đà: “Dòng sông Đáy quê em/ Sông trăng hay sông lụa/
Nong kén vàng như lúa/ Tròn vạnh một góc trời/…Dòng sông Đà quê anh/ Đá dựng ghềnh dựng thác/
Mênh mông ngàn sóng bạc/ Đàn voi đá nhấp nhô” (Dòng sông quê em, dòng sông quê anh). Bài thơ đã
được nhạc sĩ Đoàn Bổng phổ nhạc thành ca khúc cùng tên nổi tiếng suốt gần nửa thế kỷ qua, có một
đời sống rộng rãi trong lòng công chúng nghe nhạc.
Nhắc về những dòng sông của miền Bắc, không thể không kể tới sông Hồng, dòng sông quan trọng
hàng đầu cho việc phát triển nông nghiệp ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Sông Hồng vì thế đã trở thành
một vẻ đẹp văn hóa, trở thành nỗi nhớ khôn nguôi cho những kẻ xa quê. Rất nhiều khi, nỗi nhớ Hà Nội
đi cùng với nỗi nhớ sông Hồng: “Ngõ nhỏ phố nhỏ nhà tôi ở đó/ Đêm lặng nghe trong gió tiếng sông
Hồng thở than” (“Hà Nội và tôi”, Nhạc và lời: Lê Vinh), “Tôi mong về Hà Nội/ Để nghe gió sông
Hồng thổi/ Để thương áo len cài vội/ Một mùa đông rét mướt” (“Mong về Hà Nội” - Nhạc và lời:
Dương Thụ).
𝟐. Nếu như ở miền Bắc, sông Hồng có thể nói là dòng sông điển hình nhất, đã đi vào bao tác phẩm thi
ca, thì ở miền Trung, dòng sông đi vào nhiều áng thơ nhạc nhất có lẽ là sông Hương. Từ thế kỷ 19,
sông Hương đã đi vào thơ Cao Bá Quát với góc nhìn thật khác biệt của một bậc tài tử: “Trường giang
như kiếm lập thanh thiên” (Hiểu quá Hương giang). Có lẽ, nhà thơ muốn mượn việc miêu tả dòng sông
để thể hiện ý chí, khí phách của mình. Vì thế, dòng sông được ví như một thanh kiếm dựng giữa trời
xanh, khác hẳn với nỗi buồn man mác của sông Hương trong một loạt các sáng tác sau này.
Trong hàng loạt các ca khúc được viết từ trước 1945 cho tới sau 1975, sông Hương đều hiện lên với
những nỗi bâng khuâng nhớ thương về cảnh về người: “Ngày chia tay hôm nao còn đây/ Nước trên
sông Hương còn đầy/ Tình đã xa gió mưa u hoài mắt lệ ngắn dài” (“Mưa trên phố Huế”: Minh Kỳ -
Tôn Nữ Thụy Khương), “Dòng sông ai đã đặt tên/ Để người đi nhớ Huế không quên/ Xa con sông
mang theo nỗi nhớ/ Người ở lại tháng năm đợi chờ” (“Dòng sông ai đã đặt tên” - Nhạc và lời: Trần
Hữu Pháp).
Cùng với núi Ngự, sông Hương đã trở thành bản sắc của Huế, nhắc đến Huế là nhắc đến sông Hương
và ngược lại, đúng như câu lục bát bất tuyệt của thi sĩ Bùi Giáng: “Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn
núi Ngự bên bờ sông Hương”. Mỗi thi sĩ khi đến với sông Hương dường như đều muốn để lại một dấu
ấn khác biệt trong những dòng thơ để lại: “Sông Hương hóa rượu ta đến uống/ Ta tỉnh đền đài nghiêng
ngửa say” (Nguyễn Trọng Tạo). Thực và ảo, say và tỉnh hòa trộn lung linh chỉ trong hai câu thơ bảy
chữ. Người đọc không chỉ thấy người quyến luyến cảnh mà cảnh dường như cũng đang níu bước
người.
Một điều đặc biệt thú vị là hầu hết những bài thơ hay về dòng sông đều được phổ nhạc thành các ca
khúc nổi tiếng. Từ “Dòng sông quê anh dòng sông quê em” đã nhắc đến trong phần trước, cho tới
“Tình yêu trên dòng sông quan họ” (Phan Lạc Hoa phổ bài thơ ''Đêm sông Cầu'' của Đỗ Trung Lai),
“Đây thôn Vĩ Dạ” (Phạm Duy và Võ Tá Hân đều phổ nhạc) và “Tạm biệt Huế” (Xuân An phổ thơ Thu
Bồn). Nhưng có một tác phẩm với hành trình từ thơ sang nhạc rất đặc biệt nữa, đó là “Khúc hát sông
quê” (thơ Lê Huy Mậu, nhạc Nguyễn Trọng Tạo). Cả nhà thơ và nhạc sĩ đều là những người sinh ra và
lớn lên ở Nghệ An.
Dòng sông trong bài thơ nguyên bản của Lê Huy Mậu vì thế có lẽ cũng thấm đượm hình bóng quê nhà
miền Trung. Từ văn bản gốc gồm 88 câu thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo đã chắt lọc thành ca khúc với
13 câu, dồn đọng những hình ảnh mang tính khái quát và gợi cảm cao nhất về một dòng sông quê
hương xứ sở.
Bài hát đã có một sức lan tỏa mạnh mẽ không chỉ ở trong nước mà còn đi đến khắp những quốc gia có
người Việt sinh sống: “Quá nửa đời phiêu dạt, con lại về úp mặt vào sông quê/ Ôi con sông dạt dào
như lòng mẹ/ Chở che con đi qua chớp bể mưa nguồn/… Sông còn nhớ chăng nơi ta ngồi ngóng mẹ/
Vời vợi tuổi thơ một xu bánh đa vừng/ Cùng một bến sông con trâu đằm sóng dưới/ Bầy trẻ thơ tắm
mát phía thượng nguồn/ Một dòng xanh trong chảy mãi tới vô cùng”. Tác phẩm không cần nhắc đến
một cái tên cụ thể của dòng sông mà có khi đó cũng là một điều hay, bởi ai cũng dễ dàng bắt gặp mình
trong đó, ai cũng có cảm giác nhà thơ đang nói hộ lòng mình.
𝟑. Chuyển sang những dòng sông của miền Nam, những con sông ở đây cho ta cảm giác rộng lớn
mênh mang và trù phú về mặt tài nguyên, có lẽ một phần lớn do điều kiện địa lý tự nhiên ở đây. Vùng
Đông Nam bộ có hàng loạt sông lớn như sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Thị Vải… Còn miền Tây
Nam bộ thì hoàn toàn có thể di chuyển khắp 13 tỉnh thành bằng đường sông nước. Hoài Vũ có lẽ là
một trong những nhà thơ miền Nam viết nhiều về những dòng sông hơn cả và không ít tác phẩm của
ông được phổ nhạc thành những ca khúc nổi tiếng.
Chỉ tính riêng các bài thơ liên quan đến dòng sông được phổ nhạc, Hoài Vũ đã có ba bài thơ được công
chúng biết đến rộng rãi, đó là bài “Vàm Cỏ Đông” được nhạc sĩ Trương Quang Lục phổ nhạc thành ca
khúc cùng tên, bài “Gửi miền hạ” được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc thành ca khúc “Anh ở đầu
sông em cuối sông” và bài “Thì thầm với dòng sông” được nhạc sĩ Thuận Yến phổ nhạc thành ca khúc
cùng tên.
Hình ảnh sông Vàm Cỏ trở đi trở lại trong các bài thơ của Hoài Vũ, ở đó ta gặp những nhớ thương chờ
đợi của đôi lứa yêu nhau trong thời chiến, những hẹn thề son sắt thủy chung, niềm tự hào về quê
hương và lòng yêu nước căm thù giặc: “Anh ở đầu sông em cuối sông/ Uống chung dòng nước Vàm
Cỏ Đông/ Thương nhau đã chín ba mùa lúa/ Chưa ngày gặp lại nhớ mênh mông” (Gửi miền hạ), “Ở
tận sông Hồng em có biết/ Quê hương anh cũng có dòng sông/ Anh mãi gọi với lòng tha thiết/ Vàm Cỏ
Đông ơi, Vàm Cỏ Đông” (Vàm Cỏ Đông), “Đời hai ta gắn bó với hai sông/ Em Vàm Cỏ Tây anh Vàm
Cỏ Đông/ Mỗi tối chiều lên chao sóng nước/ Bìm bịp kêu xao xác cả hai dòng” (Thì thầm với dòng
sông).
Sau 1975, hình ảnh sông nước Nam bộ còn đi vào nhiều ca khúc nổi tiếng khác, thể hiện vẻ đẹp quê
hương trong một thời kỳ mới, một trang sử mới: “Đời vui nước trôi ngược dòng/ Tình phù sa tuy đục
mà trong/ Trông con nước nó trôi lạnh lùng/ Thương ôi chín nhánh sông quê mình/ Cần Thơ gạo trắng
nước trong là đây” (“Đàn sáo Hậu Giang” - Nhạc và lời: Trần Long Ẩn), “Chiếc áo bà ba trên dòng
sông xanh thẳm/ Thấp thoáng con xuồng bé nhỏ giữa mênh mông/ Nón lá đội nghiêng tóc dài con
nước đổ/ Hậu Giang ơi em vẫn đẹp ngàn đời” (“Chiếc áo bà ba” - Nhạc và lời: Trần Thiện Thanh)
Đời sống với bao bộn bề cứ trôi đi và các dòng sông vẫn miệt mài bền bỉ chảy. Thi ca nói về dòng sông
mà thực chất cũng là để nói về số phận con người, số phận dân tộc với bao thăng trầm lịch sử. Sự trở
về bên những dòng sông đôi khi sẽ là liều thuốc tinh thần quý giá, gột rửa cho ta bao nỗi muộn phiền.
Và chính dòng sông sẽ đưa ta tìm lại được những trong trẻo yên bình với bao mộng mơ của một thời
thơ ấu: “Trong tim ai cũng có một dòng sông riêng mình/ Tim tôi luôn gắn bó với dòng sông tuổi thơ/
Con sông tôi tắm mát, con sông tôi đã hát/ Con sông cho tôi đậm một tình yêu nước non quê nhà/ Sông
cũng như người ấy, có khi vui buồn có khi hờn ghen, chỉ tình yêu tuổi thơ mới thấy/ Ôi những con
thuyền giấy, tháng năm tuổi thơ đã đi về đâu, để mình tôi nhớ nhung bây giờ” (Trở về dòng sông tuổi
thơ – Nhạc và lời: Hoàng Hiệp).
ĐỀ 1: …Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục,
vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm
có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam
bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt
Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên
Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hưong vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua
một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai
dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo
mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi
ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc
trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả.
Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng
những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng
thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp
trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của
nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát
tiếng gà…

(Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022, tr. 198 – 199)

Cảm nhận của anh /chị, về vẻ đẹp của đoạn văn trên.

Bài viết có thể triển khai các ý chính sau:

– Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một tặng phẩm xứng đáng mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho
sông Hương, cho Huế. Bút kí được viết bằng một bút pháp tỉnh táo mà đắm say, chặt chẽ mà bay bổng.
Tính trữ tình, tính triết lí, tính khoa học thống nhất với nhau, tạo nên một áng văn dễ làm mê đắm lòng
người.Chỉ qua đoạn trích từ “Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi…” đến “giữa những xóm làng
trung du bát ngát tiếng gà”, ta đã có thể cảm nhận được điều này.

– Nếu cả thiên bút kí kể về toàn bộ hành trình của sông Hương từ đại ngàn về châu thổ rồi xuôi ra biển
cả thì riêng đoạn văn này chỉ nói về một chặng đường mà sông Hương đã đi qua – chặng nó uốn lượn
giữa miền trung du “lô xô” những “đám quần sơn”. Đây cũng là chặng đường rất đáng nhớ, chuẩn bị
tiền đề cho một thay đổi lớn: sông Hương, từ “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” trở thành
“người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.

– Trước hết, bằng cái nhìn của một người biết rõ sự tồn tại về phương diện địa lí của đối tượng, nhà
văn đã vẽ ra một “bản đồ” thật chi tiết, miêu tả đường đi của sông Hương với những đợt “chuyển
dòng”, “uốn mình” liên tục theo các hướng khi nam bắc, khi tây bắc, khi đông bắc… Bằng cách đó,
ông đưa lại một cái nhìn bao quát về sông Hương tại “toạ độ” trung du với các điểm xác định: ngã ba
Tuần, điện Hòn Chén, bãi Nguyệt Biều, Lương Quán, chùa Thiên Mụ, Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu
Bảo… Tất cả như muốn làm rõ “một cuộc tìm kiếm có ý thức” của sông Hương sau khi đã ròi bỏ đại
ngàn. Hoá ra, sự tỉ mỉ, khoa học trong cách đánh dấu các vị trí trên bản đồ lại phục vụ rất đắc lực cho
việc miêu tả tính cách hay khí chất đang định hình của sông Hương. Việc làm này tương tự việc các
nhà văn khác đi tìm những chi tiết thật đắt để miêu tả hành trình số phận của nhân vật. Theo từng dòng
văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã thực sự ám ảnh độc giả như một con người đích
thực, với những “chuyển”, “vòng”, “uốn”, “vấp”, “vẽ”, “ôm”… đầy xúc cảm.

– Kiến thức khoa học nếu sử dụng không chắc tay dễ khiến bài bút kí khô khan, nhưng trong trường
hợp này, nó đã được đưa vào hết sức nghệ thuật, làm cho mạch văn mềm mại, trữ tình mà không hề dễ
dãi. “Sắc nước trở nên xanh thẳm” của Hương giang đoạn qua Ngọc Trản được lí giải là do con sông
đang vượt qua một vực sâu. Sự đổi sắc của nền trời “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” phía tây nam
thành phố Huế được cắt nghĩa bằng lí do phản quang ánh nắng của những điểm cao đột ngột như Vọng
Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo. Đọc đoạn văn, ta không chỉ được thấy mà còn được hiểu, nhờ sự giải thích
khéo léo, tự nhiên nhưng rất thuyết phục của tác giả.

– Trong lí luận hội hoạ cổ phương Đông, khi khái quát về cách diễn tả xa gần, người ta thường dùng
các thuật ngữ: bình viễn, thâm viễn, cao viễn, về bức tranh mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ ra trước
độc giả trong đoạn văn này, ta hoàn toàn có thể nói nhà văn đã rất thành thục trong việc làm nổi bật các
khía cạnh cao, sâu, xa ấy của cảnh. Từ chữ nghĩa trên mặt giấy, một hình tượng hiện lên sống động,
đầy cảm giác.

– Trong đoạn trích, câu văn rất dài sau đây có ý vị thật đặc biệt, đã dồn nén được nhiều ấn tượng:
“Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng
những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng
thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Hàng loạt ấn
tượng về “đám quần sơn”, về “những lăng tẩm đồ sộ”, “những rừng thông u tịch” quyện vào nhau. Từ
ngữ chỉ đặc điểm của đối tượng này cũng đồng thời ám gợi đặc điểm của đối tượng khác, tạo nên một
vùng cảm giác phức hợp soi chiếu vào nhau. Đây là một kiểu biểu đạt rất thơ: trùng điệp, luyến láy và
biến hoá; vừa tô đậm, xoáy sâu, vừa tạo ra những vùng nhoè, mờ, mở rộng không gian và khả năng
liên tưởng cho người đọc.

– Câu cuối của đoạn văn vô cùng gợi cảm: “Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí,
như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga
tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”. Câu văn gợi nhớ những kiểu kết
thúc các khổ thơ, đoạn thơ trong một bài thơ: xoa dịu tâm trí vốn chật căng những ấn tượng, tạo phút
giây chùng lắng để người đọc chuẩn bị tâm thế tiếp nhận một đợt sóng mới của cảm xúc.

ĐỀ 2: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Hương.

* Vẻ đẹp trữ tình của sông Hương:

– Là dòng sông chảy giữa lòng thành phố Huế, tạo nên vẻ đẹp riêng cho xứ Huế.

– Trong rừng thượng nguồn:Sông Hương sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái digan man dại
và phóng khoáng, tự do mà phóng túng. Nhưng rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng của sông
Hương tạo cho nó một vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ.

-> Tác giả đã nhấn mạnh đến hai đặc điểm quan trọng của sông Hương: một con sông tạo nên bản sắc
văn hóa của Châu Hóa; một thiếu nữ đẹp sống hết mình say đắm trong tình yêu.

– Trên đường đến Huế: Sông Hương chuyển dòng liên tục đột ngột như một cuộc tìm kiếm có ý thức.
Tác giả lần theo dòng chảy của sông Hương như một nhà địa lý, như một chàng trai khám phá tính
cách của người đẹp (sắc nước xanh thẳm, dòng sông mềm như tấm lụa, màu sắc nhạy cảm với ánh
sáng, vẻ kiêu hãnh âm u…)

-> Sông Hương như một người con gái đẹp làm duyên: vốn đã có vẻ đẹp dịu dàng, trí tuệ nay lại càng
quyến rũ hơn với vẻ đẹp lịch lãm, kiêu sa và trầm mặc.

– Trong lòng Huế: sông Hương chảy thực chậm. Đó là điệu slow tình cảm mà sông Hương dành riêng
cho Huế.

-> Sông Hương đẹp một cách hạnh phúc. Nó đã bị Huế chinh phục, ngả trọn vào vòng tay của Huế.
Tình yêu với Huế tạo nên bản sắc văn hóa của dòng sông.

– Khi rời xa Huế: như sực nhớ điều gì chưa kịp nói, dòng sông đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng
đông tây gặp lại Huế ở thị trấn Bao Vinh.

-> Dòng sông mang vẻ đẹp của người con gái lưu luyến với tình nhân. Hành động đột ngột quay trở lại
gặp Huế là một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu.

=> Nhận xét: Sông Hương được miêu tả sát với bản đồ địa hình. Nó tạo nên không gian văn hóa đôi bờ
với vẻ đẹp quyến rũ. Từ thực tế ấy nhà văn ví sông Hương như một thiếu nữ đẹp cùng với Huế làm nên
một tình yêu nồng thắm, say mê. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, mượt mà, nhiều liên tưởng độc đáo tạo nên
một dòng sông quyến rũ, đắm say lòng người.

ĐỀ 3: Vẻ đẹp của Sông Hương trong bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?".

Dàn ý bài viết tham khảo:

Sông Hương ở thượng nguồn.

Sông Hương – “bản trường ca của rừng già” và sông Hương – cô gái di gan phóng khoáng, man dại.
Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên như một cô gái đẹp, một vẻ
đẹp rất Huế, rất độc đáo; vừa dịu dàng, vừa “phóng khoáng, man dại”. Ngay từ ngọn nguồn của dòng
chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, sông Hương toát lên một vẻ đẹp tràn đầy sức sống,
vừa hùng tráng, vừa trữ tình như một bản “trường ca của rừng già”, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn,
mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn. Cũng có lúc nó trở nên dịu
dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên.
Bằng biện pháp nhân hoá đặc sắc, tác giả như đã hình tượng hoá con sông Hương: “Giữa lòng Trường
Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái di gan phóng khoáng và man
dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.

Sông Hương – “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.

Nhưng cũng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt… đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người
con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ,
trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”. Tác giả cho rằng “người ta sẽ không hiểu
được một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua,
không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng
kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Cái điều mà
sông Hương “không muốn bộc lộ đã đóng kín lại” đó, hình như giờ đây bằng một cách kín đáo, tác giả
đã hé mở cho độc giả thấy được: sông Hương chính là người mẹ hiền hàng ngày, hàng giờ không
ngừng duy trì “bồi đắp phù sa” màu mỡ cho cả một vùng văn hoá lịch sử đã được hình thành nơi đôi
bờ sông Hương – xứ Huế.

Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế (trong mối quan hệ với Kinh thành Huế)

1. Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của Kinh thành Huế có hàng trăm năm văn
hiến, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và những thử thách. Trong cái nhìn tinh tế,
lãng mạn và rất phong tình của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như cuộc tìm kiếm
có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ
tích.

Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ một nét lịch lãm, tài hoa với
những hình ảnh mỹ lệ, vốn ngôn ngữ giàu có, sự hiểu biết phong phú của tác giả. Giữa cánh đồng
Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”. Nhưng ngay khi ra khỏi vùng núi,
sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ như “người đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài” với niềm khát
khao của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ
một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa
hai dãy đồi sừng sững như thành quách”.
Vừa mạnh mẽ, vừa tình tứ mà dịu dàng kín đáo, đó là cái nét phẩm chất đẹp đẽ mang nét riêng của
sông Hương – cô gái Huế được tác giả diễn tả bằng những nét vẽ, những hình ảnh cũng thật tình tứ,
dịu dàng. Khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo “dòng sông mềm như tấm lụa”; khi qua “hai dãy
đồi sừng sững như thành quách”, dòng sông ánh lên vẻ đẹp biến ảo với những phản quang nhiều màu
sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được
phong kín trong những rừng thông u tịch toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ , mây
phong; Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”, dòng sông Hương, mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết
lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó bỗng sinh động bừng sáng lên khi gặp
tiếng chuông Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.

Tóm lại, với những nét bút giàu màu sắc hội hoạ tinh tế, với cảm xúc say đắm, ở đoạn này Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã tạo dựng được một bức tranh sông Hương thật đẹp bởi sự phối cảnh kì thú giữa nó với
thiên nhiên xứ Huế đa dạng và rất hài hoà.

Sông Hương giữa lòng thành phố Huế.

Từ đây như đã tìm đúng đường về, gặp lại thành phố thân yêu của mình “sông Hương vui tươi hẳn lên
giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực, yên tâm theo
hướng Tây Nam – Đông Bắc. Phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố
in ngần lên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Đúng là một hình ảnh so sánh rất độc đáo
và thi vị. Nó không chỉ được vẽ bằng bàn tay hoạ sĩ tinh tế mà còn được vẽ bằng trái tim của một thi sĩ
tài hoa, đa tình. Cũng với bút pháp ấy, dòng sông “uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến” khiến
“dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Đúng là dòng sông Hương dịu
dàng và kín đáo như chính cô gái Huế vậy! Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông
Hương được ví như sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Pê-téc-bua.
Nhưng Huế vẫn giữ nguyên dáng một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông với “cây đa, cây cừa cổ thụ toả
vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, từ nơi ấy vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa
thuyền chài của một linh hồn xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Phải
chăng đây là nét độc đáo nhất của Huế? Bởi nó vẫn còn mang vẻ đẹp cổ kính nghìn xưa. Bằng cảm
nhận âm nhạc, tác giả thấy con sông Hương của mình ở đây “có điệu chảy lặng lờ, đó là điệu slow tình
cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh
trong những đêm rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi
muốn ở chao nhẹ trên mặt nước như vấn vương của một nỗi lòng”. Quả là một hình ảnh rất trữ tình,
lãng mạn. Đúng như một nhà thơ đã viết về sông Hương – Huế:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy


Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

Hình như trong khoảnh khắc chững lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya. Trong con mắt thi sĩ – nhạc sĩ của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông
Hương đã trở thành con sông của “thơ ca nhạc hoạ”. Vì “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được
sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Từ đó, tác giả mường tượng thấy sau lớp sương khói của
thời gian, hình như “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiếm trăng sầu”
để viết nên những trang Kiều tuyệt bút, với “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Trong đó, nổi bật
nhất là bản “Tứ đại cảnh”, một bản nhạc cổ của Huế. Đây quả là một cuộc gặp gỡ kì thú giữa những
tâm hồn nghệ sĩ cổ kim trên dòng sông Hương thơ mộng. Trong cái nhìn đắm say của trái tim đa tình
Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương khi chảy vào lòng thành phố Huế bỗng hiện lên như “người tình
rất dịu dàng và thuỷ chung”. Điều này được diễn tả trong một hình ảnh khá độc đáo, đầy phát hiện
“Rời khỏi Kinh thành, sông Hương chếch về hướng Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng
trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre, trúc và những
vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng rẽ
sang hướng Đông Bắc để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”, “vốn đang chảy
giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự
nhiên và rất giống với con người ở đây”. Tác giả gọi đấy là “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín
đáo của tình yêu”. Nhà văn hình dung sông Hương ở đây giống như nàng Kiều đã “chí tình trở lại tìm
Kim Trọng của nó, để nói một lời thề ước trước khi về biển cả. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực
sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình
với quê hương xứ sở”. Đây là một liên tưởng thật bất ngờ, thú vị, đậm màu sắc văn chương cổ điển của
tác giả về dòng sông yêu quý của mình. Dòng sông Hương trong sâu thẳm của nó mang vẻ đẹp tâm
hồn dân tộc. Bởi như Chế Lan Viên đã viết:

“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc


Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên”

Và nhà thơ Ngô Viết Dinh cũng viết:

“Nghìn năm gửi lại một chữ trinh


Tâm hồn dân tộc kết tinh tim Kiều”

Sông Hương – thiên “sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc”

Gọi sông Hương là một áng văn trữ tình như một thiếu nữ dịu dàng, mơ mộng và kín đáo thì ai nấy đã
rõ nhưng gọi sông Hương là một “thiên sử thi”, “một bản anh hùng ca” thì thật đáng ngạc nhiên. Đây
là một phát hiện bất ngờ và thú vị nữa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Qua “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi
và tài liệu khảo cổ học về thành cổ Hoá Châu, tác giả khám phá ra rằng sông Hường vốn có tên là Linh
Giang, nghĩa là dòng sông thiêng đã đấu tranh oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại
Việt qua những thế kỉ trung đại như Bạch Đằng, Như Nguyệt “Tự cổ huyết do hồng” ở phía Bắc. Thế
kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch sử bi
tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa và từ đây sông Hương đi vào thời đại Cách
mạng tháng tám, chiến dịch Mậu Thận và cuộc tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân
năm 1975 bằng những chiến công rung chuyển.

Như vậy, sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng, đầy trữ tình mà trong thời gian ngân
vang của lịch sử, nó còn tiềm ẩn một sức mạnh quật cường, bất khuất của dân tộc, của “sử thi viết giữa
màu lá cỏ xanh biếc”. “Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công để rồi nó
trở về với cuộc sống hình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”, của Huế thân yêu.
Đúng là sử thi mà vẫn rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Và đột nhiên, tác giả liên tưởng đến màu áo tím ẩn
hiện thấp thoáng theo bóng cô dâu Huế “vẫn mặc sau tiết sương giáng”. Đấy cũng chính là màu của
sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt
thực của dòng sông Hương – cô gái Huế.

Dòng sông Hương – dòng sông khơi nguồn cho cả một dòng sông thi ca phong phú.

Với tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, vẻ đẹp của sông Hương không hề đơn điệu mà biến hoá đa dạng.
Vì vậy, mỗi phong cách thơ đều có thể khám phá được những chất thơ khác nhau của nó. Từ xanh biếc
thường ngày nó bỗng thay màu thực bất ngờ “dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của
Tản Đà; từ tha thướt mơ màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí
phách Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh
Quan; nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.

Bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hoá phong phú và một kho từ ngữ giàu có đậm
chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc hoạ được một dòng sông như một công trình nghệ thuật
tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ đẹp rất thơ, khơi nguồn cho cảm hứng thi ca và gắn liền với nền âm nhạc
cổ điển Huế, tạo nên bề dày lịch sử văn hoá của cố đô. Nhờ đó, sông Hương đã trở thành dòng sông
bất tử chảy mãi trong trí nhớ và tình cảm của độc giả, bồi đắp phù sa màu mỡ làm xanh tươi thêm tình
yêu đối với quê hương đất nước.

(Bài viết sưu tầm)

ĐỀ 4: Trong bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhiều
lần ví von vẻ đẹp sông Hương:

Lúc ở thượng nguồn: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như
một cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một
tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về
mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông
Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng
văn hóa xứ sở.”

Khi về ngoại vi thành phố Huế: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức
người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi
vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình
theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới gặp thành phố tương lai
của nó.”

Và khi tạm biệt kinh thành Huế: sông Hương “như sực nhớ ra một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột
đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.
Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông
Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết
bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi
gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm
tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi
về biển cả…”

(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022, tr198-201)

Phân tích vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong những lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật nét tài hoa
trong phong cách kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Giới thiệu về khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?”

*Cảm nhận được vẻ đẹp sông Hương qua ba lần miêu tả:

– Vẻ đẹp sông Hương trong quan hệ với cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế mang những nét đặc trưng của
con người và cảnh vật nơi đây:

+ sông Hương ở thượng nguồn nguyên sơ, man dại, mãnh liệt và đầy quyến rũ (cô gái Di- gan) nhưng
cũng hết sức dịu dàng và trí tuệ bởi chiều sâu nhân cách của một dòng sông lặng lẽ bồi đắp “phù sa”
cho văn hóa Huế, góp phần tạo nên và bảo tồn văn hóa của thiên nhiên xứ sở.

+ sông Hương ở ngoại vi thành phố mềm mại, đương thì xuân sắc với những đường cong gợi cảm và
tuyệt mĩ.

+ sông Hương lúc tạm biệt kinh thành với khúc rẽ ngoặt độc đáo, được khám phá ở chiều sâu tính cách
lãng mạn, đa cảm và chung tình.

– Hành trình sông Hương từ thượng nguồn về đến ngoại vi và thành phố Huế là hành trình đầy gian
truân và thử thách, từ đó làm nổi bật diện mạo xinh đẹp, dịu dàng và tính cách thủy chung, thâm trầm
của dòng sông;

– Vẻ đẹp sông Hương thể hiện niềm yêu da diết, niềm tự hào và kiêu hãnh của tác giả về con sông quê
hương nói riêng và xứ Huế nói chung.

* Làm nổi bật nét tài hoa phong cách kí Hoàng Phủ Ngọc Tường:

– Vốn ngôn từ đẹp, tao nhã, tinh tế, lịch lãm; những ví von, so sánh nhân hóa giàu chất thơ, chất nhạc,
chất họa và chất suy cảm, hướng nội đã làm nên nét thanh tao rất riêng trong chất kí HPNT; sự quan
sát và tưởng tượng bằng lăng kính của tình yêu và cái nhìn lãng mạn đã làm nên chất trữ tình riêng của
kí HPNT;

– Giọng điệu rất Huế, rất trữ tình và sâu lắng, đầy suy niệm.

𝐓𝐓𝐒 - “Có một xứ Huế mộng mơ” như thế, có một Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “vẽ lại đời mình
bằng màu nước sông Hương”
Không bị đô thị hóa như các thành phố khác ở Việt Nam, mặc dù mỗi năm ở đây đón hàng triệu du
khách đến tham quan, nhưng Huế vẫn giữ được vẻ thanh bình, êm đềm một cách rất riêng, rất Huế.
Chả biết tự bao giờ xứ Huế mộng mơ làm say đắm lòng người, biết bao thi nhân mặc khách trót "dính
líu" đến mảnh đất cố đô thân thương này để nặng lòng, vấn vương mãi chẳng thể rời xa.
Được mệnh danh là thành phố di sản nên Huế có chút trầm mặc ưu tư, man mác buồn. Đây sông
Hương thơ mộng, hiền hoà, kia núi Ngự Bình nên thơ hoà quyện vào nhau tạo nên bức tranh phong
thuỷ hữu tình níu chân lữ khách.
Huế quyến rũ bởi Đại nội cổ kính và quần thể lăng tẩm có kiến trúc độc đáo mang dấu ấn thời gian của
các vị vua triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam. Những ngôi nhà vườn xưa cũ của những vị quan
lại triều Nguyễn vẫn đang được trân trọng bảo tồn. Đi trên những con phố ở Huế ta bắt gặp những ngôi
chùa hoà hợp nương nép với thiên nhiên. Hình ảnh người con gái Huế duyên dáng trong tà áo dài cùng
chiếc nón bài thơ lẫn trong tiếng chuông chùa hiện lên đẹp đến nao lòng.
Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế chính thức mở rộng trục dọc của sông Hương, diện tích gấp 4
lần, mở rộng diện tích là cơ hội nhưng cũng là thách thức vùng đất cố đô. Ủy ban thường vụ Quốc hội
đã thông qua nghị quyết về việc mở rộng TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế 1/7/2021 TP Huế mới có diện
tích tự nhiên rộng hơn 265km2, quy mô dân số trên 652.570 người và có 36 đơn vị hành chính cấp xã,
việc mở rộng này tạo cho Huế có nhiều dư địa để phát triển. Tuy nhiên bảo tồn và giữ gìn Huế là một
thành phố di sản mẫu mực chứa đựng đầy đủ giá trị cốt lõi tinh hoa của văn hóa Huế vì thế cũng được
đặt ra.
Nếu ai tìm sự sôi động, thì chắc hẳn Huế không phải là sự lựa chọn. Huế không có những tòa nhà kính
hiện đại cao tít, hay những khu vui chơi giải trí náo nhiệt. Huế cũng không có những đại lộ rộng lớn và
những chiếc xe lao đi vun vút. Ngay ở trục phố chính, phố Lê Lợi chạy theo dọc sông Hương là con
phố sầm uất bậc nhất của thành phố này dành cho khách du lịch trong nước và du khách quốc tế cũng
chỉ đông vào 3 tháng hè. Tuy 3 tháng hè đông khách nhưng Huế vẫn mang trong mình nét trầm tư, ưu
tĩnh đến kì lạ. Hình như sự hiện diện của Đại nội với nền văn hóa cố đô lâu đời, giàu giá trị lịch sử
cùng với nhiều công trình kiến trúc khác nằm bên trong như: Ngọ Môn, Cung Diên Thọ, Tử Cấm
Thành, Điện Thái Hòa... mang dấu ấn của thời gian khiến du khách cảm thấy như gần như xa, nửa hư
nửa thực.
Vẻ đẹp huyền ảo này càng quyến rũ đặc biệt khi về đêm. Đó là lúc ánh mặt trời đã tắt và chỉ có những
ánh đèn đường, những chiếc xích lô đưa du khách đi quanh vòng ngoài của Đại nội thưởng thức gió
mát dịu dọc sông Hương thơ mộng. Nhiều người nói "đặc sản" của xứ Huế mộng mơ này chính là
người con gái Huế e ấp bên tà áo dài và tiếng hát gợi nhớ, gợi thương trên dòng sông Hương.
7 giờ tối, sông Hương tấp nập hàng chục chiếc thuyền rồng chở du khách lên thuyền nghe hát. Mỗi
thuyền có sức chứa 25-35 du khách. Điểm nhấn đặc biệt của những chiếc thuyền này chính là sức hút
của đội văn nghệ. Đội văn nghệ của mỗi thuyền có 6 người, gồm 3 nhạc công và 3 ca nương.
Ba nhạc công khăn đóng áo the, chân đi guốc mộc, gẩy đàn, là những tay chơi đàn cự phách. Các nhạc
cụ như đàn nguyệt, đàn tranh và đàn bầu kết hợp lại thành âm thanh trầm bổng thiết tha réo rắt. Ba ca
nương áo dài khăn vấn cất tiếng hát ngọt ngào, ở một số bài hát ca nương dùng những chiếc chén sứ
xinh xinh trên đôi bàn tay điêu luyện tạo ra âm thanh độc đáo làm say lòng du khách.
Tại đây, ta được thưởng thức nhã nhạc cung đình Huế do chính những người con gái Huế ca, âm nhạc
là sự kết hợp đồng điệu giữa nhạc dân gian và nhạc cung đình, tạo nên nét sang trọng, tươi mới. Thời
xưa nhã nhạc cung đình chỉ dành cho vua và quan lại, nhưng ngày nay âm nhạc độc đáo này đã hòa
vào đời sống xã hội để trường tồn cùng năm tháng và làm nên một nét đẹp văn hóa cổ truyền của xứ
Huế.
Bốn bản nhạc lễ cung đình Huế: "Lưu Thuỷ", "Kim Tiền", "Xuân Phong", "Long Hổ" do các nhạc
công và ca nương thể hiện kéo du khách lạc vào văn hóa âm nhạc cung đình khi xưa, nét đẹp của một
thời đại vàng son cung điện, đền đài đã khép lại. Bỏ hết đi biết bao bộn bề lo toan của cuộc sống hối
hả, bỏ đi cả những muộn phiền cá nhân để đắm lòng vào tiếng nhạc, say cùng câu hát với nhiều làn
điệu Huế, những câu Nam ai, Nam bình sâu lắng.
Đúng vậy, Huế không chỉ hớp hồn bởi với cung điện nguy nga hay đền đài kì vĩ mà bởi những câu hát,
bản nhạc thấm đẫm trọn vẹn ân tình tải cả một bầu văn hóa tinh tế của vùng đất cố đô. Ngày nhạc sĩ
Văn Cao còn sống, một lần trên thuyền nghe hát trên dòng sông Hương, ông đã cảm thán mà viết lên
những câu chữ xao xuyến tình: "...Em cạn lời cho anh dứt nhạc/ Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh/ Một
đêm đàn lạnh trên sông Huế/ Ôi nhớ nhung nhiều vạt áo xanh...".
Nghe ca Huế trên sông Hương, vừa là cơ hội để thưởng thức những làn điệu Huế rất riêng, rất trữ tình,
vừa là để bảo tồn gìn giữ tài sản phi vật thể quý giá khi đất nước mở cửa giao lưu và hội nhập.
Từ lâu chiếc nón bài thơ mang thương hiệu của vùng đất cố đô "Ai ra xứ Huế mộng mơ/ Mua về chiếc
nón bài thơ làm quà". Hình ảnh chiếc nón bài thơ gắn với người con gái xứ Huế trong màu áo trắng, áo
tím, đầu đội chiếc nón lá mà ta dễ dàng bắt gặp ở bất kì đâu trên mảnh đất thâm trầm này. "Anh ơi xứ
Huế quê mình/ Nón bài thơ đó, nặng tình của em/ Thân thương che mái tóc mềm/ Nón kia em đội
nghiêng nghiêng gió đùa...". Cùng với sông Hương, núi Ngự, cầu Trường Tiền thì hình ảnh người con
gái Huế áo dài thướt tha với nón nghiêng che là nét đẹp chấm phá cho bức tranh về xứ Huế nên thơ và
rất đỗi bình an.
Kiến trúc làm nên nét riêng biệt của Huế là lăng tẩm của các vị vua triều Nguyễn. Lăng tẩm nằm rải
rác ở các vị trí khác nhau ở xứ Huế. Tính cách của các vị vua triều Nguyễn cũng được thể hiện qua
kiến trúc xây lăng. Người xưa có câu: "Vào nhà biết người", lăng tẩm là nơi yên nghỉ cuối cùng của
cuộc đời để đi vào giấc ngủ nghìn thu, vì vậy, người xưa rất quan trọng chuyện xây lăng. Nếu như
Lăng Tự Đức mang dáng vẻ thơ mộng, yên bình thì Lăng Minh Mạng lại mang vẻ uy nghiêm, Lăng
Khải Định thì rực rỡ chói lói được trang trí nhiều bằng mảnh ghép sành sứ rất điệu nghệ, hoa văn tinh
tế, Lăng Dục Đức đơn giản, Lăng Đồng Khánh hài hoà, Lăng Thiệu Trị ấm áp. Đặc biệt nhất là Lăng
Gia Long nằm tít sâu trong con núi hoang sơ, sơn thủy hữu tình thuộc xã Hương Long, thị xã Hương
Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đường đến Lăng Gia Long không thể đi ô tô mà chỉ có thể đi xe máy băng
qua khu rừng rậm rạp nhiều cây cối, và thưa thớt dân cư sinh sống, chính thế mà ít du khách có thể đến
thăm quan được nơi này.
Nếu như các vị vua khác an táng là mộ phần nằm riêng biệt thì Gia Long, vị vua đầu triều sáng lập ra
triều Nguyễn lại dành tình cảm đầy yêu thương cho Thừa Thiên Cao hoàng hậu. Hai ngôi mộ đá nằm
cạnh nhau trên núi được bao bọc bởi rừng cây xanh mướt là minh chứng cho tình yêu vĩnh hằng vượt
thời gian. Khu lăng mộ của vua Gia Long và hoàng hậu được đặt trên đồi Chính Trung. Hai ngôi mộ
đá có kích thước bằng nhau, không trạm trổ hoa văn, không sơn son thếp vàng. Hai ngôi mộ xây giản
dị giữa vùng đồi núi hoang sơ heo hút. Nhưng, có một điểm cực kì đặc biệt khiến cho khu lăng mộ này
trở thành một biểu tượng kiến trúc kiệt xuất của tiền nhân. Nơi tiếp giáp giữa phần nóc hai ngôi mộ sẽ
thấy đỉnh núi Đại Thiên Thọ nằm ở chính giữa, mà theo các nhà phong thuỷ nói: "không chệch được
một ly". Điểm độc đáo này đã khiến cho Lăng Gia Long càng thêm vẻ huyền bí.
Tiếng chuông chùa xứ Huế là điểm nhấn đặc biệt về âm thanh. Có lẽ hiếm có thành phố nào lại có
nhiều chùa như ở Huế, đi trên bất kì con phố nào ở Huế cũng có chùa, thậm chí trên một phố mà có
đến 4, 5 ngôi chùa. Chùa Từ Hiếu, chùa Từ An, chùa Từ Đàm, chùa Huyền Không Sơn Thượng, chùa
Thiên Mụ.... Kinh đô Huế được xem như là một cái nôi lưu giữ sự tồn tại và phát triển của Phật giáo
xứ Đằng Trong hơn bốn thế kỷ. Những ngôi chùa hòa mình vào thiên nhiên, đã in dấu hàng trăm năm
là nơi nâng đỡ tâm linh cho những người con xứ Huế. Chùa ở Huế không bao giờ đóng cửa, nếu sau 21
giờ thì cửa chính mới đóng nhưng nếu cần bạn có thể vào bằng lối cửa phụ. Cánh cổng nhà chùa luôn
mở cho những người hướng tâm về Đạo.
| Trần Mỹ Hiền, Báo Văn nghệ Công an.
Trong một bài phỏng vấn, khi được hỏi: “Bút ký là thể loại gần với báo chí. Vậy yếu tố nào để bút ký
có được sức sống bền lâu trong lòng độc giả?”, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có chia sẻ thế này:
“- Theo tôi, để ký sống mãi rất khó. Trước hết, phải có văn, yếu tố văn phong là yếu tố cần nhất của
văn chương nói chung, ký nói riêng. Nếu ý tưởng hay mà thể hiện trong bài viết không rành mạch, rõ
ràng thì không thể đi vào lòng độc giả được. Ngoài ra, nó còn đòi hỏi nhiều yếu tố khác nữa. Ký là
thật, không hư cấu, hoặc phải có cách viết mà độc giả đọc không cho đó là hư cấu. Điều tiếp theo phải
nói là tính lạ. Dân gian có nói “khoai đất lạ, mạ đất quen”, thì yếu tố “đất lạ” phù hợp với một loại
“khoai” là ký”.
Có lẽ trong chuyến hành trình cuộc đời với văn chương, với thể ký, với cố đô Huế mộng mơ và dòng
sông Hương tình tự chảy mãi bên thành phố, Hoàng Phủ đã như một dòng trôi hiền hòa để vừa trôi
xuôi êm dịu, vừa độc đáo riêng biệt trên từng câu chữ của mình khi viết về những dòng sông. Văn ông,
ký mà ông viết để lại trong chúng ta nỗi quan hoài đau đáu khi nhớ về Huế, khi thiết tha dòng sông trữ
tình trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
Hôm nay, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường vĩnh biệt cõi tạm, chúng ta lại nhớ về ông như những câu
thơ ông từng viết:
“Từ thuở nào vũ trụ đã sinh ra
Mà sao mặt trời mối ngày vẫn trẻ
Mà sao anh đã từ vạn kỷ
Bên sông này anh đứng hát
mặt trời lên
Vẫn đi hoài trong cõi vô biên
Mặt trăng là mảnh gương
riêng soi trái đất
Trái đất trôi như một cánh bèo dâu
Mặt trời nhiều khi phập phồng hơi thở
Mê man nhớ những tinh cầu
Những hành tinh ngẫm rồi thấy lạ
Bềnh bồng mà vẫn theo nhau
Anh với em, ừ thì cũng lạ
Bềnh bồng cho tới mai sau”.

𝐓𝐓𝐒 - Vẻ đẹp của sông Hương qua góc nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời
văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh,
đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa. Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó đời mình
với cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, anh hùng của dân tộc. Để rồi, sau năm 1975, khi đất nước
thống nhất, ông đã chắp bút viết tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Trong tác phẩm, nhà văn gắn
bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với tình yêu sâu sắc dành cho thiên nhiên đất nước và với truyền
thống văn hoá lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công say mê tìm tòi, tích luỹ cả một đời người.
Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc ông tái hiện lại vẻ đẹp của dòng sông
Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kì diệu trong
không gian thời gian. Tất cả được phô diễn qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và
trữ tình tài hoa, mê đắm.
Sông Hương hiện ra qua sự kết hợp nhiều góc nhìn khác nhau của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ địa lý,
lịch sử, văn hoá, nghệ thuật... “hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước
khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng
cây đại ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác”. Nhưng rồi cũng có những lúc sông Hương “trở nên dịu
dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Viết tuỳ bút, theo
Nguyễn Tuân là “lối chơi độc tấu”, “mạch văn tràn chảy tuỳ theo cảm hứng”. Đặc trưng này xác đáng
với những lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả về sông Hương. Nhà văn đã đưa người đọc đến
những liên tưởng bất ngờ, khi ông so sánh “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô
gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Ông cho rằng sông Hương là đứa con của rừng già với một tâm
hồn tự do và trong sáng, để rồi rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để
khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ
phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.
Với đôi mắt khảo sát nghiêm túc của nhà địa lí có một tầm văn hoá sâu rộng, kết hợp vốn ngôn từ nghệ
thuật phong phú mượt mà giàu chất thi họa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện thủy trình của sông
Hương từ vùng trung du trở xuống, nó liên tục chuyển dòng, “theo những đường cong thật mềm, như
một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Nhà văn đã đặt sông
Hương vào giữa cảnh quan núi đồi, lăng tẩm, bãi biển vùng ngoại ô tây-nam thành phố Huế, gương
mặt Hương Giang trong xanh phẳng lặng tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời
tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông
Hương như một chủ thể có ý thức góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp của xứ Huế. Và trước khi về với
Huế, sông Hương trôi lặng thầm giữa một vùng không gian “Bốn bề núi phủ mây phong. Mảnh trăng
thiên cổ bóng tùng vạn niên”. Giữa đám quần sơn lô xô, ở phía tây thành Huế, nơi dành cho giấc ngủ
ngàn năm của các bậc vua chúa thời Nguyễn, sông Hương hiện ra với vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như
cổ thi kéo dài mãi “giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Đến khi sông Hương đổ vào
thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc..., nó
đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã
dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái
sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với
con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết
na, ý nhị của người con gái cố đô.
Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với
nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va
của Nga,... Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập
lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành
phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế.
Ông cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua
trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy... chao nhẹ trên mặt nước như
những vấn vương của một nỗi lòng.”
Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hoá Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi
ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng
Châu Hoà, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho
những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, nó
đã từng mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía
nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn
Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến công
lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi
bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ
quốc”.
Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông
của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội
nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương như
Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông
Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ
lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng:
“Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử
thì lại so sánh tôn vinh sông Hương như sông ngân hà: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng
về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng “con sông dùng
dằng con sông không chảy/Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương
Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần mê đắm:
“Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”
Đất nước Việt Nam có rất nhiều dòng sông chảy qua mọi miền xứ sở, và nó đã kịp chảy vào trong
những vần thơ, trang văn tuyệt vời. Bạn đọc từng xót xa với Hoàng Cầm khi nghe tin sông Đuống bị
quân thù chiếm đóng. Nhà thơ đã thốt lên: “Sông Đuống trôi đi/Một dòng lấp lánh/Nằm nghiêng
nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Công chúng yêu văn cũng đã chiêm ngưỡng vẻ đẹp hung bạo và
trữ tình của “Đà Giang độc bắc lưu” qua những “trang hoa” xuất sắc của nhà tuỳ bút hàng đầu Nguyễn
Tuân. Giờ chúng ta lại tìm đến với sông Hương-dòng sông chỉ tự thu mình khiêm tốn trong lãnh địa
Thừa Thiên Huế, nhưng qua những trang kí tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương hiện ra
với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình.
Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ thuật. Nó đã là một phần trong
đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc. Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên trong miền tình cảm của bạn đọc nhiều băn khoăn về một dòng
sông ngỡ là quá quen, hoá ra lại có nhiều bí ẩn cần được khám phá thêm. Có như vậy, chúng ta mới
hiểu sâu sắc hơn về quê hương đất nước, tự hào hơn về giang sơn cẩm tú Việt Nam.

Tổng ôn bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?"

Ý nghĩa nhan đề: Ai đã đặt tên cho dòng sông? Câu hỏi tu từ đặt ra “với trời, với đất” đưa nhà văn
và độc giả về với hành trình lịch sử, tìm vê’ cội nguồn văn hoá dân tộc. Từ đó dòng sông Hương hiện
ra trên nhiều phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá, thơ ca… Kết thúc tuỳ bút là một huyền thoại rất đẹp,
bộc lộ cái tôi trữ tình suy tư: “Con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống sông, để làn
nước thơm tho mãi”. Tác giả gửi gắm vào đó tất cả ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây
đắp văn ho á lịch sử.

Nhan đề và kết thúc tác phẩm thể hiện rõ chủ đề và phong cách bút kí của tác giả: giàu sức gợi cảm,
thấm đẫm chất thơ. Qua đó tác giả ca ngợi sông Hương – con sông gắn bó với lịch sử, văn hoá Huế của
dân tộc ta. Tác phẩm thể hiện lòng yêu mến say mê cảnh vật, văn hoá đất nước. Hình ảnh dòng sông
đất nước được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu chất trí tuệ, chất văn hoá và ngôn ngữ trong
sáng, chọn lọc, tinh tế.

Tác giả:

+ Tiểu sử

- Sinh ra, nhiều năm sống và hoạt động cách mạng, công tác tại Huế > gắn bó với đất và người nơi đây,
am hiểu sâu sắc cội nguồn và linh hồn văn hóa xứ sở.
+ Con người:

- Trí thức yêu nước.


- Vốn hiểu biết sâu rông trên nhiều lĩnh vực.

+ Sáng tác:

- Sở trường: bút kí, tùy bút.


- Phong cách nghệ thuật:

+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn

Giữa chất trí tuệ và chất trữ tình.


Nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều trên nền tảng hiểu biết sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử…

+ Hành văn: hướng nội (hướng vào bên trong, vào thế giới nội tâm nhiều trăn trở, thâm trầm, sâu
lắng), súc tích, mê đắm, tài hoa.

Tác phẩm

+ Xuất xứ:

- Viết tại Huế, 1981.

- In trong tập sách cùng tên > lấy tác phẩm làm nhan đề cho một tập bút kí => vị trí văn học sử: tác
phẩm bút kí tiêu biểu của nhà văn.

Sông Hương nhìn từ nguồn cội.

+ Nhìn từ cội nguồn: có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn: như một “bản trường ca của rừng
già” với nhiều tiết tấu trầm bổng.

- Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn > hùng tráng.

- Mãnh liệt vượt qua ghềnh thác > ào ạt.

- Cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực sâu > dữ dội.

- Dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng > nên thơ, tình tứ, mê đắm.

+ Biện pháp nhân hoá: Sông Hương như “cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”, với “bản lĩnh
gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” > nữ tính, vừa dịu dàng vừa mãnh liệt hoang sơ > không chỉ
ngắm nghía “khuôn mặt kinh thành”, nhà văn còn khơi về nguồn cội để khám phá vẻ đẹp tâm hồn
thăm thẳm mà chính dòng sông cũng không muốn bộc lộ.

+ Hé mở một phát hiện mới của tác giả về vẻ dẹp của Sông Hương: Người ta hay nghe tới sông Hương
gắn với Huế “dịu dàng pha lẫn trầm tư”, êm đềm, trong trẻo nay lại biết tới phần dữ dội, mê hoặc, khó
cưỡng của dòng sông.

Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế


+ Quan hệ giữa sông Hương và có đô: “người tình mong đợi” >hành trình về cố đô được hình dung
như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” một người tình trong mộng của người con gái.

+ Hành trình về xuôi tìm “người tình mong đợi”

- Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại: là “cô gái đẹp ngủ mơ màng” > gợi nhớ truyện cổ tích “Công
chúa ngủ trong rừng” > vẻ đẹp lãng mạn của câu chuyện cổ.

- Khi ra khỏi vùng núi: “chuyển dòng liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột’", “vẽ một hình cung
thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, vượt qua, đi giữa âm vang, trôi di giữa hai dãy đồi sừng sững như
thành quách, với những điểm cao đột ngột” > linh hoạt, rạo rực sức trẻ và sự khao khát.

- Qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo: “mềm như tấm lụa”

- Qua những dãy đồi tây nam thành phố: ánh lên “những mảng phản quang nhiều màu sắc” “ sớm
xanh, trưa vàng, chiều tím”.

- Qua lăng tẩm đền đài: “vẻ đẹp trầm mặc nhất” “như triết lí, như cổ thi” > so sánh độc đáo, giàu sức
gợi > tả mặt nước phẳng lặng và không gian bờ bãi u tịnh bằng liên tưởng tới triết học, thơ cổ > nổi bật
vẻ thâm nghiêm, bao nhiêu thăng trầm lịch sử, bao nhiêu dời đổi của các triều đại đã tạo thành trầm
tích văn hóa lặn vào vẻ đẹp ngàn năm không suy xuyển của dòng nước > thấp thoáng hình ảnh một
“cái tôi” giàu suy tư.

- Khi gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ: tươi tắn và trẻ trung

Nhận xét:

• Sông Hương chảy qua nhiều địa danh khác nhau, mỗi địa danh mà chỉ nhắc thôi ngưòi ta đã thấy bao
tầng sâu văn hiến > nhiều dáng vẻ Sông Hương được khám phá ở nhiều góc nhìn.

• Diện mạo: vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng.

• Bút pháp: kể và tả, sự liệt kê được thơ hoá bằng thụ cảm tài hoa, tinh tế.

+ Sông Hương khi chảy vào thành phố:

- Giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long: Vui tươi hẳn lên > tâm trạng của một người đi
xa “tìm đúng đường về”, nao nức bồi hồi giữa bờ bãi than thuộc của quê hương.

- Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên: uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến > làm cho dòng sông
mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu > so sánh lạ, dùng tiếng “vâng” vốn trừu
tượng, e ấp, ngập ngừng, ý vị, thiêng liêng trên bờ môi cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm mại nơi
cánh cung của dòng sông > cái nhìn tình từ, thống nhất, đem lại cho người đọc những khoái cảm thẩm
mĩ độc đáo.

- Liên tưởng và suy tư của nghệ sĩ:

• So sánh sông Hương với sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét > những tên sông đã trở
thành linh hồn của thủ đô các nước, thành biểu tượng văn hóa của quốc gia > ngầm thể hiện lòng tự
hào về sông Hương và kinh thành Huế. (Liên hệ với Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo”: đặt các
triều đại Việt Nam sánh ngang với các triều đại Trung Hoa)

• Liên tưởng khi từ khói lửa miền Nam tới Lê –nin-grát, đứng nhìn sông Nê-va, lâu năm xa Huế:

+ Sống dậy giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại: muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con
tàu thủy tinh để đi ra biển.

+ Cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì
với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo > Hai nghìn năm trước: triết gia Hi Lạp “khóc suốt
đời vì dòng sông trôi đi quá nhanh”.

+ Nhớ lại con sông Hương: “quý điệu chảy lững lờ của nó khi đi ngang thành phố”> điệu slow tình
cảm dành riêng cho Huế.

+ Khám phá vả cảm nhận sâu sắc đặc trưng riêng của dòng sông khi chảy qua kinh thành Huế: điệu
chảy êm đềm, chậm mềm, lặng lẽ, như không vương vấn chút nào cái xô bồ của thời gian, sự nuối tiếc
của con người vì mọi thứ một đi không trở lại > Sông Hương nguyên sơ, trăm năm không đổi thay,
như mang thần thái, quan niệm vũ trụ tuần hoàn của Phương Đông, như điệu chảy thời gian bất di bất
dịch trong thơ ca cổ điển Việt Nam và Trung Hoa > Sông Hương mang cảm nghiệm thời gian và niềm
tự hào của nhà thơ.

- Sông Hương “trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước”: người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya >
liên tưởng:

• Nền âm nhạc cổ điển Huế: “được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này” > Sông Hương gắn
với lịch sử âm nhạc lâu đồi của Huế, là cái nôi hình thành nền âm nhạc truyền thống > gợi nhắc đến
sông Nile, sông Hắng, sông Hoàng Hà – cũng là những cái nôi hình thành những nền văn hóa lớn trên
thế giới > nhà văn cảm nhận dòng sông ở góc độ văn hóa.

• Nguyễn Du và Truyện Kiều > linh hồn, niềm tự hào của quốc văn Việt Nam > dòng sông mang
những thổn thức của cha ông, gắn bó với các giá trị văn hóa, văn học kinh điển của dân tộc > là dòng
chảy vắt từ quá khứ, mang bao phù sa, trầm tích văn hóa hiện diện trong ngày hôm nay.

+ Nỗi lưu luyến khi rời khỏi kinh thành:

- Rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc.


- Sực nhớ điều gì chưa kịp nói > đột ngột đổi dòng dể gặp lại thành phố lần cuối
- Liên tưởng:

• Rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây > nỗi vương vấn, chút lẳng lơ kín đáo của tình
yêu

• So sánh: sông Hương, kinh thành Huế – nàng Kiều, Kim Trọng > Tấm lòng người dân Châu Hóa xưa
mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở

+ Có 3 so sánh bắc cầu: sông Hương trong khúc ngoặt chia tay kinh thành Huế -Thúy Kiều trong đêm
tình tự gửi lời nguyện thề cùng Kim Trọng – người Châu Hóa mãi thủy chung với xóm làng > từ dòng
chảy khác lạ của dòng sông liên tưởng tới mối tình kín đáo, e ấp, trước sau như nhất của Kim – Kiều,
so sánh với tình yêu quê hương xứ sở của người Huế > mượn tình cảm riêng để khái quát mối tình
chung, làm cho tình yêu đất, yêu nước không chung chung, to tát mà mềm mại, ý vị, tinh tế, mà đằm
thắm, thiêng liêng, sâu sắc.

Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử. với cuộc đời và thi ca

+ Trong mối quan hệ với lịch sử:

- Điểm lại dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc: thế kỉ XV ở “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, thế kỉ
XVIII qua chiến thắng của anh hùng Nguyễn Huệ, thế kí XIX với máu của các cuộc khởi nghĩa, đi vào
thời đại của cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển > tham gia, trải nghiệm cùng
những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc.

- Khái quát: Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá
xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở vè với
cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.

+ Nếu như ở đoạn 1 và 2, sông Hương được cảm nhận chủ yếu trên bề rộng của không gian địa lí với
những liên tưởng độc đáo thì ở đoạn này, sông Hương được bố cục theo chiều sâu của lịch sử. Nó ghi
dấu những chiến công, lặng khóc cho những hi sinh âm thầm, vùng lên quật khởi…> giống như một
tấm gương soi vào lịch sử. Sông Hương như biết bao chiến sĩ vô danh trên dải đất hình chữ S. (Sinh ra
không phải cầm súng cầm mác nhưng kẻ thù buộc ta phải đấu tran. Khi bình yên, họ lại trở về với cuộc
sống bình thường, trở về bản tính tự nhiên muôn thủa , như sông Hương “làm một người con gái dịu
dàng của đất nước”)

+ Trong mối quan hệ với thi ca:

- Có một dòng sông thi ca về sông Hương mà nước luôn đổi màu.(thơ Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà huyện
Thanh Quan, Tố Hữu).

- Nhà thơ hỏi với trời, với đất: Ai đã đặt tên cho dòng sông?

• Đối tượng hỏi: đất, trời.

• Nội dung hỏi: ai đã đặt tên cho dòng sông? > câu hỏi dường như không thể có một lời đáp cụ thể

• Mục đích:

+ Không phải để hỏi nguồn gốc của một danh xưng địa lý thong thường mà là một sự nhấn mạnh, ẩn
chứa niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương.

+ Gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghỉệm văn hóa của bản thân.

+ Tên riêng của một dòng sông có thể do một cá nhân nào đó đặt ra, qua năm tháng, danh xưng của tác
giả bị mai một, nó trở thành tài sản chung của cộng đồng, Tuy nhiên, cái tên đích thực của dòng sông
phải là danh từ gắn với biểu tượng văn hóa, tinh thần, chiều sâu lịch sử của một dân tộc. Ở khía cạnh
này, chính những người dân bình thường – những người sáng tạo ra văn hóa, văn học, lịch sử là những
người “ đã đặt tên cho dòng sông”

Đặc sắc nghệ thuật:


+ Ngôn ngữ: phong phú, giàu hình ảnh, gợi cảm.

+ Hình ảnh: so sánh độc đáo bằng liên tưởng lãng mạn, đậm chất trữ tình.

+ Thủ pháp: nhân hóa > Sông Hương được cảm nhận như một sinh thể sống động (là người con gái dịu
dáng đằm thắm với tất cả các cung bậc cảm xúc) > thuận lợi để đan cài những suy tưởng về văn hóa,
lịch sử, về truyền thống con người và đất nước Việt Nam.

You might also like